Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hiến Pháp Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hiến Pháp Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2020

Lời thề của tổng thống Mỹ



Điều quan trọng nhất trong lễ tuyên thệ nhậm chức của tổng thống Mỹ chính là lời thề tổng thống. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, bạn sẽ nhận ra rằng đây không phải là lời thề đối với nhân dân Mỹ, với đất nước Mỹ, mà lại là lời thề trước Chúa trời…

Trưa ngày 20/1/2017, tổng thống tân cử Donald Trump đặt tay lên quyển kinh thánh, đọc lời thề trở thành tổng thống thứ 45 của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ: “Tôi, Donald John Trump, trịnh trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ đảm đương vị trí tổng thống Mỹ một cách trung thành, và sẽ làm hết khả năng để giữ gìn, duy trì và bảo vệ hiến pháp Mỹ.”

Sau đó, ông Trump kết thúc lời tuyên thệ:

“Vì thế xin Chúa giúp tôi.”

Và nếu suy ngẫm kỹ, bạn sẽ nhận ra, đây là một lời tuyên thệ không phải đối với nhân dân, không phải đối với đất nước, mà là đối với Chúa trời.

Video Donald Trump tuyên thệ trở thành tổng thống Mỹ:



Sau lời tuyên thệ, trước hàng trăm ngàn khán giả, ông Trump đọc bài diễn văn của mình, và trong đó rất nhiều lần nhắc đến “Chúa”:

“Kinh thánh nói rằng thật tốt lành biết bao khi dân của Chúa sống đoàn kết với nhau.”

“Quan trọng nhất, chúng ta sẽ được bảo vệ bởi Chúa.”

“Dù đứa trẻ sinh ra ở khu đô thị Detroit, hay đồng bằng lộng gió Nebraska, buổi tối chúng cùng nhìn lên một bầu trời, trái tim chúng đặt ở cùng giấc mơ, và cùng nhận hơi thở cuộc sống từ Đấng tạo hoá vĩ đại toàn năng.”

“Xin cảm ơn. Cầu Chúa ban phước cho các bạn, cầu Chúa ban phước cho nước Mỹ.”

Xem thêm: Diễn văn nhậm chức của tân Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump

Luật pháp Mỹ không hề bắt buộc tổng thống nước này sử dụng Kinh Thánh hay biểu hiện niềm tin trong quá trình tuyên thệ nhậm chức của mình, nhưng kể từ thời tổng thống Franklin D. Roosevelt trở đi, không có một đời tổng thống nào không cầu xin Chúa Trời giúp đỡ sau câu tuyên thệ.

Toàn văn lời tuyên thệ nhậm chức của một tổng thống Mỹ trong tiếng Anh như sau:

“I do solemnly swear (or affirm) that I will faithfully execute the Office of President of the United States, and will to the best of my ability, preserve, protect and defend the Constitution of the United States.”

Tạm dịch:

“Tôi trịnh trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ đảm đương vị trí tổng thống Mỹ một cách trung thành, và sẽ làm hết khả năng để giữ gìn, duy trì và bảo vệ hiến pháp Mỹ.”

Chính xác hơn, từ tuyên thệ có thể được sử dụng bằng hai từ khác nhau: swear (thề) và affirm (xác nhận). Các tổng thống Mỹ đều có thể lựa chọn một trong hai từ này. Tuy nhiên, trong tất cả các đời tổng thống từ trước tới nay, chỉ có duy nhất tổng thống Franklin Pierce (1853-1857) là lựa chọn sử dụng “xác nhận” thay cho “thề”.

George Washington, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ tuyên thệ

Trong đạo luật 1789, Quốc hội đầu tiên của Mỹ đưa ra yêu cầu phải sử dụng cụm từ “Xin Chúa giúp tôi” đối với lời tuyên thệ của tất cả các thẩm phán và nhân viên chính phủ, ngoại trừ tổng thống Mỹ. Hay nói chính xác hơn, nếu sử dụng lời thề (swear) thì trong câu tuyên thệ bắt buộc phải thêm vào cụm từ “Xin Chúa giúp tôi”. Chỉ khi muốn xác nhận (affirm) mà không muốn thề thì người đó mới không phải sử dụng cụm từ này và cũng không được phép sử dụng cụm từ này. Trong khi đó, lời tuyên thệ tổng thống là lời tuyên thệ duy nhất không bao gồm cụm từ “Xin Chúa giúp tôi”. Tuy nhiên, hầu hết các tổng thống Mỹ, nhất là các tổng thống Mỹ sau thời Franklin D. Roosevelt đều sử dụng lời thề (swear) và thề trước Kinh Thánh.

Lời tuyên thệ của một vị tổng thống quan trọng đến nỗi, nếu có sai sót xảy ra, người ta sẽ không coi ông ta là một vị tổng thống. Đơn cử như vào năm 2008, cựu tổng thống Obama đã phải tuyên thệ lại tại Nhà Trắng, hai ngày sau khi ông lặp lại lời tuyên thệ sai thứ tự trong buổi lễ tuyên thệ nhậm chức.

Nhiều người hẳn sẽ nghĩ rằng, lời thề của tổng thống Mỹ thật là hiếm có, nhưng nếu quay ngược dòng lịch sử, bạn sẽ thấy sự hiện hữu của một niềm tin tương tự vào Thần tại phương Đông. Ở Đông phương cổ xưa, Vua hay Hoàng Đế còn được gọi là Thiên tử, với hàm ý là người đại diện cho Thần linh. Khi Hoàng Đế lên ngôi phải làm lễ tạ ơn Trời đất. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên thời đó mang hàm ý tâm linh rằng nguồn gốc của con người là do Thần tạo ra. Khi giang sơn gặp thiên tai nhân họa, thì Hoàng Đế phải tế lễ Trời đất, thành tâm sám hối, tu chỉnh quan lại, xét lại oan khuất, từ đó khiến cho đất nước được bình an. Sự sụp đổ của nhiều triều đại đều bắt đầu từ việc vua quan xa rời lương tri, xa rời những giá trị đạo đức vốn bắt nguồn từ tín ngưỡng vào Thần. Tuy nhiên ngày nay, truyền thống đó đã không còn được tiếp nối, có chăng chỉ là việc quan chức lễ chùa cầu danh lợi đầu năm mà thôi. Có thể nói, “lời thề nhậm chức” chính là một nét tín ngưỡng sâu sắc “đã bị quên lãng” tại phương Đông.

Lời thề của tổng thống Mỹ
Một phần của bức tranh miêu tả cảnh Hoàng đế Ung Chính làm lễ tế trời (Ảnh: Theo npm.gov.tw)

Nhưng tại phương Tây, ở một cường quốc về công nghệ như Mỹ, chính phủ và người dân vẫn không hề bớt niềm tin vào tín ngưỡng tâm linh. Kết quả khảo sát Pew cho thấy, có 70% tổng số người dân Mỹ theo Cơ-đốc giáo, gần 2% theo Do Thái giáo, tổng cộng là gần 3/4 người có tôn giáo. 55% người Mỹ nói rằng họ cầu nguyện mỗi ngày.

Đó là một tỷ lệ khiến người ta kinh ngạc tại một quốc gia phát triển như Mỹ. Đa số người Mỹ cho biết tôn giáo giữ một vai trò “rất quan trọng” trong cuộc sống của mình. Nhiều tôn giáo đã nở rộ tại Mỹ, kể cả các tôn giáo được bắt nguồn từ đây và các tôn giáo du nhập vào sau này. Mỹ là một trong những quốc gia có tôn giáo đa dạng nhất.

Tờ Đô la Mỹ cũng có in câu: “In God We Trust” (Tạm dịch: Chúng ta tin vào Chúa). Tại sao một siêu cường kinh tế và quân sự bậc nhất thế giới lại chọn in câu nói thể hiện “niềm tin vào một đấng toàn năng nằm ngoài sự hiểu biết của khoa học” trên đồng tiền của mình chứ không phải là in những khẩu hiệu trung thành với Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa?

Dòng chữ  “In God We Trust” trên tờ Đô la Mỹ

Từ góc độ tín ngưỡng mà xét, tại sao nhân dân Mỹ lại luôn tràn đầy niềm tin và hy vọng mỗi lần chứng kiến một vị tổng thống nhậm chức? Bởi vì lời thề của tổng thống Mỹ không phải là đối với nhân dân Mỹ, đối với đất nước Mỹ, mà là lời thề đối với Chúa trời, lời thề đối với giá trị tâm linh sâu thẳm nhất của một vị tổng thống. Chính vì thế, người Mỹ tin rằng dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, tổng thống của họ cũng sẽ không đi ngược lại lời “thệ ước” đó.

Quang Minh

 

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013

TẦM QUAN TRỌNG CỦA HIẾN PHÁP DÂN CHỦ


Trần Duy Nguyên & Nguyễn Thị Hường dịch, theo Phía Trước
Giáo sư David Williams, Đại học Indiana, Hoa Kỳ
Người dân có quyền lựa chọn chính quyền của họ
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều chính thể. Mỗi nước cần một cơ chế chính quyền phù hợp với hoàn cảnh riêng biệt và truyền thống của nước họ. Vì vậy, nhân dân của một nước cần có cơ hội chọn một cơ chế nhà nước mà họ nghĩ là phù hợp với đất nước họ, nếu không, dân chủ không tồn tại. Dân chủ không chỉ là bầu cử các lãnh đạo chính trị, mà còn là quyền chọn lựa chính thể phù hợp. Nhân dân minh định sự lựa chọn này trong một bản hiến pháp. Những người cầm quyền không có quyền áp đặt một chính thể khác biệt với những gì chính người dân đã chọn.
Người dân có quyền quy định những giới hạn bền vững cho quyền lực nhà nước
Một khi người dân đã chọn cho mình một chính thể, nhà cầm quyền không được phép thay đổi nó. Qua việc chọn chính thể, nhân dân có quyền đề ra những giới hạn cho những người làm việc trong chính quyền đó. Những quan chức này không thể vi phạm những quy định do người dân đề ra. Thông thường, nhân dân đặt ra những giới hạn lên chính quyền như sau:
Trước tiên, nhân dân phân chia quyền lực cho nhiều thành phần khác nhau của chính quyền: họ trao cho tổng thống một số quyền hạn và Tòa án một số quyền khác. Một khi nhân dân đã phân chia quyền lực như vậy, các quan chức chính quyền không được phép vượt quá giới hạn quyền lực người dân đã đặt ra. Chẳng hạn, tổng thống không được phép can thiệp vào công việc của Tòa án bằng cách phán xử các vụ kiện, cũng như không thể xen vào công việc của lập pháp bằng cách tự ra luật. Tam quyền phân lập chính là tên gọi chuyên môn của sự phân chia quyền lực giữa các thành phần khác nhau của chính quyền.
Thứ hai, người dân có thể muốn phân định quyền hạn của chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, như cấp tỉnh chẳng hạn. Thí dụ, nhân dân có thể trao cho chính quyền trung ương toàn quyền về quân đội, và trao cho chính quyền địa phương các quyền về giáo dục và trường học địa phương. Một khi người dân đã phân định như vậy, cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương đều phải tôn trọng và không được phép thay đổi. Nghĩa là chính quyền địa phương không được quyền sử dụng quân đội cho các vấn đề địa phương, và chính quyền trung ương không thể xen vào việc giáo dục, học đường của địa phương. Sự phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương như vậy được gọi là thể chế liên bang, hoặc có nơi gọi là thể chế tự trị.
Thứ ba, người dân yêu cầu chính quyền phải tôn trọng quyền của mỗi cá nhân. Các bản hiến pháp khác nhau bảo vệ các tập hợp khác nhau đôi chút về quyền cá nhân, nhưng lịch sử thế giới có xu hướng mở rộng các quyền được bảo vệ, thay vì hạn chế bớt. Thông thường, các hiến pháp bảo vệ các quyền cá nhân như quyền tự do tôn giáo, quyền phát biểu, phê bình hay biểu tình phản đối chính quyền, quyền tự do hoạt động chính trị, quyền được đối xử công bằng và quyền được hưởng một quy trình xét xử công bình trước pháp luật. Một khi các quyền này được nhân dân bảo đảm, chính quyền không được phép vi phạm, trừ những trường hợp vô cùng đặc biệt đã được nhân dân nêu rõ trong hiến pháp.
Thứ tư, người dân đòi hỏi chính quyền phải chịu trách nhiệm với họ thông qua các cuộc bầu cử tự do và định kỳ. Thông thường dân chủ đòi hỏi những quy định chi tiết về việc tổ chức bầu cử: thời gian và phương pháp tổ chức bầu cử; ai có quyền bỏ phiếu, ai có thể ứng cử, v.v. Các quy định về bầu cử để đảm bảo bầu cử diễn ra thực sự tự do, công bằng, minh bạch là tối quan trọng. Nếu không, những người kiểm phiếu chứ không phải cử tri mới thực sự là những người lựa chọn người đại diện. Đặc biệt quan trọng hơn nữa là phải có nền dân chủ đa đảng, nếu không thì người dân sẽ không có sự lựa chọn thực chất giữa các ứng cử viên đề xuất các chính sách chính trị khác nhau. Một khi người dân đã đề ra các nguyên tắc đó, các quan chức chính quyền không được phép vi phạm, như tìm cách tại vị khi đã hết nhiệm kỳ, hoặc gạt bỏ quyền bỏ phiếu của một số người, hoặc doạ nạt cử tri, hoặc từ chối các chính đảng khác đăng ký tham gia tranh cử. Các quy định đảm bảo bầu cử tự do và công bằng được gọi chung là Luật bầu cử.  
Một khi đã chọn ra chính thể và đề ra những giới hạn cho chính quyền, người dân có quyền khẳng định các nguyên tắc đó trong hiến pháp
Nhân dân tạo dựng và đặt ra giới hạn cho chính quyền; do vậy chính quyền được xem là công bộc hay con đẻ của người dân. Qua hiến pháp, nhân dân hướng dẫn cho công bộc của mình là chính quyền. Vì thế hiến pháp phải rõ ràng và cụ thể nhất có thể, nếu không thì những hướng dẫn cho chính quyền sẽ mơ hồ. Vì lý do này mà hiến pháp thường được viết thành văn bản. Nghĩa đen của từ hiến pháp là sự sáng tạo hoặc nền tảng, vì hiến pháp do người dân tạo ra và đặt nền tảng cho một chính quyền. Có nghĩa là chính quyền đó sẽ không có quyền lực chính danh nếu quyền lực của họ không xuất phát từ ý nguyện của người dân và phù hợp với các quy định hiến pháp. Do vậy, cần phải có những biện pháp để bảo đảm rằng hiến pháp vận hành hữu hiệu như một tập cẩm nang hướng dẫn cho chính quyền.
Trước hết, người dân phải đóng vai trò chủ yếu trong tiến trình soạn thảo và thông qua hiến pháp. Lý tưởng nhất là bản hiến pháp được soạn thảo bởi một hội đồng lập hiến do người dân bầu ra, trong đó một phần quan trọng là đại diện của các nhóm vốn yếu thế về chính trị như nữ giới hoặc các dân tộc thiểu số. Đồng thời, người dân phải có quyền đóng góp ý kiến cả trước và sau khi soạn thảo Hiến pháp. Và bản Hiến pháp chỉ được thông qua khi người dân phúc quyết phê chuẩn.
Thứ hai, hiến pháp phải khó thay đổi, để chính quyền không thể sửa đổi một cách độc đoán. Nếu chính quyền có thể dùng hình thức lập pháp thông thường để sửa đổi hiến pháp, thì hiến pháp sẽ không thể hạn chế quyền lực của chính quyền một cách hiệu quả. Ý nghĩa cơ bản của một bản hiến pháp là hạn chế quyền lực chính quyền một cách lâu dài và ổn định. Để được như vậy, bản hiến pháp phải khó sửa đổi và chỉ nên được sửa đổi khi được toàn dân thông qua qua trưng cầu dân ý, tốt nhất là với đại đa số phiếu thuận của người dân.
Sau cùng, người dân phải thiết lập một cơ chế thi hành hiến pháp để bảo đảm chính quyền chú tâm thực thi các hướng dẫn quy định trong hiến pháp. Nếu hiến pháp không được thi hành, nó sẽ chỉ là một con hổ giấy. Trong hiến pháp, người dân không chỉ đặt ra giới hạn cho chính quyền mà còn cần lập ra cơ chế để bảo đảm những giới hạn đó phát huy tác dụng. Một trong những cơ chế thi hành hiến pháp chính là các cuộc bầu cử tự do, công bằng với sự tham gia của nhiều chính đảng – nếu người dân cảm thấy chính quyền hiện tại đang hành xử vi hiến, họ sẽ có thể bày tỏ sự bất tín nhiệm qua lá phiếu và bầu những người khác lên thay thế. Nhưng thông thường bầu cử tự nó chưa đủ sức mạnh để kiềm chế chính quyền, vì bầu cử chỉ diễn ra theo một hạn kỳ cố định, và giữa hai cuộc bầu cử chính quyền có thể vi phạm hiến pháp nghiêm trọng mà không bị trừng phạt. Thêm vào đó, không phải người dân nào cũng hiểu tường tận về luật hiến pháp và nắm hết thông tin về những hành vi sai phạm của chính quyền. Do đó, cần có một cơ quan bảo hiến chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian, có kiến thức sâu rộng về luật hiến pháp và có thể tiếp cận các thông tin liên quan đến những hành xử của chính quyền. Về mặt hình thức, cơ quan này là một thành phần của chính quyền. Nhưng về thực chất, cơ quan này phải tồn tại độc lập với chính quyền mới có thể xem xét kỹ lưỡng hành xử của các quan chức. Người dân bình thường cũng có thể tiếp cận với cơ quan bảo hiến đó và yêu cầu cơ quan bảo hiến xem xét những hành xử sai trái của chính quyền mà họ gặp phải trong đời sống hàng ngày. Cơ quan bảo hiến này thường là một Tòa án, nhưng đó cũng có thể là một hội đồng hoặc ủy ban bảo hiến độc lập.
_______
Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

Sửa đổi Hiến pháp ở Mỹ



1. Những chủ thuyết của việc sửa đổi Hiến pháp ở Mỹ
Người Mỹ không tin vào khả năng có một bản hiến pháp hoàn hảo, trường tồn vượt thời gian. Niềm tin này có lẽ khởi nguồn từ những ý tưởng của các tác giả viết về chính quyền của Đảng Whig1 gồm các nhà các cải cách hiến pháp từ giữa thế kỷ 18 như James Burgh, John Cartwright, cũng như các triết gia về chính quyền theo khuynh hướng cộng hòa vào thế kỷ 17, đặc biệt là Algernon Sidney2, người đã từng tuyên bố: “Nếu con người không buộc phải sống trong các hang động và các hốc cây, phải ăn những quả dầu, phải ở trần, thì tại sao họ phải vĩnh viễn sống dưới một hình thức chính quyền mà cha ông họ đã dựng nên vào một thời kỳ đã qua” (Các luận thuyết về chính quyền). Vị Tổng thống Mỹ đầu tiên George Washington, trong một bức thư gửi cho người cháu trai là Bushord, hai tháng sau khi Hội nghị lập hiến Philadephia kết thúc, đã viết: “Những người bạn nhiệt tình nhất và những người ủng hộ nhất đối với bản Hiến pháp cũng không nghĩ rằng nó không có một sai lầm nào”3. Có lẽ người Mỹ ủng hộ mạnh mẽ nhất với với việc cải cách hiến pháp là Tổng thống Jefferson. Điểm đặc trưng trong tư tưởng hiến pháp của Jefferson, làm cho tư tưởng của ông khác với những người đương thời, là sự ủng hộ rất nhiệt tình đối với việc thay đổi hiến pháp, kể cả ở cấp tiểu bang lẫn cấp quốc gia4. Những triết lý về việc sửa đổi hiến pháp của ông được trích dẫn một cách rộng rãi trong các nghiên cứu về sửa đổi hiến pháp Mỹ. Người ta thường trích dẫn lại những lời này trong một bức thư mà Jefferson viết năm 1861 tuyên bố với Samuel Kercheval vai trò của ông đối với vấn đề thay đổi hiến pháp: “Một số người nhìn hiến pháp với một lòng sùng đạo quá mức, và tưởng rằng hiến pháp là một ánh hào quang của sự thỏa thuận, sợ không dám đụng vào chúng5. Họ gán cho các bậc tiền bối sự thông thái hơn con người, và nghĩ rằng những gì họ làm không thể sửa đổi… Tôi đương nhiên là không ủng hộ việc thay đổi luật và hiến pháp một cách thường xuyên và thiếu kinh nghiệm… Nhưng tôi cũng nghĩ rằng, luật và các định chế phải song hành với sự phát triển của trí tuệ con người. Khi trí tuệ con người trở nên phát triển hơn, sáng suốt hơn, khi xuất hiện những khám phá mới, sự thật mới được phơi bày, cách cư xử và quan niệm thay đổi cùng với sự thay đổi của hoàn cảnh, các định chế cũng phải tiến bộ theo… Mỗi thế hệ đều độc lập như những thế hệ đi trước… Vậy thì họ cũng phải có quyền, như các thế hệ trước, chọn cho mình một mô hình chính quyền mà họ tin rằng sẽ đem lại một cách tốt nhất hạnh phúc của riêng họ”6.
Tư tưởng hiến pháp của Jefferson gợi mở những cơ sở duy lý của việc sửa đổi hiến pháp ở Mỹ. Các nghiên cứu hiến pháp ở Mỹ về sau cụ thể hơn những lý do về mặt lý thuyết của việc sửa đổi hiến pháp. Tại sao hiến pháp phải được sửa đổi?
Học thuyết chủ quyền nhân dân được coi là cơ sở quan trọng của việc sửa đổi hiến pháp. Như được đề cập trong bức thư của Jefferson, người dân trong các thế hệ khác nhau phải có quyền lựa chọn mô hình chính quyền cho mình. Điều này cần phải truy nguyên đến học thuyết về chủ quyền nhân dân của John Locke được phát triển trong danh tác “Luận thuyết thứ hai về chính quyền”. Ban đầu, người Mỹ coi học thuyết chủ quyền nhân dân như một tảng nền lý thuyết để lập quốc7, rồi sau đó là cơ sở để xây dựng hiến pháp, và sau đó nữa, việc sửa đổi hiến pháp cũng dựa trên học thuyết này. Mặc dù tư tưởng chủ quyền nhân dân đã được người Mỹ nhận thức rõ rệt từ năm 1776 (thông qua Tuyên ngôn Độc lập), sự áp dụng học thuyết này để xây dựng nên các thể chế chính quyền chỉ diễn ra ở các thập kỷ tiếp theo. Dần dần, người ta nhận ra rằng học thuyết chủ quyền nhân dân đòi hỏi hiến pháp phải được soạn thảo bởi một đại hội phổ thông do dân chúng bầu, chứ không phải là một cơ quan lập pháp thường, và sau đó được phê chuẩn theo một quy trình thể hiện sự chấp thuận của dân chúng - lý tưởng nhất là thông qua trưng cầu dân ý. Điều này đã được ứng dụng trong việc ban hành Hiến pháp của tiểu bang Massachusetts năm 1780 và hiến pháp của tiểu bang New Hampshire năm 1784. Sau đó, cho đến thế kỷ 19, hình thức trưng cầu dân ý trở thành một tiêu chuẩn để lập hiến ở các tiểu bang8. Người Mỹ nhanh chóng kết luận rằng: nếu một bản hiến pháp dựa vào sự ưng thuận của dân chúng, thì người dân cũng có thể thay thế nó bằng một bản hiến pháp khác. John Locke cho rằng dân chúng có quyền thay đổi chính quyền khi chính quyền xâm hại đến hạnh phúc của dân chúng đến mức xã hội dân sự phải trở về trạng thái tự nhiên. Người Mỹ đã đi xa hơn tư tưởng của Locke khi định chế hóa quyền thay đổi hiến pháp của xã hội dân sự. Điều này không chỉ gồm có việc thay đổi một hiến pháp mới mà còn gồm cả việc sửa đổi một cách chính thức hiến pháp đó9.
Như vậy, việc sửa đổi hiến pháp được gắn với hạnh phúc của những con người đang sống dưới hình thức chính quyền mà hiến pháp đó điều tiết. Những thế hệ đang sống phải có quyền điều chỉnh những gì mà cha ông họ đã xác lập theo một cách thức đem lại hạnh phúc cho họ.
Trong một bức thư viết cho Madison, Jefferson đã đưa ra một lý thuyết quan trọng làm cơ sở cho sự ủng hộ của mình đối với việc thay đổi hiến pháp. Đó là lý thuyết “chủ quyền của thế hệ hiện tại”. Lý thuyết này được thể hiện qua một văn thức đặc biệt trong bức thư: “Trái đất thuộc về những người đang sống”. Một câu hỏi cơ bản mà Jefferson đặt ra trong bức thư gửi cho Madison là: “ Một thế hệ có quyền ràng buộc một thế hệ khác không?” Jefferson bắt đầu với một nguyên lý hiển nhiên là: “Hoa lợi trên trái đất thuộc về những người đang sống”. Người chết không có quyền và quyền lợi đối với nó. Bất cứ quyền và quyền lợi mà một người có trong khi sống cũng sẽ chấm dứt sau cái chết của anh ta. Lấy quyền tài sản của một cá nhân làm ví dụ, Jefferson cho rằng quyền và quyền lợi của một thế hệ cũng tương tự như vậy: “Điều gì đúng với mỗi thành viên riêng rẽ của một xã hội thì cũng đúng với họ như một tổng thể vì quyền của tổng thể không thể là gì khác hơn là tổng số quyền của các cá nhân”. Điều đó có nghĩa, trái đất thuộc về thế hệ đang sống. Tiêu chuẩn để đo lường đời sống của một thế hệ nhất định là triển vọng sống của đa số những người ở độ tuổi cao nhất vào thời điểm mà một hợp đồng (hiến pháp, luật) được xác lập. Jefferson tính toán rằng, 19 năm là khoảng thời gian sống trung bình của một thế hệ. Những lập luận trên là cơ sở cho quan niệm về sửa đổi hiến pháp. “Không một xã hội nào có thể làm ra một hiến pháp vĩnh hiễn hay một đạo luật bất diệt”, “ Trái đất luôn thuộc về những người đang sống. Hiến pháp và luật của những thế hệ cha ông họ mất đi cùng với sự mất đi của những người đã đem lại cho chúng sự sống”. Jefferson kết luận: “Mọi hiến pháp và mọi luật sẽ tự nhiên mất hiệu lực vào thời điểm cuối cùng của 19 năm tồn tại. Nếu nó hiệu lực lâu hơn, nó là một sự áp đặt, không phải là quyền”10.
Tóm lại, người Mỹ quan niệm hiến pháp phải được sửa đổi vì đó là quyền của thế hệ đang tồn tại: họ được quyền điều chỉnh mô hình chính quyền sao cho có thể đem lại hạnh phúc cho họ. Một mô hình chính quyền đã được xác lập từ thế hệ trước nếu không được điều chỉnh sẽ là một áp đặt đối với thế hệ đang sống. Như vậy, đối với vấn đề sửa đổi hiến pháp ở Mỹ, lý thuyết chủ quyền nhân dân đã dẫn đến lý thuyết “chủ quyền của thế hệ hiện tại.”
2. Quy trình sửa đổi hiến pháp ở Mỹ
Quy trình sửa đổi Hiến pháp liên bang ở Mỹ được quy định trong điều V của Hiến pháp như sau: “Khi hai phần ba thành viên của hai Viện đều xét thấy cần thiết sẽ đưa ra những điều sửa đổi đối với Hiến pháp, hoặc theo yêu cầu của các cơ quan lập pháp ở hai phần ba các bang, sẽ triệu tập một Hội nghị để đề xuất những điều sửa đổi; trong cả hai trường hợp, các điều khoản sửa đổi Hiến pháp đều có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp khi được phê chuẩn bởi các cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang, hoặc bởi Đại hội của ba phần tư các bang, theo một thể thức phê chuẩn do Quốc hội đề nghị với điều kiện là không một điều sửa đổi nào có thể được đề xuất trước năm 1808 theo một cách thức ảnh hưởng đến đoạn 1 và đoạn 4 trong khoản 9 của Điều 1; và không một bang nào, nếu bản thân không đồng ý, lại có thể bị tước đoạt quyền bỏ phiếu bình đẳng trong Thượng Viện”. 
2.1. Sáng quyền tu chính hiến pháp
Hiến pháp Mỹ dự trù hai chủ thể có sáng quyền tu chính hiến pháp là Quốc hội liên bang và Hội nghị hiến pháp.
Quốc hội liên bang được đề xuất sửa đổi hiến pháp. Khi đề xuất sửa đổi hiến pháp, cần phải có sự đồng ý của 2/3 tổng số thành viên có mặt theo túc số hành động của hai viện Quốc hội, chứ không phải 2/3 tất cả các thành viên của Quốc hội. Việc bỏ phiếu với tỉ lệ 2/3 chỉ áp dụng đối với việc thông qua văn bản cuối cùng về đề nghị sửa đổi. Như vậy, bản đề nghị sửa đổi có thể được sửa đổi bằng một cuộc bỏ phiếu đa số, nhưng tỉ lệ 2/3 là cần thiết khi một viện bỏ phiếu lần cuối cùng đồng ý với bản đề nghị sửa đổi của viện kia11.
Khi Quốc hội trình đề nghị sửa đổi hiến pháp, Quốc hội không phải đang thực thi quyền lập pháp thông thường. Vì vậy, đề nghị sửa đổi hiến pháp của Quốc hội không cần sự chấp nhận của Tổng thống, và cũng không bị ảnh hưởng bởi quyền phủ quyết của Tổng thống. Tòa án tối cao liên bang đã đưa ra phán quyết về vấn đề này trong vụ Hollingsworth v.Virgina. Tòa án đã giải thích: Đề nghị sửa đổi hiến pháp không cần phải đưa cho Tổng thống. Hiến pháp chỉ yêu cầu Tổng thống ký vào các đạo luật thường. Hành động của Quốc hội trong việc đề nghị sửa đổi hiến pháp là một hành động có tính hiến pháp chứ không phải là ban hành một đạo luật thường12.
Hiến pháp Mỹ không đặt ra những giới hạn của quyền đề nghị sửa đổi hiến pháp của Quốc hội, trừ một giới hạn là các tiểu bang không bị tước quyền bình đẳng trong Thượng viện khi không đồng ý với nội dung sửa đổi hiến pháp. Tòa án tối cao liên bang đã cho rằng điều V của Hiến pháp có khuynh hướng trao cho Quốc hội một quyền lực rộng lớn trong việc đề nghị sửa đổi hiến pháp. Khi đệ trình đề nghị sửa đổi hiến pháp, Quốc hội không cần phải tuyên bố rõ ràng việc sửa đổi hiến pháp là cần thiết vì một nghị quyết chung giữa hai viện đủ để cho thấy rằng sửa đổi hiến pháp là cần thiết13.
Hiến pháp Mỹ cũng quy định rằng, Quốc hội, khi có yêu cầu của cơ quan lập pháp của 2/3 các bang, “sẽ” triệu tập một Hội nghị để sửa đổi hiến pháp. Tòa án tối cao giải thích rằng “sẽ” có nghĩa là “phải”. Nhiệm vụ của Quốc hội là phải triệu tập một Hội nghị như vậy. Nhưng Quốc hội có quyền quyết định trong điều kiện như thế nào thì Quốc hội phải thực hiện nghĩa vụ đó, việc tổ chức Hội nghị có hợp lý hay không, khi nào số lượng các bang đủ đề yêu cầu triệu tập Hội nghị14.
Mặc dù hiến pháp tạo ra hai con đường hình thành sáng quyền tu chính hiến pháp là Quốc hội và Đại hội hiến pháp nhưng trên thực tế, tất cả các tu chính án hiến pháp Mỹ đều do Quốc hội đề xuất. Chưa có một sửa đổi hiến pháp nào được thông qua trên cơ sở sáng quyền tu chính của Đại hội hiến pháp. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Hiến pháp đã dự trù ra một con đường tu chính thứ hai vô nghĩa. Theo giải thích của Akhil Reed Amar, giáo sư luật hiến pháp danh tiếng của Trường Luật Yale, việc hiến pháp dự trù hình thức Đại hội hiến pháp đệ trình đề nghị sửa đổi hiến pháp có ý nghĩa ngăn cản không để cho Quốc hội có quyền tự quyết đối với những cải cách hiến pháp cần thiết để giới hạn quyền lực của Quốc hội. Một Đại hội hiến pháp được triệu tập trên cơ sở đề nghị của 2/3 cơ quan lập pháp của các bang có quyền đệ trình đề nghị sửa đổi hiến pháp có nghĩa việc sửa đổi hiến pháp không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Quốc hội liên bang15.
2.2. Phê chuẩn sửa đổi hiến pháp
Hiến pháp Mỹ dự trù hai hình thức phê chuẩn hiến pháp là phê chuẩn bởi các cơ quan lập pháp của ¾ các bang; hoặc phê chuẩn bởi Đại hội hiến pháp của ¾ các bang. Như vậy, trong cả hai trường hợp, sửa đổi hiến pháp phải được sự đồng ý của ¾ các bang. Trong cả hai trường hợp, việc sửa đổi hiến pháp được xem xét cẩn trọng bởi người đại diện của dân chúng (cơ quan lập pháp bang hoặc Hội nghị hiến pháp). Với cách thức như vậy, tiếng nói của dân chúng được phản ánh trong việc sửa đổi hiến pháp.
Việc phê chuẩn của cơ quan lập pháp bang đối với việc sửa đổi hiến pháp không phải là một hành vi lập pháp theo nghĩa thông thường của từ này. Nó là sự thể hiện sự đồng thuận của bang đối với dự án sửa đổi hiến pháp. Chức năng của cơ quan lập pháp bang trong việc phê chuẩn hiến pháp là một chức năng liên bang16. Các học giả luật hiến pháp Mỹ lưu ý rằng, khi các bang phê chuẩn sửa đổi hiến pháp liên bang, họ hành động một cách đặt biệt, như một Cơ quan Liên bang. Quyền lực của họ trong việc phê chuẩn hiến pháp bắt nguồn từ nguồn lực liên bang17. Vì Hiến pháp liên bang trao cho họ quyền này và quyết định của họ có giá trị ràng buộc đối với toàn liên bang.
Khi dự trù một hình thức thứ hai để phê chuẩn hiến pháp là Đại hội hiến pháp của ¾ các bang, Hiến pháp Mỹ không quy định cụ thể Đại hội này sẽ được triệu tập và thành lập như thế nào. Vì không có luật của liên bang quy định về vấn đề này, các bang phải tự quy định. Có bang, luật pháp quy định rằng các đại biểu phải được bầu từ những đơn vị khác nhau trong nội bộ bang. Các đại biểu đó không tập hợp thành những nhóm lớn có tổ chức, không được bầu theo đảng phái, bởi vì nếu như thế cử tri sẽ thể hiện sự lựa chọn của mình bằng cách loại bỏ nhóm đối lập. Nhưng, có bang lại quy định cử tri sẽ bỏ phiếu cho một nhóm đại biểu18. Như vậy, việc lựa chọn các đại biểu tham gia Đại hội hiến pháp tùy thuộc vào pháp luật của từng bang.
Hiến pháp Mỹ có thể được sửa đổi dưới hình thức trưng cầu dân ý không? Có nghĩa là thay vì dự thảo sửa đổi hiến pháp được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của bang, nó có thể được phê chuẩn bởi một cuộc trưng cầu dân ý ở các bang hay không? Vấn đề này đã phải được phán quyết tại Tòa án tối cao liên bang trong vụ Hawke v.Smith. Tòa án giải thích rằng quyền lập pháp của bang xuất phát từ nhân dân của bang nhưng quyền phê chuẩn dự thảo sửa đổi hiến pháp liên bang của bang lại xuất phát từ Hiến pháp liên bang. Hành động phê chuẩn bởi các bang do Hiến pháp quy định, điều mà các bang và nhân dân các bang đã đồng ý. Phương pháp phê chuẩn tùy thuộc vào sự lựa chọn của Quốc hội. Việc xác định phương pháp phê chuẩn là việc thực thi quyền lực của quốc gia được quy định bởi Hiến pháp liên bang. Ngôn ngữ trong điều V của Hiến pháp đã rõ ràng. Tòa án, cũng như các cơ quan lập pháp của quốc gia, của các bang không có chức năng thay đổi phương pháp sửa đổi hiến pháp mà Hiến pháp đã ấn định19.
Một vấn đề liên quan đến việc phê chuẩn sửa đổi hiến pháp là thời hạn phê chuẩn. Hiến pháp không ấn định thời hạn phê chuẩn hiến pháp20. Tuy nhiên, vấn đề này đã phần nào được giải quyết trong vụ án Dillon v. Gloss. Trong vụ án này, Tòa án tối cao liên bang đã cho rằng việc phê chuẩn phải tương thích với yêu cầu số lượng các bang để phản ánh ý chí của nhân dân. Vì vậy, phê chuẩn phải được tiến hành trong một “thời gian hợp lý” sau khi đệ trình đề nghị sửa đổi hiến pháp. Tòa án cho rằng, Hiến pháp đã trao cho Quốc hội một quyền lực rộng lớn trong việc đệ trình sửa đổi hiến pháp, và vì vậy, thời gian 7 năm cho việc phê chuẩn là hợp lý21.
Quy trình sửa đổi hiến pháp được ấn định trong Hiến pháp liên bang Mỹ không phải là sự sáng tạo riêng biệt của các đại biểu ở Philadelphia vào năm 1787. Trước đó, các tiểu bang mới giành được độc lập của Mỹ đã có hiến pháp và cũng đã thử nghiệm những hình thức sửa đổi hiến pháp khác nhau. Trong đó, có những hiến pháp tiểu bang đã quy định những hình thức sửa đổi hiến pháp tiến bộ, mà sau này được kế thừa trong Hiến pháp của liên bang. Đó là hiến pháp của ba tiểu bang Masachusettes, Pennsylvania, và New Hampshire.
Giáo sư Amar cho rằng, hệ thống sửa đổi hiến pháp được quy định trong Hiến pháp liên bang đã kết hợp được những ưu điểm và bỏ qua những khiếm khuyết của các điều khoản về sửa đổi hiến pháp trong hiến pháp của các tiểu bang. Thứ nhất, để bảo đảm những giới hạn quan trọng của nhân dân đối với quyền lực của Quốc hội, Hiến pháp đã sáng suốt không cho phép Quốc hội đơn phương thay đổi các giới hạn đó. Bằng cách này, Điều V của Hiến pháp đã đặt hiến pháp lên một vị trí tối cao so với các đạo luật thường của Quốc hội. Quốc hội bị đặt ra ngoài quá trình phê chuẩn hiến pháp, một điều có ý nghĩa ngăn cản những ý đồ tự điều chỉnh quyền lực hiến định của Quốc hội. Hơn nữa, để chống lại một Hội nghị liên bang độc tài có thể tự tôn mình làm bá chủ, Điều V quy định nếu và khi được triệu tập, Hội nghị đó chỉ được đệ trình đề nghị sửa đổi hiến pháp, còn sự phê chuẩn được tiến hành độc lập. Ngoài ra, để tránh rủi ro là các cơ quan lập pháp của tiểu bang tự cản trở những cải cách cần thiết để giới hạn quyền lực của họ hoặc bổ sung quyền cho chính phủ trung ương, Điều V đã cho phép Quốc hội bỏ qua những cơ quan này bằng việc ủng hộ các Hội nghị phê chuẩn đặc biệt ở các tiểu bang. Cuối cùng, để cho phép quốc gia có thể phản ứng được với những khủng hoảng bất cứ khi nào nó xảy ra, Điều V không đặt ra thời gian giới hạn đối với quy trình sửa đổi (tuy nhiên, viêc buôn bán nô lệ bên bờ kia Đại Tây Dương được miễn trừ khỏi việc sửa đổi hiến pháp cho đến năm 1808)22.
Tuy nhiên, những điều đó không có nghĩa quy trình sửa đổi hiến pháp Mỹ là hoàn hảo. Các học giả Mỹ đã chỉ ra những hạn chế trong Điều V của Hiến pháp Mỹ về quy trình tu chính hiến pháp. Một trong những hạn chế lớn nhất là giới hạn sửa đổi hiến pháp. Đặt biệt, giáo sư Amar đặt ra hàng loạt những câu hỏi: Bản thân điều V có thể là đối tượng của việc sửa đổi không? Nếu không, tại sao điều V không nói gì? Có những điều cốt yếu của Hiến pháp không thể sửa đổi được không? Ví dụ, chính thể cộng hòa có thể được sửa đổi không? Một vấn đề cũng gây quan ngại là vấn đề trưng cầu dân ý khi sửa đổi hiến pháp. Giáo sư Amar đặt ra vấn đề: nếu đa số người Mỹ yêu cầu triệu tập một Hội nghị hiến pháp, Quốc hội có nhiệm vụ phải đáp ứng không? Quốc hội hoặc Hội nghị hiến pháp có thể đưa dự án sửa đổi cho toàn thể dân chúng Mỹ bỏ phiếu trực tiếp dưới hình thức một hội nghị phê chuẩn toàn quốc hoặc trưng cầu dân ý toàn quốc?23 Nếu tham chiếu với nhiều hiến pháp của các nước Châu Âu, những điểm trên là nhược điểm trong quy trình sửa đổi hiến pháp Mỹ. Nhiều hiến pháp Châu Âu thường đặt ra những giới hạn đối với việc tu chính hiến pháp như không được sửa đổi chính thể và chính điều khoản quy định về việc sửa đổi hiến pháp. Ngoài ra, tôn trọng triệt để thuyết chủ quyền nhân dân, nhiều hiến pháp Châu Âu quy định trưng cầu dân ý như một thủ tục bắt buộc để thông qua hiến pháp.
(Kỳ sau đăng tiếp)
(1) Đảng Whig, tiền thân của Đảng tự do ở Anh, phát triển từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19.
(2) Algernon Sidney (1623-1783), một nhà chính trị, một lý thuyết gia về chính trị người Anh, tác giả của “Các luận thuyết về chính quyền”, một tác phẩm được Jefferson đánh giá cao như một nghiên cứu chính yếu về chính quyền.
(3) Sanford Levinson. Our undemocratic Constitution ( New  York: Oxford University press, 2006), pp.21.
(4) David N.Mayer. The constitutional thought of Thomas Jefferson (Virgina: University of Virgina press, 1994), pp.296.
(5) Ở Mỹ, trong buổi đầu của nền cộng hòa, 6 trên 13 hiến pháp của các tiểu bang được viết như “những hiến chương bất diệt” và không có quy định về sửa đổi hiến pháp.
     
Ở Việt Nam, có vị học giả ví hiến pháp như “bàn thờ”. Đáp lại một cách hài hước, một vị học giả khác cho rằng “bàn thờ” cũng phải được lau chùi hàng năm trước những ngày Tết.
(6) Sanford Levinson. Our undemocratic Constitution ( New  York: Oxford University press, 2006), pp.IX.
(7) Đoạn đầu trong Tuyên ngôn Độc lập của Jefferson phản ánh rõ điều này qua văn thức: “Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được những quyền lợi chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới…” Trích lại từ: Vũ Đình Hòe. Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2005, tr.231.
(8) Cho đến nay, 48/50 tiểu bang ở Mỹ quy định trưng cầu dân ý như một quy trình bắt buộc của việc sửa đổi hiến pháp.
(9) Donald S.Lutz. “Toward a theory of constitutional amendment,” American Political Science Review. Vol. 88, No. 2 June 1994, pp.355-356.
(10) David N.Mayer. The constitutional thought of Thomas Jefferson (Virgina: University of Virgina press, 1994), pp.304
(11) Westel W.Willoughby. Principles of the Constitutional law of the United States (New York: Baker, Voorhis & Co press, 1933), pp. 247
(12) Joseph F.Menez, John R.Vile. Summaries of leading cases on the Constitution (Rowman & Littlefield Publisher press, 2004), pp.190..
(13) American Jurisprudence, Volume 16, Conflict of law to Constitutional law ( West Group, 1998) pp.360.
(14) American Jurisprudence, Volume 16, Conflict of law to Constitutional law ( West Group, 1998) pp.360.
(15) Akhil Reed Amar. America’s Constitution- A Biography (New York: Random House press, 2005), pp.290.
(16) American Jurisprudence, Volume 16, Conflict of law to Constitutional law (West Group, 1998) pp.361.
(17) Westel W.Willoughby. Principles of the Constitutional law of the United States (New York: Baker, Voorhis & Co press, 1933), pp. 213.
(18) American Jurisprudence, Volume 16, Conflict of law to Constitutional law ( West Group, 1998) pp.362.
(19)  Joseph F.Menez, John R.Vile. Summaries of leading cases on the Constitution (Rowman & Littlefield Publisher press, 2004), pp.192-193.
(20) Tu chính án thứ 27 của Hiến pháp Mỹ được ban hành sau 202 năm đề xuất.
(21) Joseph F.Menez, John R.Vile. Summaries of leading cases on the Constitution (Rowman & Littlefield Publisher press, 2004), pp.194.

Bùi Ngọc Sơn - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội


Nguồn: http://www.nclp.org.vn/kinh_nghiem_quoc_te/sua-111oi-hien-phap-o-my

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

HIẾN PHÁP HOA KỲ QUY ĐỊNH “TAM QUYỀN PHÂN LẬP”


Hiến Pháp ban hành vào ngày 19-9-1787, có Nội dung như sau:
- LỜI MỞ ĐẦU: “Chúng tôi, Nhân dân Hoa Kỳ, để tạo lập một Liên Bang hoàn hảo hơn, thiết lập sự công bằng, bảo đảm sự an vui trong nước, cung cấp nền quốc phòng toàn dân, gia tăng hạnh phúc quốc dân, bảo đảm ước vọng tự do cho Chúng ta và Hậu thế, Chúng tôi nhất trí và thiết lập bản Hiến Pháp này cho Hợp Chúng Quốc:
- ĐIỀU KHOẢN I gồm có Mục 1 đến 10 : Quy định về Quốc Hội lưỡng viện, Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện.. TNV tượng trưng cho sự thống nhất Liên Bang, nên mỗi Tiểu Bang, dù lớn nhỏ đều có 2 Thượng Nghị sĩ, tổng cộng hiện có 100 vị trong TNV với nhiệm kỳ 6 năm, cứ mỗi hai năm lại bầu lại 1/3 số Thượng Nghị Sĩ. HNV gồm các Hạ Nghị Sĩ với nhiệm kỳ 2 năm, căn cứ vào số dân của từng khu vực trong Tiều Bang, hiện nay có 435 H.N.Sĩ.
Quốc Hội giữ quyền Lập Pháp, biểu quyết các Luật với đa số quá bán, sau đó phải chuyển sang Tổng Thống ký ban hành. Tổng Thống có thể “phủ quyết” Dự Luật, nếu muốn chống lại, Quốc Hội phải họp lưỡng viện và biểu quyết với đa số đặc biệt là 2/3 tổng số T.N.Sĩ và H.N.Sĩ. Ngoài ra, Quốc Hội có thể luận tội Tổng Thống vi phạm lỗi nặng với đa số 2/3 để “Truất quyền Tổng Thống”. Thời Tổng thống Nixon, vì sợ bị Quốc Hội truất quyền nên ông đã phải Từ chức trước khi hết nhiệm kỳ cùa mình.
- ĐIỀU KHOẢN II gồm có Mục 1 – 4 : Quy định về Tổng Thống Liên Bang giữ quyền Hành pháp, thực thi các Luật do Quốc Hội biểu quyết và Tồng Thống ban hành. Ông lãnh đạo Quốc gia và là Tổng Tư lênh tối cao Quân dội Mỹ, ông thành lập Chính Phủ nhưng phài có sự chuần y của TNV, kể cá các chức vụ quan trong trong Chính Phù như: Đại sứ, Thầm phán Tối cao Pháp viện…cũng phải do TNV chuẩn y. Phụ tá ông có Phó Tồng thống, khi bầu cử, cả hai đứng chung trong một liên danh ƯCV Tổng thống và Phó Tổng thống do mỗi đàng đề cử. Hiện nay Chính Phù Liên Bang có 14 Bộ (Department) do Bộ Trưởng (Secretary) đứng đầutrong khi các Bộ Trường trong Nội các chế độ Đại nghị gọi là Minister (Tổng Trưởng một Bộ). Tổng Thống độc lập và Chính Phủ do ông điều khiển không chịu trách nhiệm trước Quốc Hội nên Tồng Thống có quyền hành rất lớn.
- ĐIỀU KHOẢN III gồm có Mục 1-3 : Quy định về Tối cao Pháp viện (TCPV) giữ quyền Tư Pháp có 9 Thẩm Phán với nhiệm kỳ suốt đời, vị Thẩm Phán này phải do Tổng Thống đề cử, Quốc Hội chuẩn y và Tổng Thống bổ nhiệm. TCPV có thẩm quyền giải thích Hiến Pháp và các Luật do Quốc Hội biểu quyết và Tổng Thống ban hành xem có vi hiến không, nếu TCPV phán quyết vi hiến thì Luật đó phài bị đình chỉ thi hành. Có một thời kỳ Hành Pháp khổ sở vì Luật nào ban hành cũng bị 9 ông Tòa TCPV cho là vi hiến! Hơn nữa, TCPV cũng còn giữ quyền phúc thầm các bản án quan trọng do các Tòa án Tiều bang chuyển lên.
Đặc biệt, vì Hiến Pháp Mỹ có tính linh hoạt, nên các nguyên tắc căn bản của nó có thể được áp dụng và giải thích khác nhau ở từng thời kỳ khác nhau. Đây là thẩm quyền quan trọng nhất cùa 9 vị Thẩm phán TCPV.
- ĐIỀU KHOẢN IV gồm Mục 1 – 4: Quy định về quyền của các Tiểu Bang, các Quyền nào mà Hiến Pháp không quy định dành cho Chính Phù Liên Bang thì đều thuộc về các Tiểu Bang. Nếu có tranh chấp giữa Tiều bang và Liên bang về một điều khoản nào trong Hiến Pháp thì sẽ do TCPV giải quyết.
- ĐIỀU KHOẢN V : Quy định về việc sửa đổi Hiến Pháp với đa số 2/3, cho tới nay Quốc Hội đã có 26 Tu Chính án sừa đổi Hiến Pháp: trong đó quan trọng là 10 Tu Chính án đầu tiên được gọi chung là “The Bill of Rights” (Tuyên bố Nhân quyền Hoa Kỳ), – Tu Chính án thứ 15 cho người Mỹ da đen được quyền bầu cử, – Tu Chính án thứ19 cho phụ nữ được quyền bầu cử.
- ĐIỀU KHOẢN VI gồm Điều khoản Tổng quát.
- ĐIỀU KHOẢN VII quy định việc phê chuẩn bản Hiến Pháp này tối thiểu phải được 9/13 Tiểu Bang (lúc đó Hoa Kỳ mới có 13 Tiều Bang) thì Hiến Pháp mới có hiệu lực.
KÝ TÊN CHẤP THUẬN: gồm Chủ tọa George Washington (sau là Tổng Thống đầu tiên) đại biểu Virginia và các Đại biều của 12 Tiều bang khác: Massachusetts, New Hampshire, Rhodes Island, Connecticut, New York, New Jersey, Pennsylvania, Delaware, Maryland, North Carolina, South Carolina và Georgia. Đây là 13 Tiểu bang Nguyên thủy của Hoa Kỳ – được tượng trưng trên Quốc kỳ với 13 sọc trắng và xanh dương, cùng với 50 ngôi sao tượng trưng cho 50 Tiểu bang.
TÓM TẮT
Tổng Thống chế là sự dung hòa giữa hai chế độ Quốc Hội và chế độ Đại Nghị. Hiện nay trên thế giới, các nước theo thể chế Dân chủ thì có khoảng 30 nước theo Đại Nghị chế (có Vua hoặc Tồng Thống), đó là đa số là các nước thuộc địa cũ nằm trong khối Thịnh Vượng Chung của Anh và đa số ở Châu Âu. Các nước theo Tổng Thống chế kiểu Mỹ thì có độ 40 nước, hầu hết các nước này đều áp dụng phân quyền triệt để, ở số nước tại châu Á và châu Phi bộ máy nhà nước có tính cách tập quyền, quyền lực tập trung vào tay một vị Tổng Thống trong khi quyền lực của Quốc Hội rất mờ nhạt. Một số nước theo chế độ Tồng Thống dung hòa với Đại Nghị, họ vừa có Tổng Thống vừa có cả Thủ Tướng với sự độc lập với Quốc Hội.
Hiến Pháp Hoa Kỳ quy định hệ thống “Tam quyền phân lập” (checks and balances), nhằm để ngăn ngừa sự độc tài của Hành Pháp mà đứng đầu là Tổng Thống với rất nhiều quyền hành. Theo đó, mỗi ngành Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp có một số thẩm quyển để kiểm soát các ngành kia. Chẳng hạn, Quốc Hội lưỡng viện làm luật nhưng Tổng Thống có quyền phủ quyết một Dự luật đã được Quốc Hội biểu quyết xong và Tối cao Pháp viện có thể phán quyết một Luật là vi hiến và như thế Hành Pháp và Lập Pháp lại phải tiến hành lại từ đầu.
Đây là bản Hiến Pháp thành văn đầu tiên và chế độ Tồng Thống cũng xuất hiện đầu tiện trên thế giới.
Phạm Vũ-(Tham khảo: Một số tài liệu của trường Luật và sách báo về Hoa Kỳ)

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

Một số vấn đề về chủ nghĩa hợp hiến


Có một câu chuyện kể rằng, loài ếch cần một trật tự để sinh tồn nhưng Thượng đế lại sai rắn duy trì trật tự cho ếch. Nếu không có rắn, ếch sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn vì không có người duy trì trật tự; nhưng bản thân rắn cũng lại là một mối nguy hại đối với ếch, có thể thôn tính ếch...

1.* Khái niệm chủ nghĩa hợp hiến(constitutionalism)

Có một câu chuyện kể rằng, loài ếch cần một trật tự để sinh tồn nhưng Thượng đế lại sai rắn duy trì trật tự cho ếch. Nếu không có rắn, ếch sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn vì không có người duy trì trật tự; nhưng bản thân rắn cũng lại là một mối nguy hại đối với ếch, có thể thôn tính ếch. Tương tự như vậy, loài người phải cần đến quyền lực nhà nước để duy trì một đời sống trật tự và phát triển; nhưng loài người cũng lại phải đối mặt với những tác hại mà quyền lực nhà nước mang đến.

Quyền lực nhà nước khi bị tha hoá sẽ trở thành công cụ thoả mãn lợi ích của những người nắm giữ và quay trở lại trấn áp xã hội: chính quyền chủ nô coi người bị trị như những công cụ biết nói; chính quyền phong kiến đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của nông dân; tham nhũng đang lan toả như một bệnh dịch toàn cầu… Sự nguy hiểm của quyền lực nhà nước gắn với bản chất của nó. Thuộc tính của quyền lực là lạm quyền. Ai có quyền lực cũng có xu hướng lạm quyền. Hobbes, một triết gia lớn người Anh đã nói: "Trước hết, tôi kể trong xu hướng tổng quát của tất cả nhân loại, một sự thèm khát thường trực và không nguôi hết quyền lực này đến quyền lực khác và sự thèm khát ấy chỉ chấm dứt với cái chết mà thôi. Khát vọng quyền lực không phải chỉ giới hạn trong một số ít người có tham vọng, mà nó hiện hữu phổ biến ở tất cả mọi người. Do đó, tất cả những gì mà con người có thể quan niệm là đang thèm muốn vì sự khoái lạc nó đem lại - như kiến thức, nghệ thuật, sự nhàn tản, sự bình thản - thì mọi thứ ấy đều phụ thuộc vào sự đòi hỏi có quyền lực và chỉ được phán đoán trên căn bản quyền lực của con người”. Đối với quyền lực chính trị thì nguy cơ lạm quyền lại càng cao vì đây là một thứ quyền lực có tác động phổ biến nhất trong xã hội và đem lại lợi ích cho người nắm giữ quyền lực nhiều nhất. Một nhà cách mạng Pháp đã diễn đạt ý tưởng này trong câu nói: “Cai trị thì ngây thơ vô tội sao được”.

Nỗi nguy hiểm của quyền lực nhà nước đã đánh thức lương tâm nhân loại. Từ rất sớm, khi quyền lực nhà nước mới được hình thành thì con người đã nghĩ đến những phương kế để chống lại sự tha hoá của quyền lực. Từ những yêu sách đối với đạo đức của nhà cầm quyền đến những định chế giám sát kiểu như Ngự sử đài đều là những giải pháp để chống lại sự tha hoá của quyền lực nhà nước. Xã hội ngày càng tiến bộ, suy nghĩ của loài người về các biện pháp kiểm soát quyền lực ngày càng hoàn thiện hơn. Theo dòng phát triển đó, chủ nghĩa hợp hiến đã ra đời với những ý tưởng cách mạng về kiểm soát quyền lực nhà nước.

Chủ nghĩa hợp hiến ra đời giải quyết được bài toán của loài người là vừa cần quyền lực nhà nước lại vừa có thể tránh khỏi những nguy hiểm do nó mang lại. “Bất cứ cơ quan nào sử dụng quyền lực đủ để bảo vệ tôi chống lại sự cướp bóc của người hàng xóm của tôi, cũng có thể sử dụng quyền lực đó để huỷ hoại tôi hoặc biến tôi thành nô lệ. Sự nghịch lý này dựa trên nền tảng của lý thuyết về nhà nước tự nhiên hiện đại. Làm sao chúng ta có thể thoát khỏi tình trạng vô chính phủ mà không rơi vào chế độ chuyên chế? Làm sao chúng ta có thể trao cho người cai trị quyền kiểm soát người bị trị trong khi bảo đảm rằng khối quyền lực khổng lồ này không bị lạm dụng? Giải pháp dân chủ tự do đối với vấn đề này là chủ nghĩa hợp hiến… Chính quyền tự do là một sự canh tân đối với lý do này, bởi vì nó có ý nghĩa để giải quyết vấn đề giữa vô chính phủ và chuyên chế trong vòng những hệ thống các quy tắc gắn kết, độc lập”.

Chủ nghĩa hợp hiến là “khái niệm về một chính quyền hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu của nó là tuân theo sự đồng ý của nhân dân”. Hay “Hiến pháp thường được định nghĩa là tổng thể các quy tắc thành văn hoặc bất thành văn, pháp lý hay siêu pháp quy định về chính quyền và sự vận hành của nó. Tuy nhiên, có những ý tưởng về sự hạn chế nằm trong danh từ hiến pháp - ý tưởng về hiến pháp như một sự sắp đặt không chỉ quy định mà còn giới hạn chính quyền, ít nhất là trong những hoạt động hàng ngày của nó”. Sự giới hạn đó được gọi là chủ nghĩa hợp hiến. “Chủ nghĩa hợp hiến dân chủ - dựa trên ý tưởng về các quyền cá nhân và các quyền cộng đồng, và giới hạn quyền lực của chính quyền - tạo lập khung điều chỉnh một nền dân chủ. Chủ nghĩa hợp hiến nhận thức rằng một chính quyền dân chủ và có trách nhiệm phải đi liền với những giới hạn mang tính định chế đối với quyền lực của chính quyền”.

Một học giả Trung Quốc trên cơ sở nghiên cứu quan niệm về chủ nghĩa hợp hiến đã đưa ra định nghĩa mang tính chất diễn giải về chủ nghĩa hợp hiến: “Chủ nghĩa hợp hiến nghĩa là một hệ thống các sắp xếp về chính trị, theo đó có một đạo luật tối cao (thường được gọi là hiến pháp), toàn bộ hệ thống chính quyền được điều chỉnh bởi hiến pháp, chỉ có ý chí của nhân dân (thường được xác định thông qua một quy trình đặc biệt có từ trước, thường thông qua cơ chế bỏ phiếu đa số tuyệt đối) mới có thể huỷ bỏ hoặc thay đổi đạo luật tối cao đó, sự thay đổi phải được tiến hành theo một quy trình khó khăn với sự ủng hộ của đa số, có sự phân quyền và kìm chế, đối trọng quyền lực, và một hệ thống tư pháp độc lập tài phán về các tranh chấp pháp lý để bảo vệ hiến pháp”.

Như vậy, dù có thể có những cách định nghĩa, cách quan niệm khác nhau về chủ nghĩa hợp hiến, nhưng vấn đề bản chất của chủ nghĩa hợp hiến vẫn là giới hạn chính quyền theo một quy trình pháp lý để bảo vệ quyền con người.

Một chính quyền hợp hiến trước tiên phải là một chính quyền có hiến pháp thành văn. Ví dụ, chính quyền Mỹ được giới hạn trong khuôn khổ của bản Hiến pháp Mỹ. Tuy nhiên, một hiến pháp thành văn không phải là yếu tố quyết định một chính quyền có vận hành theo chủ nghĩa hợp hiến hay không.Chủ nghĩa hợp hiến không đồng nghĩa với một chính quyền có hiến pháp thành văn. “Chánh quyền hợp hiến không chỉ có nghĩa là chánh quyền hợp với điều khoản hiến pháp. Chánh quyền hợp hiến là chánh quyền pháp trị, không phải chánh quyền chuyên chế, là chánh quyền được điều khoản hiến pháp tiết chế, không phải chánh quyền chỉ được tiết chế bởi sở vọng hay khả năng của người cầm quyền. Bởi vậy, có thể có trường hợp chánh quyền một quốc gia được điều khiển đúng với điều khoản của hiến pháp, song hiến pháp chỉ thiết lập cơ cấu chánh quyền, và phó mặc cho các cơ cấu này tự do hành động. Trường hợp như trên khó có thể coi là một chánh quyền hợp hiến”.

Hơn nữa, một chính quyền không có hiến pháp thành văn cũng có thể trở thành một chính quyền vận hành trên các nguyên lý của chủ nghĩa hợp hiến. Nước Anh là ví dụ điển hình cho trường hợp này. Nước Anh không có một hiến pháp thành văn đơn hành nhưng người ta đều thừa nhận rằng chính quyền của nước Anh là một chính quyền hợp hiến bởi nước Anh có nhiều văn bản có sức mạnh của hiến pháp, như: Đại hiến chương Magna Carta năm 1215, Luật về quyền (Bill of Right) năm 1689, Luật cư trú năm 1701 và những đạo luật đặc biệt của Nghị viện Anh. Những văn bản này có sức mạnh hạn chế quyền lực của nhà nước và bảo vệ các quyền tự do của con người ở nước Anh.

Yếu tố bản chất của chủ nghĩa hợp hiến là giới hạn chính quyền chứ không phải hình thức của hiến pháp. “Khi chúng ta trao đổi về chính quyền hợp hiến, thực ra chúng ta không phải nói về có hay không một văn kiện đặc biệt đơn hành mà chúng ta quan tâm đến một loại hình của cách ứng xử chính trị, văn hoá chính trị, truyền thống chính trị, lịch sử chính trị… Hình thức có thể thay đổi nhưng kết quả ứng xử thì giống nhau: những giới hạn được đặt ra đối với những gì chính quyền được làm”.

Chủ nghĩa hợp hiến hiện đại bắt nguồn từ những tư tưởng chính trị tự do ở Tây Âu và Mỹ. Để bảo đảm các quyền và tự do của con người, những người soạn thảo hiến pháp đã nhấn mạnh đến việc kiểm soát đối với những lĩnh vực của quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, chủ nghĩa hợp hiến có thể được coi là sự định chế hoá chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa hợp hiến là sự tổ chức các định chế quyền lực theo tinh thần tự do. Chủ nghĩa hợp hiến là một chế độ chính trị tự do.

Một điều cần lưu ý là nói đến khái niệm chủ nghĩa người ta thường đề cập theo hai phương diện: một hệ thống các tư tưởng và một chế độ được tổ chức dựa trên các tư tưởng đó. ở đây, khái niệm chủ nghĩa hợp hiến có khi được đề cập đến như một hệ thống các tư tưởng về giới hạn chính quyền và bảo vệ quyền con người; có khi lại được đề cập đến một chế độ tổ chức chính quyền dựa trên tinh thần tự do, tức là giới hạn chính quyền và bảo vệ quyền con người.

2. Các yếu tố cấu thành của chủ nghĩa hợp hiến

Giovanni Sartori định nghĩa chủ nghĩa hợp hiến như là sự cấu thành các yếu tố: 1) có một đạo luật cao hơn, thành văn hoặc bất thành văn, được gọi là hiến pháp; 2) có chế độ tài phán hiến pháp; 3) có một hệ thống tư pháp độc lập gồm các thẩm phán độc lập trong việc giải quyết các tranh chấp pháp lý; 4) quy trình tố tụng đúng về thủ tục; 5) quy trình lập pháp như là một cái hãm phanh hiệu quả đối với việc làm luật chỉ dựa trên lý trí. Định nghĩa này nhấn mạnh tinh thần pháp quyền theo kiểu của Anh - Mỹ của chủ nghĩa hợp hiến.

Louis Henkin định nghĩa chủ nghĩa hợp hiến như là sự tổ chức của các yếu tố: 1) chính quyền được điều chỉnh bởi hiến pháp; 2) phân chia quyền lực; 3) chủ quyền nhân dân và chính quyền dân chủ; 4) tài phán hiến pháp; 5) tư pháp độc lập; 6) giới hạn chính quyền bởi luật về các quyền con người; 7) kiểm soát cảnh sát; 8) sự kiểm soát của dân sự đối với quân sự; 9) không có cơ quan nhà nước hoặc quyền lực được giới hạn nào có quyền đình chỉ thi hành một phần hay toàn bộ hiến pháp.

Mỗi học giả, tuỳ vào góc độ xem xét của mình, tuỳ vào nền học thuật của quốc gia có thể liệt kê các yếu tố khác nhau của chủ nghĩa hợp hiến. Nhưng nhìn chung, những yếu tố của chủ nghĩa hợp hiến theo các tác giả đều đề cập đến các vấn đề quyền lực của hiến pháp và nội dung của hiến pháp.

Về quyền lực của hiến pháp, chủ nghĩa hợp hiến yêu cầu hiến pháp phải có hiệu lực tối cao. Điều này dẫn đến các yếu tố của chủ nghĩa hợp hiến: bản hiến pháp tối cao, không một cơ quan nào của chính quyền được đình chỉ thi hành hay đơn phương sửa đổi hiến pháp; chế độ tài pháp hiến pháp để xét xử những hành vi bất hợp hiến của công quyền. Như vậy, xét dưới góc độ quyền lực của hiến pháp, chủ nghĩa hợp hiến có ba yếu tố sau: một hiến pháp có quyền lực tối cao; một chế độ tu chính hiến pháp đặc biệt; một chế độ tài phán hiến pháp.

Về nội dung của hiến pháp, tinh thần chung của chủ nghĩa hợp hiến là giới hạn chính quyền và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp làm nhiệm vụ ấn định cơ cấu của công quyền và vạch ra những quyền của con người. Theo chủ nghĩa hợp hiến, hiến pháp khi ấn định cơ cấu của công quyền trong đó, để có thể giới hạn được công quyền, phải theo các nguyên tắc chủ quyền nhân dân và chính quyền dân chủ, phân quyền và kìm chế đối trọng quyền lực, tư pháp độc lập. Cũng theo tinh thần của nghĩa hợp hiến, để có thể bảo vệ được quyền của con người, hiến pháp phải liệt kê các quyền cơ bản với tính chất như là các quyền tự nhiên mà chính quyền không được xâm phạm. Như vậy, xét trên phương diện nội dung, chủ nghĩa hợp hiến có các yếu tố: chủ quyền nhân dân và chính quyền dân chủ; phân quyền và kìm chế đối trọng quyền lực; tư pháp độc lập; các quyền cơ bản của con người trong hiến pháp.

3. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hợp hiến

Truyền thống của chủ nghĩa hợp hiến đã bắt đầu từ thời cổ đại Aten và trải qua một quá trình lịch sử phát triển dài, gián đoạn và không theo quy luật nào cho đến ngày nay. Chủ nghĩa hợp hiến, với cả hai phương diện xem xét của nó (hệ tư tưởng về sự tự do và sự định chế hoá hệ tư tưởng đó) đã xuất hiện đầu tiên từ thời cổ đại ở phương Tây. “Có hai hình thức của chủ nghĩa hợp hiến được diễn đạt bởi các nhà chính trị học Hy Lạp và các nhà lập hiến Roma”.

Trong thế giới cổ đại, với các định chế cộng hoà, giai cấp có của công khai bảo vệ mình trước những người nghèo. Trong xã hội trung cổ, khi chế độ quân chủ là chế độ chính trị chính, giai cấp có của lại phối hợp với vương quyền. Nhưng chủ nghĩa hợp hiến cũng được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của những người khác. ở Aten vào thế kỷ thứ IV tr.CN, có những định chế chính trị để bảm đảm dân chủ trước sự lạm quyền của các bạo chúa.

Ý thức lập hiến xuất hiện ở Địa Trung Hải khi tổ chức thị tộc trở nên yếu đi và sự mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo trở thành một yếu tố chính trị quan trọng. Solon có lẽ là nhà lập hiến đầu tiên. Với mong muốn loại bỏ quyền lực trong tay của những người thượng lưu, nhưng để cho những người bình dân chia sẻ các chức vụ trong chính quyền mà từ trước đến nay họ bị tước đi, Solon tiến hành định giá tài sản của công dân. Năng lực tài sản là cơ sở cho việc nắm giữa các chức vụ trong chính quyền, nhưng không có nghĩa cho quyền bầu cử, một công cụ để bảo vệ quyền lợi của cả hai giai cấp.

Một mô hình lưỡng viện là một công cụ cổ điển khác. Toà án tối cao ở Aten và Thượng viện Roman, vào ngày nó được thành lập, điều hành các chính sách ngoại giao và chia sẻ quyền lực đối nội cho Viện bình dân. Ciceron tìm thấy ở Thượng viện Roman một sự kết hợp giữa chế độ quý tộc và chế độ dân chủ thoả mãn cho cả hai chế độ.

Nhưng sự tổ chức các định chế chính trị dân chủ Aten là tinh tế nhất. Khi chế độ đầu sỏ chính trị của Toà án tối cao Aten bị thất bại, sự quan tâm chính là bảo vệ dân chủ. Vào thời đại của Demosthenes, thành viên của bồi thẩm đoàn của Toà án bình dân tối cao, gọi là Heliaea, phải tuyên thệ: “Tôi sẽ phán quyết theo các đạo luật và sắc luật của người dân Aten và Hội đồng 500 người. Tôi sẽ không bỏ phiếu cho chế độ chuyên chế và đầu sỏ chính trị. Nếu bất cứ người nào cố tình lật đổ nền dân chủ Aten hoặc có những phát ngôn hay dự định chống lại nền dân chủ đó, tôi sẽ không nghe theo. Tôi sẽ không cho phép các khoản nợ cá nhân bị hoãn trả hoặc đất, ngựa của người dân Aten bị phân phối lại. Tôi sẽ không phục hồi lại hình phạt trục xuất và tử hình. Tôi sẽ không trục xuất và cho phép sự trục xuất những công dân cư trú ở đây khi họ chống lại các đạo luật và sắc luật của người dân Aten và Hội đồng 500 người”.

Hơn nữa, tất cả người dân Aten đều nhận chấp nhận lời thề này: “Nếu có quyền lực, tôi sẽ giết chết bằng lời nói, bằng hành động, bằng bỏ phiếu, hoặc bằng giơ tay bất cứ kẻ nào đàn áp nền dân chủ Aten, bất cứ kẻ nào giữ các chức vụ công cộng bằng con đường đàn áp, bất cứ kẻ nào cố gắng trở thành chuyên chế hoặc ủng hộ chế độ chuyên chế. Nếu có ai đó giết một kẻ như vậy, tôi sẽ cho rằng anh ta không có tội trong mắt của Chúa và quyền lực thượng giới vì anh ta giết kẻ thù chung của cộng đồng. Và tôi sẽ bán tất cả tài sản của kẻ bị giết chết và sẽ đưa cho người giết hắn hơn một nửa và sẽ không lấy bất cứ thứ gì của kẻ đã chết. Và nếu bất cứ người nào bị thiệt mạng vì giết kẻ như vậy hoặc nỗ lực để giết hắn, tôi sẽ thể hiện sự tử tế đối với anh ta và con cái anh ta … Tôi huỷ bỏ tất cả những lời thề đã thề ở Aten hoặc trong quân đội hoặc bất cứ nơi nào chống lại nền dân chủ Aten”.

Thời trung đại có những quan niệm khác biệt với thời cổ đại. Những gì mà thời cổ đại và thời hiện đại hiểu về nhà nước không giống với thời trung đại. Jelliek cho rằng ý tưởng thuộc thời trung đại là những ý tưởng có nguồn gốc thuộc dân tộc Đức: “Trong khi nhà nước thời cổ đại xuất hiện trong buổi đầu của lịch sử như là chính trị (polis) hay công dân (civita), một cộng đồng không phân chia của công dân, nhà nước quân chủ của dân tộc Tơ - tông, bắt đầu từ hình thức nhị nguyên - vương quyền và dân chúng không phải là một thực thể thống nhất, ngược lại còn đối lập với nhau. Vào thời trung cổ, nhà vua quan trọng hơn người dân. Trong một phạm vi nhất định, ông ta sở hữu những thần dân của mình với một quyền lực cá nhân tối cao và không có giới hạn. Gierke cho rằng Hobbes là người đã trở lại quan niệm ban đầu về nhà nước. Việc xác định thời gian của ông thì đúng nhưng việc quy kết này quá hạn hẹp. Mặc dù trở lại quan niệm ban đầu về nhà nước, nhưng quan niệm cổ đại về xã hội nghị nguyên - Gierke gọi nó là ý tưởng về “double majesty’’ vẫn kéo dài dai dẳng trong luật của người Anh”.

Lý luận hiện đại về hiến pháp thường xuất phát từ các nhà lý luận về khế ước xã hội thế kỷ XVII. Để đấu tranh cho một chính quyền hợp hiến, người ta thường viện dẫn đến những lý thuyết về khế ước xã hội mà những đại biểu nổi bật là John Locke, Jean - Jacques Rousseau.Những luận điểm tổng quá của thuyết khế ước xã hội có thể tóm lược lại là: 1) mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng; 2) do những lý do nhất định người dân thành lập ra nhà nước thông qua một khế ước xã hội; 3) trách nhiệm của nhà nước theo bản khế ước xã hội này là bảo đảm các quyền tự nhiên vốn có của người dân; 4) nếu nhà nước vi phạm điều đó, người dân có quyền thành lập một nhà nước khác. Những tư tưởng trên của thuyết khế ước xã hội tạo cơ sở cho việc hình thành một chính quyền hợp hiến. Những điều khoản cơ bản của khế ước xã hội khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân, nhà nước là do nhân dân thành lập để bảo vệ các quyền của con người. Bản khế ước ghi nhận những điều khoản đó là gì? Đó chính là Hiến pháp.

Chiến thắng đầu tiên và có lẽ lớn nhất của chủ nghĩa tự do là ở Anh. Những điều khoản của Dự luật về các quyền năm 1689 cho thấy, cách mạng Anh không chỉ nhằm bảo vệ quyền tài sản mà còn thiết lập những quyền tự do mà những người theo chủ nghĩa tự do tin là cần thiết đối với nhân phẩm và giá trị đạo lý của con người. Những quyền của con người được nêu ra trong dự luật về quyền của Anh được dần dần công bố rộng rãi, đặt biệt trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Thế kỷ 18 đã chứng kiến sự sự xuất hiện của chính quyền hợp hiến ở Mỹ và Pháp. Người Mỹ đi tiên phong trong việc xây dựng chính quyền hợp hiến với một bản hiến pháp thành văn đơn hành. Khi xây dựng chính quyền hợp hiến, người Mỹ đã định chế hoá các tư tưởng tự do của các học giả khế ước xã hội. Đặt biệt, họ đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu trong việc kiến tạo một chính quyền hợp hiến. Tam quyền phân lập được coi như một yếu tố chính quyền của chủ nghĩa hợp hiến. Không chỉ biết định chế hoá các tư tưởng tự do có từ trước, người Mỹ còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa hợp hiến bằng những lý thuyết độc đáo của riêng họ, mà điển hình là lý thuyết kìm chế và đối trọng quyền lực. Cơ chế này được luận giải bởi những tên tuổi như Hamilton, Madison, Jay trong tập Người liên bang.

Thế kỷ 19 có sự mở rộng của chính quyền này với mức độ thành công khác nhau ở Đức, Italia và những nước phương Tây khác. Sang thế kỷ thứ 20, người ta thấy sự xuất hiện các chính quyền hợp hiến ở các quốc gia châu Á. Ngày nay, khi một quốc gia mới được thành lập thường cam kết điều hành chính quyền theo chủ nghĩa hợp hiến.

Những trích dẫn các tác phẩm của Hobbes và Locke trong sách này lấy từ nguồn: Michael B. Foster, Những bậc danh sư của triết lý chính trị, Houghton Mifflin Conpany, Boston the Riverside Press Cambridge.

Dẫn theo Lê Đình Chân, Luật hiến pháp và các định chế chính trị, cuốn 1, Sài Gòn, 1974, tr. 267.

Holmes, Stephen. Passions and Constraint: On the Theory of Liberal Democracy. Chicago: University of Chicago Press, 1995, p. 270-71.

Jay M. Shafritz, Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, tr.229.

Francis D.Wormuth. The origins of modern constitutionalism (Nguồn gốc của chủ nghĩa hợp hiến) Copyright 1949, by Harper&Brothers. Website: Index.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ,Các nguyên lý của nền pháp quyền (Principles of the rule of law), Home | Embassy of the United States Hanoi, Vietnam

Bo Li. What is Constitutionalism? Website:Index.

K.C. Wheare. Hiến pháp tân tiến(Bản dịch của Nguyễn Quang), 1967, tr.186.

Mahler, Gregory. Comparative Politics: An Institutional and Cross-National Approach. Upper Saddle River, New Jersey: Prentice Hall, 2000, p. 28.

Sartori Giovanni, The Theory of Democracy Revisited. Chatham, New Jersey: Chatham House, 1987, p. 309.

Henkin, Louis, "Elements of Constitutionalism", Unpublished Manuscript, 2000.

Francis D.Wormuth, The origins of modern constitutionalism, Copyright, 1949, by Harper&Brothers. Website: Index.

Charles Howard McILWain, Constitutionalism: ancient and morden, Cornell University press, New York, 1947. Website: Index.

Francis D.Wormuth, The origins of modern constitutionalism, Copyright, 1949, by Harper&Brothers. Website:Index.

Tạm dịch là “vương quyền kép”.

Danh sách 27 tu chính án Hiến pháp Hoa Kỳ


Đây là danh sách toàn bộ các tu chính án Hiến pháp Hoa Kỳ đã được Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận, có cả các tu chính án được và chưa được phê chuẩn (phải được hai phần ba các nghị viện tiểu bang phê chuẩn sau khi Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và giới thiệu đến các tiểu bang). Tiến trình tu chính Hiến pháp được hướng dẫn trong Điều khoản V Hiến pháp Hoa Kỳ. Có nhiều đề nghị tu chính Hiến pháp Hoa Kỳ khác nữa được trình lên Quốc hội Hoa Kỳ

1) Tu chính án I : Bảo vệ quyền Tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do họp hội, và kiến nghị
(Các tu chính án từ I đến X được đề xuất ngày 25 tháng 9 năm 1789, phê chuẩn ngày 15 tháng 12 năm 1791)

Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.

2) Tu chính án II : Bảo vệ Quyền mang vũ khí của dân thường và binh lính

Xét thấy lực lượng dự bị có tổ chức nghiêm chỉnh là rất cần thiết cho nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân chúng được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm.

3) Tu chính án III :  Binh sĩ không được đóng quân tại khu vực tư gia trong thời bình. Trong thời chiến, Quốc hội có thể thông qua luật cho phép binh sĩ làm vậy.

 Không một quân nhân nào trong thời bình được đóng quân trong bất cứ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà, và ngay trong thời chiến cũng chỉ theo qui định của luật pháp.

4) Tu chính án IV :Cấm khám xét và tịch thu không lý do; đưa ra các yêu cầu về lệnh khám xét căn cứ vào lý do chính đáng

Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ.

5) Tu chính án V : Truy tố; Tiến trình xét xử; Tự nhận tội; Không truy tố cùng một tội hai lần (double jeopardy), và những luật lệ về trưng thu (eminent domain).

Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay một tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai sẽ bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà không được bồi thường thích đáng.

6) Tu chính án VI :     Quyền được xét xử công công khai, công bằng và nhanh chóng, cho biết lý do truy tố, đối chấp người tố cáo, trác đòi hầu tòa, quyền được tư vấn

Trong mọi trường hợp truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử một cách nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng của bang hoặc khu vực nơi tội trạng xảy ra, nơi đã được pháp luật chỉ định trước; bị cáo phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội, được đối chất với các nhân chứng chống lại mình, được quyền triệu tập những nhân chứng để biện minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
 

7) Tu chính án VII : Quyền được bồi thẩm đoàn xét xử trong các phiên tòa dân sự

Trong những vụ kiện tụng theo thông luật, nếu giá trị tranh chấp quá 20 đô-la, thì quyền được xét xử bởi Bồi thẩm đoàn sẽ được tôn trọng và không một vụ việc nào đã được Bồi thẩm đoàn xét xử lại phải xem xét lại lần nữa ở bất cứ tòa án nào của Hoa Kỳ, mà phải căn cứ theo các quy tắc của thông luật.

8) Tu chính án VIII:Không phạt tiền và định tiền thế thân vượt mức hay xử phạt bất thường và tàn bạo

Không đòi hỏi những khoản tiền bảo lãnh quá cao, không áp đặt những khoản tiền phạt quá mức và không áp dụng những hình phạt dã man và khác thường.

9) Tu chính án IX : Các quyền con người cơ bản

Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân.

10) Tu chính án X : Giới hạn quyền lực của chính phủ liên bang

Những quyền lực không được Hiến pháp trao cho Liên bang và không bị ngăn cấm đối với các bang, thì thuộc về các bang cụ thể hoặc nhân dân.

11) Tu chính án XI : Miễn trách nhiệm các tiểu bang khỏi sự tố tụng của các công dân ngoài tiểu bang và ngoại quốc không sống trong ranh giới tiểu bang. Đặt nền tảng cho quyền miễn tố chủ quyền.
(Đề xuất ngày 4 tháng 3 năm 1794, phê chuẩn ngày 7 tháng 2 năm 1795)

Quyền lực tư pháp của Hoa Kỳ sẽ không được giải thích với mục đích mở rộng ra các vụ tố tụng về luật pháp hay công lý mà công dân của một bang khác hoặc công dân và đối tượng của một nước khác dựa vào đó để khởi kiện hoặc truy tố một bang của Hoa Kỳ.


12) Tu chính án XII:      Sửa đổi tiến trình bầu cử tổng thống

(Đề xuất ngày 9 tháng 12 năm 1803, phê chuẩn ngày 15 tháng 6 năm 1804)

Các đại cử tri sẽ họp lại trong từng bang của họ và bằng lá phiếu bầu Tổng thống và Phó Tổng thống. Ít nhất một trong hai người này sẽ không phải là cư dân cùng một bang với họ. Họ sẽ ghi vào lá phiếu tên người được bầu là Tổng thống và trên lá phiếu khác tên người được bầu làm Phó Tổng thống. Và họ sẽ lập ra các bản danh sách khác nhau những người bầu cho Tổng thống, những người bầu cho Phó Tổng thống và cả số phiếu bầu cho mỗi người. Họ sẽ ký xác nhận vào những danh sách này, niêm phong và chuyển lên Chính phủ Hoa Kỳ, trình lên Chủ tịch Thượng viện. Chủ tịch Thượng viện trước sự hiện diện của Thượng viện và Hạ viện, sẽ mở tất cả các hồ sơ đã được chứng nhận và các phiếu bầu sẽ được đem ra đếm. Người có số phiếu nhiều nhất trong cuộc bầu cử cho Tổng thống sẽ đắc cử Tổng thống nếu con số này là đa số trong tổng số đại cử tri được chỉ định; nếu không ai đạt số phiếu như vậy thì Hạ viện sẽ ngay lập tức bỏ phiếu bầu Tổng thống trong những người có số phiếu bầu cao nhất, nhưng không quá 3 người. Nhưng trong việc bầu Tổng thống này, việc bỏ phiếu sẽ được tính theo các bang, đại diện của mỗi bang có một phiếu bầu. Số đại biểu qui định để tiến hành việc này gồm một hoặc các thành viên của hai phần ba các bang và phải có đa số các bang. Nếu Hạ viện đã được trao quyền bầu cử mà không bầu ra Tổng thống trước ngày thứ 4 của tháng 3 tiếp theo, thì Phó Tổng thống sẽ là quyền Tổng thống, cũng giống như trường hợp Tổng thống qua đời hoặc không đủ năng lực như Hiến pháp quy định. Người có số phiếu bầu nhiều nhất cho Phó Tổng thống sẽ đắc cử Phó Tổng thống nếu số phiếu này là đa số phiếu của tổng số đại cử tri được chỉ định; nếu không có ai được đa số phiếu, thì Thượng viện sẽ căn cứ vào hai người có số phiếu cao nhất trong danh sách để bầu ra Phó Tổng thống. Số đại biểu cần thiết cho mục đích này gồm hai phần ba trong tổng số thượng nghị sĩ và đa số trong tổng số là tiêu chuẩn cần thiết để chọn lựa. Người nào không đủ tiêu chuẩn hợp hiến để đảm nhận chức vụ Tổng thống thì cũng không đủ tiêu chuẩn để được chọn làm Phó Tổng thống Hoa Kỳ.

13) Tu chính án XIII : Bãi bỏ chế độ nô lệ, trừ khi đó là hình phạt đối với tội phạm.
(Đề xuất ngày 31 tháng 1 năm 1865, phê chuẩn ngày 6 tháng 12 năm 1865)
 

Khoản 1
Không một chế độ nô lệ hoặc lao dịch cưỡng bức nào có thể tồn tại ở Hoa Kỳ hoặc ở một nơi nào thuộc thẩm quyền của Hoa Kỳ, trừ trường hợp trừng phạt thích đáng đối với tội phạm hình sự mà đương sự phạm phải.
Khoản 2
Quốc hội sẽ có quyền thực thi điều này bằng quyền lập pháp tương ứng.

14) Tu chính án XIV :  Quy trình pháp luật tiểu bang và quyền công dân, áp dụng Đạo luật Nhân quyền Hoa Kỳ vào các tiểu bang, sửa đổi phân chia đại diện, không cho phép những ai nổi loạn chống Hoa Kỳ giữ chức vụ công quyền
(Đề xuất ngày 13 tháng 6 năm 1866, phê chuẩn ngày 9 tháng 7 năm 1868)

 
Khoản 1
Tất cả những người sinh ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ hoặc được nhập quốc tịch ở Hoa Kỳ và thuộc thẩm quyền tài phán ở đó, đều là công dân của Hoa Kỳ và của bang mà họ sinh sống. Không một bang nào được ban hành hoặc thực thi bất cứ đạo luật nào nhằm hạn chế đặc quyền hoặc quyền bất khả xâm phạm của công dân Hoa Kỳ. Cũng không một bang nào có thể tước đoạt sinh mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà không theo một quy trình do luật định. Cũng không thể phủ nhận quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng của một cá nhân trong phạm vi thẩm quyền tài phán của bang đó.
Khoản 2
Số Hạ nghị sĩ được phân chia theo tổng số nhân khẩu của các tiểu bang, ngoại trừ những người da đỏ không phải nộp thuế. Nhưng trong bất cứ một cuộc bầu cử đại cử tri (để bầu Tổng thống và Phó Tổng thống Hoa Kỳ), bầu cử các Hạ nghị sĩ trong Quốc hội, các quan chức hành pháp và tư pháp của bang hoặc các thành viên của cơ quan lập pháp nơi đó, nếu quyền bầu cử của nam công dân tuổi 21 và là công dân Hoa Kỳ bị phủ nhận hoặc hoặc bị tước bỏ vì lý do nào đó (không kể trường hợp những người tham gia phiến loạn hoặc phạm các tội khác), thì số đại cử tri ở đó sẽ bị giảm bớt theo tỷ lệ giữa tổng số nam công dân và số nam công dân ở độ tuổi 21 tại bang đó.
Khoản 3
Những ai với tư cách là thành viên của Quốc hội, hoặc một quan chức của Hoa Kỳ, hoặc một thành viên của một cơ quan lập pháp của bang, hoặc quan chức hành chính hay tư pháp của bất cứ một bang nào đã tuyên thệ ủng hộ Hiến pháp của Hoa Kỳ nhưng lại tham gia các cuộc nổi dậy hay phiến loạn chống lại Hiến pháp hoặc trợ giúp hay úy lạo kẻ thù, thì không thể là thượng nghị sĩ hoặc hạ nghị sĩ trong Quốc hội, hoặc đại cử tri để bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, hoặc phụ trách một cơ quan dân sự hay quân sự nào của Hoa Kỳ hay của một bang nào đó. Nhưng Quốc hội có thể với 2/3 số phiếu của hai phần ba thành viên mỗi Viện để bác bỏ sự nghiêm cấm nói trên.
Khoản 4
Giá trị của những khoản nợ công cộng của Hoa Kỳ, được luật pháp đảm bảo, kể cả những khoản nợ để trả cho các khoản phụ cấp và tiền thưởng cho công việc phục vụ trấn áp các cuộc nổi dậy và phiến loạn, không bị chất vấn. Tuy nhiên Hoa Kỳ và bất cứ bang nào đều không thừa nhận hoặc thanh toán các khoản nợ hay trái vụ liên quan tới sự hỗ trợ các cuộc nổi dậy và phiến loạn chống lại Hoa Kỳ, hoặc đối với những yêu cầu bồi thường cho tình trạng mất mát nô lệ hoặc giải phóng nô lệ. Những khoản tiền, nghĩa vụ và yêu cầu loại này phải bị coi là phi pháp và không có giá trị.
Khoản 5
Bằng luật lệ thích hợp, Quốc hội có quyền triển khai xem xét điều khoản này.

15) Tu chính án XV : Quyền đầu phiếu không còn bị giới bởi chủng tộc
(Đề xuất ngày 26 tháng 2 năm 1869, phê chuẩn ngày 3 tháng 2 năm 1870)
Khoản 1
Quyền bầu cử của các công dân Hoa Kỳ sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế, dựa vào lý do chủng tộc, màu da hay tình trạng nô lệ trước đây.
Khoản 2
Quốc hội sẽ có quyền triển khai điều khoản này bằng luật lệ thích hợp.

16) Tu chính án XVI : Cho phép thu thuế lợi tức liên bang
(Đề xuất ngày 12 tháng 7 năm 1909, phê chuẩn ngày 3 tháng 2 năm 1913)

Quốc hội sẽ có quyền ban hành và thu các khoản thuế thu nhập có từ bất cứ nguồn nào mà không phân bổ tỷ lệ giữa các bang và không dựa vào bất cứ sự thống kê và điều tra dân số nào.

17) Tu chính án XVII : Bầu cử trực tiếp Thượng viện Hoa Kỳ
(Đề xuất ngày 13 tháng 5 năm 1912, phê chuẩn ngày 8 tháng 4 năm 1913)

Thượng viện của Hoa Kỳ sẽ gồm có hai thượng nghị sĩ của mỗi bang do dân chúng ở đó bầu ra với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi thượng nghị sĩ sẽ có một lá phiếu biểu quyết. Đại cử tri ở mỗi bang phải có đủ phẩm chất cần thiết như là phẩm chất của đại cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo nhất.

Khi có chỗ trống trong số đại diện của tiểu bang trong Thượng viện, cơ quan hành pháp của bang đó sẽ ban hành lệnh bầu cử để bổ sung vào chỗ trống, với điều kiện là cơ quan lập pháp của bang đó trao quyền tạm thời cho cơ quan hành pháp cho đến khi nhân dân bầu chọn được người bổ sung vào những chỗ trống theo luật lệ sẵn có.

Điều khoản này sẽ không được giải thích làm ảnh hưởng đến việc bầu cử hoặc nhiệm kỳ của thượng nghị sĩ được bầu ra, cho đến khi nó có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp.

18) Tu chính án XVIII : Cấm chất rượu cồn (bị bãi bỏ bằng Tu chính án 21)
(Đề xuất ngày 18 tháng 12 năm 1917, phê chuẩn ngày 16 tháng 1 năm 1919, bị bãi bỏ bởi Tu chính án XXI ngày 5 tháng 12 năm 1933)

 
Khoản 1
Một năm sau khi phê chuẩn điều khoản này của Hiến pháp, việc sản xuất, mua bán hoặc chuyên chở các loại rượu có cồn ở trong nước, nhập khẩu từ nước ngoài, xuất khẩu từ Hoa Kỳ và các lãnh thổ thuộc thẩm quyền của Hoa Kỳ đều bị cấm.
Khoản 2
Quốc hội và các bang có quyền lực như nhau khi triển khai điều khoản này của Hiến pháp.
Khoản 3
Điều khoản này sẽ không có hiệu lực trừ phi được phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của các bang như một tu chính án của Hiến pháp trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển đến các bang như Hiến pháp quy định.

19) Tu chính án XIX : Quyền đầu phiếu của phụ nữ
(Đề xuất ngày 4 tháng 6 năm 1919, phê chuẩn ngày 18 tháng 8 năm 1920)

 
Khoản 1
Quyền bầu cử của các công dân Hoa Kỳ sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế bởi Liên bang hoặc bất cứ bang nào với lý do giới tính.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực hiện điều khoản này bằng luật lệ thích hợp.

20) Tu chính án XX : Ấn định ngày bắt đầu nhiệm kỳ cho Quốc hội (3 tháng 1) và tổng thống (20 tháng 1) (tu chính án này cũng còn được gọi là "tu chính án lame duck".)
(Đề xuất ngày 2 tháng 3 năm 1932, phê chuẩn ngày 23 tháng 1 năm 1933)


Khoản 1
Nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng thống sẽ kết thúc vào đúng trưa ngày 20 tháng giêng, và nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ sẽ kết thúc vào đúng trưa của ngày 3 tháng giêng của năm mà những nhiệm kỳ trên sẽ kết thúc, nếu điều khoản này vẫn chưa được phê chuẩn và nhiệm kỳ của những người kế nhiệm họ sẽ bắt đầu từ thời điểm đó.
Khoản 2
Quốc hội sẽ họp ít nhất mỗi năm một lần và kỳ họp sẽ bắt đầu vào giữa trưa ngày 3 tháng giêng, trừ trường hợp họ có thể căn cứ vào luật để xác định một ngày khác.
Khoản 3
Nếu vào thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ đã được ấn định mà Tổng thống đắc cử qua đời, thì Phó Tổng thống đắc cử sẽ trở thành Tổng thống. Nếu trước thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ đã được ấn định mà Tổng thống chưa đắc cử hoặc Tổng thống đã đắc cử nhưng không đủ tư cách, thì Phó Tổng thống đắc cử sẽ đảm đương cương vị Tổng thống cho đến khi Tổng thống được xác định là có đủ tư cách. Quốc hội có thể căn cứ vào luật để quyết định về trường hợp khi cả Tổng thống đắc cử và Phó Tổng thống đắc cử đều không đủ điều kiện, tuyên bố ai sẽ đứng ra đảm đương quyền Tổng thống hoặc xác định cách thức để chọn người đảm đương chức vụ Tổng thống cho đến khi Tổng thống hay Phó Tổng thống có đủ tư cách.
Khoản 4Quốc hội có thể căn cứ vào luật để quy định trong trường hợp có sự qua đời của bất cứ cá nhân nào trong những người mà Hạ viện có thể chọn làm Tổng thống khi Hạ viện được trao quyền lựa chọn đó; và trong trường hợp có sự qua đời của bất cứ cá nhân nào trong những người mà Thượng viện có thể chọn làm Phó Tổng thống khi Thượng viện được trao quyền lựa chọn đó.
Khoản 5
Khoản 1 và khoản 2 sẽ có hiệu lực bắt đầu vào ngày 15 tháng 10 sau khi điều khoản này được phê chuẩn.
Khoản 6
Điều này của Hiến pháp sẽ không có hiệu lực trừ phi được phê chuẩn như những tu chính án của Hiến pháp bởi cơ quan lập pháp của ba phần tư các tiểu bang trong 7 năm kể từ ngày được đệ trình.
 
21) Tu chính án XXI : Bãi bỏ Tu chính án 18; tiểu bang và địa phương không còn bị bắt buộc cấm rượu cồn.

(Đề xuất ngày 20 tháng 2 năm 1933, phê chuẩn ngày 5 tháng 12 năm 1933)

 
Khoản 1
Kể từ nay, tu chính án số 18 của Hiến pháp bị bãi bỏ.
Khoản 2
Việc chuyên chở hay nhập khẩu nhằm cung cấp và sử dụng rượu có cồn ở bất cứ bang nào hoặc lãnh thổ và vùng thuộc sở hữu của Hoa Kỳ mà vi phạm luật ở những nơi đó sẽ bị nghiêm cấm.
Khoản 3
Điều này sẽ không có hiệu lực trừ phi nó được các đại hội của các bang phê chuẩn như một tu chính án của Hiến pháp, theo qui định của Hiến pháp, trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển đến các bang.
 
22) Tu chính án XXII : Giới hạn tổng thống chỉ hai nhiệm kỳ

(Đề xuất ngày 24 tháng 3 năm 1947, phê chuẩn ngày 27 tháng 2 năm 1951)

 
Khoản 1
Không người nào được bầu giữ chức vụ Tổng thống quá hai nhiệm kỳ và không người nào đã đảm đương chức vụ Tổng thống hoặc là quyền Tổng thống quá hai năm trong nhiệm kỳ mà người khác đã đắc cử Tổng thống sẽ được bầu vào chức vụ Tổng thống hơn một nhiệm kỳ. Nhưng điều khoản này không áp dụng đối với những người đang giữ chức Tổng thống khi điều khoản này được Quốc hội đề nghị và sẽ không ngăn cản bất cứ ai có thể giữ chức Tổng thống hoặc quyền Tổng thống trong thời gian điều khoản này có hiệu lực đúng vào nhiệm kỳ của họ, vì vậy họ sẽ tiếp tục cương vị Tổng thống hay quyền Tổng thống trong thời gian nhiệm kỳ còn lại.
Khoản 2
Điều này sẽ không có hiệu lực trừ phi nó sẽ được cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang phê chuẩn như một tu chính án vào Hiến pháp trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển tới các bang.

23) Tu chính án XXIII : Đại diện của Washington, D.C. trong Đại cử tri đoàn
(Đề xuất ngày 16 tháng 6 năm 1960, phê chuẩn ngày 29 tháng 3 năm 1961)

 
Khoản 1
Các địa hạt cấu thành nên các khu vực bầu cử chính quyền của Hoa Kỳ sẽ được tổ chức theo thể thức mà Quốc hội quy định như sau:

Số đại cử tri bầu Tổng thống và Phó Tổng thống mà các địa hạt có được bằng tổng số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ trong Quốc hội, nếu đó là một bang, nhưng nếu số đại cử tri không nhiều hơn so với bang ít dân số nhất, thì họ sẽ được ghép vào số đại cử tri do các bang bổ nhiệm, nhưng xuất phát từ mục đích của cuộc bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, thì họ sẽ được coi là các đại cử tri do một bang bổ nhiệm, và họ sẽ họp với nhau ở khu vực bầu cử và hoàn thành trách nhiệm do điều 12 của Tu chính án Hiến pháp qui định.
Khoản 2
Quốc hội có quyền đem lại hiệu lực cho điều khoản này bằng luật lệ phù hợp.
 
24) Tu chính án XXIV : Cấm giới hạn quyền đầu phiếu vì không trả thuế khoán

(Đề xuất ngày 27 tháng 8 năm 1962, phê chuẩn ngày 23 tháng 1 năm 1964)

 
Khoản 1
Quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ trong các vòng bầu cử sơ bộ, hoặc trong các cuộc bầu cử Tổng thống hay Phó Tổng thống, cuộc bầu đại cử tri để bầu Tổng thống, Phó Tổng thống, thượng nghị sĩ hay hạ nghị sĩ trong Quốc hội, sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế bởi Hoa Kỳ hay một bang nào với lý do không có khả năng nộp thuế thân hoặc thuế khác.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực thi điều này bằng luật lệ phù hợp.

25) Tu chính án XXV : Kế nhiệm tổng thống

(Đề xuất ngày 6 tháng 7 năm 1965, phê chuẩn ngày 10 tháng 2 năm 1967)


Khoản 1
Trong trường hợp Tổng thống bị phế truất, qua đời hoặc từ chức, Phó Tổng thống sẽ trở thành Tổng thống.
Khoản 2
Trong trường hợp vị trí Phó Tổng thống bị bỏ trống, Tổng thống sẽ chỉ định một người làm Phó Tổng thống, nhưng phải được đa số phiếu bầu của cả hai Viện trong Quốc hội.
Khoản 3
Trong trường hợp Tổng thống chuyển đến Chủ tịch lâm thời của Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản tuyên bố rằng Tổng thống không thể thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình và cho đến khi Tổng thống chuyển đến họ một văn bản với nội dung ngược lại thì những quyền lực và trách nhiệm đó sẽ do Phó Tổng thống thực thi với tư cách quyền Tổng thống.
Khoản 4
Trong mọi trường hợp khi Phó Tổng thống và đa số các quan chức chủ yếu của cơ quan hành pháp hay cơ quan tương đương nào khác mà Quốc hội đã quy định bằng luật, chuyển lên Chủ tịch lâm thời của Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản của họ tuyên bố rằng Tổng thống không thể thực thi những quyền lực và trách nhiệm của mình, thì Phó Tổng thống sẽ ngay lập tức nắm quyền lực và trách nhiệm đó với tư cách quyền Tổng thống.

Sau đó, khi Tổng thống chuyển lên quyền Chủ tịch của Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản tuyên bố về năng lực của mình, Tổng thống có thể tiếp tục thực thi quyền lực và nhiệm vụ với điều kiện trong vòng 4 ngày Phó Tổng thống và đa số các quan chức chủ yếu của cơ quan hành pháp hay cơ quan tương đương mà Quốc hội đã qui định chuyển đến Chủ tịch lâm thời của Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản tuyên bố về việc Tổng thống có đủ năng lực thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình.

Nếu không phải trong kỳ họp, trong vòng 48 tiếng đồng hồ Quốc hội sẽ phải họp để giải quyết vấn đề đó. Nếu Quốc hội trong vòng 21 ngày sau khi nhận được văn bản tuyên bố nói trên hoặc nếu vào thời điểm đó không phải là kỳ họp thì trong vòng 21 ngày, Quốc hội phải họp để với hai phần ba số phiếu của cả hai Viện quyết định về việc Tổng thống không thể thực thi các quyền và trách nhiệm của mình, và Phó Tổng thống sẽ tiếp tục thực thi công việc đó với tư cách là quyền Tổng thống, trong trường hợp ngược lại, Tổng thống sẽ tiếp tục thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình.

26) Tu chính án XXVI : Tuổi đầu phiếu toàn quốc được thiết lập là 18 tuổi
(Đề xuất ngày 23 tháng 3 năm 1971, phê chuẩn ngày 1 tháng 7 năm 1971)


Khoản 1
Quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên sẽ không bị tước bỏ hoặc hạn chế bởi Liên bang hay bất cứ bang nào với lý do tuổi tác.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực hiện điều này bằng luật lệ thích hợp.

27) Tu chính án XXVII : Thay đổi lương bổng quốc hội
(Đề xuất ngày 25 tháng 9 năm 1789, phê chuẩn ngày 7 tháng 5 năm 1992)

Trước cuộc bầu cử hạ nghị sĩ, không một điều luật nào nhằm thay đổi các khoản trợ cấp cho công việc của thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ sẽ có hiệu lực.


Các tu chính án được đề nghị nhưng chưa được thông qua

Trước khi một tu chính án có hiệu lực, nó phải được hai phần ba số phiếu bầu của cả hạ viện và thượng viện chấp thuận trước khi giới thiệu đến các tiểu bang. Sau đó nó phải được hai phần số tiểu bang của Hoa Kỳ thông qua. Sáu tu chính án, do Quốc hội Hoa Kỳ đề nghị, đã bị thất bại vì không được đủ số phiếu cần thiết hai phần ba số nghị viện tiểu bang chấp thuận. Bốn trong các tu chính án này vẫn còn đang chờ đợi các nghị viện tiểu bang chấp thuận - hai tu chính án khác đã hết hạn chờ đợi.
Tu chính án Ngày đề nghị Tình trạng Đề tài
Tu chính phân chia đại diện tại Quốc hội 25 tháng 9, 1789 Vẫn còn chờ các nghị viện tiểu bang quyết định Phân chia đại diện tại Hạ viện Hoa Kỳ
Tu chính chức danh quí phái 1 tháng 5, 1810 Vẫn còn chờ các nghị viện tiểu bang Nghiêm cấm chức danh quí phái
Tu chính án Corwin 2 tháng 3, 1861 Vẫn còn chờ các nghị viện tiểu bang Duy trì chế độ nô lệ
Tu chính án về trẻ em lao động 2 tháng 6, 1924 Vẫn còn chờ các nghị viện tiểu bang Quốc hội có quyền ấn định luật lệ về lao động trẻ em
Tu chính án quyền bình đẳng 22 tháng 3, 1972 Hết hạn năm 1979 hay năm 1982 (một số học giả không đồng ý), mặc dù vẫn có thể được thông qua vì hạn kỳ đã từng được gia hạn và ngày hết hạn không có nói trong phần nội dung của tu chính án. Cấm bất bình đẳng giữa nam và nữ
Tu chính án quyền đầu phiếu của Đặc khu Columbia 22 tháng 8, 1978 Hết hạn năm 1986 Quyền đầu phiếu của Washington, D.C.

Chú thích

  1. ^  [Tu chính án I] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ ba
  2. ^  [Tu chính án II] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ tư
  3. ^  [Tu chính án III] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ năm
  4. ^  [Tu chính án IV] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ sáu
  5. ^  [Tu chính án V] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ bảy
  6. ^  [Tu chính án VI] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ tám
  7. ^  [Tu chính án VII] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ chín
  8. ^  [Tu chính án VIII] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ mười
  9. ^  [Tu chính án IX] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ mười một
  10. ^  [Tu chính án X] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ mười hai
  11. ^  [Tu chính án XXVII]] Xem Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ hai
Bản dịch này có thông tin cấp phép khác với văn kiện gốc. Tình trạng bản dịch áp dụng cho phiên bản này.