Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .
Hiển thị các bài đăng có nhãn Francis Fukuyama. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Francis Fukuyama. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Nhập môn Triết học Phật giáo

Tiểu luận này sẽ cung cấp cho các bạn một cái nhìn tổng quan về thế giới quan, nhân sinh quan và nhận thức luận của Phật giáo.
Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật.

I. Thế giới quan Phật giáo.

Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi.

1. Thuyết vô thường.

Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức.

a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.

b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại - Không.

Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không.

Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.

Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm, bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn.

Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng.

Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ --> Xã hội phong kiến --> Xã hội tư bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.

Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật.

Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.

Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết, đời người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của ngũ dục, sống phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự sinh- trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.

2. Thuyết vô ngã.

Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.

Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:

Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.

Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.

- Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,...

- Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch huyết, nước mắt,...

- Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ dầy, ở ruột.

Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta.

Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.

Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.

Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.

Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.

Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai thuyết vô thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phương thức sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì một người.

3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.

Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.

Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ nhân duyên trong kinh Phật có câu:

Nhược sử hữu, tắc bỉ hữu.
Nhược sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhược thử vô, tắc bỉ vô.
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.

Có nghĩa là:

Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.

Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.

Sự vật chỉ “ có “ một cách giả tạo, một cách vô thường.

- Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có “.
- Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không “.

Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan dã thì người thế gian thương tiếc, đau khổ.

Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà có, một cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy vạn pháp có “ thủy “ và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có “ chung “. Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái chung cùng của sự vật.

Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.

Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được một phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.

4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.

Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.

Người ta nói rằng:

Trồng đậu được đậu.
Trồng dưa được dưa.

Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.

Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.

Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất định phải đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là thuyết “Bất định pháp” trong luật nhân quả.

Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và tiến tới trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý nghĩ của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là những hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên sẽ nảy nở thành quả.

Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là gây nghiệp: Ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Kết quả đền đáp những hành động nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân và hái quả có thể dài ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là nhân quả nối liền nhau, vừa tạo nhân, quả liền phát sinh không phải đợi một thời gian sau mới thành thục. Lại có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo ra đời trước, đời sau mới kết thành quả.

Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện hay ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào cũng không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, không thể nào khác được.

Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thề giới quan phật giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều nhân duyên đã có từ trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất cả các hiện tượng trong vũ trụ.

Kinh Hoa Nghiêm có ghi:

Nhất tức đa.
Đa tức nhất.
Nhất tức nhất thiết.
Nhất thiết tức nhất.

Có nghĩa là:

Một tức là nhiều.
Nhiều tức là một.
Một là tất cả.
Tất cả là một.

Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng ngôn ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới gọi là Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là tính của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của các pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân như tính.

Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được bản lai tự tính còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác để thấy được cái dụng to lớn của pháp giới tính.

Như vậy, người tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn lúc đó mới chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách khác là chứng được toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tưởng, dụng, chứng được pháp thân.

II. Nhận thức luận Phật giáo.

1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.

Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.

Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt ý trên, một thiền sư đã dùng hai câu thơ:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.

Có nghĩa là:

Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.

Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.

Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.

Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu ”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ “ duy tâm “ ở đây không phải là duy tâm trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm trong đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý. Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra các hiện tượng tâm lý.

Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.

2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.

Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
- Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí hữu sư”.

- Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư “.

Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia đoạn:

Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác và phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu tố” thọ “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích thích tương ứng với các căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là tri thức định lý.

Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả của giai đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu hình tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm được cái tâm siêu thoát, cái tâm trung.

Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.

Tam học là giới, định, tuệ.

- Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.

- Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.

- Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.

- Tam huệ: là văn, tu, tư.

Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.

Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ bản lai tư tính của mình.

Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp giới tính.

Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không còn nữa.

III. Nhân sinh quan Phật giáo.

Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:

– Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?

Vị trí của con người trong Đạo Phật.

– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ....

– Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì ?

Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.

1. Tứ diệu đế:

Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi theo Phật.

Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật.

Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

a. Khổ đế:

Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.

Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.

Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.

Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.

Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.

Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.

Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:

1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối nên khổ.

2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.

3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.

4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền não vô cùng.

5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.

6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.

7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.

8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.

b. Tập đế:

Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:

1. Tham lam.
2. Giận dữ.
3. Si mê.
4. Kiêu mạn.
5. Nghi ngờ.
6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).

Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong công thức sau:

Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.

Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.

Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta.

Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.

Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây nghiệp báo.

Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.

Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.

Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.

Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:

1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc.
5. Lục nhập
6. Xác
7.Thụ
8.Ái
9. Thù
10. Hữu
11.Sinh
12. Lão tử.

Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.

c. Diệt đế:

Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn luân hồi sinh tử nữa.

Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.

Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.

Thường là thường còn, không biến đổi.

Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.

Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.

Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.

Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.

Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.

d. Đạo đế:

Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.

Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.

Phương pháp này gồm có:

1. Tứ niệm xứ: 4.
2. Tứ chính cần: 4.
3. Tứ như ý túc: 4.
4. Ngũ cân: 5.
5. Ngũ lực: 5.
6. Bát chính đạo: 8.
7. Thất giác : 7.

Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:

1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.

Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau.

1. Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện .

Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.

2. Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra.

3. Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.

Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên.

2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.

a. Con người:

Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).

Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.

Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.

Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý nghĩ, lời nói việc làm.

b. Nhân vị trong đạo Phật.

Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:

“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.

Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến.

Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ.

Từ đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.

Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.

Từ là hiền hoà, cho vui.

Bi là thương xót, cứu khổ.

Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi.

Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.

Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.

Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.

Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.

IV. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI VIỆT NAM.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực. Trong chương này chúng ta sẽ đi sâu phân tích các vấn đề trên.

1. ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM.

Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.

Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua người Phật từ Việt Nam hiện nay rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên chùa trong những ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực hành các nghi lễ; họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt khác, nhà chùa luôn sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu siêu. Tất cả những điều đó vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.

Con người Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì cũng là kết quả của một cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi gặp một sự việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay người nhà, họ đều nghĩ đến nguyên nhân để tìm cách khắc phục. Học còn nhìn thế giới, xã hội con người ở trong dòng vận động không ngừng, ở đó không có cái gì là tồn tại mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi người thân trong gia đình lão già, yếu đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều không thể tránh khỏi và lấy đấy làm điều an ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường, vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ và hành động của họ.

Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt Nam ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận sự biến đổi của thế giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác làm đầu... Mặt tiêu cực là nhìn đời một cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà nhẹ về tin tưởng năng lực hoạt động của con người, nếp sống thì khổ hạnh và không tránh khỏi nương theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tượng mê tín dị đoan như: Lên đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những tư tưởng mê lầm đó vừa phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người chỉ dựa vào những nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công trong xã hội.

Tuy nhiên, nhân cách con người Phật giáo có những điều phù hợp với xã hội hiện nay. Nhưng những điều đó chỉ giới hạn trong những trường hợp nhất định và chúng ta phải phát huy những mặt đó. Vượt qua những giới hạn đó, nó sẽ có những mâu thuẫn với giáo lý và trở nên lạc lõng, mất hiệu quả. Vậy con người am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ đạo không phải chỉ là con người tu hành một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ để biết vận dụng giáo lý vào cuộc sống một cách hữu ích. Hiểu được và làm được như thế, con người sẽ thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thượng biết bao.

2. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM.

Nhìn vào đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội Việt Nam trong những năm qua, ta thấy hiện tượng Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Bên cạnh sự phát triển ngày một lớn mạnh của kiến trúc hiện đại, Việt Nam vẫn phục hồi kiến trúc cổ xưa qua việc tu sửa lại những đền chùa, miếu mạo, những danh lam thắng cảnh. Đó là những nơi mà dấu ấn của đạo phật thể hiện rõ nhất.

Ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới đỉnh cao với những công trình mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó. Như nền chùa Quế Giạm ( Quế Võ- Hà Bắc) trải rộng trên một diện tích với những vết tích còn lại gồm ba cấp trải rộng trên một diện tích gần 120 mét, rộng 70 mét. Các ngôi tháp đời lý gồm nhiều tầng, cao chót vót: Tháp Bảo - thiên cao vài mươi trượng ( khoảng trên 60 mét) gồm 12 tầng, tháp Sùng-thiện-diên- linh ( chùa Đọi, Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng, tượng Phật Di-lặc chùa Quỳnh Lâm( Đông Chiều, Quảng Ninh) cao 6 trượng, khoảng 20 m. Chùa Một Cột là một sách tạo về nghệ thuật, tượng trưng cho 1 toà sen nở trên mặt nước. Những kiến trúc đó thường hoà hợp với cảnh trí thiên nhiên chung quanh tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hoà với ngoại cảnh.
Nghệ thuật kiến trúc của đời Lý lại được đời Trần kế tục truyền thống và phát triển mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và hiện thực hơn. Tháp Phổ Minh, Bình Sơn là những công trình kiến trúc có giá trị ở đời Trần, Tháp Bình Sơn cao 11 tầng, có bố cục chặt chẽ cân xứng.

Sang đời nhà Nguyễn nghệ thuật kiến trúc có chiều hướng ngày càng sa sút, tuy nhiên cũng có những sáng tạo nhất định như Văn Miếu ( Hà Nội) và một số đình, chùa ở các làng. Đỉnh cao của kiến trúc nhà Nguyễn là chùa Tây Phương( Thạch Thất, Hà Tây) xây dựng thành ba lớp là lối kiến trúc phổ biến của các chùa trong nam. Chùa Tây Phương cũng là nơi tập trung nhiều pho tượng có giá trị, trong đó nổi tiếng nhất là chùa Tuyết Sơn và mười tám vị La Hán. Các bức tượng lấy đề tài trong sự tích đạo Phật nhưng vẫn thế hiện những con người Việt Nam Hiện thực và gợi cảm.

Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được trùng tu, sửa sang để làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân trong vùng. Những công trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn là sáng tạo nghệ thuật dân gian phản ánh đời sống tinh thần của con người Việt Nam xưa.

3. ĐẠO PHẬT VỚI CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM.

– Đạo Phật chủ trương từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài người thực hiện được bốn chữ từ, bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh phúc.

– Đạo Phật chủ trương một cuộc sống vị tha, một cuộc sống hoà hợp, loại trừ mọi oán thù. Lịch sử Phật giáo chứng minh, trong suốt 2500 năm truyền bá trong khắp cõi Á Đông. Đạo Phật không làm rơ một giọt máu nào.

– Trong giáo lý Phật, ở phần giới luật, giới thứ nhất là giới sát: với giới luật này, chúng ta càng thấy rõ đạo Phật chủ trương ôn hoà, hoà bình và hoà hợp giữa các dân tộc, không muốn cho chúng sinh nói chung, loài người nói riêng tàn sát lẫn nhau. Nhưng ở đây chúng ta phải hiểu giới sát với đúng tinh thần trong giáo Phật.

Giới sát có nghĩa là giới bất tàn sát.

Tàn sát có nghĩa là giết hại chúng sinh một cách hung ác, tàn bạo. Giáo lý Phật căn cứ vào tâm ý để phân biệt thiện ác mà không căn cứ vào hành động. Nói thế có nghĩa là một hành động chỉ được coi là thiện, ác khi căn cứ vào hành động ấy mà mưu đồ làm hại cho người khác hay cứu giúp người khác. Trong kinh có câu: “ Nhất niệm khởi, thiện ác dĩ nhân. Muốn cho tâm niệm mỗi khi khởi lên là một tâm niệm thiện thì Phật dạy đệ tử luôn phải giữ tâm trong chính niệm “.

Như vậy, chúng ta phải hiểu giới sát đúng với thần trong giáo lý Phật và áp dụng cho đúng. Nếu ta giết người với mục đích để diệt trừ quân xâm lăng hung ác để bảo vệ dân nước thì việc làm đó là việc thiện vì hành động của ta xuất phát từ một ý niệm thiện. Chiến tranh giải phóng dân tộc của các nước chống xâm lược để mang lại hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc là một cuộc phóng sinh vĩ đại, là một việc thiện, một việc chính nghĩa.

Trái lại, nếu chúng ta giết người để thỏa lòng tham ác, để mưu lợi ích kỷ cho bản thân ta thì việc chém giết ấy là một việc ác, hành động ấy xuất phát từ một ý niệm ác.

Chiến tranh xâm lược do đế quốc tiến hành chống các nước yếu hơn, phá hoại độc lập, hoà bình, an ninh của các dân tộc, hủy diệt môi trường sống là một tội ác. Vấn đề căn cứ vào tâm, niệm để phân biệt thiện, ác là rất quan trọng. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh những điều nói trên bằng các gương người thực việc thực.

Dưới triều Lý và Trần, giặc Nguyên kéo đại quân gồm 30 vạn rồi 50 vạn quân sang xâm lược nước ta tiến hành một cuộc chiến tranh đại dã man. Để chống quân xâm lược, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, những ông vua rất sùng đạo, yêu nước này lại trở về sống tu hành ăn chay niệm Phật.
Trong những năm gần đây, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền Nam - Bắc đã tham gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống giặc một cách anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh xâm lược, đâu là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó chính là một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.

4. ĐẠO PHẬT VỚI VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ.

Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý, Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.

Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ có thế lực trong xã hội. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Như sư Vạn - Hạnh là người đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý. Sư Đa - Bảo và Viên - Thông được tham dự, bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua.

Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt động chính trị. Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình Nhàn ( tức Thích Huyền Quang ) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu trong chùa.

Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi những người đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp Phật giáo.

Để trả lời những thông tin sai lầm đó, chính phủ Việt Nam đã khẳng định luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân nhưng những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị cũng sẽ bị xử phạt như bất kỳ một công dân Việt Nam nào khác. Bởi lẽ bất kỳ một sư sãi của tổ chức nào thì trước hết cũng là công dân của nhà nước Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, những người theo đạo là một bộ phận khăngkhít của khối đại đoàn kết dân tộc đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đối với Phật giáo, chính phủ Việt Nam là không có lý do gì để phân biệt đối xử Phật tử Việt Nam là những người yêu nước, luôn gắn bó với dân tộc qua mọi bước thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ quốc đấu tranh chống ngoại xâm. Đạo Phật đối với Việt Nam không chỉ là một tôn giáo mà còn là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc truyền thống.

***

Đạo Phật là một đạo không chỉ để người ta học mà chủ yếu cho người ta hành. Thực ra, những cái mà ta học được trong kinh điển mới chỉ là một kiến thức lỏng lẻo có tính chất lý thuyết. Ta mới chỉ nghe thấy nói đến những thuyêt vô thường, vô ngã, sắc không... mà thôi. Còn tu hành là phải gắng sức thực nghiệm những chân lý đó. Hiểu đạo không phải chỉ là nghiệm đạo qua kinh điển mà phải trải qua học đạo, tu đạo, chứng đạo. Thời đại ngày nay là thời đại của phát triển, của khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Để phù hợp với sự phát triển đó, con người cần phải có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm sáng tạo. Nhưng không vì thế mà con người ngày nay xa rời với con người của Phật giáo: từ, bi, hỷ, xả. Con người có tham vọng nhưng không tham nhũng cái do người khác làm ra, không vun vén lợi ích cho riêng mình biết kết hợp những phẩm chất đạo đức của con người Phật giáo với tư cách, trí tuệ của con người hiện đại là chúng ta tự hoàn thiện mình, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc.

KẾT LUẬN:

Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh.

Người học Phật, tu Phật hàng ngày phải sống với đạo, thực nghiệm đạo, không một phút nào xa lìa đạo. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều phải gắn liền với Đạo, thể hiện Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là người dũng cảm có đủ nghị lực chiến thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công áp bức.

Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là suốt đời, Phật không bao giờ tự nhận là người duy nhất đem lại sự giải thoát cho loài người. Phật nói: Con người ai ai cũng có Phật tính. Trước người đã có hằng hà sa số Phật.

Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người đều coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.

Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể.

Trái lại. con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
S.T

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Mô hình Trung Quốc: Đối thoại giữa Francis Fukuyama và Trương Duy Vi

 

Mô hình Trung Quốc: Đối thoại giữa Francis Fukuyama và Trương Duy Vi


Bản dịch của Phạm Gia Minh

Francis Fukuyama là thành viên cao cấp Olivier Nomellini, thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Freeman Spogli, Đại học Stanford, đồng thời là tác giả các cuốn sách nổi tiếng “Sự cáo chung của Lịch sử”; “Con người cuối cùng và cội nguồn của các trật tự chính trị”. Trương Duy Vi (, Zhang Weiwei) là giáo sư tại Đại học Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế Genève (Thụy Sĩ), thành viên cao cấp tại Viện Xuân Thu (Chungqiu) và giáo sư thỉnh giảng của Đại học Phục Đán, Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của cuốn sách “Làn sóng Trung Quốc: sự trỗi dậy của một nhà nước văn hiến ”. (Chú thích của THD: Trương Duy Vi từng là người thông dịch cho Đặng Tiểu Bình khi Đặng sang Mỹ)

Francis Fukuyama: Trong lịch sử thế giới, sự phát triển của nhà nước Trung Quốc có một tầm quan trọng đặc biệt. Ở Phương Tây, người ta quen mô tả sự phát triển của các thể chế theo những chuẩn mực dựa trên thực tiễn Châu Âu, trong khi đó lại quên một sự thật: Trung Quốc là nơi đầu tiên mà nhà nước đã được hình thành, tức là khoảng 1700 – 1800 năm sớm hơn Châu Âu.

Cho tới nay có 3 loại hình thể chế chính trị trên thế giới. Loại thứ nhất là nhà nước – một tổ chức được xây dựng theo cấu trúc thứ bậc có chức năng tập trung, thâu tóm và sử dụng quyền lực nhằm thực thi luật lệ trong một số lĩnh vực cụ thể. Xưa nay, nói đến nhà nước tức là nói đến năng lực buộc người dân phải thực thi luật lệ. Thế còn nhà nước hiện đại thì sao? Ở đây tôi dùng định nghĩa của Max Weber cho rằng nhà nước hiện đại thì không dựa trên quan hệ bạn bè và gia đình. Việc tuyển dụng vào làm việc không được căn cứ vào mối quan hệ riêng với người nắm quyền lực. Thay vào đó, họ cần phải được đối xử khách quan với tư cách là những công dân có những khoảng cách nhất định đối với người cầm quyền. Điều này là đi ngược lại với các nhà nước thời xưa được điều hành bởi các mối quan hệ gia đình hay dòng tộc của kẻ cầm quyền.

Loại hình nhà nước thứ hai là thể chế pháp trị. Đó không phải chỉ đơn thuần là có luật pháp bởi lẽ mọi quốc gia đều có các bộ luật của mình, tuy nhiên ở đây, luật phải phản ánh được sự đồng thuận về mặt đạo đức trong cộng đồng và phải là mục tiêu cao hơn ý chí của bất kỳ cá nhân hay tập thể nào đang điều hành nhà nước. Nói cách khác, nếu như hoàng đế, tổng thống, vua hay thủ tướng mà soạn ra luật theo ý riêng của mình thì đó không phải là nhà nước pháp quyền. Thể chế pháp quyền đòi hỏi chính quyền ở cấp cao nhất cũng phải tuân thủ luật pháp.

Thể chế chính trị cuối được đặc trưng bởi nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm chính trị, nơi mà chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước nhân dân. Điều này hoàn toàn đối lập với tình trạng điều hành đất nước nhưng chỉ nhằm phục vụ các mục đích riêng của giới cầm quyền. Có rất nhiều quốc gia trên thế giới nơi mà những kẻ cầm quyền coi đất nước như phương tiện để làm giàu cho bản thân và gia tộc. Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia có sự giải trình minh bạch. Ở Hoa Kỳ và các nước Phương Tây chúng tôi liên kết tính giải trình và chịu trách nhiệm với các giá trị dân chủ. Tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị luôn có ý nghĩa rộng hơn bầu cử dân chủ.

Hình thức giải trình và chịu trách nhiệm sơ khai đã hình thành ở Anh vào thế kỷ 17 khi mà Quốc vương phải giải trình trước quốc hội đại diện cho vẻn vẹn có 1% dân số Anh. Theo cách hiểu ngày nay thì không thể coi đó một hình thức dân chủ. Thế nhưng tôi tin rằng ở Trung Quốc mọi người đều biết phải có một sự giải trình và chịu trách nhiệm mang tính đạo đức, có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không phải giải trình và chịu trách nhiệm thông qua bầu cử nhưng phải thấy được trách nhiệm trước công chúng trên nền tảng của sự giáo dục và tu thân, rèn luyện theo tinh thần của các bậc hoàng đế và vua chúa. Điều này, theo tôi nghĩ mới chính là ý nghĩa bao trùm của sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị ở Trung Quốc - đó là giải trình có nội dung và sắc thái đạo đức.

Nhà nước thì luôn có xu hướng tập trung quyền lực, còn thể chế pháp quyền và giải trình và chịu trách nhiệm chính trị thì lại đặt ra những hạn chế theo phương thức, đó là, cho dù chính quyền có mạnh đến đâu chăng nữa thì nó vẫn phải được kiềm tỏa bởi pháp luật và chịu trách nhiệm giải trình trước nhân dân.

Tôi đã phát biểu rằng nhà nước đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trung Quốc với một động cơ cũng tương tự như ở Châu Âu – đó là trước áp lực của cạnh tranh quân sự. Cả một giai đoạn dài Xuân – Thu và Chiến quốc trong lịch sử cổ đại Trung Hoa đã có rất nhiều thế lực và thực thể chính trị Trung Quốc đấu nhau quyết liệt suốt hơn 700 năm. Và chính áp lực cạnh tranh về quân sự đã buộc phải hình thành nên các thể chế chính trị hiện nay. Cần phải đánh thuế và tuyển dụng nhân viên thu thuế cũng như cần khen thưởng công trạng.Nếu chỉ tuyển dụng trong số người thân và họ hàng thì chưa chắc đã có được những tướng lĩnh quân đội tài giỏi nhất và như vậy, khó có thể thắng trận.

Ngay từ thời nhà Tần - triều đại đầu tiên đã thống nhất Trung Quốc, thì Trung Quốc đã phát triển một nhà nước có nhiều nét tương đồng với nhà nước hiện đại tới mức đáng ngạc nhiên

Các kỳ thi tuyển người làm quan được định kỳ tổ chức khi cần thiết bên cạnh một hệ thống quan liêu được sắp xếp hợp lý theo tuyến và quân đội tuy được bố trí trên một lãnh thổ rộng lớn nhưng được tổ chức chặt chẽ bởi những quy định chung. Sự ra đời của nhà nước hiện đại nhưng lại diễn ra cách đây tới 2300 năm, tức là trước Công nguyên 231 năm rõ ràng là một thành tựu lịch sử vĩ đại.

Điều mà Trung Quốc đã không phát triển được đó chính là thể chế chính trị pháp quyền và thể chế giải trình và chịu trách nhiệm chính trị công khai. Nguyên nhân vì sao Trung Quốc không có thể chế pháp quyền lại nằm ở một đặc điểm lịch sử quan trọng: ở Trung Quốc không có một tôn giáo nào mang tính áp đảo. Cá nhân tôi vẫn cho rằng ở đa số các quốc gia, thể chế pháp quyền được hình thành bên ngoài tôn giáo bởi lẽ tôn giáo thường đóng vai trò như ngọn nguồn của những quy định đạo đức và được trông nom bởi một trật tự thứ bậc có tính pháp lý riêng biệt – đó là tòa án tôn giáo với các thẩm phán, hội đồng xét xử và linh mục. Điều này là có thực ở Do thái Israel cổ đại, Phương Tây Thiên Chúa giáo, Ấn Độ Hồi giáo và Hindu.Trong các xã hội đó mặc nhiên đã hình thành những ràng buộc pháp lý mang dấu ấn tôn giáo đối với các đại diện chính quyền.Tuy nhiên Trung Quốc đã không có được sự hỗ trợ tôn giáo độc lập như vậy và nó cũng vắng mặt trong truyền thống Trung Quốc. Bởi lẽ đó sự giải trình và chịu trách nhiệm một cách dân chủ dân chủ đã không xảy ra nơi đây, dù chỉ là hình thức.

Phương Tây lại phát triển theo cách hoàn toàn khác. Dưới thời phong kiến ở Châu Âu đã bắt đầu có hình thái pháp quyền. Nhà thờ Thiên chúa giáo đã phát minh ra Bộ Luật vào thế kỷ 11, tức là trước cả khi ra đời nhà nước Châu Âu kiểu cận đại. Các vị vua, chúa ở Âu châu cũng giống như vua chúa ở Trung Quốc đã khởi đầu một quá trình hình thành nên những nhà nước tập trung, quan liêu hùng mạnh vào thế kỷ 16 và 17. Tuy nhiên họ đã làm những điều đi ngược với nền tảng được tạo nên bởi các ràng buộc pháp luật (mang dấu ấn tôn giáo – ND) từng hạn chế khả năng tập trung quyền lực của họ.

Cội nguồn của dân chủ Phương Tây là sản phẩm của những ngẫu nhiên lịch sử. Tất cả các quốc gia Âu châu phong kiến thời trung cổ đều có hình thức định chế có tên gọi là nghị viện, quốc hội hay tòa án tối cao. Đó là những cơ quan mà Vua chúa phải cần đến khi họ muốn tăng thuế. Ở Anh Quốc, nghị viện trên thực tế đã tỏ ra hữu hiệu, mạnh mẽ và đã tuyên chiến với Vua. Vua James II đã bị lật đổ năm 1688 và sau đó nghị viện đã chọn ra một vua khác để thay thế. Bởi vậy, ý tưởng về một sự giải trình và chịu trách nhiệm trước một nghị viện được bầu ra thực chất đã có từ thời cuộc cách mạng vẻ vang năm 1688. Xét theo nhiều góc độ, sự ra đời của dân chủ ở Âu châu là kết quả của những diễn biến tại Anh. Ở một mức độ nhất định, điều này rất đáng được ghi nhận bởi lẽ thể chế pháp quyền và sự giải trình đã đặt nền móng vững chắc cho chế độ bảo vệ tác quyền ở Anh, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và sự trỗi đậy của chủ nghĩa tư bản và cách mạng công nghiệp.

Ở Phương Tây ngày nay chúng ta có thể nhận thức được một số cơ sở của thể chế quản trị xã hội. Hiển nhiên có rất nhiều sự khác biệt giữa Phương Tây và Trung Quốc. Trung Quốc ngày nay là do Đảng Cộng sản lãnh đạo dựa trên học thuyết Marxism mà không phải là tư tưởng Khổng giáo. Nhưng ở nhiều khía cạnh khác, cơ cấu quản trị xã hội ở Trung Quốc ngày nay lại rất giống với những gì đã từng tồn tại dưới triều đại Tần Thủy Hoàng. Đó là một chính phủ quan liêu tập trung có chất lượng cao được xây dựng trên sự tuyển chọn khách quan và các luật lệ mang tính hình thức. Bối cảnh lịch sử là như vậy.

Bây giờ cho phép tôi được trình bày về mô hình Trung Quốc. Vậy mô hình này đã được hình thành như thế nào? Điểm mạnh và yếu của nó ra sao? Và hệ thống Trung Quốc thuộc vào loại hệ thống kiểu gì?

Đặc điểm đầu tiên đó là một chính phủ tập trung, quan liêu và toàn trị. Di sản đó được truyền lại từ thời xa xưa trong lịch sử Trung Quốc khi mà chính quyền đã đạt được mức độ thể chế hóa cao trong nội bộ cũng như đối với bộ máy quan liêu rất phức tạp có chức năng cai quản cả một xã hội rộng lớn. Ngày nay trong chính phủ Trung Quốc tính giải trình và chịu trách nhiệm chủ yếu được thực hiện theo chiều từ cấp dưới lên cấp trên trong hệ thống do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thay vì Hoàng đế hay vua như trước kia. Đó là cách thể hiện tính giải trình và chịu trách nhiệm của hệ thống này.

Nếu anh là một quan chức và chính phủ muốn trừng phạt anh thì họ có thể bắt anh phải giải trình và chịu trách nhiệm. Tuy nhiên lại không có sự giải trình theo chiều từ trên xuống dưới để cho thấy cấp trên sẽ chịu trách nhiệm ra sao đối với những người bị lãnh đạo ở cấp dưới. Tình trạng này đối lập với tính giải trình và chịu trách nhiệm thực hiện theo quy trình thông qua bầu cử dân chủ. Đó là tính giải trình và chịu trách nhiệm dân chủ hiện nay.

Tính giải trình và chịu trách nhiệm của Trung Quốc mang nội dung đạo đức nhiều hơn là thủ tục. Tính chịu trách nhiệm về đạo đức có nghĩa là người lãnh đạo phải biết cảm nhận về trách nhiệm đạo đức của mình trước người dân. Nếu các bạn quan sát trên thế giới các chế độ toàn trị hiện đại khá thành công thì sẽ thấy chúng đều tập trung ở Đông Á, chẳng hạn như Hàn Quốc, Đài Loan dưới thời Quốc Dân Đảng, Singapore dưới thời Lý Quang Diệu, Nhật bản trong giai đoạn đầu của sự phát triển tư bản, khi chưa có dân chủ, và tất nhiên cả nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc nữa.

Nói cách khác, kiểu giải trình và chịu trách nhiệm này hoặc ít hoặc nhiều là một nội hàm của văn hóa Trung Quốc, bởi lẽ theo Khổng giáo thì chịu trách nhiệm về đạo đức là một truyền thống. Cũng có nhiều chính quyền toàn trị nơi mà kẻ cầm quyền cho rằng làm chính trị có nghĩa là lấy của cải từ người khác về cho gia đình mình hoặc bạn bè. Thế nhưng Trung Quốc không có truyền thống đó.

Yếu tố thứ hai trong mô hình Trung Quốc đó là kinh tế. Ở đây tôi không cho rằng Trung Quốc khác các quốc gia tăng trưởng nhanh ở Đông Á nhiều. Cũng như họ, mô hình Trung Quốc dựa trên định hướng xuất khẩu và vai trò tích cực của các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa.Tuy vậy, cũng có một số khác biệt trong chính sách của Hàn Quốc và Nhật Bản. Đối với trường hợp Trung Quốc thì chính sách công nghiệp không đặt ra các mục tiêu một cách rõ ràng lắm, ví dụ như chỉ tiêu cho các ngành bán dẫn, thép hay đóng tàu. Nói chung, chính phủ Trung Quốc chú trọng nhiều hơn tới các phương tiện hạ tầng cơ sở, tài chính, đồng thời áp dụng một chế độ tỷ giá giúp cho xuất khẩu của Trung Quốc cạnh tranh, hơn là lựa chọn những người chiến thắng trong thi đua kinh tế. Tuy nhiên, Trung Quốc không nghiêng về xu hướng dựa hoàn toàn vào kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mình.(tức là vẫn dựa chủ yếu vào khu vực doanh nghiệp nhà nước – ND)

Yếu tố tiếp theo trong mô hình Trung Quốc đó là một hệ thống an sinh xã hội khá khiêm tốn nếu như so sánh với các nước phát triển, cụ thể là Tây Âu và Scandinavia (là các nước theo xu hướng Xã hội Dân chủ kiểu Bắc Âu có một số điểm gần với CNXH – ND). Trung Quốc cố gắng đạt mức đảm bảo việc làm cao với khởi điểm ban đầu khá thấp. Vẫn còn nhiều việc phải làm để giúp những người nghèo và giảm bớt sự cách biệt về của cải cho dù về danh nghĩa Trung Quốc vẫn là một xã hội Marxist. Một trong những kết quả phát triển của Trung Quốc đó là hệ số Gini mà các nhà kinh tế dùng để đo độ bất bình đẳng đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy thế hệ gần đây. Rõ ràng là chính phủ Trung Quốc thừa nhận đó là một vấn đề. Sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị, chẳng hạn như Thương Hải và các vùng nội địa quả là rất lớn. Các nước Bắc Âu, ví dụ như Đan mạch, Nauy là những quốc gia có chế độ an sinh phát triển đã hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp trong khi đó Trung Quốc làm được rất ít trong lĩnh vực này.

Bây giờ hãy thử so sánh hai thể chế vừa nêu để thấy những ưu và nhược điểm của chúng. Một bên là mô hình Trung Quốc, còn bên kia là mô hình dân chủ tự do được hiện thân bởi các quốc gia dân chủ như Anh, Mỹ, Pháp, Italy và một số các nước đang phát triển, ví dụ như Ấn Độ.

Mô hình Trung Quốc có những ưu điểm cơ bản, một trong số đó là quá trình ra quyết định. Đứng về góc độ này thì sự khác biệt giữa Trung Quốc và Ấn Độ là quá rõ ràng. Trung Quốc rất mạnh trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng: sân bay lớn, đường sắt cao tốc, cầu và đê đập nhờ vào cơ cấu chính quyền tập trung nên có thể thực hiện nhanh hơn các dự án đó. Ấn Độ là một đất nước vùng nhiệt đới sẵn mưa nhưng hạ tầng cơ sở của thủy điện lại kém xa Trung Quốc. Tại sao vậy? Câu trả lời là: bởi vì Ấn Độ là đất nước có chính phủ dân chủ đặt nền móng trên pháp luật.

Khi mà Trung Quốc xây đập Tam Hiệp thì đã rất nhiều ý kiến phê phán và chống đối, tuy nhiên chính phủ vẫn cứ làm theo ý định riêng của mình. Trái lại, mấy năm trước, công ty Tata Auto dự tính xây một nhà máy sản xuất ôtô ở Tây Bangalore và đã gây nên những cuộc biểu tình phản đối, bãi công và thậm chí các công đoàn và tổ chức nông dân còn đâm đơn kiện. Cuối cùng thì ý tưởng đó đã phải hủy bỏ trước sự phản kháng chính trị mạnh mẽ.

Quả thực trong một số quyết định kinh tế, hệ thống độc đoán kiểu Trung Quốc đã tỏ rõ ưu điểm của mình. Trong trường hợp của Mỹ, chúng tôi có một chính phủ hoạt động theo luật pháp và chịu trách nhiệm giải trình trước các cử tri. Tuy không đến nỗi tồi tệ như Ấn Độ trong quá trình ra quyết định nhưng chúng tôi cũng có những vấn đề trong hệ thống chính trị của mình, ví dụ như thâm hụt ngân sách dài hạn. Bất cứ chuyên gia nào cũng đều biết rằng tình trạng thâm hụt ngân sách làm cho nền kinh tế thiếu bền vững và sẽ còn tồi tệ hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Thế nhưng hệ thống chính trị hiện nay của chúng tôi đang bị tê liệt trong việc ra quyết định bởi vì còn vướng vào chuyện đối đầu giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ.

Các nhóm lợi ích của chúng tôi rất mạnh và có khả năng phong tỏa một số quyết định. Ngay cả khi các quyết định đó là hợp lý xét về dài hạn nhưng cuối cùng lại không được chấp thuận, đơn giản chỉ vì gặp phải sự chống đối của một số nhóm lợi ích khác. Đó là một vấn đề đau đầu mà nước Mỹ đang gặp phải. Nếu chúng ta có khả năng thay đổi tình trạng bế tắc này trong một vài năm tới thì mới có thể khẳng định rằng hệ thống dân chủ của Mỹ sẽ thành công trong tương lai dài hạn.

Trung Quốc có rất nhiều ưu điểm khác không bắt nguồn từ lịch sử và văn hóa. So với thế hệ trước, người Trung Quốc hiện nay tương đối ít bị hệ tư tưởng chi phối và chính phủ cũng đã thử nghiệm nhiều đổi mới. Những đổi mới này nếu hiệu quả sẽ được đưa vào áp dụng, còn nếu không, sẽ bị loại bỏ. Trong khi đó chính phủ Mỹ lại cứng nhắc trong việc ra các quyết định kinh tế. Mặc dù Hoa Kỳ được coi là rất thực dụng và có ý chí thử nghiệm những cái mới, nhưng tôi lại không chia sẻ cách nhìn nhận đó.

Vậy là hệ thống Trung Quốc có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên giờ đây cần đặt ra câu hỏi về sự bền vững của nó. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, Trung Quốc đã hành động có hiệu quả còn Hoa Kỳ thì còn đang trầy trật vật lộn với thâm hụt ngân sách. Thế nhưng hệ thống nào sẽ bền vững trong hai đến ba thập niên sắp tới? Sự ưu tiên của tôi vẫn sẽ dành cho hệ thống Hoa Kỳ hơn là hệ thống Trung Quốc.

Có một số vấn đề thu hút sự quan tâm của chúng ta đến hệ thống chính trị Trung Quốc. Đầu tiên, đó là sự thiếu tính giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với cấp dưới. Nếu các bạn nhìn vào lịch sử các triều đại Trung Quốc thì điều thường thấy đó là hệ thống tập trung quan liêu đó luôn thiếu thông tin và kiến thức về xã hội bên ngoài dẫn đến kết cục là một sự quản trị kém hiệu quả. Đặc tính quan liêu luôn mang lại tình trạng tham nhũng và điều hành yếu kém. Trong chừng mực nào đấy,vấn đề này vẫn còn ở Trung Quốc hiện nay.

Tất nhiên là có nhiều cơ hội để thu thập thông tin, chẳng hạn như chúng ta vẫn dùng Internet và nhiều hình thức công nghệ truyền thông hiện đại để làm việc này. Tuy nhiên vấn đề lại chính ở chỗ liệu chính quyền có khả năng đáp ứng nguyện vọng và tình cảm của quần chúng cũng như tôn trọng ý kiến của họ về cách quản trị xã hội hay không. Do vậy, tính giải trình và chịu trách nhiệm đối với quần chúng cần phải được thể chế hóa thông qua bầu cử để làm sao các nhà lãnh đạo luôn có cảm giác biết sợ. Nếu họ không làm việc đúng đắn thì họ sẽ không được bầu nữa.

Vấn đề thứ hai tuy không còn tồn tại trong hệ thống Trung Quốc nhưng vẫn thu hút sự quan tâm, đó là câu truyện muôn thưở về “ngụy vương” (hay ông vua tồi tệ, kém cỏi – ND) trong lịch sử Trung Quốc. Không có gì phải nghi ngờ khi bộ máy chính quyền có các quan chức được đào tạo tử tế, đủ năng lực hoặc những chuyên gia kỹ thuật đáp ứng nhu cầu xã hội thì sẽ hiệu quả hơn một chính quyền dân chủ trong ngắn hạn. Có được một vị “vua anh minh” chưa thể đảm bảo rằng sẽ không còn “ngụy vương” xuất hiện sau này. Chưa có hệ thống giải trình và chịu trách nhiệm để thay thế “ngụy vương” một khi con người này xuất hiện, và làm sao có thể tìm được một vị “vua anh minh”? Và có cách nào để đảm bảo rằng vị vua anh minh sẽ giúp tái hiện những vị vua anh minh nối tiếp hết thế hệ này sang thế hệ khác? Không có lời giải sẵn cho những câu hỏi này.

Còn một vấn đề khác nữa trong mô hình kinh tế. Mô hình hướng vào xuất khẩu là phù hợp với Trung Quốc khi nền kinh tế quốc gia còn nhỏ nhưng nó sẽ phải thay đổi để trở nên một hệ thống phù hợp và hiệu quả để đuổi kịp các nước đã công nghiệp hóa. Hiện nay Trung Quốc đã là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới thì mô hình hướng vào xuất khẩu đơn giản là không thể tiếp tục được nữa.

Chúng ta nhận thức rõ rằng mô hình kinh tế dựa trên nợ tiêu dùng ở Mỹ và Châu Âu cũng không bền vững và điều này đã được cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay chứng minh là đúng. Và còn nhiều vấn đề khác đang ngổn ngang, ví dụ như hệ thống Trung Quốc bị lệ thuộc nặng nề vào “sự kiềm chế tài chính” – hay nói cách khác là mức tiết kiệm chi tiêu cao sẽ dẫn đến suy giảm hiệu quả của thị trường. Bởi vậy tôi cho rằng cần phải xem xét lại mô hình kinh tế này trong dài hạn.

Điểm cuối cùng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là vấn đề đạo đức. Tôi cho rằng chính phủ cần phải làm nhiều hơn là đưa ra những chính sách kinh tế đúng đắn. Ngay cả khi chính phủ có thể đảm bảo một sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì đó hoàn toàn chưa thể coi là mục tiêu tối thượng. Chính phủ còn có những yêu cầu về mặt đạo đức cần đáp ứng. Ngay cả khi một hệ thống có khả năng đáp ứng đời sống vật chất dư giả cho các công dân nhưng nếu họ không thể tham gia vào quá trình phân phối của cải xã hội hoặc không được tôn trọng nhân phẩm đầy đủ thì sẽ có nhiều vấn đề phát sinh. Mùa xuân năm nay tại các nước vùng Trung đông, chúng ta đã chứng kiến một chuỗi các cuộc nổi dậy chống lại các chính phủ độc tài. Suy rộng ra, điều này cho thấy rằng quần chúng đòi hỏi được tôn trọng phẩm giá. Cuối cùng thì tôi vẫn không nghĩ rằng sự thành công chỉ phụ thuộc vào một mô hình này hay mô hình khác, và có lẽ tôi là người đầu tiên thú nhận rằng ngay cả hệ thống dân chủ của Mỹ thực sự cũng có nhiều vấn đề cần giải quyết.

Trương Duy Vi: Trong phần trình bày của mình, TS Fukuyama đã nêu lên bốn vấn đề có liên quan tới mô hình Trung Quốc, cụ thể là tính giải trình và chịu trách nhiệm, pháp quyền, “ngụy vương” và tính bền vững. Tôi muốn được đáp lại quan điểm của TS Fukuyama.

Những gì mà Trung Quốc đã và đang làm quả thực rất đáng quan tâm. Có lẽ Trung Quốc ngày nay là một phòng thí nghiệm lớn của thế giới về cải cách chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp. Điều mà TS Fukuyama nói đã làm tôi liên tưởng tới cuộc đàm luận với tổng biên tập tờ báo Đức Die Zeit tháng 2 vừa rồi. Chủ đề lúc đó cũng là mô hình Trung Quốc. Sau chuyến thăm Thương Hải gần đây, ông tổng biên tập tờ báo đã có cảm nhận rằng có rất nhiều điểm tương đồng giữa Thượng Hải và New York. Trong mắt ông ta Trung Quốc có vẻ như đang bắt chước mô hình Mỹ. Thậm chí ông ta đã đặt câu hỏi: “phải chăng không có mô hình Trung Quốc mà chỉ có mô hình Mỹ?” Tôi khuyên ông ta nên quan sát Thương Hải kỹ hơn và hiểu thành phố sâu sắc hơn. Một người quan sát cẩn thận sẽ thấy rằng Thương Hải đã vượt New York trên nhiều phương diện.

Thượng Hải không chỉ có hạ tầng “cứng” tốt hơn New York, chẳng hạn như tàu điện cao tốc, đường ngầm, sân bay, cảng và nhiều phương tiện phục vụ thương mại mà còn cả hạ tầng “mềm” nữa. Tuổi thọ trung bình ở Thương Hải cao hơn ở New York từ 3 đến 4 năm, tỷ lệ tử vong trong trẻ sơ sinh ở Thương Hải thấp hơn ở New York. Thương Hải là nơi an toàn hơn nhiều để các cô gái có thể đi dạo trên phố vào nửa đêm. Thông điệp mà tôi gửi tới cho học giả Đức là chúng tôi đã học nhiều điều ở Phương Tây và sẽ vẫn tiếp tục học trong tương lai, nhưng có một sự thật là chúng tôi đã nhìn xa hơn cả mô hình cả của Mỹ và phương Tây. Trong một chừng mực nào đó, chúng tôi đang tìm tòi các hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, và luật pháp cho thế hệ kế tiếp. Trong quá trình đó, những vùng đã phát triển cao hơn của Trung Quốc như Thương Hải sẽ đóng vai trò tiên phong dẫn đầu. Còn bây giờ tôi muốn chia sẻ ý kiến của tôi trước những mối nghi ngại của GS Fukuyama về mô hình Trung Quốc.

Thứ nhất, nói về tính giải trình và chịu trách nhiệm như GS Fukuyama đã tranh luận thì đây chính là hình thức dân chủ nghị viện đa đảng ở Phương Tây. Từng sinh sống ở Phương Tây hơn 20 năm, tôi cảm thấy rõ hơn bao giờ hết rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm chính trị hầu như không hiệu quả. Nói một cách thẳng thắn, theo quan điểm của cá nhân tôi thì hệ thống chính trị Mỹ có cội rễ từ thời kỳ tiền công nghiệp hóa cho nên nhu cầu cải cách chính trị ở Mỹ cũng cấp thiết như ở Trung Quốc, nếu như không nói là nhiều hơn. Sự phân quyền trong lĩnh vực chính trị nói riêng đã tỏ ra kém hiệu quả để giải quyết các vấn đề của xã hội Mỹ ngày nay. Thực tế là hệ thống đó đã bất lực không thể ngăn cản cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Tôi cho rằng xã hội hiện đại có lẽ cần những hình thức kiểm tra và đối trọng. Cần những đối trọng giữa các lĩnh vực chính trị, xã hội và vốn tư bản chứ không chỉ riêng một lĩnh vực chính trị. Sự phân quyền ở Mỹ có những nhược điểm của nó. Như GS Fukuyama đã phát biểu, có những nhóm lợi ích bất di bất dịch như các tổ hợp công nghiệp-quốc phòng sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình, và như vậy sẽ ngăn chặn các sáng kiến cải cách mà Mỹ đang cần.

Tôi cho rằng tính giải trình và chịu trách nhiệm mà Trung Quốc đang thực hiện bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn hơn ở Mỹ. Cuộc thử nghiệm ở Trung Quốc bao gồm cả một loạt các lĩnh vực như kinh tế, chính trị và pháp luật. Chẳng hạn, chính quyền các cấp của chúng tôi đều có ban hỗ trợ phát triển kinh tế và tạo việc làm. Cán bộ của ban sẽ không được thăng chức nếu nhiệm vụ không hoàn thành. Tôi đã đọc bài báo của Paul Krugman, nhà kinh tế đã từng đoạt giải Nobel, trong đó ông viết rằng tăng trưởng kinh tế và việc làm hầu như ở mức “chết” – con số 0 trong 10 năm qua ở Mỹ. Tuy nhiên không một huyện, tỉnh, thành phố nào của Trung Quốc trong suốt hai thập niên qua lại phải ghi nhận một kỷ lục nghèo nàn như vậy. Trái lại, thành tựu kinh tế trên toàn Trung Quốc rất ấn tượng. Điều này củng cố thêm cho thực tiễn của Trung Quốc về tính giải trình và chịu trách nhiệm trong kinh tế. Tất nhiên chúng tôi cũng có những vấn đề riêng của mình.

Cũng tương tự đối với tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp. Chẳng hạn như chúng tôi đang tiến hành đối thoại ở quận Jingan ở Thượng Hải, đó là một quận kiểu mẫu của thành phố. Năm ngoái xảy ra một vụ hỏa hoạn thiêu rụi cả một tòa nhà chung cư trên địa bàn quận dẫn đến kết cục là khoảng 20 quan chức cấp quận thuộc các ban ngành có liên quan đã bị trừng phạt vì tội vô trách nhiệm hoặc sơ xuất trong công vụ. Đó là hiện thực của tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp ở Trung Quốc.

Tương phản với những gì ở Trung Quốc, cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã làm cho các công dân Hoa Kỳ mất từ 1/5 tới 1/4 tài sản của mình. Đã 3 năm trôi qua nhưng đâu có ai ở Mỹ bị quy trách nhiệm về chính trị, kinh tế hay pháp lý. Để góp phần làm cho tình hình tồi tệ thêm, các nhà tài phiệt – những nghi phạm đã gây nên cuộc khủng hoảng tài chính lại được trọng thưởng hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu Đôla. Tuy nhiên điều làm tức giận công chúng Mỹ và cả Tổng thống Obama là những khoản tiền thưởng đó vẫn tiếp tục được trao cho các ông trùm tài phiệt đó theo điều khoản hợp đồng pháp lý mà họ đã ký kết.

Điều này làm tôi nhớ tới vấn đề thứ hai liên quan tới khái niệm pháp quyền mà GS Fukuyama đã nêu lên. Chúng tôi xúc tiến pháp quyền ở Trung Quốc, bởi vậy trên thực tế có rất nhiều thứ cần được cải thiện. Tuy nhiên tôi cho rằng có một vài nguyên lý cơ bản trong triết học truyền thống của chúng tôi vẫn giữ nguyên giá trị và còn phù hợp. Chẳng hạn, khái niệm truyền thống về chữ “Thiên” hay “Thiên đàng- Trời” với ý nghĩa là lợi ích cốt lõi và lương tâm trong xã hội Trung Quốc. Đó là điều không được vi phạm. Ở Trung Quốc luật pháp được áp dụng nghiêm chỉnh trong 99.9% các trường hợp, chúng tôi chỉ dành một không gian nhỏ, nơi mà các giải pháp chính trị trong khuôn khổ pháp quyền vẫn được áp dụng trong khi “thiên” hay các lợi ích cốt lõi và lương tâm của xã hội bị xâm hại. Nói cách khác, cách thưởng tiền của phố Wall như đã nêu trên không bao giờ có thể xảy ra ở Trung Quốc. Bởi vậy chúng tôi cố gắng phá vỡ sự cân bằng giữa pháp quyền và “thiên”. Đó là cái mà Trung Quốc muốn tìm kiếm cho chế độ pháp lý trong tương lai. Nếu không, chúng tôi sẽ trở thành nạn nhân của cái được gọi là chủ nghĩa tuân thủ pháp luật thái quá rất có thể gây tổn hại cho một xã hội phức tạp và lớn như Trung Quốc.

Về vấn đề “ngụy vương” đã có ngay lời giải. Theo ước tính sơ bộ của tôi trong lịch sử có cả “ngụy vương” và “minh vương” thì ít ra cũng có tới 7 triều đại kéo dài được hơn 250 năm. Nói cách khác, đó là quãng thời gian dài hơn cả toàn bộ lịch sử Hoa Kỳ. Đúng ra thì toàn bộ lịch sử cận đại của Phương Tây mới chỉ được khoảng hai- ba trăm năm nhưng đã chứng kiến nào là chế độ nô lệ,chủ nghĩa phát xít, vô số xung đột và hai cuộc thế chiến.

Theo quan điểm của tôi, sự đổi mới thể chế chính trị của Trung Quốc hiện nay đã giải quyết dứt điểm vấn đề “ngụy vương”. Điều đầu tiên và trước hết, lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc được chọn lựa theo phẩm chất, công trạng mà không theo “cha truyền con nối”. Thứ hai là, nhiệm kỳ công tác được quy định nghiêm ngặt, lãnh đạo tối cao không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Thứ ba là, lãnh đạo theo nguyên tắc tập thể, có nghĩa là không cá nhân lãnh đạo nào có thể đi quá lệch khỏi sự đồng thuận của nhóm. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tuyển chọn người tài là một truyền thống lâu đời ở Trung Quốc và các nhà lãnh đạo cao cấp hoặc các ủy viên thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc được bầu chọn với tiêu chí thông thường là đã phải qua hai nhiệm kỳ là chủ tịch tỉnh hoặc bộ trưởng.

Như các bạn biết, không hề dễ dàng để lãnh đạo một tỉnh ở Trung Quốc, thường có tầm cỡ của 4 tới 5 quốc gia Châu Âu. Hệ thống này có thể có những nhược điểm nhưng có một điều chắc chắn rằng với hệ thống tuyển chọn nhân tài đó thì Trung Quốc khó có thể lại bầu ra một lãnh đạo tầm cỡ quốc gia bất tài như George W. Bush hoặc Naoto Kan ở Nhật Bản. Thực ra, tôi không quan tâm đến vấn đề “ngụy vương” ở Trung Quốc bằng vấn đề “George W. Bush” ở Mỹ.

Nếu hệ thống chính trị Hoa Kỳ vẫn sẽ như hôm nay thì tôi thực sự lo rằng Tổng thống Mỹ sắp tới sẽ còn bất tài hơn cả George W. Bush. Với tư cách là một siêu cường, các chính sách của Mỹ có ảnh hưởng toàn cầu cho nên một sự thiếu vắng lãnh đạo hay tính giải trình và chịu trách nhiệm ở Mỹ sẽ có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Tôi muốn nghe quan điểm của GS Fukuyama về vấn đề “George W. Bush”. Tổng thống Bush đã điều hành đất nước tồi nên Mỹ đã suy thoái mạnh sau tám năm cầm quyền. Ngay cả một đất nước như Hoa Kỳ cũng không thể chịu đựng nổi thêm tám năm suy thoái nữa.

Về tính bền vững của mô hình Trung Quốc, trong cuốn sách mới đây của tôi nhan đề “Làn sóng Trung Quốc”, tôi đã đưa ra luận điểm rằng Trung Quốc là một nhà nước văn hiến có một không hai, với logic và chu kỳ phát triển riêng của mình. Bởi thế cho nên ý tưởng về các “triều đại” là rất có ích ở đây. Một triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc thường kéo dài từ 200 đến 300 năm, có khi lâu hơn và logic này đã được kiểm chứng trong 4000 năm qua. Từ viễn cảnh đó thì Trung Quốc hiện nay mới đang ở giai đoạn đầu của một chu kỳ đi lên. Đó cũng là lý do vì sao tôi lại lạc quan về tương lai của Trung Quốc đến vậy.

Sự lạc quan của tôi còn có chỗ dựa là khái niệm “khí ” hay còn gọi là xu hướng chủ đạo là thứ mà rất khó quay ngược lại, một khi đã được bắt đầu. Xu hướng phát triển được khởi đầu ở Nhật bản nhờ cải cách của Minh Trị vào cuối thế kỷ 19, trong khi đó Trung Quốc đã không làm được điều này do sức ỳ bên trong quá lớn, tức là “âm khí” vượng. Ngày nay “vận khí “hay xu hướng chủ đạo mới đã được bắt đầu và tạo được đà mạnh mẽ sau 3 thập kỷ cải cách và mở cửa. Xu thế chủ đạo này khó có thể bị đảo ngược cho dù vẫn có những làn sóng ngược chiều. Vận khí này đang định hình xu hướng chủ đạo đại chu kỳ phát triển của Trung Quốc. Điều không hay là có nhiều học giả Phương Tây không hiểu điều này nên đã đưa ra những dự báo bi quan về một sự “sụp đổ” của Trung Quốc từ 20 năm nay. Thay vào sự sụp đổ của Trung Quốc thì chính những dự báo đó đã sụp đổ. Một số người Trung Quốc trong nước vẫn còn nghiêng về lập trường bi quan này, nhưng tôi nghĩ rằng lập trường đó cũng sẽ “sụp đổ” mà không phải đợi tới 20 năm nữa.

GS Fukuyama có nhắc tới sự quá lệ thuộc của mô hình Trung Quốc vào thương mại. Quả thực Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào ngoại thương, thế nhưng sự phụ thuộc đó hơi bị thổi phồng. Ngoại thương chiếm một tỷ trọng lớn GDP nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức. Thế nhưng ngoại thương được tính theo US$, phần còn lại của GDP thì lại được tính theo Nhân dân tệ được định giá thấp hơn thực tế. Do vậy, theo tôi thì sự phụ thuộc vào ngoại thương bị đánh giá quá cao so với thực tế.

Nhìn về tương lai thì có thể nhu cầu nội địa của Trung Quốc sẽ lớn nhất thế giới. Quá trình đô thị hóa Trung Quốc cho tới năm 1998 còn chưa được khởi động. Nhưng từ nay trở đi sẽ có tới 15-25 triệu dân cư chuyển ra thành thị hàng năm ở Trung Quốc. Một mức độ đô thị hóa chưa từng có trong lịch sử loài người sẽ tạo ra nhu cầu khổng lồ của thị trường nội địa, theo ước tính sẽ còn lớn hơn cả nhu cầu gộp lại của toàn bộ các nước phát triển trong tương lai.

Nếu nói về sự tôn trọng các giá trị cá nhân, tôi không nghĩ là có sự khác biệt lớn giữa Trung Quốc với phần còn lại của thế giới. Mục tiêu cuối cùng thì đâu cũng vậy, đều là tôn trọng và bảo vệ những giá trị và quyền con người. Nhưng sự khác biệt chính là ở phương tiện để đạt mục tiêu đó. Trung Quốc có truyền thống triết lý riêng tương phản với triết lý về cá nhân ở Phương Tây và cách tiếp cận của Trung Quốc dựa trên truyền thống của mình mang lại những kết quả tốt hơn để khuyến khích các giá trị và quyền con người.

Tôi mô tả vấn đề này qua ví dụ về các cách tiếp cận khác nhau giữa Đặng Tiểu Bình và Mẹ Teresa. Cách của Đặng đã giúp cho gần 400 triệu người Trung Quốc thoát cảnh nghèo đồng thời mang lại giá trị cũng như quyền con người,chẳng hạn: họ có thể xem TV, lái xe trên đường cao tốc, lướt Internet hay Blog để bình luận về đủ mọi vấn đề. Thế nhưng ở Ấn Độ, dù bằng phương pháp cá nhân của Mẹ Teresa đã có rất nhiều người đã được giúp đỡ và Mẹ được vinh dự nhận giải Nobel về Hòa bình, nhưng bức tranh về đói nghèo ở Ấn Độ vẫn không thay đổi nhiều.

Tôi muốn đề cập tới sự tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định. Quả thực tôi rất hy vọng là GS Fukuyama sẽ có cơ hội nghiên cứu trên thực địa tại Trung Quốc. Vậy quá trình ra quyết định một cách dân chủ được tiến hành như thế nào ở Trung Quốc?. Cho phép tôi đưa ra một ví dụ, ở Trung Quốc cứ 5 năm một lần chúng tôi lại xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Đó là một quá trình kết tinh của hàng chục ngàn đợt góp ý, thảo luận trên mọi cấp độ trong xã hội Trung Quốc. Theo tôi, đó mới thực sự là một quá trình ra quyết định dân chủ, có thể bảo đảm chất lượng cho các quyết định. Sự chênh nhau giữa Phương Tây và Trung Quốc nhìn theo góc độ này, chân thành mà nói, là rất lớn. Theo thiển ý của tôi thì Trung Quốc đã đạt tới “mức sau đại học” còn Phương Tây có thể còn đang “học đại học” hoặc thậm chí còn đang “ở cấp độ trung học”, nếu lấy việc này để làm cơ sở so sánh.

Những bất ổn ở Trung Đông, thoạt nhìn có thể nghĩ là người dân theo đuổi tự do. Thế nhưng một trong những nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, theo tôi hiểu lại không nằm ngoài lĩnh vực kinh tế. Tôi đến Cairo 4 lần. Hai mươi năm trước thành phố này tụt hậu khoảng 5 năm so với Thương Hải, còn giờ đây sự chênh lệch là 40 năm. Một nửa số người độ tuổi thanh niên thất nghiệp. Nếu không nổi loạn thì họ còn biết làm chi đây?

Quan sát tình hình Trung đông đã đưa tôi tới kết luận rằng, trong khi có nhiều người ở Phương Tây ăn mừng Mùa xuân A rập thì đừng quá lạc quan. Tôi hy vọng rằng khu vực này sẽ ổn thỏa nhưng sẽ khó khăn trước mắt và Mùa xuân Ả rập ngày hôm nay có thể sẽ biến thành mùa đông Ả rập không lâu nữa với việc quyền lợi của Hoa Kỳ sẽ bị suy yếu.Tình hình ở khu vực không khá hơn Trung Quốc hồi cách mạng Tân Hợi 1911 bởi một giai đoạn hỗn loạn kéo dài sau đó. Trung đông còn phải đi qua một con đường dài và chúng ta hãy đợi và thấy điều gì sẽ tới.

Fukuyama: Tôi xin phép trả lời từng câu hỏi một. Trước tiên,khi so sánh những hệ thống chính trị khác nhau thì tôi nghĩ rằng nên tách bạch các chính sách riêng ra khỏi các thiết chế.Có nghĩa là phải nhìn thấy sự khác nhau giữa những chính sách cụ thể do một vài lãnh đạo nào đó đưa ra với cả hệ thống tổng thể nói chung. Rõ ràng là những người ra quyết định ở Hoa Kỳ đã từng phạm rất nhiều sai lầm, ví dụ như chiến tranh Iraq buộc chúng tôi phải trả giá đắt. Hay như cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ phố Wall là kết quả của hệ tư tưởng thị trường tự do, tiêu dùng gia đình quá trớn và sự sự mở rộng quá mức của thị trường bất động sản. Tuy nhiên những lỗi lầm trong chính sách là điều có thể xảy ra với mọi chế độ vào bất kỳ lúc nào. Tôi không nghĩ rằng các chế độ dân chủ lại có xu hướng đưa ra những chính sách sai lầm nhiều hơn các nhà nước độc tài. Thực tế là, các chế độ độc tài và toàn trị luôn gặp nhiều rắc rối nghiêm trọng hơn. Những sai lầm có thể tiếp tục níu kéo toàn xã hội vì không thể dễ dàng đuổi cổ những kẻ đã ra quyết định. Bởi vậy cái giá phải trả rốt cục sẽ rất lớn.

Ngài nói rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ lựa chọn một nhà lãnh đạo quốc gia như George W. Bush. Thôi được, kể cũng hơi nặng nề khi nói như vậy. George W. Bush làm Tổng thống trong 8 năm, nếu ngài quay trở lại với vấn đề “ngụy vương” thì ngụy vương gần đây nhất của Trung Quốc, nói rất chân thành, chính là Mao Trạch Đông. Sự tàn phá mà Cách mạng Văn hóa đã gây ra cho xã hội Trung Quốc còn nghiêm trọng hơn rất nhiều những gì mà George W. Bush đã làm đối với xã hội Mỹ.

Ngài cũng có nhắc tới một vài đặc trưng của lãnh đạo Trung Quốc. Tôi công nhận những mặt tích cực của lối lãnh đạo tập thể và việc hạn chế nhiệm kỳ đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Nếu Gaddafi hoặc Mubarak bị hạn chế nhiệm kỳ thì Libya và Ai Cập đã không bất ổn như vậy.

Ngài cũng phát biểu rằng sự đồng thuận cần đạt được trong nội bộ lãnh đạo trong khi đưa ra những quyết định quan trọng. Theo ý tôi, điều này chính là một bài học được rút ra từ Cách mạng Văn hóa. Trong quá khứ, sự đồng bóng, trái tính của một cá nhân đã gây tổn hại cho cả xã hội. Bởi vậy Đảng Cộng sản đã phải lập ra những thiết chế, trong đó có quy định về nhiệm kỳ.

Tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với hệ thống của Trung Quốc. Có nhiều người Mỹ không thể nhận thấy một thực tế: mặc dù Trung Quốc là quốc gia độc tài nhưng lại được thể chế hóa cao, có sự kiểm soát và đối trọng trong hệ thống của mình. Tuy nhiên chúng ta cần phải suy nghĩ về dài hạn.

Cơ cấu của thể chế hiện nay trong Đảng Cộng sản Trung Quốc được tạo nền móng từ ký ức và kinh nghiệm của những người từng sống qua cuộc cách mạng văn hóa. Cho tới giờ ở Trung Quốc người ta vẫn chưa thể nói nói hết những gì về giai đoạn lịch sử đó. Các ngài không dạy thế hệ trẻ về những gì đã diễn ra trước đây, họ chưa hề trải nghiệm cách mạng văn hóa và rồi sẽ quên sự kiện đó. Nhưng vấn đề ở chỗ là điều gì sẽ xảy ra nếu như thế hệ mới không có kinh nghiệm và hiểu biết về những vết thương tâm lý trong một xã hội của nền độc tài toàn trị. Liệu họ có sẵn sàng sống với sự kiểm soát sử dụng quyền lực hiện nay không?

Bởi vậy vì sao tôi vẫn tin rằng một hình thái pháp trị có kiểm soát và đối trọng trong dài hạn sẽ có ý nghĩa sống còn chứ không chỉ dựa vào ký ức và kinh nghiệm của một thế hệ. Nếu chẳng may thế hệ tiếp theo không có những thứ đó thì họ rất có thể lặp lại sai lầm. Thể chế pháp quyền và dân chủ chính là phương tiện để gìn giữ những gì được coi là tốt, là tích cực, tiến bộ của ngày hôm nay và truyền lại cho những thế hệ sau.

Trong cuốn sách mới hoàn thành của tôi có một điều được nêu lên như một luận cứ, đó  là tất cả chúng ta đều có bản chất chung của loài người. Chính vì có những đặc tính đó nên con người như chúng ta mới yêu thương gia đình, anh, chị em và con cái. Quý trọng bạn bè và gia đình là cách tự nhiên trong quan hệ xã hội giữa người với người. Tuy vậy, chúng ta không thể đặt nền móng của các hệ thống chính trị trên quan hệ bạn bè và gia tộc được. Bởi vậy, một trong những kỳ tích của nền chính trị Trung Quốc là đã thiết lập nên được hệ thống chính trị mang tính thể chế cao, không phụ thuộc vào quan hệ bạn hữa và gia đình, giòng tộc cũng như các mối quan hệ cá nhân khác.

Theo cách đó, để được nhận vào các cơ quan công quyền thì phải thi bất kể người đó có ảnh hưởng thế nào. Hệ thống tuyển chọn này đã được thể chế hóa đầy đủ từ đầu thời Tiền Hán vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Nhưng vào cuối thời Hậu Hán, khoảng thế kỷ thứ 3, hệ thống chính trị bị tầng lớp quý tộc soán quyền, chủ yếu đó là những gia tộc giàu có và nắm nhiều quyền lực. Sau đó là thời kỳ Tam quốc rất phức tạp và rối ren trong lịch sử Trung Quốc. Chủ yếu là các gia tộc giàu có đã soán quyền đồng thời thủ tiêu chế độ tuyển dụng người tài đương thời. Tôi cho rằng điều này có thể xảy ra đối với bất kỳ hệ thống chính trị nào.

Đó cũng là điều mà tôi lo ngại cho chính hệ thống của Mỹ hiện nay bởi lẽ có những tầng lớp siêu giàu. Họ có thể chăm sóc con cái họ trong những điều kiện rất hoàn hảo và gửi chúng tới những trường học rất tốt. Tất nhiên đó chưa phải là những gì đang diễn ra ở Trung Quốc nhưng có thể sẽ trở thành mối đe dọa đối với hệ thống Trung Quốc.

Bằng cách nào để có thể đảm bảo rằng tầng lớp tinh hoa lãnh đạo đất nước được tuyển chọn trên cơ sở tài năng lại không thiên vị gia tộc và bạn bè mình? Tôi cho rằng trong mấy thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã làm tốt công việc. Tuy nhiên vẫn tồn tại vấn nạn tham nhũng trong toàn bộ hệ thống, vì ai mà chả muốn quan tâm nhiều hơn tới họ hàng, bạn bè và con cái của mình. Tôi cho rằng một trong những vấn đề nội tại của hệ thống thiếu sự giải trình và chịu trách nhiệm chính trị của cấp trên đối với cấp dưới và đa số quần chúng đó là rất khó ngăn cản sự len lỏi của những mối quan hệ riêng tư vào hệ thống chính trị. Đó là nan đề mà tôi cho rằng cho tới nay vẫn chưa có lời giải.

Tuy vậy, trong dài hạn, để duy trì hệ thống cho hai hay ba thập niên nữa tôi cho rằng Trung Quốc cần đẩy mạnh sự giải trình và chịu trách nhiệm của cấp trên đối với quần chúng ở dưới nhằm giải quyết nan đề này. Ít ra thì trong một hệ thống dân chủ, nếu có sai thì vẫn có thể sửa sai, đôi khi cũng mất một vài năm.

Cho phép tôi nói qua về một nhận định liên quan tới nước Mỹ. Chúng tôi đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính. Như GS Trương Duy Vi đã phát biểu là không ai bị trừng phạt. Tôi cũng nghĩ rằng điều này thật là khủng khiếp vì chúng tôi đã không buộc những người có trách nhiệm về cuộc khủng hoảng này phải chịu trách nhiệm. Tại sao lại xảy ra điều này quả là rất phức tạp.Nhưng tôi không cho rằng nó liên quan tới hệ thống chính trị dân chủ của chúng tôi. Năm 1930 đã có một cuộc khủng hoảng tài chính còn lớn hơn hiện nay dẫn tới việc bầu chọn Roosevelt làm Tổng thống và thiết lập hệ thống an sinh xã hội và điều hành chính quyền đổi mới. Người ta đã đưa ra nhiều biện pháp mạnh bởi lẽ nhân dân tức giận về những gì đã xảy ra. Hệ thống của chúng tôi đã thiết lập được một sự giải trình và chịu trách nhiệm thực sự để đối phó với những sai lầm trong chính sách như thế đó.

Theo một nghĩa nào đó, tôi thậm chí còn nghĩ rằng trong vài năm vừa rồi ở Mỹ một cách chính thức, cuộc khủng hoảng vẫn chưa tới mức quá lớn, bởi vì trên thực tế,các nhà hoạch định chính sách trong phạm vi nào đó đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của nó. Bởi vậy động năng chính trị có lợi cho cải cách đã bị xói mòn và điều này giải thích tại sao chúng tôi đã không kịp thời có những cải cách chế độ điều hành. Nhưng dù sao tôi không nghĩ rằng hệ thống dân chủ của chúng tôi đã gây nên cuộc khủng hoảng hiện nay.

Trương Duy Vi: Quốc gia nào cũng có những sự kiện hoặc lỗi lầm khủng khiếp trong lịch sử phát triển của mình, kể cả Trung Quốc. Cách mạng Văn hóa và Đại Nhảy vọt quả thực là những thảm họa. Tôi từng trải qua cách mạng Văn hóa và có những ký ức của riêng mình. Tuy vậy cần phải nhấn mạnh lại rằng không có quốc gia nào là ngoại lệ. Hoa Kỳ có một trang sử của sự thảm sát người da đỏ và chế độ nô lệ cũng như tệ kỳ thị chủng tộc được thể chế hóa kéo dài hơn một thế kỷ. GS Fukuyama cho rằng các sai lầm được khắc phục bởi chính hệ thống Hoa Kỳ thì Cách mạng văn hóa và Đại nhảy vọt cũng đã được sửa sai bởi chính hệ thống Trung Quốc. Vấn đề “ngụy vương” cũng được giải quyết bởi hệ thống Trung Quốc. Ngày nay không một cá nhân lãnh tụ nào có thể đi ngược lại quy định thể chế bởi lẽ ở Trung Quốc đã hình thành hệ thống chuyển giao quyền lực kết hợp giữa lựa chọn và bầu chọn.

Tôi cho rằng hệ thống hỗn hợp này có thể là tốt hơn việc bầu cử đơn thuần ở Phương Tây, đặc biệt trong bối cảnh tìm kiếm một hệ thống chính trị cho thế hệ sau.. Cái mà Phương Tây đang thực hành đó là tăng cường hệ thống bầu bán qua tranh cử mà tôi gọi là “những cuộc trình diễn dân chủ” hay “dân chủ kiểu Hollywood”. Đó là sự thể hiện khả năng trình diễn nhiều hơn là khả năng lãnh đạo. Chừng nào mà quy trình này vẫn hoạt động thì không quan trọng ai sẽ trúng cử, dù là ngôi sao điện ảnh hay vận động viên điền kinh chuyên nghiệp. Ngược lại, theo truyền thống quản trị xã hội truyền thống có một ý tưởng rất quan trọng cần tuân thủ, đó là quốc gia chỉ có thể được điều hành bởi những người đủ tài năng và kinh nghiệm, được lựa chọn theo chế độ tuyển dụng nhân tài. Điều này đã ăn sâu vào tiềm thức của người Trung Quốc.

GS Fukuyama có nhắc tới Chủ tịch Mao. Một mặt, đúng là ông đã có những lỗi lầm nghiêm trọng. Nhưng mặt khác, chúng ta không nên bỏ qua một sự thật là ngày nay ông vẫn được tôn trọng khắp nơi trên đất Trung Quốc. Điều này nói lên rằng Mao đã làm gì đó đúng đắn. Sẽ không sòng phẳng nếu phủ nhận thành tựu chủ yếu của ông, đầu tiên là thống nhất một đất nước rộng lớn như Trung Quốc; hai là, giải phóng phụ nữ và ba là, cải cách ruộng đất. Đặng Tiểu Bình đã có lần phát biểu công của Mao so với tội sẽ là tỷ lệ 70% trên 30%. Chính tai tôi đã nghe thấy những lời này và cho rằng như vậy mới công bằng. Có lẽ sự khác biệt trong nhận thức của Mao xuất phát từ sự khác biệt về truyền thống văn hóa: Trung Quốc có truyền thống thay đổi chính trị trong khi đó Phương Tây lại thay đổi pháp lý.

Nhờ có ba thập niên cải cách và mở cửa một tầng lớp trung lưu đã hình thành và ổn định vị thế. Tôi chia xã hội Trung Quốc ra làm ba giai tầng: thượng, trung và hạ. Cơ cấu này có thể ngăn chặn chủ nghĩa cực đoan trên diện rộng như dưới thời Mao. Thứ chủ nghĩa cực đoan đó vẫn có ở các quốc gia như Ai cập bởi lẽ ở đó còn thiếu tầng lớp trung lưu. Cơ cấu xã hội này cho thấy lý do vì sao Trung Quốc sẽ không nghiêng về chủ nghĩa cực đoan.

Về vấn đề tham nhũng, tôi cho rằng cần phải làm một sự so sánh theo “chiều dọc” và cả “chiều ngang”. Tham nhũng ở Trung Quốc là nghiêm trọng và không dễ ngăn cản. Tuy nhiên khi nhìn lại lịch sử thế giới các bạn sẽ thấy rằng tất cả các cường quốc, kể cả Mỹ đã trải qua những giai đoạn tham nhũng tăng cao và thường trùng hợp với quá trình hiện đại hóa nhanh chóng. Như thầy dậy của ngài là Samuel Huntington đã quan sát thấy rằng quá trình hiện đại hóa nhanh nhất thường đi kèm tình trạng tham nhũng tăng cao nhất. Điều này xảy ra chủ yếu là do chế độ điều hành và giám sát không theo kịp sự tăng trưởng về tài sản và vốn khi diễn ra quá trình hiện đại hóa nhanh chóng.

Rốt cục thì nạn tham nhũng ở Trung Quốc sẽ bị chặn đứng và được giải quyết thông qua sự thiết lập những thiết chế giám sát và điều hành hữu hiệu hơn.

Tôi từng qua Mỹ nhiều lần và thấy rằng cách định nghĩa thế nào là tham nhũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trong cuốn sách mới viết, tôi đã đưa ra khái niệm “tham nhũng 2.0” khi mà cuộc khủng hoảng tài chính đã làm phát lộ rất nhiều vấn đề nghiêm trọng của “tham nhũng 2.0”. Chẳng hạn như các cơ quan đánh giá mức tin cậy về tài chính đã thu lời qua kinh doanh trên thị trường chứng khoán bằng cách trao cho các sản phẩm và định chế tài chính thiếu minh bạch chứng chỉ AAA. (là mức có độ tin cậy cao trên thị trường chứng khoán quốc tế - ND). Tôi coi đó là tham nhũng. Thế nhưng ở Mỹ người ta lại gọi đó là “rủi ro đạo đức” trong hệ thống pháp lý Mỹ. Tôi cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính có thể được ngăn chặn hiệu quả hơn nếu vấn đề này bị xử lý như là tham nhũng.

Chúng ta cũng có thể so sánh theo chiều ngang. Tôi đã đi thăm hơn 100 quốc gia. Thực tế sinh động cho thấy, mặc dù ở Trung Quốc người ta phàn nàn rất nhiều về tham nhũng, nhưng ở các nước khác tình hình còn tồi tệ hơn rất nhiều. Để so sánh chúng ta tìm hiểu các quốc gia có kích cỡ từ 50 triệu dân trở lên và đang ở cùng trình độ phát triển, chẳng hạn như Ấn Độ, Ukraina, Pakistan, Brazil, Ai cập và Nga. Kết quả đánh giá của tổ chức Minh bạch quốc tế cũng đồng thanh với nhân định của tôi.

Hơn thế nữa cần phải nhìn Trung Quốc theo các vùng miền khác nhau. Các vùng đã phát triển của Trung Quốc miễn dịch tốt hơn với tham nhũng. Có lần tôi làm việc ở Italy với tư cách là giáo sư mời, nhân tiện tôi thăm Hy lạp vài lần và nghĩ rằng Thương Hải dứt khoát ít tham nhũng hơn Italy và Hy lạp. Ở miền nam nước Ý, Mafia nghiễm nhiên hợp pháp hóa sự tồn tại của mình thông qua hệ thống dân chủ. Lần đầu tiên tôi tới thăm Hy lạp cách đây 20 năm , khi đó thâm hụt ngân sách rất cao. Còn giờ đây Hy lạp đang phá sản và cần sự hỗ trợ quốc tế. Tôi nói với các bạn Hy lạp của mình rất chân thành: “hai mươi năm trước, Thủ tướng của các bạn là Papandreou. Hai mươi năm sau Thủ tướng của các bạn vẫn là Papandreou. Nền chính trị của các bạn có vẻ như là công việc của một vài gia đình và nền kinh tế Hy lạp bị phá sản bởi lẽ hệ thống an sinh xã hội thì quá cao còn thực tiễn quản trị lại quá nghèo nàn, kém cỏi.” Có lần tôi còn đùa rằng chúng tôi cần gửi một đội ngũ các nhà quản trị từ Thương Hải hoặc Trùng Khánh để giúp đỡ Hy Lạp quản trị tốt hơn. Quả thực, bất kể là hệ thống chính trị nào, độc đảng, đa đảng hoặc không đảng phái thì rốt cục vẫn là vấn đề quản trị hiệu quả và mang lại được gì cho nhân dân của mình. Bởi vậy, quản trị tốt là điều quan trọng hơn dân chủ hóa theo phong cách Phương Tây.

Điều này đã đưa tôi tới chính đề “sự cáo chung của lịch sử” mà GS Fukuyama nêu lên. Tôi chưa công bố quan điểm của mình, tuy nhiên nó hoàn toàn đối lập với GS Fukuyama. Tôi nhìn nhận rằng: không phải một sự cáo chung của lịch sử mà phải là chấm hết cho sự cáo chung của lịch sử.

Dân chủ Phương Tây có thể chỉ là một hình thái mang tính giai đoạn trong lịch sử lâu dài của loài người. Tại sao tôi lại nghĩ vậy? 2500 năm trước, một vài thành phố- quốc gia chẳng hạn như Athen đã thực hiện dân chủ trong số các công dân nam giới của mình và sau đó lại bị khởi nghĩa Sparta đánh bại. Từ đó cho tới nay, hơn 2000 năm trôi qua từ “dân chủ” chủ yếu mang một nghĩa rộng tiêu cực, thông thường là tương đương với “chính trị của đám đông dân chúng”. Các quốc gia Phương Tây không thực thi hệ thống mỗi người một lá phiếu ở nước họ mãi cho tới khi quá trình hiện đại hóa ở nước họ đã hoàn thành.

Thế nhưng ngày nay hệ thống chính trị dân chủ kiểu này không thể giải quyết các vấn đề lớn sau đây.

-  Thứ nhất là, thiếu vắng văn hóa “tài năng phải là đầu tiên”. Bất cứ ai được bầu lên đều có thể điều hành đất nước. Điều này đã trở nên quá đắt đỏ tới mức không chịu nổi thậm chí đối với Mỹ.

-  Thứ hai là, gói dịch vụ an sinh xã hội chỉ có thể tăng thêm chứ không giảm đi. Bởi vậy không thể tiến hành những cải cách như Trung Quốc đã thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng và các xí nghiệp nhà nước.

-  Thứ ba là, càng ngày càng khó khăn để tạo ra sự đồng thuận ở các quốc gia dân chủ. Ngày trước, đảng thắng cử với 51% phiếu bầu đã có thể tập hợp toàn xã hội ở các nước phát triển. Ngày nay, xã hội Mỹ đang bị chia rẽ sâu sắc và phân cực. Đảng nào thất cử, thay vì thừa nhận thất bại lại tiếp tục gây cản trở.

-  Thứ tư là, những vấn đề đơn giản có tính chất dân túy có thể làm giảm sút mối quan tâm vào các vấn đề dài hạn của đất nước và xã hội. Ngay cả Mỹ cũng đang bị mối đe dọa này rình rập.

Năm 1793, Vua George III của Anh Quốc đã phái đặc phái viên của mình tới Trung Quốc để mở mang thương mại hai chiều. Thế nhưng vua Càn Long đã quá ngạo mạn vì tin rằng Trung Quốc mới là quốc gia nhất thế giới. Bởi vậy Trung Quốc chẳng cần học hỏi ai. Điều này khi đó đã được định nghĩa là “sự cáo chung của lịch sử”, và từ đó Trung Quốc bị tụt hậu. Còn giờ đây tôi lại nhận thấy một tư duy tương tự ở Phương Tây.

Cần phải tới Trung Quốc để tận mắt chứng kiến Trung Quốc đã tự cải cách như thế nào trong ba thập kỷ qua. Mỗi bước đi nhỏ nhưng cuộc hành trình không ngừng, không nghỉ. Phương Tây vẫn có niềm tin mạnh mẽ vào hệ thống của mình, tuy nhiên đó cũng chính là cái hệ thống ngày càng trở nên có lắm vấn đề. Hy lạp, cái nôi của nền dân chủ Phương Tây đang phá sản, còn nợ ngân sách của Anh đã cao tới 90% tổng sản phẩm quốc dân.

Vậy còn Hoa Kỳ thì sao? Tôi làm một con tính đơn giản, cuộc tấn công 9/11 làm hao tổn cho Mỹ 1000 tỷ $. Hai cuộc chiến không khôn ngoan lắm làm tốn gần 3000 tỷ $ và khủng hoảng tài chính khoảng 8000 tỷ $. Hiện nay nợ ngân sách của Mỹ vào khoảng từ 10000 tỷ $ tới 20000 tỷ $. Nói cách khác, nếu đồng Đôla Mỹ mà không phải là đồng tiền dự trữ quốc tế - mà vị thế này có thể không kéo dài mãi- thì Mỹ đã bị coi là đã phá sản rồi.

Sự trỗi dậy của Trung Quốc, điều mà chúng tôi vẫn gọi là “vận khí ” hay xu hướng chủ đạo có tầm cỡ và tốc độ chưa có tiền lệ trong lịch sử loài người. Cảm nhận của riêng tôi là hệ thống Phương Tây đang trượt dốc nên cần cần đại tu và cải cách. Một số người Trung Quốc luôn miệng ca ngợi và tôn thờ mô hình Mỹ, thế nhưng đối với những ai đã sống ở Châu Âu và đi Mỹ nhiều lần thì điều này là quá giản đơn và ngây thơ. Cần phải khách quan khi so sánh Trung Quốc với các nước Phương Tây. Cái gì là điểm mạnh và điểm yếu của Phương Tây? Đâu là ưu điểm và nhược điểm của chúng ta và điều gì đáng học hỏi hay ghi nhận từ Phương Tây? Đó mới là lối tư duy đúng.

Fukuyama: Một lần nữa tôi muốn nói rằng ngài cần phân biệt giữa hệ thống chính trị và chính sách trong ngắn hạn. Khỏi phải nói cũng biết trong nhiệm kỳ trước, Hoa Kỳ đã vay nợ quá nhiều. Nhưng quả thực tôi lại không nghĩ rằng đó lại là vấn đề của hệ thống dân chủ.

Nước Đức rất giống Trung Quốc ở một điểm là nền kinh tế lớn, liên tục có xuất siêu và một thị trường việc làm bùng nổ. Nhưng đồng thời Đức lại không bị ám ảnh bởi những đổi mới quá đáng trong lĩnh vực tài chính, điều đã làm suy thoái nền kinh tế Mỹ và cũng là nguyên nhân của bong bóng bất động sản. Đây cũng là một đất nước dân chủ, có điều là Đức đã có những lựa chọn khác Mỹ. Bởi vậy tôi không nghĩ rằng việc xác định một quốc gia là dân chủ hay không dân chủ ở đây là cần thiết. Mọi quốc gia đều có thể phạm sai lầm.

Một lần nữa tôi muốn đặt sự vật vào viễn cảnh tương lai. Thực sự tôi không muốn xem thường những kỳ tích mà Trung Quốc đã đạt được. Tuy nhiên theo quan điểm của tôi thì ngài không thể suy đoán cho tương lai dài hạn nếu chỉ căn cứ trên những kết quả ngắn hạn. Nhật bản đã là một nước tưởng như không biết dừng bước vào những năm cuối của thập niên 1980 trước khi bong bóng bất động sản vỡ tung. Sau khi bong bóng vỡ và tiếp theo những chính sách sai lầm là 20 năm kinh tế trì trệ và tăng trưởng thấp. Thế mà nhiều người vào những năm 1980 đã tin rằng Nhật bản sẽ tăng trưởng cao hơn, cao nữa và sẽ vượt Hoa Kỳ. Hồi đó trên thế giới đã nảy nở một đức tin vào uy thế Nhật bản. Còn giờ đây, nếu nhìn vào tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì điều gì sẽ là thách thức lớn nhất đối với Trung Quốc cũng sẽ chính là điều sẽ thách thức mọi nền kinh tế khác.Thoạt tiên trong giai đoạn đầu, tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa rất nhanh thu hút nhiều cư dân nông thôn ra thành thị.

Châu Âu cũng đã tăng trưởng rất nhanh trong giai đoạn này, Hàn Quốc và Nhật bản cũng vậy. Có lẽ 25 năm trước Trung Quốc cũng đã bước vào quá trình này. Đến một điểm nào đó, sự chuyển dịch này đã thu hút hết nhân lực ra khỏi khu vực nông nghiệp thì sẽ nảy sinh một thách thức mới về năng suất trong một nền kinh tế trưởng thành hơn. Tôi cho rằng có lẽ đây là một sự thật có tính toàn cầu và chẳng có quốc gia nào có thể duy trì liên tục mức tăng trưởng 2 con số cho tới khi đạt cái mốc đánh dấu sự ra nhập danh sách các nền kinh tế đã công nghiệp hóa. Điều này rồi cũng sẽ xảy ra với Trung Quốc.

Giai đoạn tới đây nền kinh tế Trung Quốc sẽ phát triển chậm lại. Mọi quốc gia, đặc biệt là các nước Châu Á sẽ phải đối mặt với vấn đề giảm tỷ lệ sinh đẻ, thậm chí đó sẽ trở thành một gánh nặng lớn. Số người già cả ngày càng lớn do tuổi thọ được nâng cao đồng thời tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh cũng thấp, đó là chưa kể đến chính sách một con. Điều này là một sự thật ở Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc lục địa.

Gần đây tôi có dự một cuộc họp, tại đó một nhà kinh tế phát biểu rằng vào những năm 2040-2050 Trung Quốc sẽ có khoảng 400 triệu người trên 60 tuổi. Quả thực đó sẽ là một thách thức khủng khiếp mà các quốc gia phát triển khác cũng đang gặp phải. Bởi vậy, khi chúng ta nói về tính dẻo dai của một hệ thống chính trị, chúng ta phải luôn nghĩ trong dài hạn. Với tỷ lệ sinh sản giảm và dân số tuổi già ngày càng tăng thì hệ thống của chúng ta sẽ phải tỏ ra linh hoạt ra sao? Tuy nhiên tôi không thể nói rằng các quốc gia dân chủ có mọi lời giải. Đó là thách thức đối với mọi người.

GS Trương Duy Vi có nêu lên vấn đề về chủ nghĩa dân túy với hàm ý rằng quần chúng không phải bao giờ cũng quyết định đúng trong các xã hội dân chủ. Tôi nghĩ là có rất nhiều ví dụ liên quan đến nhận định này trong các chính sách của Hoa Kỳ hiện nay. Đã đôi lần tôi phải lắc đầu vì những quyết định ngu ngốc của các nhà chính trị. Thế nhưng, Abraham Lincoln, người mà tôi cho là Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ đã có một câu nói nổi tiếng:” Anh có thể lừa một vài người suốt đời, tất cả mọi người trong một lúc nào đó, nhưng không thể lừa tất cả mọi người mãi mãi.”

Đặc biệt cùng với sự gia tăng của giáo dục và thu nhập thì tôi nghĩ rằng chủ nghĩa dân túy mà ngài nói đến, theo một số khía cạnh, cũng đã thay đổi. Đó là phép thử của nền dân chủ thực sự. Đúng là quần chúng trong ngắn hạn có thể quyết định sai hoặc chọn nhầm lãnh đạo. Nhưng trong dài hạn, nhân dân sẽ quyết định đúng đắn. Tôi nghĩ rằng trong lịch sử Hoa Kỳ chúng tôi có thể chỉ ra nhiều quyết định ngắn hạn sai lầm, nhưng cuối cùng thì nhân dân sẽ hiểu quyền lợi của họ ở đâu và điều này sẽ hướng họ tói những quyết định đúng đắn.

GS Trương Duy Vi cũng đề cập tới tầng lớp trung lưu. Ông nói rằng họ sẽ đẩy lùi khả năng quay trở lại của chủ nghĩa cực đoan dân túy hoặc sự nổi loạn.

Một trong những người thầy của tôi là GS Samuel Huntington năm 1968 đã viết một cuốn sách có tựa đề “Trật tự chính trị trong những xã hội đang thay đổi”. Trong đó có một điều đáng lưu ý khi ông phát biểu rằng các cuộc cách mạng không bao giờ được tạo ra bởi những người dân nghèo. Thực sự là tầng lớp trung lưu mới kiến tạo ra các cuộc cách mạng vì lẽ để cách mạng thành công phải có những người được đào tạo biết cách tận dụng các thời cơ, vận hội. Thế nhưng những cơ hội đó bị các hệ thống chính trị và kinh tế ngăn cản nên mới nảy sinh sự chênh lệch giữa kỳ vọng và khả năng của hệ thống đáp ứng chúng, và điều này làm phát sinh sự bất ổn chính trị.

Bởi vậy theo tôi thì sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu không phải là đảm bảo đẩy lùi tình trạng nổi loạn mà chính là nguyên nhân của bất ổn.

Những gì đã xảy ra ở Ai Cập và Tunisia chính là do sự gia tăng của giai cấp trung lưu và vì càng ngày càng có nhiều người được học hành biết sử dụng Internet. Khi đã được kết nối với thế giới bên ngoài, họ mới hiểu ra các chính phủ của họ mới kém cỏi làm sao.

Nói về sự tăng trưởng bền vững ở Trung Quốc tôi không nghĩ rằng nguồn gốc của sự bất ổn sẽ bắt nguồn từ những người nông dân nghèo ở các vùng quê. Cách mạng về chính trị được thiết kế bởi giai tầng trung lưu có học bởi vì hệ thống chính trị hiện nay đang ngăn cản họ kết nối với thế giới bên ngoài rộng lớn hơn và cho họ vị thế xã hội mà họ xứng đáng được hưởng.

Tôi biết rằng hàng năm có tới 6 – 7 triệu sinh viên mới ra trường ở Trung Quốc. Và một trong những thách thức lớn nhất đối với sự ổn định không phải là dân nghèo ở Trung Quốc mà là lệu xã hội có khả năng đáp ứng những kỳ vọng của tầng lớp trung lưu có học.

Về vấn đề tham nhũng, tôi không muốn thuyết phục mọi người rằng dân chủ thì có thể giải quyết vấn đề tham nhũng hiệu quả hơn bởi một thực tế rất hiển nhiên đó là rất ít chế độ dân chủ đồng thời lại có mức độ tham nhũng cao. Đứng về nhiều góc độ, Trung Quốc có thể ít tham nhũng hơn nhiều nước trong số các nước dân chủ đó. Tuy nhiên tôi lại phải nghĩ rằng một trong những con đường đấu tranh chống tham nhũng chính là tự do báo chí, nơi mà người dân có thể phơi bày tham nhũng mà không lo bị đe dọa hoặc trả thù.

Cứ cho là ở các quốc gia dân chủ không phải lúc nào cũng được như vậy đi, chẳng hạn như ở Italy, Thủ tướng sở hữu toàn bộ truyền thông. Tuy vậy tôi vẫn nghĩ rằng dù sao đi nữa, được tự do phát ngôn mà nhờ vậy mà quần chúng có thể phê phán những người có thế lực trong hệ thống chính trị có phân cấp mà không sợ bị trả thù cá nhân là một ưu điểm. Đó chính là ưu điểm khi có một hệ thống dân chủ tự do.

Trương Duy Vi: Cảm ơn GS Fukuyama. Ngài nói rằng chúng ta cần đánh giá theo một khuôn khổ thời gian dài hơn. Năm 1985 tôi đến Mỹ với tư cách là một phiên dịch cho lãnh đạo Trung Quốc, chúng tôi được gặp TS Henry Kissinger. Khi được hỏi về mối quan hệ Trung - Mỹ ông ta đã nói rằng ông thà nghe chúng tôi trước vì chúng tôi tới từ một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến. Tất nhiên đó là biểu hiện của sự nhã nhặn. Tuy vậy chúng ta cần nhớ rằng Trung Quốc đã từng là một quốc gia tiên tiến nhất về sức mạnh và hệ thống chính trị trong gần 2000 năm qua. Tôi trân trọng TS Fukuyama vì không giống với nhiều học giả Phương Tây khác, ngài đã dành nhiều thời gian và sức lực để nghiên cứu các thiết chế chính trị của Trung Quốc cổ đại, bằng chứng là kết luận của TS về việc Trung Quốc đã xây dựng nên nhà nước hiện đại đầu tiên trên thế giới.

Trung Quốc bị tụt hậu so với Phương Tây trong khoảng 200-300 năm gần đây. Thế nhưng Trung Quốc đang đuổi kịp nhanh chóng, đặc biệt tại các vùng đã phát triển. Tôi sợ rằng Phương Tây hơi quá ngạo mạn và không thể nhìn Trung Quốc với một tư duy rộng mở. Theo tôi thì Phương Tây đã có thể học hỏi ở Trung Quốc một số điều. Tổng thống Obama có thể đúng khi ông thúc giục Mỹ xây dựng đường sắt cao tốc, quan tâm nhiều hơn đến giáo dục cơ sở, giảm thâm hụt ngân sách, tiết kiệm nhiều hơn, phát triển công nghiệp chế tạo và vực dậy khu vực xuất khẩu. Ông đã nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ không thể xếp hạng 2 thế giới. Rõ ràng là ông ta đã cảm nhận được áp lực từ sự trỗi dậy của Trung Quốc.

GS Fukuyama có vẻ lạc quan về vấn đề chủ nghĩa dân túy và rất tin tưởng rằng Hoa Kỳ có thể học trên những lỗi lầm của mình, thay vì bị dẫn dắt bởi chủ nghĩa dân túy. Tuy nhiên tôi thiên về quan điểm cho rằng chủ nghĩa dân túy hầu như đã trở nên lan rộng hơn trên thế giới nhờ truyền thông hiện đại. Ngày nay một đất nước hay một xã hội quả thực là có thể đổ vỡ sau một đêm chỉ vì chủ nghĩa dân túy quá mức, và điều này còn ý nghĩa hơn vấn đề thể chế chính trị.

Ở Trung Quốc, truyền thống hàng ngàn năm đã để lại dấu tích ở mọi thứ. Tôi không nói truyền thống là luôn tốt hay xấu, quan điểm của tôi là không thể hoặc không thực tế nếu loại bỏ truyền thống đã in dấu lên mọi thứ mà chúng ta đang làm hôm nay. Bởi vậy tôi luôn nói rằng, dù thích hay không thích thì tính cách Trung Quốc và những “gien di truyền lịch sử” vẫn luôn tồn tại cùng chúng tôi. Điều mà chúng tôi có thể làm là phát huy các ưu điểm trong truyền thống của mình đồng thời ngăn ngừa những nhược điểm. Những gì đã diễn ra trong Cách mạng văn hóa cho chúng ta thấy rằng rất khó để phá hoại truyền thống. Trung Quốc thừa hưởng nhiều truyền thống rất tốt đẹp trong đó có niềm tin vào chế độ sử dụng nhân tài. Bởi vậy tuyển chọn kết hợp với một số hình thức bầu chọn đang hứa hẹn một tương lai ở Trung Quốc và chúng tôi sẽ làm tốt việc này khi đã có hàng ngàn năm truyền thống tuyển chọn nhân tài.

GS Fukuyama nói về những hình thái thay thế của dân chủ. Đó chính là lĩnh vực mà quan điểm của chúng ta khác biệt. Trung Quốc không có ý định tiếp thị mô hình của mình như một hình thái thay thế cho các quốc gia và dân tộc khác. Mục tiêu của chúng tôi chỉ đơn giản là điều hành, quản trị đất nước mình hiệu quả, cũng có nghĩa là hoàn thành sứ mệnh đối với 1/5 nhân loại, và không có gì hơn là đạt được mục tiêu đó. Nhưng có một sự thật là nếu anh làm tốt việc gì đó thì những người khác sẽ noi gương. Ngày nay thực sự tất cả các nước láng giềng Châu Á của Trung Quốc, từ Nga cho tới Ấn Độ, từ Việt Nam cho tới Lào, Cămpuchia và các dân tộc Trung Á đang học hỏi mô hình Trung Quốc bằng cách này hay cách khác.

 Quan điểm của GS Huntington về sự xung đột giữa tầng lớp trung lưu với nhà nước được đa số học giả Phương Tây và một số học giả Trung Quốc ủng hộ xã hội dân sự độc lập chia sẻ. Tuy nhiên Trung Quốc lại có một truyền thống văn hóa lâu đời của riêng mình mà theo đó tầng lớp trung lưu có những ảnh hưởng khác biệt. Đa số người Phương Tây nhìn nhận chính quyền như là “điều không muốn nhưng phải chấp nhận”, thế nhưng đa số người Trung Quốc lại coi chính quyền như một sự “bất đắc dĩ phải có”. Với di sản văn hóa như vậy, tầng lớp trung lưu có nhiều khả năng trở thành những người ủng hộ trung thành nhất vị thế ổn định của Trung Quốc trên thế giới. Hơn nữa, thay vì đối đầu, quan hệ giữa tầng lớp trung lưu với nhà nước Trung Quốc nói chung là tích cực. Điều này làm nảy sinh sự dính kết xã hội không có ở các xã hội Phương Tây.

Bây giờ tôi sẽ nói về vấn đề tham nhũng. Chúng ta ai cũng biết bốn con rồng Châu Á: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Hongkong. Sau khi quá trình hiện đại hóa (có thể hiểu là công nghiệp hóa – ND) hoàn thành trên diện rộng, Đài Loan và Hàn Quốc đã tiếp thu hệ thống chính trị Phương Tây trong khi Họng kong và Singapore lựa chọn ít nhiều vẫn giữ nguyên hệ thống hiện hành. Hãy nhìn vào tình hình hiện nay: Hong kong và Singapore ít tham nhũng hơn Hàn Quốc và Đài Loan theo nhận định của tất cả những ai nghiên cứu về tham nhũng. Trong những năm 1960 tình trạng tham nhũng ở Hong Kong là trầm trọng, nhưng vấn nạn này đã được ngăn chặn thành công khi thành lập Ủy ban độc lập chống tham nhũng (ICAC). Nói cách khác, hệ thống dân chủ Phương Tây không phải là giải pháp tốt nhất đối với vấn nạn tham nhũng, ít ra là trong thế giới ngoài Phương Tây.

Tổ chức minh bạch quốc tế đưa ra chỉ số về tham nhũng cho thấy trong các nền “dân chủ” với dân số 50 triệu trở lên tình trạng tham nhũng trầm trọng hơn Trung Quốc. Thực tế là tham nhũng ở Đài Loan trở nên tồi tệ hơn sau khi có dân chủ. Nếu không thì lãnh đạo Trần Thủy Biển đã không chịu kết cục phải ngồi tù. Liên tiếp 5 tổng thống Hàn Quốc được dân bầu đều dính líu vào các vụ tham nhũng tai tiếng. Trái ngược lại, Hong Kong và Singapore không cần phải tiếp nhận mô hình chính trị Phương Tây lại thành công trong nỗ lực giảm tham nhũng đáng kể nhờ chế độ pháp quyền và đổi mới các định chế.

Một số người Trung Quốc đã biến tấu câu nói nổi tiếng của Churchill về dân chủ thành câu “dân chủ là hệ thống ít tồi tệ nhất “. Tôi đã kiểm tra lại bối cảnh mà Churchill phát biểu câu này và thấy câu nói được phát ngôn trong cuộc tranh luận ở Westminster vào năm 1947. Rõ ràng là ông ta nói về dân chủ kiểu Phương Tây và được thực thi ở Phương Tây. Winston Churchill bản thân cũng mạnh mẽ chống lại nền độc lập của Ấn Độ. Vậy thì làm sao ông ta có thể ủng hộ Ấn Độ tiếp nhận nền dân chủ kiểu Phương Tây? Tôi tự mượn câu nói của Churchill để mô tả mô hình Trung Quốc giống như một “mô hình ít tồi tệ nhất”, có nghĩa là tuy có những yếu điểm nhưng nó cho kết quả thực tế tốt hơn những mô hình khác.

Fukuyama: Cho phép tôi được bắt đầu từ vấn đề về tầng lớp trung lưu. Phải chăng tầng lớp trung lưu Trung Quốc khác biệt với tầng lớp trung lưu ở những xã hội không Trung Quốc? Đó cũng là vấn đề mà tôi đã tranh luận rất nhiều với GS Huntington. Năm 1990 GS viết cuốn sách có tựa đề “sự xung đột giữa các nền văn minh” trong đó về cơ bản ông dựa trên luận cứ cho rằng văn hóa quyết định hành vi. Bất chấp những đổi thay do quá trình hiện đại hóa mang lại, ông cho rằng, văn hóa vẫn quyết định hành vi của con người, dù đó là người tân tiến.

Tôi tin rằng văn hóa rất quan trọng. Lý do vì sao tôi nghiên cứu chính trị quốc tế chính là tôi thích quan sát những người khác mình. Bởi lẽ sự đa dạng văn hóa là một thực tế và thật tuyệt vời khi mọi người không ai giống ai. Nhưng có một câu hỏi lớn hơn đó là phải chăng văn hóa tỏa sáng xuyên thời gian theo cách thức phản kháng lại sự phát triển của chính trị, xã hội và kinh tế hay là quá trình hiện đại hóa sẽ dẫn tới một sự hội tụ về văn hóa?.

Cho phép tôi viện dẫn một ví dụ. Nhìn quanh căn phòng thấy có nhiều phụ nữ ngồi hẳn có người sẽ tự hỏi: sao lại có nhiều thính giả nữ thế nhỉ?. Thời trước, vị thế của người phụ nữ bị hạ thấp và họ bị hạn chế nhiều cơ hội trong những xã hội mà tài sản thừa kế chỉ được truyền cho nam giới. Điều này từng là hiện thực ở Mỹ và Châu Âu vào thời kỳ mới phát triển. Nhưng khi bạn tới thăm các quốc gia phát triển và nơi đây ở Đông Á bạn sẽ thấy phụ nữ khắp nơi. Tại sao lại như vậy? Tại sao vị thế của phụ nữ lại được nâng cao như vậy? Vì sao họ làm việc ở các văn phòng và nhà máy? Vì sao họ được hưởng quyền bình đẳng với nam giới về kinh tế và xã hội? Nguyên nhân chính là quá trình hiện đại hóa. Ngày nay không ai có thể vận hành một nền kinh tế mà lại thiếu sự tham gia của lực lượng lao động nữ.

Saudi Arabia không cho phép phụ nữ lái xe, bởi vậy họ phải thuê gần nửa triệu lái xe từ Nam Phi tới chỉ để đưa đón phụ nữ nơi đây.Nếu như họ không có dầu lửa thì có lẽ không thể tượng tượng nổi hệ thống kinh tế này sẽ ra sao. Mặc dù văn hóa đạo Hồi có những quy định về vai trò của người phụ nữ, thế nhưng ở Trung đông phụ nữ đang trở nên mạnh mẽ và được tổ chức tốt hơn về chính trị. Họ đòi hỏi những quyền lợi bình đẳng như nam giới. Điều này đối với tôi có vẻ như một trường hợp mà các nền văn hóa khác nhau đều đi tới những giải pháp tương đồng về vấn đề vai trò người phụ nữ. Điều đó diễn ra chẳng phải vì văn hóa là yếu tố quyết định, mà bởi quá trình hiện đại hóa buộc xã hội phải tìm được lời giải.

Tôi không nghĩ rằng chúng ta có một xã hội hiên đại mà không dành cho phụ nữ quyền bình đẳng. Tất nhiên đó vẫn là một vấn đề còn để ngỏ. GS Trương Duy Vi nói rằng tầng lớp trung lưu được học hành, tương đối an toàn, có tài sản riêng sẽ khác với tầng lớp trung lưu ở nơi khác chỉ bởi vì họ sống trong môi trường văn hóa Trung Quốc. Có thể đúng như vậy.

Nhưng theo quan sát của tôi thì tầng lớp trung lưu trong các nền văn hóa khác nhau thực ra lại ứng xử rất giống nhau. Trong thế giới Ả rập, người ta nghĩ rằng dân Ả rập là khác biệt do chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Thế nhưng năm vừa qua nhân dân các nước A rập đã xuống đường biểu tình chống chính phủ. Bởi thế tôi cho rằng một số giả thuyết về vai trò của văn hóa có thể không còn đúng nữa. Có thể văn hóa quyết định một số hành vi trong quá khứ, nhưng trong điều kiện hiện nay, điều này đã khác rồi. Dưới ảnh hưởng của Internet và du lịch có lẽ hành vi của con người được định hình bởi nhu cầu và khát vọng của thế hệ đương đại, nhiều hơn là bởi những truyền thống sâu nặng của quá khứ.

Cho phép tôi phát biểu một điều cuối cùng về những gì tôi đồng tình với GS Trương Duy Vi. Tôi cho rằng có sai lầm trong nhân dân Mỹ và Châu Âu khi đánh giá những thành tích của Trung Quốc, kể cả trong quá khứ và hiện tại. Cuốn sách gần đây của tôi viết có sáu chương thì ba chương về Trung Quốc. Riêng Trung Quốc đã chiếm nhiều chương hơn những khu vực khác của thế giới. Tôi thực sự đã dành nhiều thời gian để bản thân mình giảng thật nhiều giờ về lịch sử Trung Quốc ở mức có thể được, vì tôi nhận thấy sức mạnh của lịch sử Trung Quốc rất quan trọng đối với người Mỹ và cả người Trung Quốc.

Không có nền văn hóa nào có thể tồn tại với các giá trị và định chế vay mượn. Điều mà tôi nhận thức được là Trung Quốc đang tìm lại những cội rễ xác thực của mình. Đó là một việc tốt mà Trung Quốc cần phải làm. Thách thức ở đây là trong khi đi tìm lại niềm tự hào trong lịch sử và truyền thống, cần phải tương thích chúng với những định chế hiện đại. Chúng ta phải làm việc này theo cách không dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa Sôvanh nước lớn.

Một nước Nhật hiện đại sẽ phải như thế nào? Nó sẽ không giống Mỹ, Anh hoặc Pháp mà phải giàu đặc trưng Nhật. Tôi nghĩ rằng một Trung Quốc hiện đại cũng cần có những đặc trưng rất Trung Quốc. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng là phải chỉ ra những gì thực sự là đặc trưng Trung Quốc và những gì mà xã hội hiện đại đòi hỏi. Đó cũng là một phần của trật tự quốc tế rộng lớn hơn. Và chỉ có cách đó chúng ta mới có thể chung sống trong hòa bình.

Trương Duy Vi: Nhiều nhà khoa học chính trị Phương Tây có quan điểm rằng hiện đại hóa sẽ dẫn đến sự hội tụ văn hóa. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy không hẳn là như vậy. Lấy Trung Quốc là một ví dụ. Người Trung Quốc ai cũng biết là luôn bận bịu với hiện đại hóa, tạo tài sản và kiếm tiền. Thế nhưng mấy năm trước có một bài hát đã nhanh chóng trở thành nổi tiếng toàn quốc vì đã động viên mọi người hãy thăm cha, mẹ của mình thường xuyên hơn. Bài hát đó đã sưởi ấm trái tim mỗi người Trung Quốc và đề cập trúng nỗi trắc ẩn trong lòng công chúng. Nói khác đi, bất chấp những bước đi hối hả của hiện đại hóa và sự gia tăng của chủ nghĩa cá nhân, cốt lõi của truyền thống Trung Quốc vẫn là gia đình. Và vì nó mà người Trung Quốc sẵn sàng hy sinh nhiều hơn đa số người Phương Tây.

Bản sắc văn hóa không thể thay đổi được bởi hiện đại hóa. Nếu không thì thế giới này sẽ thật là nhàm chán. Mà làm sao có thể làm thay đổi bản sắc của một nền văn hóa lực lưỡng như văn hóa Trung Quốc? Một khi nói đến văn hóa McDonald thì cũng có Tám trường phái ẩm thực Trung Quốc và quả thực, chúng rất khác nhau. Thực tế là kẻ đi trước mà không đủ sức chinh phục kẻ đến sau thì kẻ đến sau sẽ đồng hóa người đi trước. Tôi đánh giá cao quan điểm của Edmund Burke, một nhà triết học chính trị Anh thế kỷ 19, người cho rằng mọi thay đổi trong hệ thống chính trị phải xuất phát từ chính truyền thống của dân tộc.

Ngoài ra, tôi nghĩ rằng nguyên nhân chính của sự đề cao văn hóa chính là thái độ ngưỡng mộ của chúng tôi đối với minh triết gắn kết với văn hóa. Minh triết và tri thức là hai thứ khác nhau. Ngày nay chúng ta có nhiều tri thức hơn bất kỳ lúc nào trong quá khứ. Trẻ em học phổ thông có thể biết nhiều hơn Khổng Tử hay Socrate. Tuy nhiên minh triết của nhân loại hầu như không thay đổi. Ở đây tôi có một lời khuyên giản dị không biết GS Fukuyama có chấp nhận hay không: nên chăng cần thêm yếu tố minh triết vào ba yếu tố cơ bản của các thể chế chính trị hiện đại mà GS đã nêu, cụ thể là nhà nước, tính giải trình, chịu trách nhiệm và pháp quyền . Hoa Kỳ đã từng thắng trong nhiều cuộc chiến tranh đứng về phương diện chiến thuật, nhưng lại thua nếu nhìn từ góc độ chiến lược, ví dụ như cuộc chiến Việt Nam, Afghanistan và Iraq chỉ là một vài minh chứng. Đó là các tình huống có liên quan tới minh triết và tôi nghĩ rằng tầm quan trọng của minh triết là không thể bỏ qua.

Mới đây tôi qua Đức giảng bài. Có một nhà kinh tế Đức kể cho tôi một câu chuyện, đó là Thủ tướng Angela Merkel hỏi một nhà kinh tế Đức khác rằng tại sao không có nhà kinh tế của Đức nào đoạt giải Nobel về kinh tế. Câu trả lời là “thưa Bà Thủ tướng, xin đừng lo lắng về điều đó vì ở đâu có những nhà kinh tế hạng nhất thì nơi đó sẽ không có nền kinh tế hạng nhất”. Nói cách khác, ở nơi đó nền kinh tế có vấn đề.

Trong số các môn khoa học xã hội mà Phương Tây đã xây dựng nền móng, tôi cho rằng môn kinh tế là gần với sự thật nhất vì nó giống khoa học tự nhiên ở chỗ phải dựa trên các mô hình toán. Với quan niệm đó, thành thực mà nói môn khoa học chính trị và các môn khoa học xã hội khác được khởi đầu ở Phương Tây có thể được coi là xa sự thật hơn môn kinh tế. Bởi vậy đó cũng là lý do vì sao chúng ta cần phải dũng cảm hơn trong tư duy và can trường hơn trong những nỗ lực để có những bài diễn thuyết mang tính đổi mới

Tôi chia sẻ một điểm tương đồng với GS Fukuyama đó là cả hai chúng ta đang nỗ lực soạn ra một chương trình cho môn khoa học chính trị Phương Tây. Cuốn sách mới của GS đã kết nối cả nhân chủng học, xã hội học, kinh tế học, khảo cổ học và nhiều môn khoa học nữa. Những nỗ lực của GS xứng đáng được chúng ta tôn trọng và ghi nhận, mặc dù tôi không đồng tình với GS về tất cả mọi thứ.

Về phần mình, tôi và các cộng sự thực ra đang tiến xa hơn GS Fukuyama và chúng tôi đang đặt dấu hỏi (xét lại – ND) đối với toàn bộ các bài giảng về chính trị Phương Tây. Tuy nhiên chủ ý của chúng tôi không phải là lấy điểm chính trị hay chứng minh Trung Quốc hay và Phương Tây dở hoặc ngược lại, mà là cố gắng tìm những lời giải mới trước các thách thức toàn cầu như giảm đói nghèo, sự xung đột giữa các nền văn hóa, sự thay đổi khí hậu và nhiều vấn đề khác có liên quan tới quá trình đô thị hóa. Minh triết của Phương Tây quả thực là chưa đủ và minh triết Trung Quốc sẽ có những đóng góp của mình.

 

Thăng long- Hà nội 3/11/2011
Phạm Gia Minh dịch