Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013

Bí quyết “5 chữ P” của Mark Zuckerberg

 

Bí quyết “5 chữ P” của Mark Zuckerberg

Bìa cuốn sách “Think Like Zuck: The Five Business Secrets of Facebook's Improbably Brilliant CEO Mark Zuckerberg” (Tạm dịch: “Nghĩ như Zuck: 5 bí mật kinh doanh của vị CEO Facebook lỗi lạc Mark Zuckerberg) của tác giả Ekaterina Walter.
Khi Mark Zuckerberg, nhà sáng lập mạng xã hội Facebook, trở thành người giàu thứ 29 trên thế giới và tỷ phú tự tay gây dựng cơ đồ trẻ thứ nhì trong năm 2012, nhiều người cảm thấy vừa ấn tượng lại vừa hồ nghi.

Nhìn bề ngoài, Zuckerberg không có những biểu hiện của một doanh nhân điển hình, nhưng có một điều chắc chắn là không ai có thể ngẫu nhiên xây dựng được một trang web với 1 tỷ người sử dụng.

Trang CNBC cho biết, trong cuốn sách mang tựa đề “Think Like Zuck: The Five Business Secrets of Facebook's Improbably Brilliant CEO Mark Zuckerberg” (Tạm dịch: “Nghĩ như Zuck: 5 bí mật kinh doanh của vị CEO Facebook lỗi lạc Mark Zuckerberg), tác giả Ekaterina Walter đã nói về những bí quyết đi tới thành công của tỷ phú trẻ tuổi này, gói gọn trong 5 từ bắt đầu bằng chữ “P”, bao gồm Passion (niềm đam mê), Purpose (mục đích), People (con người), Product (sản phẩm), và Partnerships (đối tác).

Niềm đam mê

Điểm chung của tất cả những vị CEO thành công nổi tiếng trên thế giới như Mark Zuckerberg của Facebook, Richard Branson của Virgin, Tony Hsieh của Zappo, Blake Mycoskie của TOMS, hay James Dyson của Dyson là họ đều có niềm đam mê lớn. Đối với Zuckerberg, niềm đam mê đó là kết nối mọi người.

“Nhiều nguyên tắc nền tảng của Facebook là nếu mọi người được tiếp cận nhiều hơn với thông tin và được kết nối nhiều hơn, thì thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn, mọi người sẽ hiểu nhau hơn, thông cảm với nhau hơn. Đó là nguyên tắc chỉ đường của tôi”, Zuckerberg từng nói.

James Dyson, CEO của tập đoàn sản xuất máy hút bụi Anh quốc Dyson, là một kỹ sư và nhà thiết kế công nghiệp. Niềm đam mê của ông là thay đổi những thiết kế đã có để làm chúng trở nên tốt hơn. Hiện ông sở hữu giá trị tài sản 2,3 tỷ USD.

Đam mê đem đến cho con người sự kiên nhẫn để đạt tới thành công, cho dù họ có gặp trở ngại gì. James Dyson đã phải tạo ra 5.172 mô hình khác nhau trước khi thiết kế được một chiếc máy hút bụi không túi hoàn hảo.

Bài học rút ra ở đây là, hãy hợp tác và tìm ra những con người có niềm đam mê. Họ chính là những người sẽ chinh phục các đỉnh núi, xoay chuyển tình thế, và đem đến những giải pháp sáng tạo nhất.

Mục đích

Facebook không chỉ là một sản phẩm đơn thuần, đó là cách kết nối xã hội đã thay đổi cuộc sống của hàng tỷ người. Mục đích của Zuckerberg là tạo ra một thế giới cởi mở, minh bạch hơn và tạo ra kết nối giữa mọi người. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có tầm không chỉ bán sản phẩm, họ đem tới những cách thức mới cho các vấn đề, và đó là mục đích mà công ty của họ hướng tới.

Khi Blake Mycoskie thành lập công ty TOMS, sứ mệnh của ông không phải là để sản xuất giày mà là để giúp đỡ trẻ em ở các nước đang phát triển. Với mục đích như vậy, TOMS đến nay đã tài trợ hàng triệu đôi giày cho trẻ em ở hơn 40 quốc gia trên thế giới.

Tất cả những việc mà Facebook làm, từ những nhân viên mà công ty này tuyển dụng, cho tới dịch vụ khách hàng mà công ty cung cấp, môi trường làm việc của công ty, cách thức tung ra các sản phẩm mới… đều dựa trên mục đích rõ ràng được truyền tải tới mọi cấp trong công ty.

Tác giả Ekaterina Walter cho rằng, để đạt tới thành công, mỗi công ty cần hiểu rõ được mục đích tồn tại của mình và đi theo mục đích đó mỗi ngày.

Con người

Một nhà lãnh đạo có thể có tầm nhìn, nhưng văn hóa của một công ty được xây dựng dựa trên đội ngũ nhân viên của công ty đó. Khi tuyển dụng nhân sự, Facebook không chỉ chọn những người giỏi nhất cho công việc, mà còn chọn những người phù hợp với văn hóa của công ty. “Hacker Way” (“phong cách hacker) là thứ thống trị ở Facebook. Đó là phương pháp sáng tạo nhanh chóng và liên tục mà tất cả mọi nhân viên cùng theo đuổi.

Cấu trúc quản lý dạng phẳng của Facebook đồng nghĩa với việc nhân viên được trao quyền lực để tạo ra những thay đổi và xây dựng ý tưởng của họ. Nhân viên Justin Rosenstein từng miêu tả Facebook là “một công ty với 60 kỹ sư mà làm được những việc mà những nhóm 600 người không thể làm được… Đó là sự tổng hòa gọn gàng của chiến lược từ trên xuống và phát triển sản phẩm từ dưới lên ở Facebook”.

Bài học ở đây: Tìm đúng người, những người có niềm đam mê đối với mục tiêu mà công ty đề ra, những người sẵn sàng làm mọi thứ trong khả năng của họ để giúp công ty thành công. Sau đó, để cho họ tự do đưa ra quyết định và trao quyền cho họ dấn thân vào những rủi ro.

Sản phẩm

Một thiết kế sản phẩm đơn giản và đẹp mắt là đã đủ để hãng Apple có chìa khóa cho sự thống lĩnh thị trường. Tương tự, Facebook đã luôn phấn đấu để xây dựng “sản phẩm tốt nhất và đơn giản nhất để mọi người chia sẻ thông tin dễ dàng nhất”, Zuckerberg từng nói. Facebook liên tục tinh gọn quy trình chia sẻ thông tin đó, và điều này thúc đẩy những sáng kiến lớn nhất của họ trong những năm qua.

Zuckerberg đặt trọng tâm vào sản phẩm trước rồi mới lo tới vấn đề doanh thu. Anh thậm chí đã từ chối lời chào mua Facebook 1 tỷ USD từ Yahoo vào năm 2006 vì anh quyết tâm đem sản phẩm của mình tới mọi người trên thế giới.

Bài học: Những công ty thành công nhất thế giới chú trọng sản phẩm trước đã, rồi mới đến doanh thu.

Đối tác

Một trong những thế mạnh then chốt của Zuckerberg với vai trò lãnh đạo là anh biết những hạn chế của anh. Việc chiêu mộ Sheryl Sandberg, Giám đốc hoạt động của Facebook, theo Zuckerber “là trung tâm của tăng trưởng và thành công của chúng tôi qua các năm”. Thiết lập được mối quan hệ đối tác đúng đắn, có thể là với các nhà đầu tư, ê kíp quản lý, hoặc nhà cung cấp, đều có ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ công ty nào.

Việc có các đối tác đúng đắn ở bên giúp Zuckerberg tự do phát huy thế mạnh của mình, bao gồm trí tưởng tượng, sự sáng suốt, và tầm nhìn. Mọi công việc lãnh đạo công ty để đạt tới thành công về tài chính đều giao cho Sandberg. Đó là một quan hệ đối tác hiệu quả.

Bài học ở đây là, không ai giỏi tất cả mọi thứ. Hãy tìm những đối tác tin tưởng vào sứ mệnh của bạn và bổ sung cho các kỹ năng của bạn.

Với vai trò một nhà lãnh đạo công ty, Zuckerberg đã đưa tầm nhìn của anh vào mọi khía cạnh của Facebook, từ văn hóa làm việc, cách sáng tạo không ngừng nghỉ, các mối quan hệ đối tác và các vụ thâu tóm. Anh có thể không phải là một nhà lãnh đạo doanh nghiệp truyền thống, nhưng niềm tin không thể lay chuyển của anh vào sứ mệnh của Facebook và tầm nhìn dài hạn của anh đã đóng vai trò then chốt cho sự thành công của mạng xã hội này.

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

Kinh tế 2013 sẽ đầy biến động nếu...

Ngày 12/01/2013, Báo Đất Việt có đăng bài "Kinh tế Việt Nam 2013: Cánh cửa cơ hội đã mở...". Ngay sau đó, tòa soạn đã nhận được phản hồi của bà Phạm Chi Lan và ông Lê Đăng Doanh khẳng định không trả lời báo Đất Việt. Qua kiểm tra xác minh sự thực cho thấy phóng viên đã trích dẫn sai lạc quan điểm của 2 chuyên gia từ trong các báo cáo của họ. Sau đây mới là ý kiến của chính ông Lê Đăng Doanh về tương lai kinh tế Việt Nam năm 2013.
Lực lượng doanh nghiệp bị suy giảm nhiều lắm rồi
  • PV: - Nền kinh tế 2012 gặp nhiều khó khăn, số doanh nghiệp chính thức tuyên bố phá sản đã là hơn 50.000, con số doanh nghiệp chết lâm sàng chắc cũng không nhỏ. Theo ông, có nên đổ lỗi cho tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay còn những lý do nào khác như chính sách điều hành vốn, lãi suất, rào cản khiến các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn… hoặc do bất động sản rơi tự do đã kéo theo?
TS Lê Đăng Doanh: - Các doanh nghiệp năm 2012 phá sản, doanh nghiệp còn lại hoạt động chỉ 30-40% công suất vì lượng tồn kho nhiều. Lực lượng doanh nghiệp bị suy giảm nhiều lắm rồi. Từ năm 2008 lạm phát cao, lãi suất cao, giá đầu vào tăng lên trong khi sức mua thì giảm sút.
Tình hình đó làm cho doanh nghiệp thêm khó khăn hơn rất nhiều. Trong tình hình khó khăn này có những doanh nghiệp bỏ cuộc, có những doanh nghiệp chống đỡ được bằng cách tái cấu trúc và vẫn tồn tại.
Năm 2012 có khoảng 55.000 doanh nghiệp phá sản. Như ông Vũ Tiến Lộc, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam nói: lần đầu tiên trong một năm số doanh nghiệp phá sản nhiều hơn doanh nghiệp đăng ký.
  • PV: - Vậy theo ông vì đâu mà xảy ra cơ sự này?
TS Lê Đăng Doanh: Chủ yếu là vì môi trường kinh tế vĩ mô xấu quá. Thêm nữa, doanh nghiệp có một thời đã lệ thuộc quá nhiều vào tín dụng cho nên khi tín dụng bị siết chặt, tổng mức tăng tín dụng chỉ còn 7% doanh nghiệp đã gặp khó khăn lớn.
Tôi nghĩ rằng qua đây tất cả các doanh nghiệp phải rút kinh nghiệm. Có những doanh nghiệp đã có chính sách đúng, có cải cách nên vẫn phát triển.
Ví dụ như Công ty mía đường Lam Sơn năm 2012 vẫn sống vì họ đã đầu tư nhà máy phát điện bằng cách chế biến bã mía, rồi xử lý rỉ đường qua đó thu được thêm, tiết kiệm được tiền mà không phải bỏ tiền thêm. Hay như xi măng Bỉm Sơn đã thành công vì đa dạng hóa sản phẩm cung cấp cho thị trường…
Những bài học của doanh nghiệp đã thành công là cách tốt nhất để các doanh nghiệp học tập tránh được những bi quan quá đáng trước tình hình hiện nay.
  • PV: - Nói như ông, sự thất bại của doanh nghiệp một phần cũng là do họ lệ thuộc quá nhiều vào ngân hàng. Năm 2012 cũng là năm vấn đề nợ xấu của nền kinh tế được nói đến nhiều nhất từ trước tới nay, Thủ tướng đã phải lên tiếng: “Xử lý nợ xấu của nền kinh tế, tôi cũng suy nghĩ là trăm sự nhờ ngân hàng. Nhờ chỗ nào? Chính là các đồng chí cho vay, doanh nghiệp khó khăn và nợ xấu, các đồng chí là người xử lý trước hết và chủ yếu.” Là chuyên gia kinh tế, ông có kiến giải gì về điều này?
TS Lê Đăng Doanh: - Không. Tôi không nghĩ là doanh nghiệp có thể đổ tội cho ngân hàng. Doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm.
Lý do là vì doanh nghiệp đã đi đầu tư phải có 70% vốn và chỉ vay ngân hàng 30% thôi. Đằng này có những doanh nghiệp đi đầu tư vay 100% vốn, khi lãi suất lên cao chết là đúng.
Có những ông chủ doanh nghiệp khi làm dự án chỉ có 30% vốn, sau đó đưa dự án đó ra để thu hút nhà đầu tư khác góp thêm 40-50% vốn, như vậy tổng số vốn lên tới 70-80% mới không phải vay vốn 100% của ngân hàng.
Theo tôi, mấu chốt của vấn đề là trong khó khăn doanh nghiệp nào thực sự cạnh tranh bằng chất lượng sẽ đứng vững.
Năm 2013: hy vọng và bất định
  • PV: - Ông có nghĩ rằng năm 2013 nền kinh tế của Việt Nam sẽ khá hơn sau khi rút ra bài học từ năm 2012?
TS Lê Đăng Doanh: - Tình hình kinh tế năm 2013 của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào tiến độ tái cấu trúc của chúng ta. Nếu cải cách được sẽ khá lên, nếu không cải cách hiệu quả sẽ còn khá nhiều vấn đề.
Đây sẽ là một năm đầy biến động, một năm của sự tái cấu trúc, cải cách. Kinh tế thế giới còn nhiều điều khó lường, rủi ro. Đối với kinh tế Việt Nam, điều khó khăn nhất trong năm 2013 là vấn đề nợ xấu sẽ được giải quyết đến đâu. Đóng băng tín dụng có thể được giải quyết đến mức độ nào.
Chúng ta nhớ lại, năm 2012, tín dụng chỉ tăng trưởng có 7% trong khi đó lạm phát bình quân cả năm là 9,2%/năm. Như vậy thực chất tín dụng là âm.
Vậy nếu như không có tín dụng thì doanh nghiệp không có “máu” để hoạt động. Chính vì thế cho nên năm 2012 là một năm thực sự khó khăn và có thể nói là thê thảm đối với doanh nghiệp.
Thứ hai là tình hình ngân hàng có thực sự tốt lên không? Năm 2012 ngân sách thu rất khó khăn, liệu năm 2013 ngân sách có cải thiện không và liệu đầu tư công có tăng lên không?
Trước những câu hỏi chưa thể giải đáp ngay cho nên kinh tế năm 2013 là lẫn lộn giữa hy vọng và bất định.
  • PV: - Theo ông các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với điều gì?
TS Lê Đăng Doanh: - Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề lãi suất. Cứ nói lãi suất sẽ giảm nhưng thực tế vẫn là 15-17% chứ không phải lãi suất thấp như Ngân hàng nhà nước đã ấn định.
Điều này cũng là dễ hiểu vì vốn mà doanh nghiệp cho vay chính là vốn họ đã huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Giống như một gia đình có bồ gạo được gom từ nhiều nguồn khác nhau thì bây giờ phải trộn lên mới ra gạo chung.
Thứ ba là liệu tín dụng có khá lên không, sức mua của người dân có tăng lên không? Lượng tồn kho có giảm không… là những câu chuyện doanh nghiệp cần lưu ý để cân nhắc cho sức sản xuất của mình.
  • PV: - Vậy ông có hiến kế gì đối với công tác quản lý kinh tế của Nhà nước và các doanh nghiệp để năm 2013 tránh được rủi ro?
TS Lê Đăng Doanh: - Chính phủ đã đưa ra 2 Nghị quyết 01 và 02 đều có những quyết sách rất quan trọng đối với các doanh nghiệp như giãn thuế, lập quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp. Tôi nghĩ đó là những chính sách đúng đắn. Vấn đề còn lại là phải thực hiện chính sách đó một cách có hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp cần phải tự cải cách, tự cứu mình, không nên quá trông chờ vào các biện pháp trợ giúp của Nhà nước, mặc dù nhà nước đã đưa ra Nghị quyết 01 với 9 biện pháp trong đó có nhiều biện pháp thiết thực để có thể trợ giúp doanh nghiệp.
Thế nhưng, cách tốt nhất là các doanh nghiệp sẽ phải đẩy mạnh tái cấu trúc, tự mình cứu mình vươn lên.
  • Xin trân trọng cảm ơn và chúc ông sức khỏe!
9 nhóm giải pháp chủ yếu của Chính phủ
Theo Nghị quyết 01, để thực hiện có kết quả các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2013, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan trung ương, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tập trung chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện 9 nhóm giải pháp chủ yếu gồm:
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát;
Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh;
Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng;
Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân;
Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân;
Tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu;
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phòng chống tham nhũng, lãng phí, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và xây dựng đời sống văn hóa;
Bảo đảm quốc phòng an ninh và ổn định chính trị, xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại;
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội.
Bích Ngọc (thực hiện)

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Otto Graf Lambsdorff – Tự do: Biện pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu nhất (2)

Bàn thêm về nhu cầu tăng trưởng kinh tế

Một trong những vấn đề quan trọng nhất: giúp người nghèo tiếp cận với với các cơ hội kinh tế. Trước hết, vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi có một nền kinh tế phát triển năng động. Ở đây những người xã hội chủ nghĩa lại thể hiện một sự thiếu khôn ngoan nữa: trong khi xem xét vấn đề xoá đói giảm nghèo họ đã bỏ qua hoặc ít nhất cũng cố tình hạ thấp ý nghĩa của việc phát triển kinh tế. Đấy là do những người cánh tả quá chú trọng đến vấn đề sử dụng ngân sách và thiết lập bộ máy quan liêu và sự kiện không lấy gì làm thú vị đối với những người cánh tả là chính sách kinh tế tự do, đặc biệt là tự do thương mãi thu được nhiều thành công trong thời gian dài hơn là chính sách can thiệp của nhà nước. Đến mức là những người bảo vệ môi trường tấn công chủ nghĩa tự do và đặc biệt là họ tấn công thương mãi vì nó dẫn đến tốc độ phát triển kinh tế quá cao!
Chủ nghĩa tự do cổ điển ủng hộ tự do thương mãi – đây là chiến lược kinh tế thành công nhất trong lịch sử thế giới. Trong thế kỉ XIX nó đã giúp chấm dứt nạn đói ở châu Âu, một hiện tượng vốn được coi là bộ phận không thể tách rời của nhân loại. Chúng ta thường quên mất rằng, thí dụ, ở Pháp trong thế kỉ ХVIII đã xảy ra 9 nạn đói, làm chết 5% dân số lúc đó. Hôm nay nạn đói chỉ có thể xảy ra trong các chế độ độc tài, không có tự do và nằm ngoài hệ thống thị trường tự do, thí dụ như Bắc Triều Tiên mà thôi. Thời đại thương mãi tự do thế kỉ XIX, lần đầu tiên trong lịch sử, đã làm cho tất cả mọi người đều có thể trở thành giàu có. Không nghi ngờ gì rằng hôm nay thị trường tự do vẫn là nguồn gốc của giàu có. Điều này còn được các số liệu thực nghiệm chứng minh nữa.
Quĩ Friedrich Naumann là một trong khoảng 52 cơ quan đồng xuất bản kết quả nghiên cứu Tự do kinh tế thế giới do Milton Friedman, Giải Nonel Kinh tế, khởi sự. Mục đích của nghiên cứu này là đo lường và so sánh mức độ tự do kinh tế tại 123 nước. Để xác định vị trí của từng nước trong bảng tổng kết, người ta đã sử dụng các thông số có thể đo lường được như mức thuế, tỉ lệ đóng góp của nhà nước vào GDP và số lượng các qui định nhằm hạn chế thương mãi. Cuộc khảo cứu không hoàn toàn mang tính hàn lâm. Kết quả cho thấy mức độ phụ thuộc giữa tự do kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, nhà nước càng áp bức thì kinh tế càng kém năng động. Điều này không làm cho các nhà kinh tế học theo đường lối tự do ngạc nhiên, họ luôn nói rằng tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc vào sáng kiến cá nhân, phụ thuộc vào sức sáng tạo và khả năng mạo hiểm, mà những phẩm chất như thế lại đòi hỏi môi trường phát triển tự do cho mỗi cá nhân. Đáng tiếc là khi soạn thảo chính sách kinh tế, không phải lúc nào người ta cũng dựa vào ý nghĩ đúng đắn như thế.
So sánh kết quả của nghiên cứu Tự do kinh tế thế giới với các tiêu chí khác của đời sống chứ không chỉ với tốc độ tăng trưởng cũng chứng tỏ rằng trong những nước tự do nhất, tỉ lệ người nghèo và mù chữ thấp hơn, ít tham nhũng hơn và tuổi thọ cao hơn. Một lần nữa ý tưởng đúng đắn này buộc ta phải giả định rằng kinh tế phát triển tạo ra những ngưồn lực cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề nóng bỏng nhất của nhân loại. Nhưng một lần nữa huyền thoại cho rằng người nghèo sẽ chẳng được gì vẫn còn rất mạnh. Còn nhớ thành ngữ: Giàu giàu thêm, nghèo càng khó. Đây là một niềm tin sai lầm, kinh nghiệm lịch sử và bằng chứng của các cuộc khảo cứu chứng tỏ điều đó. Nhưng có vẻ như các bằng chứng hiển nhiên cũng không đủ sức thách thức những quan niệm đã ổn định. Nhưng có thể đấy là do người ta không nhận thức được rằng kinh tế không phải là hiện tượng có thể hiểu được bằng trực giác: kinh tế không phải là cuộc chơi với tổng bằng không, kinh tế phát triển không làm thiệt hại bất kì ai, mà trao đổi tự do và tự nguyện mang lại lợi ích cho cả hai phía tham gia. Nói cách khác, có thể cùng nhau làm giàu, chỉ có nhanh chậm khác nhau mà thôi.
Còn các nước “lạc hậu” thì sao? Chúng ta thường nghe nói đến việc gia tăng khoảng cách giữa những nước giàu và những nước nghèo. Đấy là sự thật. Trong “thế giới thứ ba” có những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng không, thậm chí âm nữa, trong khi đó kinh tế của đa số các nước phát triển đều gia tăng, ít nhất là với mức vừa phải. Nhưng so sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế với mức độ tự do kinh tế thì chúng ta mới hiểu rằng các nước nghèo nhất và kém phát triển nhất về mặt kinh tế lại là những nước gần như không mở cửa nền kinh tế và nhà nước thường xuyên can thiệp vào tự do hoạt động kinh tế của dân chúng. Đúng là có những dân tộc “lạc hậu”, nhưng họ không phải là nạn nhân của tự do thương mãi hay là toàn cầu hoá. Họ là nạn nhân của những nhà lãnh đạo nước mình!
Có thể chứng minh được rằng tốc độ phát triển hầu như không phản ảnh được sự phân bố tài sản trong nước. Theo số liệu của các phương tiện truyền thông đại chúng, quá trình tự do hoá nền kinh tế trong các nước công nghiệp phát triển có thể thúc đẩy việc hình thành những chỗ làm việc mới, nhưng đây chỉ là những chỗ làm việc cho những người không có chuyên môn – “McJobs”, những người có học gọi như thế nhằm gia tăng màu sắc bài Mĩ của mình. Lao động nghèo – một công thức mới, họ vọng rằng nó sẽ là lợi khí trong tay những chiến sĩ đấu tranh chống lại quá trình toàn cầu hoá và tự do thưong mãi cả từ phe tả lẫn phe hữu. Nhưng ngay cả như thế đi nữa thì vẫn tốt hơn là không cho những người công nhân tay nghề thấp được tiếp xúc với thị trường lao động, như các nước châu Âu với một hệ thống bảo trợ xã hội quá cồng kềnh đang làm. Song thực tế không phải là như thế. Công nghệ mới không những không thu hẹp chỗ làm mà còn tạo ra thêm chỗ làm mới, tốt hơn.
Ở những nước mà thị trường tương đối cởi mở, nhu cầu người lao động có tay nghề cao chứ không phải người lao động có tay nghề thấp đang gia tăng. Ở Mĩ 55% chỗ làm việc mới xuất hiện từ 1983 đến năm 1996 là dành cho các chuyên gia có tay nghề cao, gần 32% đòi hỏi tay nghề trung bình và chỉ có 18% dành cho người có tay nghề thấp mà thôi. Còn nếu xem xét việc phân phối thu nhập trong nội bộ các nước thì thấy rằng những nước nghèo nhất và mất tự do nhất lại là những nước có sự bất bình đẳng nhiều hơn là các nước có tự do về kinh tế. Đôi khi phải nhìn vào số liệu thì mới hiểu được những bí ẩn đằng sau những khẩu hiệu về tự do kinh  tế và thị trường toàn cầu. Vì vậy, như giáo sư Jagdish N. Bhagwati, một chuyên gia về lĩnh vực thương mãi, đã khẳng định trong bài báo “Hi vọng tốt nhất cho người nghèo”, cần phải đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mãi trên bình diện toàn cầu với sự trợ giúp của WTO. Ông kịch liệt phê phán chính phủ các nước đang phát triển vì họ không nhận ra những bất lợi của chính sách bảo hộ kéo dài và sai lầm của nhiều người trong số họ khi cho rằng các nước giàu thi hành chính sách bảo hộ thì họ cũng có quyền tiếp tục làm như thế. Như vậy là họ đã làm hại mình đến hai lần.
Soạn thảo chính sách kinh tế chính là tạo ra các định chế góp phần hình thành nên các thị trường cho sản phẩm và nhân tố sản xuất hoạt động một cách hữu hiệu. Để giải quyết vấn đề này người ta thường sử dụng các tác nhân chính sau đây: toà án, hệ thống luật pháp, cơ chế hành pháp công bằng và hệ thống bảo vệ quyền tư hữu hoạt động một cách hữu hiệu. Sau đây chúng ta sẽ xem xét các biện pháp này có ảnh hưởng trực tiếp đến người nghèo như thế nào. Cần phải nhắc đến một khía cạnh nữa của việc hình thành thị trường, đấy là cung ứng và bảo trì hạ tầng cơ sở. Các nghiên cứu về đói nghèo trên khắp thế giới đều cho thấy rằng tiếp xúc với hạ tầng cơ sở, thí dụ như đường xá và điện, giúp làm giảm mức độ nghèo khổ. Hạ tầng giao thông đưa người dân tới thị trường và giúp người dân nông thôn tiếp xúc với những cơ hội kinh tế mới, như gia tăng sản lượng hàng hoá có thu nhập cao, thí dụ trồng rau để cung cấp cho thành thị. Điện giúp người ta thành lập các xưởng sản xuất nhỏ. Không có hạ tầng cơ sở như thế, quá trình phát triển sẽ chỉ diễn ra trong các khu vực có liên hệ với nền thương mại quốc tế, chỉ phát triển trong các khu vực gần bờ biển còn các khu vực nằm sâu trong nội địa thì vẫn trì trệ. Minh chứng rõ ràng nhất là Ấn Độ và Trung Quốc.
Người nghèo cần một cuộc cách mạnh về pháp lí
Mặc dù mối liên hệ giữa chính sách kinh tế tự do và sự phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo đã được xác định bằng thực nghiệm nhưng khi tiếp xúc với những đau khổ của người nghèo thì đa số lại cho răng những cuộc cải cách vĩ mô đó có tính cách quá trừu tượng và xa lạ với đời sống của những tầng lớp nghèo khó. Những cách suy nghĩ như thế chính là cản trở mang tính chính trị, ngăn cản việc thực thi các cuộc cải cách vì chúng không động viên người nghèo đứng về phía phong trào tự do.
Từ quan điểm đạo đức thì dù làm bất cứ việc gì – từ thiện hay thông qua trợ giúp của chính phủ, miễn là giúp được người nghèo – cũng đều đáng ca ngợi cả. Nhiều người nghèo cũng đòi hỏi như thế khi họ tham gia vào những quan hệ mang tính bảo trợ-chủ tớ. Nhưng đằng sau động cơ mang tính đạo đức này người ta lại thường lờ đi, không bàn xem là những biện pháp đó có loại bỏ được những nguyên nhân thật sự hay chúng chỉ làm giảm phần nào triệu chứng của căn bệnh đồng thời càng làm gia tăng sự phụ thuộc của người nghèo và đè nén sáng kiến của chính họ. Nhận thức được điều này thì các tổ chức đang giúp đỡ việc xoá đói giảm nghèo sẽ phải coi việc quảng bá tư tưởng sáng kiến cá nhân là nhiệm vụ chính của mình. Như vậy là, cuối cùng người ta đã công nhận rằng người nghèo không phải là những người vô tích sự mà những người với những tiềm năng bẩm sinh chưa được phát huy. Tuy nhiên, sẽ xuất hiện một câu hỏi đơn giản sau: tại sao người nghèo lại cần các tổ chức bên ngoài, nhiều khi là các tổ chức ngoại quốc, động viên mới làm được những việc hiển nhiên, mà lại là làm cho chính mình nữa? Thời kì khi mà người châu Âu bắt đầu chinh phục con đường xoá đói nghèo làm gì đã có các tổ chức phi chính phủ!
Ta có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi loại đó trong hai tác phẩm tuyệt với của nhà kinh tế học Peru tên là Erando de Soto. Ông đã sử dụng ngay hệ thống kinh tế trong đó người nghèo đang sống làm xuất phát điểm cho công cuộc khảo cứu của mình. Ông chỉ ra rằng người nghèo không có điều kiện tiếp xúc với các công cụ và định chế pháp lí, tức là những phương tiện giúp gia tăng tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường hiện đại, trong đó có các tiêu chuẩn pháp lí nhằm bảo vệ và thực thi các hợp đồng, quyền tư hữu ổn định và được bảo đảm cũng tức là công cụ điều tiết thị trường đơn giản nhưng cũng rất hiệu quả. Không những thế, họ lại phải chạm trán với một hệ thống tư pháp phức tạp và kém hiệu quả. Ngay cả nếu gặp được các quan toà độc lập và chuyên nghiệp thì vụ việc cũng kéo dài hàng năm. Các văn bản pháp qui của nhà nước thì vừa quá phức tạp vừa bao trùm lên mọi lĩnh vực thành ra mọi hoạt động kinh tế đều bị giấy tờ dấu má cản trở. Người nghèo có thể có một chút vốn liếng, thí dụ như mảnh đất trong khu “xóm liều”, nhưng số vốn này lại không được đăng kí một cách hợp pháp.
De Soto và các cộng sự của ông đã làm một cuộc thí nghiệm: thực hiện tất cả các thủ tục, không đút lót cho ai, nhằm thành lập xưởng may với chỉ một công nhân. Phải mất gần một năm mới xong, kết luận rút ra là: không một doanh nghiệp nhỏ nào có thể tuân thủ được pháp luật. Đấy là một trong những lí do chính vì sao thị trường không chính thức lại phát đạt như thế.
Các qui định mang tính cấm đoán cũng có liên hệ đến sáng kiến của người nghèo: tại nhiều nước, sáng kiến, trong đó cho vay những khoản vốn nho nhỏ, là bất hợp pháp. Về lí thuyết thì đấy là nhằm bảo vệ người nghèo khỏi bị bóc lột. Nhưng trên thực tế thì họ lại bị cảnh sát và các quan chức bóc lột, phải mua chuộc những người này thì mới được hoạt động. Người nghèo, dù là người buôn bán nhỏ trên đường phố, người đạp xích lô hay lái xe, cũng đều phải trả tiền cho cảnh sát hay quan chức chính quyền cả.
Đấy là lí do giải thích vì sao phải có sự trợ giúp từ bên ngoài thì mới thoát được đói nghèo. Các tổ chức từ thiện ngoại quốc thường thuyết phục và áp lực chính phủ và bộ máy quan liêu để họ không ngăn cản sáng kiến cá nhân, ít nhất là trong một giới hạn nào đó. Đây là một trong những thành quả của các tổ chức nước ngoài, nhưng lại ít được công nhận nhất, nó giúp bảo vệ sáng kiến cá nhân trong các nước đang phát triển, không để cho bộ máy quan liêu của chính phủ bóp chết các sáng kiến đó ngay từ trong trứng nước.
Một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất là bảo vệ quyền tư hữu. Ở các nước phía Nam, quyền tư hữu thường được xác định không rõ ràng, hoặc không được bảo vệ hay khó chuyển giao. Hệ thống luật pháp về quyền tư hữu ở các nước này thường quá rắc rối, không phản ánh thực tế đời sống của người nghèo và được quản lí một cách cực kì kém hiệu quả. Nhiều người nghèo sống trong các “xóm liều”, không được công nhận về mặt pháp lí. Sự kém hiệu quả của thị trường sở hữu dẫn đến việc là càng ngày càng có nhiều người di cư vào thành phố không có đất ở và nhà ở. Vì vậy mà họ thường chiếm đất do chính phủ quản lí. Trong khi đó, chính phủ, tuy vẫn nắm quyền quản lí nhưng lại không biết phải làm gì và làm sao giữ được những khu đất đang nằm trong tay mình. Những cuộc lấn chiếm như thế thường do các “đầu nậu không chính thức”, tức là chủ nhân thật sự của những “xóm liều” thực hiện. Họ chính là những người đứng ra bảo vệ cho dân chúng sống trong các vùng đất bất hợp pháp đó. Người nghèo trong các “xóm liều” phải trả tiền thuê nhà cho đầu nậu, cho họ toàn quyền sử dụng tiếng nói của mình trong các cuộc bầu cử và tạo ra đám đông trong các buổi mít-tinh. Điều này, dĩ nhiên là có hại cho dân chủ và phát triển kinh tế, nhưng người nghèo không có lựa chọn nào khác.
Hậu quả kinh tế của tình hình nói trên là rất nghiêm trọng. Các loại tài sản như nhà ở, túp lều hay mảnh đất mà quyền sở hữu không rõ ràng hoặc không được công nhận không thể được chuyển hoá thành nguồn vốn. Chỉ cần người chủ sở hữu tài sản được xác nhận và được pháp luật bảo vệ, còn việc chuyển giao quyền sở hữu trở thành an toàn và hiệu quả thì tài sản ngay lập tức có thể trở thành nguồn thu nhập mới. Bằng cách đó, tài sản sẽ có một đời sống mới, đời sống ảo, dưới dạng nguồn vốn.  Người nghèo thường bị tước mất quyền này: họ có tài sản nhưng không tiếp cận được các phương tiện pháp lí có thể biến tài sản thành sở hữu, và bằng cách đó chuyển hoá thành đồng vốn. De Soto viết rằng tổng số vốn không được sử dụng, nói cách khác là vốn “chết”, trong các nước phía Nam là hơn một chục tỷ Dollar Mĩ, mà phần lớn là vốn của người nghèo. Không một sự trợ giúp ngoại quốc nào có thể so sánh được với tiềm năng hình thành nguồn vốn lớn như thế. Hơn nữa, nếu làm được như thế, người nghèo sẽ có tài sản được đăng kí không phải là nhỏ.
Ở đây một lần nữa xin trở lại với ý tưởng ban đầu: giúp người nghèo tiếp cận với quyền sở hữu là cách xoá đói giảm nghèo tốt nhất. Hoá ra trong nhiều trường hợp việc này không hề tốn kém gì cả: chỉ cần công nhận về mặt pháp lí quyền sở hữu trên thực tế. Tất cả người nghèo trong các “xóm liều” đều biết ai là chủ túp lều nào. Nhà nước chỉ cần công nhận sự kiện đó và cung cấp cho các “sở hữu chủ mới” việc bảo vệ hữu hiệu về mặt pháp lí mà thôi. Theo De Soto, ban hành luật pháp phải được coi như là hành động xâm nhập thực tế. Trong quá trình đó ta sẽ thấy cần nhiều loại văn bản pháp qui khác nhau. Thí dụ, khu đất mà bộ lạc đã làm chủ hàng thế kỉ nay có thể đưa vào hệ thống quyền sở hữu hình thức nếu ta đăng kí nó dưới dạng sở hữu của hợp tác xã hay công ty cổ phần. Ở châu Âu đã có những trường hợp tương tự như thế, đấy là các tu viện, trong đó các thày tu hay các bà sơ đồng sở hữu mảnh đất tu viện và như vậy là họ trở thành những đối tác trên thị trường. Nếu bộ lạc muốn giữ gìn truyền thống canh tác tập thể thì văn bản pháp qui phải ghi nhận bộ lạc như người chủ sở hữu duy nhất.
Công nhận và bảo vệ quyền sở hữu của người nghèo không phải là nhiệm vụ thực tiễn mà là nhiệm vụ chính trị. Trong một thời gian dài, những người bảo vệ người nghèo đã ngoảnh mặt làm ngơ đối với quyền tư hữu của họ vì cho rằng đây là vấn đề của gnười giàu. Trong các nước phía Nam đây là sai lầm chết người. Tại các nước này người giàu lại không cần bảo vệ quyền tư hữu bằng người nghèo. Trên thực tế, chính vì không được xác định và không được bảo vệ mà người giàu thường tấn công và phá hoại quyền sở hữu của người nghèo. Thí dụ ở Bangladesh là một minh chứng: muốn thoát nghèo, một phụ nữ đã vay tiền của ngân hàng Grameen. Sau một thời gian lao động miệt mài và dành dụm bà đã kiếm được một số vốn và định mở một xưởng cưa nhỏ. Một doanh nhân địa phương, kẻ cạnh tranh với bà nhưng có nhiều thế lực hơn đã cho bọn lâu la đến đe doạ buộc bà phải từ bỏ ý định. Biết rằng cảnh sát sẽ đứng về phía hắn, còn toà án thì kéo dài hàng năm, cuối cùng bà đã đầu hàng.
Ở các nước phía Nam, những câu chuyện như thế không phải là hiếm. Chỉ cần nói chuyện với một vài doanh nhân về việc chuyển địa điểm sản xuất hay xây dựng nhà máy mới là họ chẳng bao giờ dám xâm phạm vào lãnh thổ của kẻ khác. Xảy ra chuyện như thế là vì chính phủ không bảo vệ được pháp luật, chính quyền địa phương, sống dựa vào những cộng đồng sắc tộc hoặc tôn giáo thiểu số, đứng ra làm việc đó thay cho chính phủ. Các hiện tượng như thế là những cản ngại nghiêm trọng trên con đường phát triển và tạo ra những rào cản không thể nào vượt qua được đối với hoạt động kinh tế của người nghèo. Trong những cuộc khảo cứu nhằm tìm hiểu thêm vấn đề vừa nêu, ngân hàng  Grameen đã lí giải được vì sao những người vay tiền của họ không tìm cách thoát ra khỏi cảnh “vắt mũi vừa đủ đút miệng” của họ. Câu trả lời: thiếu quyền sở hữu tài sản ổn định, mà rộng hơn là thiếu luật pháp, mà cụ thể là trong lĩnh vực kinh tế, tức là thiếu những điều luật giúp cho người nghèo chuyển từ nền kinh tế ngầm sang nền kinh tế chính thức.
Không có các quyền tư hữu được ghi nhận một cách rõ ràng cũng là nguyên nhân của cảnh nghèo đói lan tràn khi người dân phải di cư khỏi những vùng đất họ đã sống nhiều đời để nhường chỗ cho các “dự án phát triển”, thí dụ như xây hồ chứa nước chẳng hạn. Ấn Độ hầu như đã xoá bỏ quyền sở hữu được hiến pháp bảo hộ, tức là bỏ điều luật nói rằng nhà nước phải đền bù 100% khi trưng dụng, nhằm hạ giá thành các dự án. Trong khi xoá bỏ điều luật thì người ta nói rằng đấy là để chống lại các đại điền chủ. Nhưng trên thực tế điều đó đã dẫn đến kết quả là hàng chục ngàn người nghèo đã bị mất hết nhà cửa mà không được đền bù thoả đáng vì không có quyền sở hữu một cách rõ ràng nên không thể đưa ra toà được. Bi kịch ở chỗ là đa số những người chống đối việc xây các con đập đó lại không nhận thức được vấn đề từ quan điểm về quyền sở hữu.
Thay đổi tình trạng nói trên là một tiến trình chính trị. Phải bảo đảm rằng trong quá trình chuyển sang hệ thống quyền sở hữu hữu hiệu hơn và ổn định hơn, người nghèo sẽ không bị những kẻ có quyền thế, thí dụ như chủ của các “xóm liều” chèn ép. Nguy cơ này dĩ nhiên là có, nếu việc điều tiết các tiến trình kinh tế vẫn cứ nằm trong tay các quan chức và những nhà kĩ trị phục vụ cho các thế lực có nhiều ảnh hưởng như hiện nay. Cần phải thực hiện một cuộc cách mạng theo hướng tự do hoá – và ở đây xin nhắc lại rằng chính cuộc cách mạng như thế đã xảy ra trong lịch sử châu Âu.
Như vậy là, nhiệm vụ của chúng ta không phải là phát minh ra những phương pháp phân chia tài sản mới và tốt hơn, có lợi cho người nghèo hơn. Mà là công nhận quyền tham gia của người nghèo vào đời sống kinh tế, đưa ra những điều luật phù hợp và tạo ra những định chế giúp họ thoát khỏi khu vực kinh tế ngầm và trở thành những thành viên bình thường của nền kinh tế thị trường chính thức. Đấy chính là quyền bất khả xâm phạm mà họ đã bị tước đoạt từ quá lâu rồi.

Phạm Minh Ngọc
___________
Tiến sĩ Otto Graf Lambsdorff là cựu Bộ trưởng Kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, hiện giữ chức chủ tịch quĩ Friedrich Naumann.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Nga: http://liberal.ru/Library_DisplayBook.asp?Rel=21. Một phần bản dịch tiếng Việt đã đăng trên tạp chí Tia Sáng, Hà Nội.

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Phương pháp tư duy 6 chiếc mũ - chìa khóa giải quyết xung đột ý kiến trong nhóm

Bạn cần ra quyết định về một vấn đề? Nhóm của bạn đang tranh cãi về một chương trình sắp tới? Hãy sử dụng kỹ thuật 6 chiếc mũ tư duy để hướng mọi người cùng tập trung vào vấn đề từ cùng một góc nhìn, để rồi sẽ triệt tiêu hoàn toàn các tranh cãi xuất phát từ các góc nhìn khác nhau. . Phương pháp tư duy này là một kỹ năng rất nổi tiếng được nhiều công ty, tập đoàn hàng đầu ứng dụng.

LỊCH SỬ CỦA PHƯƠNG PHÁP
Đây là phát kiến của Tiến sĩ Edward de Bono trong năm 1980. Năm 1985 nó đã được mô tả chi tiết trong cuốn "Six Thinking Hats" cuả de Bono.
Phương pháp này đã được phát triễn và giảng dạy ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều tổ chức lớn như là IBM, Federal Express, Brtish Airways, Pepsi, Polaroid, Prudential, Dupont, ...cũng dùng phương pháp này.
Kỹ thuật "6 chiếc mũ tư duy" (6 Thinking Hats) là một kỹ thuật mạnh mẽ và độc đáo. Kỹ thuật này nhằm hướng mọi người cùng tập trung vào vấn đề từ cùng một góc nhìn, do đó sẽ triệt tiêu hoàn toàn các tranh cãi xuất phát từ các góc nhìn khác nhau. Bên cạnh đó, giúp các cá thể có được nhiều cái nhìn về một đối tượng mà những cái nhìn này sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy được.
Đây là một khuôn mẫu cho sự suy nghĩ và nó có thể kết hợp thành lối suy nghĩ định hướng. Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có chỗ đứng riêng của nó nhưng các phê phán đó sẽ không được phép thống trị như là thường thấy lối suy nghĩ thông thường.
ỨNG DỤNG CỦA KỸ THUẬT 6 CHIẾC MŨ TƯ DUY
  • Kích thích suy nghĩ song song
  • Kích thích suy nghĩ toàn diện
  • Tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến ...) và chất lượng
  • Đào tạo về sáng tạo, điều phối cuộc họp, quản lý cuộc họp.
  • Tăng năng suất làm việc và trao đổi trong nhóm.
  • Cải tiến sản phẩm và quá trình quản lý dự án.
  • Phát triển tư duy phân tích, và ra quyết định.
Ý NGHĨA CỦA TỪNG LOẠI MŨ
Dùng 6 cái mũ đại diện cho 6 dạng thức cuả suy nghĩ. Nó đề cập đến chiều hướng suy nghĩ hơn là tên gọi. Mỗi nón có một màu (mà màu này chỉ đại diện cho duy nhất 1 dạng thức duy nhất cuả suy nghĩ).
Mọi người đều sẽ tham gia góp ý. Tuỳ theo kiểu ý kiến mà người đó sẽ đề nghị đội mũ màu gì.
Các mũ không được dùng để phân loại cá nhân mặc dù hành vi hay thói quen của cá nhân đó "dường như" hay có vẻ thuộc về loại nào đó. Nó chỉ có tác dụng định hướng suy nghĩ trong khi thành viên trong nhóm cho ý kiến đội lên mà thôi . Lưu ý rằng, 6 chiếc mũ này chỉ là một cách thức tượng trưng, không cần phải có 6 cái mũ thật khi tiến hành kỹ thuật này. Ý nghĩa của 6 chiếc mũ với 6 màu khác nhau này được trình bày bên dưới:
Mũ trắng: mang hình ảnh của một tờ giấy trắng, thông tin, dữ liệu. Khi chúng ta tưởng tượng đang đội chiếc mũ trắng, chúng ta chỉ cần suy nghĩ về các thông tin, dữ kiện liên quan đến vấn đề đang cần giải quyết, tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu cứ liệu và những thứ cần thiết, làm sao để nhận được chúng.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
  • Chúng ta có những thông tin gì về vấn đề này?
  • Chúng ta cần có những thông tin nào liên quan đến vấn đề đang xét?
  • Chúng ta thiếu mất những thông tin, dữ kiện nào?
Mũ đỏ: mang hình ảnh của lửa đang cháy trong lò, con tim, dòng máu nóng, sự ấm áp. Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ đỏ, chúng ta chỉ cần đưa ra các cảm giác, cảm xúc, trực giác, những ý kiến không có chứng minh hay giải thích, lí lẽ của mình về vấn đề đang giải quyết. Chỉ đưa ra các điều bộc phát đó, không cần giải thích.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
  • Cảm giác của tôi ngay lúc này là gì?
  • Trực giác của tôi mách bảo điều gì về vấn đề này?
  • Tôi thích hay không thích vấn đề này?
Mũ vàng: mang hình ảnh của ánh nắng mặt trời, sự lạc quan, các giá trị, các lợi ích, vàng 9999. Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ vàng, bạn sẽ đưa ra các ý kiến lạc quan, có logic, các mặt tích cực, các lợi ích của vấn đề, mức độ khả thi của dự án.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
  • Những lợi ích khi chúng ta tiến hành dự án này là gì?
  • Đâu là mặt tích cực của vấn đề này?
  • Liệu vấn đề này có khả năng thực hiện được không?
Mũ đen: mang hình ảnh của đêm tối, đất bùn. Người đội mũ đen sẽ liên tưởng đến các điểm yếu, các lỗi, sự bất hợp lý, sự thất bại, sự phản đối, trần trừ, thái đội bi quan. Vai trò của chiếc nón đen là giúp chỉ ra những điểm yếu trong quá trình suy nghĩ của chúng ta. Chiếc nón đen để dùng cho "sự thận trọng", nó chỉ ra các lỗi, các điểm cần lưu ý, các mặt yếu kém, bất lợi của vấn đề hay dự án đang tranh cãi. Chiếc nón đen đóng vai trò hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho dự án của chúng ta tránh được các rủi ro, nó ngăn chúng ta làm điều sai, bất hợp pháp hay nguy hiểm.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
  • Những rắc rối, nguy hiểm nào có thể xảy ra?
  • Những khó khăn nào có thể phát sinh khi tiến hành làm điều này?
  • Những nguy cơ nào đang tiềm ẩn?
Mũ xanh lá cây: Hãy liên tưởng đến cây cỏ xanh tươi, sự nảy mầm, sự đâm chồi, sự phát triển. Chiếc nón xanh lá cây tượng trưng cho sự sinh sôi, sáng tạo. Trong giai đoạn đội nón này, chúng ta sẽ đưa ra các giải pháp, ý tưởng cho vấn đề đang thảo luận.
Một số câu hỏi có thể sử dụng:
  • Có những cách thức khác để thực hiện điều này không?
  • Chúng ta có thể làm gì khác trong trường hợp này?
  • Các lời giải thích cho vấn đề này là gì?
Mũ xanh da trời: Hãy nhìn bầu trời xanh lồng lộng bằng con mắt bao quát. Chiếc nón xanh da trời sẽ có chức năng giống như nhạc trưởng, nó sẽ tổ chức các chiếc nón khác - tổ chức tư duy. Nón xanh da trời sẽ kiểm soát tiến trình tư duy. Đây là chiếc nón của người lãnh đạo hay trưởng nhóm thảo luận. Vai trò của người đội nón xanh da trời là:
  • Xác định trọng tâm và mục đích thảo luận cho nhóm (Chúng ta ngồi ở đây để làm gì? Chúng ta cần tư duy về điều gì? Mục tiêu cuối cùng là gì?)
  • Sắp xếp trình tự cho các chiếc nón trong suốt buổi thảo luận. Người đội nón xanh da trời cần bảo đảm nguyên tắc vàng sau: "Tại một thời điểm nhất định, mọi người phải đội mũ cùng màu".
  • Cuối cùng, tập hợp mọi ý kiến, tóm tắt, kết luận và ra kế hoạch (Chúng ta đã đạt được gì qua buổi thảo luận? Chúng ta có thể bắt đầu hành động chưa? Chúng ta có cần thêm thời gian và thông tin để giải quyết vấn đề này?)
CÁCH TIẾN HÀNH QUA TỪNG BƯỚC:
Mọi người trong nhóm làm việc sẽ cùng tham gia góp ý - tùy theo tính chất cuả ý đó mà người đó (hay người trưởng nhóm) sẽ đề nghị đội mũ màu gì cho cả nhóm. Người trưỏng nhóm sẽ lần lược chia thời gian tập trung ý cho mỗi mũ màu... Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt nếu cần bất kì thành viên nào cũng có thể đề nghị góp thêm ý vào cho 1 mũ màu nào đó (tuy vậy phải giữ đủ thời lượng cho mỗi mũ màu).
Bước 1: Thu thập thông tin
  • Mũ trắng: Tất cả các ý kiến nào chỉ chứa sự thật, bằng chứng, hay dữ kiện, thông tin. Đội mũ này có nghiã là "hãy cởi bỏ mọi thành kiến, mọi tranh cãi, cởi bỏ mọi dự định và hãy nhìn vào cơ sở dữ liệu"
Bước 2: Đề xuất giải pháp
  • Mũ xanh lá cây: Tạo ra các ý kiến làm sao để giải quyết. Các sáng tạo, các cách thức khác nhau, các kế hoạch, các sự thay đổi.
Bước 3: Đánh giá các giá trị cuả các ý kiến trong mũ xanh lá cây
  • Viết ra danh mục các lợi ích dùng mũ vàng.
    • Mũ vàng: Tại sao vài ý kiến sẽ chạy tốt và tại sao nó mang lại lợi ích. Ở đây cũng có thể dùng về các kết quả cuả các hành động được đề xuất hay các đề án. Nó còn dùng để tìm ra những vật hay hiệu quả có giá trị cuả những gì đã xảy ra.
  • Viết các đánh giá, và các lưu ý trong mũ đen
    • Mũ đen: Đây là mũ có giá trị nhất. Dùng để chỉ ra tại sao các đề nghị hay ý kiến không thích hợp (hay không hoạt động được) cùng với các dữ kiện, với kinh nghiệm sẵn có, với hệ thống đang hoạt động, hoặc với chế độ đang được theo. Nón đen lúc nào cũng phải tính đến sự hợp lý.
Bước 4: Viết các phản ứng, trực giác tự nhiên và các cảm giác xuống
  • Mũ đỏ: cho phép người suy nghĩ đặt xuống các trực cảm mà không cần bào chữa.
Bước 5: Tổng kết và kết thúc buổi làm việc
  • Mũ xanh da trời: Là sự nhìn lại các bước trên hoặc là quá trình điều khiển. Nó sẽ không nhìn đến đối tượng mà là nghĩ về đối tượng (thí dụ như ý kiến "đội cho tôi cái mũ xanh lá cây, tôi cảm giác rằng có thể làm được nhiều hơn về cái mũ xanh này").
Lưu ý: các bước trên không hoàn toàn nhất thiết phải theo đúng thứ tự như nêu trên mà ở nhiều trường hợp nên chỉnh lại theo thứ tự như sau:
Trắng -> Đỏ -> Đen -> Vàng -> Xanh lá cây -> Xanh da trời
VÍ DỤ:
Giải quyết vần đề sau đây trong lớp học "Học sinh nói chuyện trong lớp". Dùng phương pháp 6 mũ để cho các học sinh nhìn vào vấn đề ở các góc cạnh khác nhau. Có thể dùng 6 phấn màu khác nhau để ra hiệu (thay cho nón). Học sinh chủ động cho ý kiến và giáo viên sẽ điều khiển toàn buổi qua các bước như sau:
1. Mũ trắng: Các sự kiện
  • Các học sinh nói chuyện trong khi cô giáo đang nói.
  • Có sự ồn ào làm cho các học sinh khác bị xao lãng hoặc không nghe đươc cô giáo nói gì.
  • Học sinh không biết làm gì sau khi cô giáo đã hướng dẫn cách thức.
  • Nhiều học sinh bực mình hay không muốn học nữa.
2. Mũ đỏ: cảm tính
  • Cô giáo cảm giác bị xúc phạm.
  • Các học sinh nản chí vì không nghe được hướng dẫn (cuả cô).
  • Người nói chuyện trong lớp vui vẻ được tán dóc và nghe dóc.
3. Mũ đen: Các mặt tiêu cực
  • Lãng phí thì giờ.
  • Buổi học bị làm tổn thương.
  • Nhiều người bị xúc phạm rằng những người nghe không bất cần đến những gì được nói.
  • Mất trật tự trong lớp.
4. Mũ vàng: Các mặt tích cực
  • Mọi người được nói những gì họ nghĩ.
  • Có thể vui thú.
  • Mọi người không phải đợi tới lượt cuả mình để nói nên sẽ không bị quên cái gì mình muốn nói.
  • Không chỉ những học sinh giỏi mới được nói.
5. Mũ xanh lá cây: Những cách giải quyết đến từ cách nhìn vấn đề theo trên
  • Cô giáo sẽ nhận thức hơn về "thời lượng" mà cô nói.
  • Cô giáo sẽ cố gắng tác động qua lại (để ý cho phép nhiều đối tượng tham gia) với nhiều học sinh không chỉ với các học sinh "giỏi".
  • Học sinh sẽ phải làm viêc để không phải phát biểu linh tinh. Học sinh sẽ tự hỏi "điều muốn nói có liên hệ đến bài học hay không?" và có cần để chia sẻ ý kiến với các bạn khác hay không? Sẽ cần thêm bàn thảo làm sao học sinh vượt qua khó khăn này!
  • Học sinh sẽ suy nghĩ rằng có nên chen vào phá sự học cuả người khác hay không?
  • Sẽ giữ bản tường trình này lại làm taì liệu sau này xem xét có tiến bộ hay không?
6. Mũ xanh da trời: tổng kết những thứ đạt được
  • Cô giáo rút kinh nghiệm rằng cần phải giới hạn thời gian dùng để nói.
  • Cô giáo cần tham gia bàn luận với tất cả học sinh và cần phải ưu tiên hơn đến những học sinh ít khi tham gia phát biểu hay là các học sinh chỉ thụ động im lặng chờ được gọi trả lời.
  • Cô giáo cần để học sinh có thời gian suy nghĩ trước khi họ tham gia vào bàn luận. Thì giờ cho học sinh suy nghĩ trong buổi học quan trọng rất cần thiết.
  • Học sinh hiểu rằng "nói chuyện làm ồn trong lớp" sẽ làm cho các học sinh khác bị ảnh hưởng và bực mình.
  • Học sinh hiểu rằng chỉ cần cười giỡn trong một tí thì cũng đủ phá hỏng sự học cuả người khác.
  • Học sinh ý thức rằng nói bất kì lúc nào mình muốn là hành đông thiếu kỷ luật với chính những giá trị kiến thức cuả bản thân.
  • Học sinh và giáo viên cần xem lại đề tài này để kiểm xem có tiến bộ hay không.
Chúng ta thấy rằng, với kỹ thuật 6 chiếc mũ tư duy, mọi người sẽ cùng tập trung giải quyết vấn đề từ cùng một góc nhìn do đó sẽ không xảy ra xung đột do những quan điểm khác nhau. Ngoài ra, một vấn đề sẽ được xem xét từ nhiều khía cạnh trước khi được quyết định, điều này sẽ giúp chúng ta có các quyết định hiệu quả và đúng đắn.

Tổng hợp - hiệu chỉnh từ Internet