Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Vì sao tỷ giá chưa dừng tăng?


Dollar-Symbol-430633
BizLive – 30 Mar 2015 – Trần Giang
Mặc dù Phó thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định không tăng tỷ giá thời điểm này và “quota” phá giá vẫn giữ ở mức 2% nhưng “sóng” tỷ giá vẫn chưa dừng. Mức tăng không lớn nhưng cũng đang tiệm cận “mức trần” của tỷ giá. Vì sao yếu tố tâm lý không còn nhưng tỷ giá vẫn tăng?
Cụ thể, sáng nay (30/3), giá USD vẫn được các ngân hàng điều chỉnh tăng, với mức phổ biến từ 20 – 25 đồng/USD so với phiên cuối tuần qua. Có ngân hàng còn điều chỉnh tăng 40 đồng/USD và mức giá cao nhất trong sáng nay là 21.585 đồng/USD, đang tiệm cận với mức giá trần 21.763 đồng/USD mà các ngân hàng được phép niêm yết.
Áp lực điều chỉnh tỷ giá là có thật
Mức giá cao nhất được niêm yết tại BIDV, Vietinbank, Techcombank. Tuy nhiên, giá mua của mỗi ngân hàng lại khác nhau và mức điều chỉnh cũng khác nhau.
Một diễn biến đáng lưu tâm nữa, đó là giá USD trên thị trường tự do quay lại thời điểm 3 năm trước đó, đó là cao hơn giá của các NHTM. Theo đó, giá USD được một số cửa hàng thu đổi ngoại tệ trên phố Hà Trung (Hà Nội) ở mức 21.610 VND (mua vào) – 21.620 VND (bán ra).
Bình luận về xu hướng tăng giá đồng USD, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng cho rằng áp lực tăng tỷ giá là lớn
“Mặc dù Ngân hàng Nhà nước tuyên bố không điều chỉnh, nhưng chỉ loại bỏ được yếu tố tâm lý, chứ không loại được áp lực điều chính. Việc VND bị ảnh hưởng từ đồng USD đã khiến cho các đồng tiền khác bị giảm giá so với VND, nên áp lực điều chỉnh tỷ giá là có”, ông Hiếu phân tích.
Theo ông Hiếu, đây cũng chưa phải là thời điểm điều chỉnh tỷ giá bởi Ngân hàng Nhà nước vừa điều chỉnh hồi đầu năm. Tuy nhiên, cơ quan này nên theo dõi biến động tỷ giá trong tháng 4 (gồm yếu tố tâm lý, thị trường) để có quyết định kịp thời và nếu cần thiết thì nên điều chỉnh.
“Mỗi lần điều chỉnh chỉ nên điều chỉnh 1% thôi. Nhưng sau lần điều chỉnh tới, Ngân hàng Nhà nước nên tính đến phương án nới room thêm 1% nữa (nếu cần) để phòng cho những biến động những tháng sau đó. Vì thực tế, với áp lực hiện nay, 1% cho những tháng còn lại của năm là quá hẹp để điều chỉnh thị trường”, ông Hiếu nhận định.
Ông Hiếu cũng phân tích, năm nay có nhiều biến động khó lường về giao dịch ngoại hối như chiến tranh, vàng đen (dầu hỏa), vàng trắng… Đây là những biến động khách quan và ngoại giới nên Ngân hàng Nhà nước cần có đủ lượng dự phòng để dùng khi cần. Nếu chậm trễ trong điều chỉnh sẽ gây bất lợi cho thị trường.
Mới đây, HSBC có dự đoán, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang ở mức khoảng 36 tỷ USD và tỷ giá có thể sẽ được điều chỉnh lên 21.750 đồng/USD vào quý IV/2015, sau đó sẽ tăng lên 22.000 đồng/USD vào quý I/2016.
“Tuy nhiên, có một nguy cơ khi Ngân hàng Nhà nước không đáp ứng các điều kiện thị trường một cách kịp thời sẽ dẫn đến việc thanh khoản trong nước bị o ép. Nếu như NHNN không đáp ứng điều kiện thị trường một cách kịp thời thì có thể xảy ra hai khả năng, hoặc là cho phép cung cầu thị trường những động lực để quyết định tỷ giá USD/VND, hoặc là bơm thêm USD vào hệ thống, thanh khoản có thể mỏng”, HSBC bình luận.
Sao không thả nổi tỷ giá?                   
Trước áp lực điều chỉnh tỷ giá, một chuyên gia tài chính nêu quan điểm về việc thả nổi tỷ giá. Theo chuyên gia này, Việt Nam có đủ khả năng thả nổi tỷ giá, nhưng vấn đề của Việt Nam có lẽ là do sợ nợ nước ngoài tăng quá nhiều khi tỷ giá tăng lên.
Mới đây, theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nếu tỷ giá nới thêm 1%, nợ nước ngoài sẽ tăng thêm khoảng 10.000 tỷ đồng. Đây có lẽ là vấn đề khiến Ngân hàng Nhà nước lo ngại, nếu thả nổi tỷ giá thì biên độ giao động sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, theo vị chuyên gia này, chưa chắc việc thả nổi tỷ giá đã khiến cho đồng USD tăng lên so với VND.
“Cứ để thị trường điều tiết tăng giảm, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều tiết thị trường gián tiếp qua chính sách, không đặt biên độ, nhưng vẫn kiểm soát mua bán ngoại tệ. Với nguồn USD dồi dào và nguồn kiều hối hiện nay, Ngân hàng Nhà nước có thể kiểm soát được giá USD trên thị trường”, vị này bình luận.
Theo vị này, việc thả nổi tỷ giá được hầu hết các nước trên thế giới thực hiện. Gần Việt Nam nhất là Myanmar, Lào cũng đã để cho thị trường quyết định tỷ giá. Đó là điều kiện để được công nhận nền kinh tế thị trường và chỉ kiểm soát khi có khủng hoảng xảy ra.
Về vấn đề này, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng thả nổi tỷ giá là vấn đề lớn và trong điều kiện dự trữ ngoại hối đang còn mỏng, chưa đủ để tham gia can thiệp thị trường thì chưa thể thả nổi.
“Thả nổi tỷ giá cần một lượng dự trữ ngoại hối lớn. Nhưng hiện nay, lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam mới ở mức 3 tháng nhập khẩu, chưa đủ nhiều để có thể can thiệp mạnh mẽ vào thị trường khi có biến động lớn về giá”, ông Hiếu phân tích.
Theo ông Hiếu, một nguyên nhân nữa chưa thể thả nổi tỷ giá đó là năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu. “Khi nào các doanh nghiệp x uất khẩu có thể tự lực xuất khẩu không phải dựa vào sự hỗ trợ của tỷ giá thì mới có thể thả nổi được”, ông Hiếu bình luận.
Nhưng đã đến lúc cần phải nghĩ đến việc để thị trường tự quyết định tỷ giá. Và Ngân hàng Nhà nước, để có thể điều chỉnh thị trường một cách gián tiếp, thì cần tăng lượng dự trữ ngoại hối bằng những chính sách và hành động cụ thể của mình.
TRẦN GIANG

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Những ông vua vô sản



“Chiếc ghế của nguyên tổng bí thư”:
“Người ta ngạc nhiên về đời sống xa hoa của một người đã phát động chương trình học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một người như vậy, nhưng khi bộc lộ ra đời sống thì lại quá xa hoa trong khi đất nước còn nghèo, dân chúng còn rất đói khổ và dân oan thì ở khắp nơi. Cái quan trọng thì cũng không phải chuyện giàu có, xa hoa, mà còn là cái trình độ nữa. Trình độ văn hóa, trình độ thẩm mỹ thể hiện trong cái ngôi nhà đó”


Những ông vua cộng sản

Lê Diễn Đức
23-2-2015

Phòng khách trong nhà của cựu  Tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
Ngày 19 tháng 2, tờ Tiền Phong, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đăng bản tin về Bí thư thứ nhất Trung Ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh dẫn đầu đoàn của Ban Bí thư tới thăm, chúc Tết các cựu lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Trong bản tin có tấm hình chụp cựu Tổng bí thứ Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp khách. Hai người ngồi trên những chiếc ghế chạm trổ đầu rồng công phu theo kiểu cổ thời phong kiến.
Cùng với hai chiếc ghế là một chiếc bàn mặt đá, cũng được chạm trổ tương tự. Sau bộ bàn ghế là tượng Hồ Chí Minh mạ vàng nổi bật trên nền cũng màu vàng mặt trống đồng Đông Sơn và hoa tươi.
Một không gian sang trọng, uy nghi, là nơi chủ nhà ngự toạ và tiếp khách, giống hệt phòng khánh tiết của một vương hầu công tước hay vua chúa nào đó, hơn là phòng khách trong một tư gia.
Không ai nghi ngờ gì sau hai nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (2001-2011) và trước đó hơn 8 năm giữ chức Chủ tịch quôc hội (1992-2001), người đầy tớ của nhân dân, “công bộc” trung thành của giai cấp vô sản đã tích luỹ được một khối tài sản lớn, một dinh cơ hoành tráng như thế.
Ông Mạnh đã về hưu tư năm 2011. Cách bài trí nột thất phòng khách cho thấy ông ta là một người có khát vọng và say mê quyền lực. Có lẽ, khi ngồi vào chiếc ghế chạm đầu rồng, ông ta có cảm tưởng ngất ngây với vị thế của một ông vua.
Chẳng cần đi đâu xa, buớc ra khỏi nhà ông Nông Đức Mạnh, đi khoảng 10-15 phút xe, trên vườn hoa Lý Tử Trọng nằm trên đường Thanh Niên, có thể thấy những mái lều lụp xụp, rách nát mà trong đó dân oan từ các tỉnh thành trên cả nước túm tụm sinh nhai chờ khiếu nại về nhà cửa đất đai bị thu hồi, tước đoạt bất công. Họ phải chịu thiếu thốn đủ thứ và khốn khổ trong những ngày mùa đông giá lạnh. Nông dân, những người chịu thiệt thòi, mất mát hi sinh nhiều nhất trong hai cuộc kháng chiến, đã bị những người “đầy tớ” dửng dưng hất ra ngoài lề xã hội.
Cách sống sa hoa, vương giả của cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và cảnh khốn cùng của những người dân oan toát lên một nghịch lý không thể nào chấp nhận trước sự tuyên truyền dối trá của chế độ, trước những câu khẩu hiệu mị dân và sự rao giảng đạo đức lố bịch của lãnh đạo ĐCSVN.
Tôi tò mò đi tìm xem ở những quốc gia khác trên thế giới, những người có quyền lực họ sống ra sao.
Thống chế Josef Pilsudski, người đã lãnh đạo quân đội Ba Lan đánh tan cuộc xâm lăng của Hồng quân Liên Xô trong tháng 8 năm 1920, làm nên điều kỳ diệu trên dòng sông Vituyn, có một cuộc sống bình dị. Bộ bàn ghế tiếp khách được làm đơn giản theo mẫu của vua Louis XVI:
Phòng Bầu Dục của White House, nơi Tổng thống Mỹ tiếp các vị nguyên thủ quốc gia, trong đó được đặt hai chiếc ghế trước lò sưởi, đơn sơ, mộc mạc:
Nơi tiếp khách của Thủ tướng Anh quốc tại trụ sở làm việc trên 10 Downing Street, London, cũng mang nét tương tự:
Người đàn bà quyền lực nhất thế giới, bà Angiel Merkel, Thủ tướng nước Đức, sống với chồng trong một căn hộ khiêm nhường ở Berlin.
Có vẻ như các nhà độc tài mới có những ý tưởng ăn xài phù phiếm, hợm hĩnh, mà tiêu biểu phải kể đến Nicolai Ceausescu (Romania), Saddam Hussein (Iraq), Muammar Gaddafi (Libya) hay Kim Jong Il (Bắc Triều Tiên)…
Tấm hình chụp phòng tiếp khách của cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã làm sôi động dư luận trên mạng xã hội Facebook. Đủ các lời bình cùng với sự ấm ức, bất bình, thậm chí cả sự nguyền rủa.
Có lẽ vì thế mà chỉ ít lâu sau báo Tiền Phong đã lấy xuống và thế bằng một tấm hình khác với các em nhỏ quàng khăn đỏ đứng chung với ông Mạnh, bà vợ mới của ông, che hết bộ ghế và bàn thờ Hồ Chí Minh.
“Vô tình” đưa tấm hình lên mặt báo Tiền Phong, tác giả đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của ông Nông Đức Mạnh nói riêng và tập thể vua nói chung của nước CHXHCN Việt Nam. Những công trình đồ sộ, hoành tráng của các quan chức khác của chế độ cộng sản Việt Nam chúng ta cũng có thể kể ra dễ dàng.
Ăn cắp, rút ruột công trình từ các dự án, nhận hối lộ, đầu cơ đất đai, v.v… được gộp chung vào mỹ từ “tham nhũng” tại Việt Nam mà mức độ của nó đứng thứ nhì thế giới theo nghiên cứu mới đây của World Bank.
Những ông vua của hệ thống chính trị thối nát đang sống phè phỡn, quyền quý trên sự đói nghèo, của người lao động.
Một tấm hình bằng muôn ngàn lời nói! Có trơ trẽn gỡ xuống thì cũng đã quá muộn!
Nhà văn Thái Bá Tân đã viết trên facebook:
“Một, ông Nông Đức Mạnh
Vì sao trở thành giàu?
Lương bao nhiêu dân biết.
Vậy đất, nhà do đâu?
Đó mới chỉ phần nổi.
Còn phần chìm thế nào?
Còn các lãnh đạo khác
Đang tại nhiệm thì sao?
Hai, về gương cần kiệm
Và liêm chính đảng viên.
Vì nhân dân phục vụ,
Hay phục vụ vì tiền?
© Lê Diễn Đức – RFA


'Đầu năm mà phải xem tấm hình này rồi'
Bức ảnh làm 'dậy sóng' dư luận: Nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế chạm trổ đầu rồng nói chuyện với Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh (Ảnh chụp từ trang web báo Tiền Phong).
Bức ảnh làm ‘dậy sóng’ dư luận: Nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh ngồi trên chiếc ghế chạm trổ đầu rồng nói chuyện với Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh (Ảnh chụp từ trang web báo Tiền Phong).

Báo Việt Nam gỡ bỏ bức ảnh gây nhiều tranh cãi

Tờ Tiền Phong đã thay bức ảnh gây ‘sốt’ cộng đồng mạng bằng một bức ảnh khác không thấy rõ nội thất ở bên trong nơi được cho là nhà của ông Nông Đức Mạnh.
VOA Tiếng Việt
Một bức ảnh liên quan tới người từng đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam trong suốt 10 năm trời đã gây ‘sốt’ các trang mạng xã hội ở Việt Nam mấy ngày qua, và sức nóng của dư luận đã buộc một tờ báo phải gỡ bỏ tấm ảnh gây nhiều tranh luận này.
Bài báo viết về chuyến thăm tới chúc Tết các cựu quan chức cấp cao Việt Nam của tờ Tiền Phong có tựa đề “Ban Bí thư Trung ương Đoàn chúc Tết nguyên lãnh đạo đảng, nhà nước” hôm 19/2, tức mùng một Tết Ất Mùi, đã lan truyền với tốc độ chóng mặt trên các trang mạng xã hội.
Bài viết đăng tải những hình ảnh các bí thư thứ nhất của Trung ương Đoàn Việt Nam của một số thời kỳ tới thăm các ông Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh và Nông Đức Mạnh, cũng như tới thắp hương tại nhà cố đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong các bức ảnh đó, một bức được nhiều người sử dụng mạng ở Việt Nam chú ý là bức ông Mạnh ngồi trên một chiếc ghế lớn, chạm trổ đầu rồng màu vàng, nói chuyện với Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Nguyễn Đắc Vinh.
nguon: VOA Tiếng Việt 

Học Thư pháp – Bắt đầu từ đâu?

Học Thư pháp – Bắt đầu từ đâu? Ngày đăng: 21/06/2012

Thế Chi

Với những người mới làm quen với thư pháp, thích thú và muốn học, hầu hết đều có một câu hỏi chung: “Bắt đầu từ đâu?”.
Tôi từng trăn trở với câu hỏi này ghê lắm. Trong những cuộc chuyện vui bên bàn nước, tôi cũng có ý gài vào câu chuyện để thỉnh giáo các bậc đi trước. Hầu hết, những câu trả lời là chung chung, hoặc không có ý gì mới, song đôi khi, cũng gặp được những ý tưởng hay, khá sâu sắc và có giá trị tham khảo.
Tôi cứ lắng nghe những ý kiến ấy, rồi lục lọi sách vở đọc thêm, dần dần cũng hình thành suy nghĩ riêng để giải đáp câu hỏi lớn “Bắt đầu từ đâu” này. Dẫu những kiến giải còn non nớt, và có một nhược điểm chí mạng là, chưa được hiện thực hóa bằng tác phẩm, nhưng tôi cũng xin liều lĩnh viết ra, để những bậc cao nhân chỉ chính, và những người mới có thêm cái tham khảo.
Quá trình khởi đầu gian nan có rất nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn lại có một câu hỏi “Bắt đầu từ đâu”.
Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ việc cầm bút.
“Bút” ở đây hiểu theo nghĩa rộng. Nghĩa là công cụ để tạo nên tác phẩm thư pháp. Có thể là bút lông, bút cứng, hay dao đục (nếu bạn muốn học Triện khắc). Việc bạn lựa chọn công cụ nào mang tính quyết định cho đường hướng học tập và sáng tác sau này.
Ở một khía cạnh khác, bắt đầu từ việc cầm bút, sẽ nhắc nhở rằng tư thế cầm bút chính xác là một khởi đầu quan trọng.
001 Học Thư pháp   Bắt đầu từ đâu?

Các cách cầm bút


Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chép.
Chép, nói bằng thuật ngữ của thư pháp là “lâm mô”. Chép, thực chất là đang học tập tiền nhân từ thành công của họ. Nếu đã từng học qua, hay yêu thích hội họa, chắc chắn mọi người đều biết, chép quan trọng như thế nào. Chỉ có điều, ở hội họa, họ vừa tập chép các tác phẩm của tiền nhân, vừa tập chép từ các tác phẩm của Thượng Đế (giới tự nhiên và vẻ đẹp của con người). Với giới họa sĩ, việc học từ chép này, tự nhiên như nó phải thế, không có gì phải bàn cãi. Thư pháp và hội họa có chung một bản chất là tạo hình từ đường nét (có lẽ vì vậy mà người ta nói “thư họa đồng nguyên” chăng!). Nên trong thư pháp, chép cũng quan trọng như trong hội họa. Thế nhưng, khá nhiều người học thư pháp lại không biết đến cần phải bắt đầu từ chép (lâm mô). Hoặc giả có biết nhưng lại cố tình bỏ qua, thực là sai lầm vậy.
Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ Chân thể.
01300000289148123670143562710 Học Thư pháp   Bắt đầu từ đâu?
Chân thể là lối viết chữ chân phương, từng nét chữ được viết rõ ràng, đầy đủ cả ba giai đoạn khởi bút, hành bút và thâu bút. Các nét tách bạch, không nối liền với nhau. Chân đối lập với Hành và Thảo. Học lối chữ Chân sẽ rèn tập được đầy đủ những kỹ pháp cơ bản trong thư pháp, từ nền tảng ấy, mới tăng dần tốc độ bút đi đến Hành, Thảo. Bỏ qua chữ Chân đi thẳng vào Hành, Thảo là lối đi không bền vững.
Với lối viết Chân, người học có thể bắt đầu bằng Khải hay Lệ hay Triện đều được. Song theo truyền thống, người ta vẫn khuyến khích nên bắt đầu từ Khải thư. Lý do, theo ý tôi, là vì đến Khải thư, kỹ pháp trong thư pháp được phát triển hoàn thiện và đa dạng nhất.
Gần đây có người nêu ý kiến, vì kỹ pháp trong Khải đa dạng và phức tạp quá, khiến người mới học cảm thấy gian nan, chi bằng bắt đầu từ chữ Triện, kỹ pháp tương đối ít hơn. Người mới học chóng thấy được thành tựu, lại càng hứng khởi để học hỏi thêm nữa. Khi bút cầm đã vững, nét đưa đã nhuần, thì nâng dần độ khó, sang Lệ rồi sang Khải.
Suy nghĩ như vậy âu cũng hợp lý, ưu điểm là nó giảm nhẹ được khó khăn buổi ban đầu. Nhưng nhược điểm của lý thuyết “Triện thư nhập thủ” (bắt đầu bằng Triện) này cũng không ít: thứ nhất, chữ Triện khó học, rườm nét, tính phổ cập ít; thứ hai, vì kỹ pháp không nhiều, khiến cho phạm vi sáng tạo rất chật hẹp. “Triện thư nhập thủ” tương đối dễ học hơn, nhưng để trở thành người sáng tác, thì khó hơn khải thư gấp bội.
Tóm lại, hãy bắt đầu bằng lối viết Chân. Dù là Khải hay Triện.
Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ cảm xúc.
Vậy là nếu chúng ta thống nhất được với nhau nên lâm mô các tác phẩm kinh điển, thì một vấn đề là, bắt đầu với tác phẩm nào, của ai?
Có quá nhiều kinh điển để lựa chọn, và rất dễ khiến người mới học hoa mắt.
Câu trả lời là, hãy lắng nghe cảm xúc của bạn. Hãy chọn bức thiếp hay bi mà bạn cảm thấy thực sự thích thú. Rung cảm nghệ thuật ấy sẽ nuôi dưỡng sự kiên trì của bạn trong quá trình lâm mô. Cũng chả nên băn khoăn rằng tác phẩm nào mới thực sự tốt cho việc bắt đầu. Đã là kinh điển, chúng đều như nhau.
Chẳng hạn, ở TQ những người mới học đa phần lâm Nhan, nhưng nếu bạn cho rằng chữ của ông trông thật thô kệch, thì có nghĩa là Nhan thể không thích hợp với bạn, cố cưỡng bạn cũng không thể lâm Nhan cho đúng được.
Một vài cái “bắt đầu từ đâu” này chưa thể bao quát hết mọi phân vân của những người mới. Nhưng đó là một chút thể nghiệm mà tôi muốn chia sẻ.
Ghi chú:
Ý tưởng Triện thư nhập thủ, tôi nghe từ Họa sĩ – Thư gia Lê Quốc Việt.

Nghệ thuật Thư pháp Trung Quốc và Việt Nam



LÊ QUỐC VIỆT


Nghệ thuật Thư pháp Trung Quốc và Việt NamNằm trong khối những nước đồng văn, Việt Nam tự hào đã xác lập một diện mạo Thư pháp kéo dài hơn 10 thế kỷ. Trước đó, Châu Ái (Thanh Hóa ngày nay) từng hân hạnh được Chử Toại Lương ghé thăm ông tổ chữ Sấu Kim là Tống Huy Tông – Triệu Cật có ý định sai một phái đoàn Thư họa gia sang vẽ chân dung cho Lê Hoàn và quần thần, nhưng vì phương Bắc lâm vào nội chiến, chuyến đi bất thành nhưng dư ba của bút ý thời tống vẫn bàng bạc trên cột kinh Đinh Liễn.

Là một loại hình nghệ thuật truyền thống khởi nguồn từ Trung Quốc, đề cao những pháp tắc dùng bút lông nhọn để viết các thể chữ Hán (Triện, Lệ, Khải, Hành, Thảo). Về kỹ pháp thì chú trọng đề cao phong cách cầm bút, dùng bút, dùng mực, đường nét, kết cấu, phân bố (hàng lối, bố cục), nhất loạt yêu cầu: cầm bút thì ngón thì tay phải chắc, lòng bàn tay phải lỏng, năm ngón cùng lực; dùng bút thì phải đứng ngòi, phô diễn được nét bút; đường nét phải tròn đầy đâu đấy; kết cấu thì ngang dọc đúng độ, ý tứ tương ứng; phân bố thì biến hóa tung hoành, dầy thưa hợp lý, khí mạch một hơi, đặc biệt là phải sùng chuộng cá tính, phong cách và ý vị. Thư pháp và Hội họa vốn cùng một nguồn ở đường nét, mỗi cái đều có mỹ cảm sinh động của Khí – Vận (tính cương – nhu). Trong khi Hội họa có hình tượng và màu sắc thì Thư pháp không có sự hỗ trợ đó, chỉ dùng những đường nét trừu tượng, cho nên sự biểu đạt khí chất và vận cảm của đường nét cần phải manhjmex. Nghệ thuật Thư pháp dòi hỏi sự biến hóa vi diệu trên nhiều tầng diện, có thể đạt tới cảnh giới mà Thư pháp gia hiện đại Trung Quốc là Thẩm Doãn Mặc từng nói: gươm giáo sắc nhọn đáng sợ, hình tượng sống động ly kỳ. Vì hình thể chữ không hẳn là những hình tượng cụ thể, cho nên những người học viết hướng tới nắm vững những kỹ năng căn bản, nhất là bút pháp, bút thế và bút ý thì Thư pháp mới đi đến chỗ hoàn mỹ.

Nghệ thuật Thư pháp có hơn 3000 năm lịch sử, chữ Kim văn thời Thương Chu vốn đã rất giầu tính biểu cảm; đến chữ Triện thời Tần, Lệ thời Hán, Bia thời Ngụy, Khải thời Đường, Hành thời Tống, tiểu Khải của người Minh đều rất phong phú nhiều vẻ. Những Thư pháp gia nổi tiếng như Vương Hy Chi thời Đông Tấn luôn được nhiều đời hâm mộ; thời Đường có 4 đại gia Âu (Dương Tuân), Chử (Toại Lương), Nhan (Chân Khanh), Liễu (Công Quyền), trong khi đó chữ cuồng Thảo của Hoài Tố và Trương Húc luôn có sức cuốn hút nghệ thuật mạnh mẽ. Bốn đại gia thời Tống gồm Tô (Đông Pha), Hoàng (Đình Kiên), Mễ (Phất), Sái (Tương). Thời Nguyên có Triệu Mạnh Phủ, Minh có Đồng Kỳ Xương. Đến nhà Thanh thì Thư pháp chia làm hai phái: Thiếp và Bia, một trong Dương Châu bát quái là Trịnh Bản Kiều đã sáng tạo ra thể chữ Lục phân bán của riêng mình khi dung hợp Chân, Thảo, Lệ, Triện vào trong một lò.

Nằm trong khối những nước đồng văn, Việt Nam tự hào đã xác lập một diện mạo Thư pháp kéo dài hơn 10 thế kỷ. Trước đó, Châu Ái (Thanh Hóa ngày nay) từng hân hạnh được Chử Toại Lương ghé thăm ông tổ chữ Sấu Kim là Tống Huy Tông – Triệu Cật có ý định sai một phái đoàn Thư họa gia sang vẽ chân dung cho Lê Hoàn và quần thần, nhưng vì phương Bắc lâm vào nội chiến, chuyến đi bất thành nhưng dư ba của bút ý thời tống vẫn bàng bạc trên cột kinh Đinh Liễn.

Quốc gia độc lập dĩ thư tuyển sĩ (qua chữ kén người) khiến chữ viết mang phong cách thời Đường tái hiện nét rắn rỏi trên những trang sử đá thời Lý mà không kém vẻ trữ tình qua nét chữ Phi bạch của Lý Nhân Tông ngự đề trên trán bia chùa Long Đọi. Ba chữ Thanh Hư động của Trần Nghệ Tông theo đòi được phong thái trang nghiêm khỏe khắn của chữ Lệ thời Hán khác hẳn với sự trầm mặc tưởng niệm của chữ Triện trên hệ thống bia ngạch Lam Kinh thời Lê sơ, cho dù các Hoàng đế và triều thần Lê sơ yêu thích chữ Khải của Triệu mạnh Phủ đời Nguyên, Lê Thánh Tông và con – Lê Hiến Tông là hai trong gương mặt thư pháp gia sáng giá bấy giờ. Nội chiến Nam – Bắc triều chính thức châm ngòi cho cuộc tranh dành quyền lực giữa các dòng họ, nhà Mạc biến thể con chữ thành lối viết đầu cong chân quẹo làm tiên đề để sản sinh ra chữ viết Sắc phong thời Trung hưng – một kiểu chữ độc nhất vô nhị không giống bất kỳ thể nào, nhà nào, thời nào của Trung Hoa. Kiểu sức là điểm yếu của thư pháp thời Nguyễn đồng thời là dấu son đẹp đẽ chấm dứt nghệ thuật Thư pháp cổ nước nhà khi chữ Quốc ngữ được đưa vào thay thế chữ Hán.

Đinh chuộng ý, Lý chuộng vận, Trần chuộng luật, Lê chuộng pháp, Mạc chuộng biến, Nguyễn chuộng kỹ, Hiện đại chuộng Quốc ngữ là tổng quan về thư pháp nước nhà.

Thư pháp và mỹ học Thư pháp

THỌ NHÂN
Thư pháp chỉ cách thức dùng bút lông viết chữ Hán, một nghệ thuật truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông có sử dụng chữ Hán.
Về mặt kỹ thuật, thư pháp chú trọng cách cầm bút, cách điều khiển ngọn bút, cũng như cách điểm hoạch, kết cấu, bố cục và vấn đề thần vận. Như về cách cầm bút (chấp bút), năm ngón tay phải chắc, cùng hiệp sức, nhưng bàn tay thì hoàn toàn để tự nhiên, tức “chỉ thực, chưởng hư”. Về cách điều khiển ngọn bút (vận bút), phải có nét chính để làm cốt lõi, nét lệch để tạo thần thái, nét kín để giữ khí thế, nét hở để phát tinh thần. Ngoài ra còn có nét xuôi, nét ngược, nét vuông, nét tròn, mỗi loại nét như thế đều có ý nghĩa riêng của nó. ở đây còn chú ý cả đến phương hướng và các động tác khi điều khiển ngọn bút. Về điểm hoạch, thường nói đến tròn, chìm lắng, cứng cáp, già giặn… Về kết cấu (kết thể, kết tự), thường nói đến sự ngay thẳng, thăng bằng, cân đối, biến hóa, sinh động, thống nhất, nghiêm cẩn, chênh vênh… Về phân bố (chương pháp), thường nói đến bố cục của một tác phẩm thư pháp, trong đó có mối quan hệ giữa chữ này với chữ kia, dòng này với dòng nọ. Về thần vận, thường nói đến linh hồn của một tác phẩm thư pháp được tạo nên bởi phong độ, thần thái, khí vận, tinh thần… của nó.
Các thể thư pháp gồm Minh văn đời Ân, Tiểu triện đời Tần, Lệ thư đời Lưỡng Hán, Thảo thư đời Đông Tấn, Khải thư và Cuồng thảo đời Đường, Hành thảo các đời Tống – Nguyên – Minh – Thanh, trong đó, đáng chú ý nhất là Khải thư, Lệ thư, Hành thư và Tiểu triện.
Khải thư còn gọi là “Chân thư” hay “Chính thư“, do Lệ thưChương thảo diễn biến mà thành, còn được gọi là “Khải lệ” hoặc “Kim lệ“. Tương truyền Khải thư do Vương Thứ Trọng đời Đông Hán sáng tạo ra, bằng cách sửa đổi cách viết chữ Lệ ra cách viết chữ Khải. Khải thư tuy ra đời vào cuối thời Hán, nhưng phải sang đến đời Đường mới thoát khỏi mọi ảnh hưởng và tàn tích của Lệ thư để chính thức trở thành một thể thư pháp độc lập, với tất cả các đặc điểm riêng của nó.
Lệ thư xuất hiện sớm nhất vào đời Tần, giữa lúc Triện thư đang độ cực thịnh. Nhưng hồi này Lệ thư còn thô kệch và mang nhiều dấu vết của Triện thư. Lệ thư sở dĩ ra đời là do nhu cầu viết nhanh và tiện lợi khi sử dụng, không nhiêu khê như Tiểu triện. Quá trình Tiểu triện chuyển hóa thành Lệ thư có thể phác ra như sau:
Tiểu Triện —> Thảo Tiểu triện —> Thảo lệ
Thảo lệ” là do các viên thư lại đời Tần tạo ra, cốt xử lý kịp thời đống công văn bề bộn viết bằng chữ Triện hồi bấy giờ mà họ có trách nhiệm giải quyết, và đây là tiền thân của Lệ thư chính thức được nhìn nhận vào đời Lưỡng Hán sau đó.
Hành thư xuất hiện sớm nhất vào đời Đông Hán, cũng là do nhu cầu viết sao cho nhanh chóng, tiện lợi. Một mặt, Hành thư giảm bớt nét so với Khải thư và như vậy là thoát khỏi sự gò bó của Khải thư; mặt khác, nó tiếp thu cách viết bay bướm của Thảo thư, nhưng không quá phóng túng đến nỗi khó đọc, khó nhận diện như Thảo thư. Nghĩa là nó vừa giản dị, vừa năng động. Nếu ví Khải thư như người đang đứng, Thảo thư như người đang chạy, thì Hành thư như người đang đi vậy. Tương truyền kiểu chữ này do Lưu Đức Thăng tạo ra, đến thời Đông Tấn đã có người sử dụng thành thạo, trở nên nổi tiếng như hai cha con Vương Hi Chi, Vương Hiến Chi, và Từ Tống, Nguyên về sau, cách viết Thảo thư ngày càng phổ biến.
Tiểu triện có nguồn gốc từ Đại triệu (chỉ các lối chữ xuất hiện trước Tiểu triện, gồm Kim văn, Thạch cổ văn v.v.), nhưng nét bút từ chỗ cong queo của Đại triện đã được cải tiến thành thông thoáng, uyển chuyển, lại có nhiều nét thẳng thớm, thanh mảnh. Văn bản Tiểu triện được viết thành hàng dọc từ phải sang trái, không còn viết tùy tiện, thiếu cố định như ở Giáp cốt văn hay Kim văn. Từ Giáp cốt văn, Kim văn … đến Tiểu triện, cũng tức là từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 2 TCN, trong khoảng 1200 năm ấy, hình thức thư pháp đều thuộc hệ thống Triệu thư, cho nên gọi đây là thời đại Triệu thư. Tiểu triện được coi như sự phát triển tột đỉnh của Triện thư, và đến đây trở nên định hình.
Mỹ học thư pháp cũng tức là cái đẹp thể hiện trong nghệ thuật thư pháp. Giống với nhiều loại hình nghệ thuật khác, bản chất cái đẹp của thư pháp là ở chỗ phản ánh được cái đẹp của khách thể (sự vật khách quan) cùng với cái đẹp tinh thần của chủ thể (nhà thư pháp).
Về nội dung cái đẹp của thư pháp, có thể xem bảng Sơ đồ cấu thành mỹ học thư pháp của nhà nghiên cứu thư pháp Trung Quốc Thiên Bạch sau đây:
nhan321 Thư pháp và mỹ học Thư pháp
Một số nhà thư pháp nổi tiếng của Trung Quốc
  1. Vương Hy Chi (303-361): tên chữ là Dật Thiếu, làm quan tới chức Hữu quân Tướng quân, nên còn được gọi là Vương Hữu quân. Người Lang Nha (nay là Lâm Nghi, Sơn Đông). Hầu hết các thể chữ đều giỏi, nhưng nổi tiếng nhất là Chính, Hành và Thảo. Tác phẩm nổi tiếng có Lan Đình tự thiếp và Thập thất thiếp.
  2. Vương Hiến Chi (344-386): tên chữ là Tử Kính, làm quan đến Trung thư lệnh, nên còn được gọi là Vương Đại lệnh. Ông là con thứ bảy của Vương Hy Chi, cùng nổi tiếng về thư pháp với cha, đời bấy giờ gọi hai cha con là Nhị Vương. Sở trường của ông là Hành và Thảo.
  3. Ngu Thế Nam (558- 638): tên chữ là Bá Thi, do được phong làm Vĩnh Hưng huyện tử, nên còn được gọi là Ngu Vĩnh Hưng. Người Dư Diêu, Việt Châu (nay là Dư Diêu, Chiết Giang). Nổi tiếng về chữ khắc bia. Tác phẩm truyền lại, được nhiều người nhắc tới, là Khổng Tử miếu đường bi.
  4. Âu Dương Tuân (557-641): tên chữ là Tín Bản, làm quan đến chức Thái tử Suất canh lệnh, nên còn được gọi là Âu Dương Suất canh. Người Lâm Tượng, Đàm Châu (nay là Trường Sa, Hồ Nam). Một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.
  5. Chử Toại Lương (596 – 658 ?): tên chữ là Đăng Thiện, do được phong Hà Nam Quận công, nên còn được gọi là Chử Hà Nam. Nổi tiếng về Khải thư.
  6. Lý Ung (678 – 747): tên chữ là Thái Hòa. Vì có làm Thái thú Bắc Hải, nên còn được gọi là Lý Bắc Hải. Người Giang Đô, Dương Châu (nay thuộc Giang Tô). Thành tích chính ở Hành thư.
  7. Tôn Quá Đình (? – ?): không rõ quê quán. Ông nổi tiếng về Thảo thư, đồng thời là nhà lý luận về thư pháp đời Sơ Đường.
  8. Trương Húc (? – ?): tên chữ là Bá Cao. Vì làm quan đến Kim ngô Trưởng sử, nên còn được gọi là Trương Trưởng sử. Lại vì cuồng ngông, thích rượu, nên có tên là Trương Điên. Người Tô Châu, Giang Tô. Nổi tiếng về Cuồng thảo, từng được gọi là Thảo thánh.
  9. Nhan Chân Khanh (709 – 785): tên chữ là Thanh Thần, từng làm Thái thú ở Bình Nguyên nên còn được gọi là Nhan Bình Nguyên. Là một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.
  10. Hoài Tố (725 – 785): tên chữ là Tàng Châu, còn được gọi là Tuý Tăng hay Túy Tố. Ông đi tu từ nhỏ. Người Trường Sa (thuộc Hồ Nam). Nổi tiếng về Cuồng thảo.
  11. Liễu Công Quyền (778 – 865): tên chữ là Thành Huyền, người Hoa Nguyên, Kinh Triệu (nay là Diệu Huyện, Thiểm Tây). Là một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.
  12. Dương Ngưng Thức (873 -954): tên chữ là Cảnh Độ, hiệu Hư Bạch, người đời gọi ông là Dương Phong Tử. Người Hoa Âm (Thiểm Tây). Có thành tựu lớn về thư pháp.
  13. Sái Tương (1012 – 1067): tên chữ là Quân Mạc, từng làm Đoan Minh điện Học sĩ, thụy hiệu là Trung Huệ, nên còn được gọi là Thái Trung Huệ. Ông là một trong số 4 nhà thư pháp lớn đời Tống. Giỏi về Chính, Hành, Thảo.
  14. Tô Thức (1037 – 1101): tên chữ là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha Cư Sĩ. Do có tên thụy là Văn Trung, nên người ta còn gọi ông là Tô Văn Trung. Người My Sơn, My Châu (nay thuộc Tứ Xuyên). Tác phẩm thư pháp nổi tiếng của ông, có Phong lạc đình ký.
  15. Hoàng Đình Kiên (1045 – 1105): tên chữ là Lỗ Trực, hiệu Bồi Ông, hoặc Sơn Cốc Đạo Nhân, Sơn Cốc Lão Nhân. Người Phân Ninh, Hồng Châu (nay là Tu thuỷ, Giang Tây). Nổi tiếng về Hành thư và Cuồng thảo. Tác phẩm thư pháp nổi tiếng có U lan phú.
  16. Mễ Phất (1051 – 1107): tên chữ là Nguyên Chương, hiệu Hải Nhạc Ngoại Sử, Lộc Môn Cư Sĩ v.v. Tính cuồng phóng, nên ông cũng được gọi là Mễ Điên. Người Thái Nguyên, Sơn Tây, sau dời đến Tương Dương nên còn được gọi là Mễ Tương Dương. Các thể thư pháp đều giỏi, đặc biệt là Hành thảo.
  17. Triệu Cát (1082-1135), tức Tống Huy Tông, tự xưng là Giáo Chủ Đạo Quân Hoàng Đế. Giỏi cả thư lẫn hoa, đặc biệt là Chính, Hành, Thảo.
  18. Triệu Mạnh Phủ (1254-1322): tên chữ là Tử Ngang, hiệu Tùng Tuyết Đạo Nhân v.v. Người Hồ Châu (nay là Ngô Hưng, Chiết Giang). Giỏi cả các thể thư pháp, nhất là Chính khải, Hành thư và Tiểu khải. Tác phẩm thư pháp nổi tiếng, có Diệu Nghiêm tự ký…
  19. Tiên Vu Khu (1256 – 1301): tên chữ là Bá Cơ, hiệu Khốn Học Sơn dân… Người Ngư Dương, Đại Đô (nay là Bắc Kinh). Giỏi về Chính, Hành, Thảo, đặc biệt là Hành và Thảo.
  20. Khang Lý Quỳ Quỳ (1295 -1345): tên chữ là Tử Sơn, hiệu Thứ Tẩu, người Mông Cổ, sinh ra ở Khang Lý (Tân Cương). Giỏi về các thể Chính, Hành, Thảo, đặc biệt là Thảo thư.
  21. Chúc Doãn Minh (1460-1526): tên chữ là Hy Triết, hiệu Chi Sơn. Người Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô). Nổi tiếng về Cuồng thảo.
  22. Văn Trưng Minh(1470-1559): tên chữ là Trưng Minh, sau đổi là Trưng Trọng, hiệu Hành Sơn Cư Sĩ. Từng giữ chức Hàn lâm viện Đãi chiếu, nên còn được gọi là Văn Đãi chiếu. Người Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô). Nổi tiếng về Tiểu khải và Hành thảo.
  23. Đổng Kỳ Xương (1555 -1636): tên chữ là Huyền Tể, hiệu Tư Bạch hoặc Hương Quang Cư Sĩ. Người Hoa Đình, Tùng Giang (nay là Tùng Giang, Thượng Hải). Nổi tiếng về Hành thảo.
  24. Trương Thụy Đồ (? – 1644): tên chữ là Trường Công, hiệu Nhị Thủy. Người Tấn Giang (nay là Tuyền Châu, Phúc Kiến). Giỏi về Hành thảo.
  25. Vương Đạc (1592 – 1652): tên chữ là Giác Tư, hiệu Tung Tiều. Người Mạnh Tân (nay thuộc Hồ Nam). Là nhà thư pháp có nhiều ảnh hưởng vào giai đoạn cuối Minh đầu Thanh. Giỏi cả các thể chữ, đặc biệt là Hành và Thảo.
  26. Trịnh Nhiếp (1693 – 1765): tên chữ là Khắc Nhu, hiệu Bản Kiều. Người Hưng Hóa, Giang Tô (nay thuộc Dương Châu). Là một trong “Bát quái” (8 nhân vật, quái kiệt về thư pháp) của Dương Châu. Nổi tiếng cả về Khải, Lệ, Hành viết lẫn lộn cùng nhau. Có người đương thời từng bình luận: “Trịnh Bản Kiều đem Triện, Lệ, Hành, Thảo đúc chung trong một lò, thật không thể giải thích được”:.
  27. Lưu Dung (1719 – 1804): tên chữ là Sùng Như, hiệu Thạch Âm (gần đây, trong một bộ phim nhiều tập của Trung Quốc, ông được gọi bằng Lưu La Oa, ta dịch là Lưu Gù). Người Chư Thành, Sơn Đông. Ông nổi tiếng về Hành thư.
  28. Hà Thiệu Cơ (1799 – 1873): tên chữ là Tử Trinh, hiệu Đông Châu. Người Đạo Châu (nay là Đạo Huyện, Hồ Nam). Là nhà thư pháp nổi tiếng về Hành thư vào cuối đời nhà Thanh.
Sách Tham khảo chính
1. Thiên Bạch: Thư pháp mỹ. Ninh Hạ Nhân dân xuất bản xã 1990.
2. Chu Nhân Phu: Trung Quốc cổ đại thư pháp sử. Bắc Kinh Đại học xuất bản xã. 1992.
3. Nhiều tác giả: Tứ thể thư pháp khái luận. Giang Tô cổ tịch xuất bản xã 1992.

THƯ PHÁP TỨC LÀ NGƯỜI





image-3.jpg
image.jpg
Thư pháp thực sự là bức họa của tâm; mức độ chứng ngộ được biểu hiện qua dòng chảy của mực. Khi một ai cố gắng, một cách sai lầm để xóa bỏ những chữ do Vương Hy Chi (Wang Xizhi) viết, họ đều phát hiện rằng các chữ ấy đúng là đã thấm qua gỗ. Dù có đục sâu cỡ nào, cũng khó mà xóa được chúng.
Gần đây, những nghiên cứu của Tẻayama Katsuyo đã chỉ cho thấy rằng thư pháp thiền đúng thật là “sinh động”. Ông ta thu thập những tác phẩm thư pháp thiền đích thực, những bản giả mạo, và những bản sao chép từ những tác phẩm nầy, rồi khảo sát chúng bằng kính hiển vi điện tử, phóng lớn một phần của tác phẩm chừng 500 hoặc 100 lần. Những vết mực được phóng lớn của những thư pháp đích thực thì rung động mạnh mẽ, tràn đầy khí lực (ki), thiêng liêng bí ẩn; ngược lại, các vết mực của các thư pháp giả mạo hoặc sao chép thì phân tán, yếu ớt và thiếu sinh động. Thư pháp cũ dù có trải qua hằng trăm năm vẫn như vừa mới được viết lên, những dòng chữ như đang ôm lấy người xem.
Do vì các nhà thư pháp thiền khước từ các bằng chứng khoa học, chính nội dung của thư pháp đến từ bên trong hơn là không có gì cả. Do vậy, mỗi tác phẩm là vô song, phản ánh tính vĩnh hằng từ sự rung động của nhà thư pháp với thiên nhiên, với các dụng cụ để thể hiện, và với hình ảnh còn lưu dấu trong tâm họ.
image-33.jpg
Ichi (ni) gyo môn ghi hai thiền ngữ: (hàng bên trái: bình thường tâm thị đạo 平常心之道 của Chuho (1760-1838), trú trì chùa Daitokuji; hàng bên phải: trực tâm thị đạo tràng 直心是道場 của thiền sư Kyodo (1808-1895) thuộc tông Lâm Tế)
Trong cảnh giới cao nhất, nhà thư pháp hoạt dụng trong một thế giới thuần khiết thanh tịnh; sự hợp nhất của người viết, bút, mực và giấy sẽ phá hủy mọi tương quan ràng buộc. Đó là tự do – thoát ly mọi luật lệ, mọi tiêu chuẩn, mọi quy ước. Tuy nhiên, sự chứng ngộ trong thư pháp không dễ gì dạt được mà không phải trải qua nhiều năm công phu tinh cần từ căn bản bằng cả nỗ lực của thân và tâm.
image-1.jpg
直指人心
top0605.jpg
Thư pháp thiền hoàn toàn đơn giản. Trong khi phần lớn các thư pháp trình bày trong tập sách nầy lại dựa trên hệ thống hình họa đơn giản và nhấn mạnh vào các hình thái rạch ròi, tường tận.. Thư pháp thiền cũng dò đến tận nguồn sâu thẳm, sáng rỡ của chân lý, dò đến ngôn ngữ thường ngày không bị hủy hoại bởi học thuyết duy lý và thần bí chủ nghĩa. Nó không nghi thức, không quy tắc, và rất đơn giản, chẳng có gì ngoài mực đen trên giấy trắng. Ngay cả khi đề cập đến những đề tài về ngôn ngữ bí truyền, các nhà thư pháp thiền được thẳng tắt vượt qua hệ thống biểu tượng rườm rà rắc rối, bỏ qua những giáo điều ma thuật, như bản chất thanh tịnh thuần khiết vốn có của nó.
Quan, nghĩa là cửa ải mà mọi thiền sinh phải vượt qua. Thư pháp tác giả vô danh.
image-31.jpg
image-32.jpg


image-47.jpg
image-2.jpg
image-24.jpg

LỊCH SỬ

Thật khó để nói về lịch sử thư pháp Thiền; dĩ nhiên, nó liên quan với lịch sử Phật giáo Thiền nhưng không phải chỉ riêng như vậy. Có thể đồng ý với nhau rằng có thư pháp ở Trung Hoa trước khi có Thiền tông – chẳng hạn, thư pháp chữ thảo của thánh thi Vương Hy Chi (Wang Xizhi), sống vào khoảng 200 trước khi Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang. Ngay cả sau khi Phật giáo Thiền được truyền bá ở Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản, không phải hoàn toàn các nhà thư pháp thiền đều là người của Thiền tông.
Không có mẫu mực nào còn lưu lại từ nét vẽ Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa (một trong số các vị tổ ấy, ngài Huệ Năng, là không biết chữ). Hai nhân vật kỳ đặc của Trung Hoa vào thế kỷ thứ 8 thường được xem là biểu tượng của thư pháp Thiền – “Zhang say” và “Sư cuồng Huai”. Sau khi nốc vào một lượng lớn rượu, Zhang tấp những chữ “cuồng thảo” lên bất kỳ chỗ nào ngay tầm tay – tường, thân cây, nồi, áo quần. Có khi anh ta nhúng đầu tóc mình vào mực rồi viết bằng đầu tóc. Cũng tương tự như vị đệ tử điên của ông ta, sư Huai, nổi tiếng với việc dùng lá chuối thay cho giấy mà sư mua không nổi. Tuy nhiên,sư lại kiếm tiền để uống rượu, và viết vào những lúc say khướt.
Thực tế các hành vi buồn cười ấy lại không được tán thành bởi phần lớn các vị trú trì của Thiền tông. Những biểu hiện thiếu nghiêm túc đều không được chấp nhận: Hầu hết các tác phẩm do các tăng sĩ Trung Hoa viết từ thế kỷ thứ 10 đến thứ 13 đều tiêu biểu cho sự nghiêm túc sâu lắng, sinh động, nhưng tao nhã và kín đáo. Các nhà thư pháp Trung Hoa có uy tín trong thơì kỳ này gồm những Nho sĩ như Tô Đông Pha và Huang Tingjian (Ko Teiken; 1045-1105); và thiền sư Yuanwu Keqin; Engo Kokugon; 1063-1135); Wujun Shifan (Bushan Shiban; 1177 – 1249), Xutang Zhiyu (kido Chigu; 1185-1296); Zhang Jizhi (Co Sokushi; 1186 – 1286); Lanqi Daolong (Rankei Doryu; 1203 – 1268); Wuxue Ziyuan (Mugaku Sogen; 1226 – 1286); Yishan Yining (Issan Ichinei: 1247 – 1371); Gulin Quingmao (Kurin Seimu; 1261 – 1323), và Liaoan Qingyu (Ryoan Seiyoku; 1288 – 1363).
Thư pháp của Eisai (1141 – 1215) và Đạo Nguyên Dogen (1200 – 1253), hai Tăng sĩ Nhật Bản khai sáng tông Lâm Tế và Tào Động nơi quê hương mình,đã có những nhét tương đồng với các bậc thầy Trung Hoa với phong cách nghiêm túc, tự chủ, và sinh động. Daito Kokushi, vị khai sơn chùa Daitokuji (Đại Đức Tự) ở Kyoto, có lẽ là người đầu tiên hoa quyện hai phong cách thư pháp Trung Hoa và Nhật Bản. Chùa Daitokuji đã tạo nên một lớp hậu duệ gồm các nhà thư pháp nổi tiếng, đến mức có thể gọi là “một trường phái” thư pháp Thiền. Trường phái thư pháp chùa Daitokuji là lâu đời nhất và đông đảo nhất. Các nhà thư pháp Nhật Bản khác được kể đến trog thời kỳ này là Muso (1276 – 1351); Kokan (1278 – 1346), Ikkyu (1349 – 1478).
Vào nửa thời gian đầu thời kỳ Edo, các nhà thư pháp sau đặc biệt nổi tiếng: Kogetsu (1571-1643); Takuan (1573-1645); và Seigan (1588-1661); tất cả các vị ấy đều từ chùa Daitokuji; Fugai (1568-1650); Shinetsu (1642-1696) và Manzan (1636-1715) từ tông Tào Động; và Bankei (Bàn Khuê Vĩnh Trác; 1622-1693); và Munnan (d-1676) thuộc tông Lâm Tế.
image-5.jpg
image-25.jpg
Thiền tự an trú mình giữa hai cực của khái niệm “ 無” của Munnan; và “Hữu 有” của Nyoten. Cùng toàn thể bài kệ là dòng chữ 有如浮雲 Hữu như phù vân.
image-45.jpg
image-6.jpg
image-46.jpg
Theo sau sự sáng lập tông Hoàng Bá (Obaku) thuộc Thiền tông ở chùa Mampukuji năm 1694, một dạng thư pháp mới của Trung Hoa được truyền vào Nhật Bản. Thư pháp của Hoàng Bá đậm hơn, mạnh hơn, thảo hơn so với thư pháp thế kỷ trước. Không như tông Tào Động và tông Lâm Tế vốn nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa Nhật Bản, tông Hoàng Bá vẫn giữ khoảng cách khuynh hướng Trung Hoa trong kiến trúc thiền viện, lối tu tập, thực phẩm, và thư pháp. Trong số những nhà thư pháp trường phái Hoàng Bá là Ẩn Nguyên (Ingen), trụ trì chùa Vạn Phúc tự (Mampukuji).
image-48.jpg
Thế kỷ thứ 18 và 19 đánh dấu thời kỳ hoàng kim của thư pháp thiền Nhật Bản. Bạch Ẩn (Hakuin 1685-1768); Jiun (1717-1804); Torei (1721-1792); Sengai (1750-1837); Ryokan (1758-1831); Nanzan (1756-1839) là những nhân vật sinh động trong thời kỳ nầy, cho ra đời một số lượng lớn các tuyệt tác.
Trong thề kỷ nầy, các thiền sư như Nantembo (1839-1925) và Gempo (1865-1961) đã thự hiện thư pháp không thua kém gì các bậc thầy đời trước. Thư pháp ngày nay, Rohis nhiệt tâm theo đuổi và trú trì các thiền viện lớn thuộc các tông phái đều phải dành nhiều thời gian mỗi tuần để thể hiện những tác phẩm thư pháp thích hợp để đáp ứng yêu cầu của Phật tử, như món quà dành tặng cho người thân và môn đệ, hoặc để trưng bày trong những dịp lễ. Chắc chắn một số các thư pháp dạng nầy sẽ được đánh giá rất cao bỡi các thế hệ sau khi họ biết rằng đó là tác phẩm của các nhà thư pháp thiền lớn trong thế kỷ trước.
-
John Stevens
Thích Nhuận Châu dịch
Trích từ THƯ PHÁP LINH TỰ ĐÔNG PHƯƠNG

PHỤ LỤC

C
language-grass-script.jpg
Chinese Running or Cursive Script
This is an Example of Cursive Script.
This is an example of Cursive Script. This cursive style of calligraphy by Wen Zhengming (1470-1559) has been called “The Dance of the Brush.” It is used as a means of artistic expression: the character itself is less important than its expressive quality.
language-cursive-script1.jpg
Chinese Seal Scripts
This Example of Seal Script was used on a Zhou Dynasty Bronze Vessel.
This is an example of Seal Script. These may be thought as in some sense “drawn,” curvilinear, and with little variation in line thickness. They range from Oracle Bone writing to the Small Seal style officially adopted by the Qin Dynasty.
language-seal-script.jpg
Three Kinds of Archaic Graphs and their Transitions to Modern Characters
Top Row: Complex single-element graphs whose modern parallels are direct descendants of archaic forms.
Middle Row: Simple multiple-element graphs lacking modern equivalents.
Bottom Row: Complex multi-element graphs with either modern descendants or equivalents.
language-oracle-bone1.jpg

Giáo Hoàng bị áp lực phải coi lại về các vụ lạm dụng "những con Quỷ Râu Xanh" trường hợp của các giám mục


AFP
Pope Francis kisses a child during a meeting with members of the Italian union of Catholic teachers, managers, educators and trainers (UCIM) at Paul VI audience hall on March 14, 2015 at the VaticanXem ảnhGiáo hoàng Francis hôn một đứa trẻ trong một cuộc họp với các thành viên của công đoàn Ý của giáo viên Công giáo, cán bộ quản lý, giáo dục và huấn luyện viên (UCIM) tại Paul VI phòng khán giả vào ngày 14 tháng 3 năm 2015 tại Vatican (AFP Photo / Vincenzo Pinto)Thành phố Vatican (AFP) - Quyết định của  Giáo Hoàng Francis  bổ nhiệm một giám mục người Chile bị nghi ngờ để nao che một linh mục m'au quỷ râu xanh đã làm hoảng hốt các cơ quan giám sát bảo vệ trẻ em tại Vatican, các thành viên nói với AFP.Một số thành viên của ủy ban mới thành lập bởi Đức Giáo Hoàng để dập tắt lửa dục lạm dụng trẻ em trong Giáo Hội Công Giáo bày tỏ cú sốc của họ tại các quyết định, với áp lực xây dựng cho các quyết định được lật ngược.Juan Barros, người vừa được nhận chức Giám Mục Osorno thứ bảy tuần trước, đã phủ nhận rằng ông đã biết về việc hành vi lạm dụng của Fernando Karadima,  khi là người  có ảnh hưởng trong các nhà thờ Chile.Một Thành viên Ủy ban Pháp. bác sĩ tâm thần trẻ em Catherine Bonnet nói với AFP hôm thứ Sáu rằng nói đích thân bà đã "lo lắng" từ các cuộc hẹn."Trong khi các thành viên g không thể can thiệp vào trường hợp cá nhân, tôi muốn gặp Hồng Y Sean O'Malley (chủ tịch ủy ban của Mỹ) và các thành viên khác để xem làm thế nào chúng ta có thể vượt qua nỗi lo lắng của chúng tôi về Giáo hoàng Francis," cô nói thêm.Một nguồn tin khác nói rằng Giáo Hoàng có thể đã bị ảnh hưởng nặng của  các lời cố vấn .Thành viên Ủy ban người Anh Peter Saunders, người sáng lập của Hiệp hội quốc gia vì dân lạm dụng của những con lợn  lòng trong thời thơ ấu, nói với US National Catholic Reporter rằng "một trong hai chúng tôi đang  dự định đến Rome để nói chuyện với Ngài "  Thánh " Cha."Ngài Thánh Cha đã cam kết sẽ trấn áp mạnh vào nền văn hóa bao che nhau trong Giáo Hội, và đã đích thân đưa ra các trường hợp nạn nhân lạm dụng ở Tây Ban Nha và Italia gần đây.


Nguồn : http://news.yahoo.com/pope-under-pressure-roll-back-abuse-case-bishop-144857002.html

Pope under pressure to roll back on abuse case bishop


Pope Francis kisses a child during a meeting with members of the Italian union of Catholic teachers, managers, educators and trainers (UCIM) at Paul VI audience hall on March 14, 2015 at the Vatican
.
View photo

Pope Francis kisses a child during a meeting with members of the Italian union of Catholic teachers, managers, educators and trainers (UCIM) at Paul VI audience hall on March 14, 2015 at the Vatican (AFP Photo/Vincenzo Pinto)
Vatican City (AFP) - Pope Francis's decision to appoint a Chilean bishop suspected of protecting a paedophile priest has alarmed the Vatican's own child protection watchdog, its members told AFP.
Several members of the new commission set up by the pope to stamp out child abuse in the Catholic Church expressed their shock at the decision, with pressure building up for the decision to be overturned.
Juan Barros, who took up his post as Bishop of Osorno last Saturday, has denied that he knew about the abuse committed by Fernando Karadima, once an influential figure within the Chilean church.
Commission member French child psychiatrist Catherine Bonnet told AFP Friday that speaking personally she was "worried" by the appointment.
"While the commission cannot intervene in individual cases, I want to meet Cardinal Sean O'Malley (the American president of the commission) and the other members to see how we can pass our anxieties on to Pope Francis," she added.
Another source said that the pope may have been badly advised.
British commission member Peter Saunders, founder of the National Association for People Abused in Childhood, told the US National Catholic Reporter that "one of two of us are suggesting we go to Rome to talk with the pope."
The pope had pledged to crack down hard on the culture of cover up within the Church, and had personally taken up the cases of abuse victims in Spain and Italy recently.

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

Thầy Thích Nhuận Thư Viện Chủ Chùa Từ Nghiêm Quyên Sinh bỏ lại đằng sau nhiều nghi vấn .

  Santa Ana (Bình Sa)- - Lúc 10 giờ Sáng Thứ Năm  26/03/2015 được tin Thầy Thích Nhuận Thư, Viện Chủ Chùa Từ Nghiêm tọa lạc tại số 5418 đường số 4 Santa Ana đã dùng sợi dây tự kết liễu đời mình. Theo lời Đại Đức Minh Trí, người cùng ở trong chùa, cho biết Thầy đã phát hiện vào lúc 9 giờ sáng, sau đó Thầy gọi 911 để báo cho cảnh sát.

Hay tin nầy phóng viên Việt Báo đến nơi thì đã thấy Hòa Thượng Thích Nguyên Trí, HT. Thích Giác Pháp và một số qúy Đại Đức, Tăng Ni cùng đồng hương Phật tử, một số các cơ quan truyền thông có mặt trước ngôi chùa. Trong lúc nầy Cảnh Sát đang làm việc nên mọi người không được vào chùa. Sau một tiếng đồng hồ thi thể của Thầy được đưa ra phía sau, ngôi chùa. Trong lúc nầy Hòa Thượng Thích Nguyên Trí đã đích thân đến xin phép cảnh sát để qúy chư Tăng Ni làm lễ cầu nguyện cho Thầy. Vị cảnh sát đã đồng ý và cho phép các chư Tăng Ni làm lễ.

blank
Trước ngôi Chùa Từ Nghiêm hôm Thứ Năm.

Sau khi lễ xong thi thể Thầy đã được cơ quan chức trách chở đi.

Được biết, trong thời gian qua, Thầy đã chịu nhiều áp lực do tổ chức hành hương không thành, việc cháy chùa, và gần đây cũng đã xảy ra những vấn đề lời qua tiếng lại trong dư luận.

Sự việc còn đang trong vòng điều tra của sở cảnh sát Santa Ana. Mọi người có mặt đều thương tiếc việc quyết định quyên sinh của Thầy.

Theo HT. Thích Nguyên Trí cho biết: mọi chi tiết về tang lễ của Thầy sẽ được thông báo sau.
http://vietbao.com/a235493/thay-thich-nhuan-thu-vien-chu-chua-tu-nghiem-quyen-sinh
Hỏa hoạn chùa Từ Nghiêm, cháy 50 passport và 50 vé máy bay đi VN

Kalynh Ngô/Người Việt


02.03.2015, SANTA ANA, California (NV) – Một đám cháy xảy ra ở chùa Từ Nghiêm, Santa Ana vào tối thứ Bảy, 28 tháng Hai, thiêu hủy toàn bộ vé máy bay và passport của 50 Phật tử đang chuẩn bị cho chuyến hành hương về Việt Nam đầu tháng Ba.



Thầy Thích Nhuận Thư, trụ trì chùa Từ Nghiêm tiếp chuyện nhật báo Người Việt. (Hình: Thủy Phan/Người Việt)


Theo lời kể của thầy Thích Nhuận Thư, trụ trì của chùa, và là người đứng ra tổ chức chuyến hành hương cho các Phật tử: “Tối thứ Bảy, lúc 9 giờ tối, tôi ra ngoài mừng sinh nhật của một đệ tử. Toàn bộ vé máy bay và hộ chiếu của những Phật tử tham gia chuyến hành hương đều được tôi đặt trên bàn bên trong phòng. Trước khi đi, tôi khóa cửa phòng, và có để máy sưởi ở mức rất nhỏ. Tôi không khóa cửa chính của chùa.”

“Khi được vài Phật tử điện thoại cho hay chùa bị cháy, tôi chạy về thì cảnh sát và cứu hỏa đã có mặt. Lúc đó trời mưa to và họ không cho tôi vào cho đến hơn một giờ sau,” thầy Thích Nhuận Thư kể tiếp.

Có gần 10 cảnh sát đã đến chùa để điều tra vụ hỏa hoạn.

Thầy Thích Nhuận Thư cho biết tất cả vé máy bay của 50 Phật tử được đặt mua từ một người tên Văn, do người quen từ Việt Nam giới thiệu.

“Thật ra lúc đầu tôi đã dự tính mua vé máy bay cho các Phật tử ở một đại lý vé Eva trên đường Beach, với giá tiền là $900 cho một người. Nhưng sau đó, do người quen ở Việt Nam giới thiệu, tôi hỏi một nơi khác thì rẻ hơn được $30/một người và riêng vé của tôi thì được 'free'. Do đó, tôi quyết định chọn chỗ này và đóng toàn bộ số tiền là khoảng $33 ngàn cho 50 người.”

Theo lời kể, khoảng 4 giờ chiều ngày thứ Bảy, người tên Văn đó đến đưa cho thầy Thích Nhuận Thư tất cả vé máy bay cùng với passport của 50 người và dặn “hãy kẹp vé máy bay vào từng hộ chiếu.”

Một điều “kỳ lạ,” theo lời thầy Thích Nhuận Thư, “tất cả hộ chiếu cháy hết nhưng không tìm thấy vé máy bay.”

Theo lời kể lại của thầy trụ trì, “căn phòng không bị cháy nhiều. Nặng nhất là cái bàn gỗ để hộ chiếu và vé máy bay, quần áo trong phòng bị cháy quắn lại.”

Phía ngoài căn phòng bị cháy. (Hình: Thủy Phan/Người Việt)

“Không biết đó có phải là vé thật hay không, hay họ cố tình in ra rồi lẻn vào lấy lại. Tình ngay mà lý gian là đây. Từ lúc xảy ra hỏa hoạn, tôi đã điện thoại rất nhiều lần cho người đó nhưng không liên lạc được. Thật sự tôi không biết văn phòng của người bán vé này ở đâu,” thầy Thích Nhuận Thư nói.

Đến sáng ngày Chủ Nhật, rất nhiều Phật tử hay chuyện đã đến chùa Từ Nghiêm. Họ rất giận dữ khi gọi đến hãng hàng không và được biết 50 người đều không có tên trong danh sách chuyến bay.

“Rất nhiều người khi hay tin đã đến đây. Hù họa cũng có, cảm thông cũng có. Sáng nay cũng có khoảng 10 người đến tìm. Nhưng hoàn toàn không có biểu tình như những thông tin bên ngoài,” thầy cho biết.

Ông Anthony Bertagna, cảnh sát Santa Ana, cho biết sáng Chủ Nhật, Sở Cảnh sát nhận được điện thoại từ chùa Từ Nghiêm báo rằng có khoảng 30 người đang tụ tập trước cổng chùa.

"Họ muốn đòi lại số tiền đã đóng cho chuyến hành hương về Việt Nam," ông Bertagna nói.

“Vụ hỏa hoạn xảy ra trong lúc người trụ trì ngôi chùa vắng mặt. Hiện tại, chúng tôi chưa thấy có điều khả nghi về đám cháy. Tuy nhiên, có sự nghi ngờ về người bán số vé máy bay đã tìm cách chiếm đoạt số tiền. Như tôi đã nói, tất cả là phỏng đoán trong giai đoạn này. Chúng tôi đang tiếp tục điều tra,” ông Bertagna trả lời nhật báo Người Việt.

Thầy trụ trì của chùa Từ Nghiêm cho biết ông “không hổ thẹn với lòng” và ông hy vọng cảnh sát mau chóng tìm ra sự thật.

Ông nói thêm rằng mình không thể nào chợp mắt trong ba ngày qua. “Lời nói của mọi người quá sức nặng đối với một người tu sĩ khi họ cho mình là lường gạt.”

Chùa Từ Nghiêm tổ chức chuyến hành hương cho khoảng 50 người trong khoảng thời gian tám tháng. Nơi đến là Hà Nội, Miến Điện và Thái Lan. Chuyến đi dự kiến khởi hành sáng ngày thứ Hai, ngày 2 tháng Ba nhưng phải hủy bỏ vì chùa xảy ra hỏa hoạn vào tối ngày thứ Bảy. Tất cả passport và “vé máy bay” hoàn toàn bị thiêu rụi.

Thầy Thích Nhuận Thư đi tu từ năm 10 tuổi. Đến nay, ông có hơn 40 năm tu hành.





Người Miêu: Lịch Sử Của Một Dân Tộc Lưu Vong


Trần Trúc - Lâm

Qua cuộc chiến Đông Dương và Việt Nam, sự liên hệ của các sắc tộc miền núi đã đóng một vai trò không kém phần quan trọng, thường được báo chí Tây phương nhắc đến, nhất là ở Lào. Khi cuộc chiến kết liễu với sự thắng thế của phe cộng sản vào giữa thập niên 70, đã có một làn sóng di dân tị nạn ồ ạt kéo dài nhiều năm sau đó.
Phần lớn dân thiểu số ở Lào sau khi vượt sông Mêkông lánh nạn sang Thái Lan đều an cư ở vùng đồi núi Bắc Thái; một số khác được định cư ở Hoa Kỳ cùng với khối lượng lớn lao người đồng bằng của 3 nước Việt, Miên Lào.
Với hơn hai thập niên đầu định cư, vì những nhu cầu và dịch vụ xã hội, đã có sự giao tiếp hòa đồng của các sắc dân Đông Dương trên vùng đất mới. Chúng ta đã làm quen với những người miền núi của thượng Lào với y phục cổ truyền có màu sắc sặc sỡ khác lạ mắt mà những người lớn tuổi vẫn còn mặc khi đi khám bệnh, đi chợ, đi xe buýt hoặc đến sở welfare v.v...
Riêng nói đến người Lào thì trong khối sắc dân hỗn tạp này, nhiều người Việt chúng ta đã không phân biệt được người Lào đồng bằng, người Lào miền núi (còn gọi là Lào thừng), người Miên (đừng nhầm với người Cao Miên, hay Khmer), người Hmong (mà ở Việt-Nam hay gọi là Mông, Miêu, Mèo), người Kh'mú (còn gọi là người Kha phía nam Lào). Họ có tiếng nói và phong tục văn hóa khác biệt hẳn nhau.
So với người Việt, thì người Miên và người Hmong chỉ có một số ít họ tộc rất dễ nhận: Đối với người Miên thì thường là Saeteurn, Saechao, Saephanh, Saefong, Saelee vv...; còn người Hmong thì có: Ly hay Lee, Moua, Hang, Xiong, Vue, Lo, Thao v.v... Với chúng ta thì tên Vang Pao lại cũng rất là quen thuộc.
Nhóm sắc tộc Lào, vốn thích nghi với miền núi và canh tác, khi đến Mỹ đã tụ tập với nhau ở một số địa phương như Minesota, Fresno, Sacramento, Modesto, Spokane và Seattle...Và theo đà tiến triển, các thế hệ trẻ đã chóng thích nghi với đời sống mới và đạt lắm thành công rực rỡ trong nhiều mặt như học vấn và kinh doanh.
Riêng với sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số còn lại sống rãi rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến Điện. Có khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ. Đã có khá nhiều sách báo Tây phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng tìm hiểu thì chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về lịch sử hùng tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn, đã bị suy vong mai một mà trở thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu lục với trò dâu biển ngậm ngùi.
http://e-cadao.com/Coinguon/h'mong2.gif
Người Trung Hoa xưa phân biệt sắc tộc H'mông ra làm hai loại: loại đã thuần (shu) và loại hoang (sheng). Loại H'mông thuần là nhóm đã được đồng hóa với người Hoa, còn loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong sống hoang dã ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam vào thế kỷ 17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh. Có thể là vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Số người giống caucasian này còn lại tương đối ít vì các chính quyền liên tiếp của Trung Quốc luôn luôn tìm cách sát hại họ, dù họ đã trốn sang Lào, không nương tay, ngay cả đến thời Dân quốc và Trung cộng ngày nay.
Sự kiện này đã làm các nhà truyền giáo bấy giờ bỏ công tìm hiểu thêm về nguồn gốc của người H'mông. Nhưng sử sách của người Hoa lại hầu như muốn bỏ quên giống dân này, chẳng có mấy sách cổ nhắc đến một cách rõ ràng, không khác gì khi nói về nguồn gốc của Việt tộc. Ngay cả các nhà sử học người Hoa vẫn cho rằng người Hmong là kẻ thù đầu tiên của Hoa tộc, và xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Mãn Thanh,  người H'mông đã không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân Trung Quốc.
Cuốn sách đầu tiên đề cập tương đối đầy đủ về giống H'mông là cuốn "Histoire des Miao" (Lịch sử về Miêu tộc) do nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt tại Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều bộ tộc H'mông ở Bắc kỳ và Lào.
Nguồn gốc Miêu tộc
Về sau, nhiều nhà sử học đồng ý rằng trong thời cổ đại giống H'mông xuất phát từ châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định cư ở lưu vực sông Hoàng-hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Hmong còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả 6 tháng. Với người Hmong sống ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể chuyện là "nước cứng" và "cát trắng mịn".
Số phận dân H'mông bắt đầu gắn liền với sử Trung Quốc có thể vào khoảng từ 3000 trước TL đến 1200 trước TL.
Khoảng 2700 trước TL, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là Manchuria, Hà Bắc khi khí hậu ấm áp hơn cho phép, và người H'mông đã định cư tại lưu vực sông Hoàng Hà ở vùng thượng Hà Nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hoa Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm tây, Sơn tây và Hà Nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc  này chỉ là bộ lạc miền núi chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hoa Yangshao này hòa nhập với bộ tộc Hoa Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn đông.
Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của Trung Hoa,  đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy giờ. Theo người Hoa thì Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người Hoa (khoảng 2697 trước TL), liền tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc dể chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung quốc. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) mở đầu thời Ngũ đế, đồng thời với Họ Hồng Bàng của Việt sử. Người ta lại gán cho thời Hoàng đế kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đã phát minh ra được thuyền bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và đất nung, biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để đoán ngày tháng gieo trồng v.v...
Hẳn nhiên Hoàng đế chỉ là một nhân vật huyền thoại của người Tầu, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra được bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa - Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ đó cứ kéo dài mãi suốt lịch sử Trung Quốc.
Cuộc sống mái với Hoa tộc qua các triều đại
Năm 1576 trước TL, vua Thang, thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc bộ lạc tộc Thương, lôi kéo được các bộ lạc khác diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia hay Hsia), lập ra Nhà Thương (Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước TL), thống lĩnh một giải đất thuộc tỉnh Hà Nam và Sơn Tây bây giờ. Đến đời vua thứ 8 là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên còn gọi là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ, định canh, mục súc, tằm tang và chế độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất hiếu chiến, giao tranh luôn với các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch bại trận bị bắt làm nô lệ, và còn dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa. Vào năm 1930, trong một cuộc đào xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô đời nhà Thương,  người ta tìm thấy có nhiều hài cốt của tộc Phi Mông Cổ (có nghĩa là gốc caucasian) lẫn lộn.
Đến đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước TL) thì ngay sau khi diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ vương liền đày một số tộc Miêu lên vùng biên cương Cam-túc (Kansu), tịch thu hết ruộng đất của họ. Nhà Chu còn bắt họ canh tác dưới sự kiểm soát của các đội biên phòng, nhưng người Hmong, quen sống tự do bõ trốn vào rừng và bắt đầu cuộc sống kham khổ của miền núi. Đến thế kỷ thứ 7 trước TL, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi lên đánh phá các trú phòng của quân nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không còn nghe nói đến trong sử Trung Quốc. Có truyền thuyết cho rằng một phần đã bị đồng hóa trước TL, và một phần theo giòng sông Vệ vào vùng Tứ Xuyên, rồi trốn vào Tây Tạng yên sống trong chốn thâm sơn cùng cốc.
Số tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà họ luôn nổi dậy. Năm 826 trước TL, Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu táng khắp phương; một số chạy đến bờ biển theo thuyền xuôi vào biển Nam, một số đến Quảng Tây, Hồ Nam; số lớn di tản vào vùng thượng du Tứ Xuyên và Quế Châu, xa khỏi vòng kiềm chế của nhà Chu.
Ấy vậy mà năm 770 trước TL, U-vương (vợ là Bao Tự) đã bị rợ Khuyển-nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là Bình-vương phải dời đô từ Cảo Kinh (Tây đô) về Lạc Dương (tức Đông đô), nên sử gọi là Đông Chu.
Tiếp sau đó, nước Tầu bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước TL), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước TL.), số phận Miêu tộc không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Tầu. Cùng thời xin nhớ rằng, ở nước Văn Lang khoảng 275 trước TL, Thục Phán dành được ngôi từ Hùng Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây thành Cổ loa.
Mãi đến đời Tần (Ch'in hay Qin: 221 - 206 trước TL), sau khi nhất thống Trung quốc Tần Thỉ Hoàng (Shih Huang-ti) dời đô về Hàm dương, quyết tâm đè bẹp các cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn lý trường thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ phương Bắc. Tần Thỉ Hoàng đã ra lệnh cho tướng Đồ-Thư đánh chiếm các xứ Bách Việt ở phương nam (khoảng các tỉnh Hồ-nam. Quảng đông và Quảng tây bây giờ), rồi cho di dân hơn 50 vạn người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam-hải là Triệu Đà cai quản. An Dương Vương xin thần phục nhà Tần.
Khi nước Tầu lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán) và Hạng Võ (Sở) tranh hùng thì năm 208 trước TL, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu lạc, lập ra nước Nam Việt (gồm Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận).
Khi nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN - 220 TL), nhờ yên ổn với các rợ, họ đã chú tâm mở rộng bờ cõi thêm. Đời Vũ Đế (134 - 88 trước TL), quân Hán đã đánh chiếm Triều tiên và chia ra làm 4 quận. Năm 111 trước TL lại sai Lộ Bác Đức chiếm nước Nam Việt, đổi thành Giao-chỉ bộ (Chiao-chih chun) chia ra làm 9 quận. Quân Hán còn chiếm các đất của rợ Di, phía Tây nam như Vân-nam, Quế-châu và Tứ-xuyên bây giờ, trong đó có Miêu tộc ở Quảng-tây. Năm 41 vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mã Viện (Ma-yuan) sang đánh dẹp cuộc nổi loạn của Hai bà Trưng ở quận Giao-chỉ, rồi dựng cột đồng ở biên giới. Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một trận càn quét cuộc nổi loạn của Miêu tộc ở phía nam Hồ Nam, và tướng già Mã Viện đã chết cùng với trên 2 vạn quân vì bệnh ôn dịch trong khi hành quân.
Nhà Đông Hán đã trả thù rất khốc liệt bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc và đốt phá các làng mạc người H'mông trong vùng liên tục tròn 3 năm cho đến đời Chiêu-đế mới nới lỏng, nhưng đã không tiêu diệt được tinh thần tự cường của Miêu tộc.
Đến thời Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô: Wei, Shu Han, Wu) thì người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ phần lớn đất Hồ-nam và Quế-châu, lại còn có ảnh hưởng đến tận mạn nam của Hồ Bắc, rồi theo sông Hán đến tận mạn bắc. Họ còn cố quay về chốn cũ ở Hà Nam, Sơn Tây và lan đến phía đông An-huy.
Sau đời Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316) thì nước Tầu suy yếu, rơi vào hỗn loạn của thời Nam Bắc triều (Nan Bei) (hay còn gọi là Lục triều: 317 - 589) thì khoảng từ 403 đến 561 đã có đến hơn 40 lần người H'mông nổi dậy để đòi độc lập, cùng với những sắc tộc khác ở khắp nơi mà sử Tầu gọi là Loạn Ngũ hồ (Hung-nô, Yết, Tiên-ti, Chi, Khương).
Đến giữa thế kỷ thứ 6, người Hmong đã thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá rộng ở  phía tây Trung quốc kéo dài từ Hà Nam, qua Hồ Bắc, Hồ Nam xuống đến Quảng Tây, có thể lẫn lộn biên cương giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ được các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc triều mua chuộc, lôi kéo, nên một số danh sĩ được tiến cử vào các triều. Nhưng thời gian vui hưởng này không kéo dài được lâu vì đến khi Lý Uyên thiết lập nhà Đường (T'ang: 618 - 907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589 - 618), thì bắt đầu đánh dẹp và thu hồi  đất đai đã mất vào tay các rợ, trong đó có H'mông. Đổi lại, nhà Đường cho các vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho triều đình.
Chấm dứt một thời oanh liệt
Đến năm 907, nước Tầu lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ đại (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố đánh lấy vương quốc Hmong. Đến khi nhà Tống tái thống nhất Trung quốc (Sung: 960-1279), lại cử binh giành lại các đất vùng Hồ-bắc và Hồ-nam. Trong các cuộc giao tranh toàn bộ vương triều của Hmong bị tiêu diệt, và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời vàng son của bộ tộc Miêu.
Truyền kỳ còn được kể lại giữa người Miêu về những ngày bi thảm đó như sau: Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đã già và mệt mỏi vì  chiến trận, giàn quân kháng cự quân Tống.  Con gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao Shing cũng cùng xông pha trận tuyến với cha. Nàng không những xinh đẹp mà còn học được phép lạ với lá cờ thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân Tống.
Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu hòa với điều kiện là Miêu tộc phải trao lá cờ phép cho họ. Triều thần người Miêu họp bàn và sợ rằng người Hoa bày quỉ kế, nên trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua Tống, nhưng khi thử với lửa thì biết là không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử hình nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp thuận nhưng Ngao Shing thì nhất định cự tuyệt, liền bị vua cha bạc đãi đến chết. Nàng qua đời thì cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể tiêu diệt được triều thần Hang Tchu.
Người H'mông lại phải chạy trốn vào vùng Quế Châu và Tứ Xuyên; số khác lại tẩu táng xuống Quảng Đông và Quảng Tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai trị người Hoa lại còn chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y phục có màu khác nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và xanh. Mỗi nhóm lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương (kiatong). Tuy vậy họ vẫn luôn tìm cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù chung là Hoa tộc.
Có một bài phóng sự trong nước mới đây mô tả về trang phục của phụ nữ Mông một cách khá thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn như sau:
"Họ cư trú trên các thung lũng của miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi dốc, ở độ cao một ngàn ta bắt gặp những bản làng của người Mông, bốn mùa mây mù, sương phủ. Bao quanh những bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, với những con đường mòn vừa đủ cho người địu gùi, cho ngựa thồ nằm vắt mình qua các triền núi cheo leo. Giữa khung cảnh tịch mịch hoang vu ấy, du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Mông đi chợ, bộ trang phục nữ với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sở, lóng lánh vòng khuyên, nổi bật lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày, Nùng, Dao ...vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Mông: Đây là cô gái Mông Trắng mặc váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô gái Mông Hoa, váy xếp nếp xòa đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở ngực, còn mang trên mình khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Mông Đen quấn vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ, làm mỗi bước đi rung lên thành nhạc, còn cô gái Mông Lai trong tiết rời se lạnh sặc sỡ một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống." ...
Trở lại câu chuyện gốc gác người H'mông ở Tầu thì sau khi bị phân tán vào các vùng cao nguyên và rừng rậm, người Miêu tạm sống yên ổn bởi nhà Tống bận rộn trong việc chấn hưng nền kinh tế và giao thương của Trung quốc mà xao lãng quân sự đưa đến việc rợ Khế-đơn (Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn Tây bắc và rợ Tiên-ti (Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang Bắc, Ninh Hạ và Cam Túc. Từ đó nước Tầu lại can qua giữa 3 nước.
Những năm về sau ở nước Liêu, Mãn-tộc bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước Đại Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234). Tống Hy Tông liên kết với Đại Kim để diệt Liêu, rồi nhà Tống quá suy yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy, giống Mông Cổ phát triển hùng mạnh với Thành Cát Tư Hản (Genghis Khan) khởi binh chiếm nữa phía bắc nước Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung Á và tàn phá vùng Nga-la-tư. Khi quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ vào năm 1224, chọn Yên-kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm kinh đô, xưng là Nguyên-thái-tổ. 
Sau khi Thành Cát Tư Hản mất năm 1227, thì con là Oa-khoát-đài hay A-loa-đài (Ogadai) thôn tính trọn nước Kim năm 1234 và khủng bố đến tận vùng Trung Âu. Sau khi Oa-khoát-đài mất, Mông-kha (Mongke) lên ngôi một mặt tiếp tục tàn phá châu Âu và mặt khác sai cháu cuả Oa-khát-đài là Hốt-tất-liệt (Kublai Khan) cử binh đánh và diệt nước Đại Lý, hậu thân của nưuớc Nam chiếu (ở vùng Vân-nam bây giờ) vào năm 1253, rồi tiến đánh nhà Nam Tống và nước An Nam. Khi Hốt Tất Liệt đánh vào Quế Châu, Tứ Xuyên, quân Mông Cổ đã không tiến sâu vào vùng cao nguyên cho nên Miêu tộc không bị sát hại nhiều.
Khoảng từ năm 1267 đến 1279 Hốt Tất Liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông Kha mất, liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan: 1279 - 1368) ở Trung Quốc. Vua Tống Cung đế và các đại thần phải nhảy xuống biển tự vận.
Đến năm 1368 Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi lên đánh đuổi được quân Mông Cổ lập nên nhà Minh (Ming: 1368 - 1644). Nhà Minh lại nhắm vào Miến Điện như là cửa ngõ buôn bán với vùng Đông Nam Á, nên quyết bình định vùng Vân Nam. Trước tiên họ đặt ra hệ thống thổ-ty (Tu Si system) và ưu đãi nhóm người Lô-lô mà đàn áp người Miêu đẫn đến việc người Miêu thường xuyên nổi dậy. Năm 1459 quan quân nhà Minh đã thiết lập hơn 2 ngàn đồn biên phòng tại Quế Châu, Tứ-xuyên, để từ đó liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá làng mạc và căn cứ địa của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40 ngàn người.
Từ đó cho đến cuối thế kỷ thứ 16, không năm nào mà người Miêu không vùng lên đòi độc lập, và tung hoành một cõi từ Quế Châu đến tận Hồ Nam. Để ngăn chận họ, nhà Minh cho xây một trường thành nhỏ giống Vạn Lý Trường Thành gọi là Miêu Thành cao 8 bộ và kéo dài hằng trăm dặm ở biên giới Hồ Nam và Quế Châu.
Số phận vẫn còn bi đát
Năm 1616, người Mãn-châu là hậu duệ của nước Kim lại bắt đầu cường thịnh, Nỗ-nhỉ-cáp-xích quật khởi ở miền Liêu-ninh xưng là Thái-tổ và đặt tên nước là Hậu Kim, đặt đô ở Thẩm-dương chống lại nhà Minh. Năm 1636, Hoàng-thái-cực kế vị vua cha, đổi tên nước là Đại Thanh đi chinh phục Triều-tiên, Nội Mông-cổ và miền Đông-bắc của Minh triều và đến năm 1644 thì Thuận-trị dứt được nhà Minh, thiết lập Thanh triều ở Trung-quốc (Ch'ing hay Qing: 1644 - 1911).
Tàn quân nhà Minh kéo nhau tị nạn sang Nhật Bản và Việt Nam. Một số khác do Hoàng Minh và Mã Báo bỏ Quảng Tây trốn vào Quế Châu cốt tìm đường sang Vân Nam. Để đền ơn cưu mang của Miêu tộc, Hoàng Minh giao lại cho họ toàn bộ vũ khí và còn bày cho cách chế tạo súng hỏa mai mà ngày nay người Miêu vẫn còn sử dụng.
Sự kiện này đã làm cho nhà Thanh thêm lo ngại, nên năm 1727, Thân vương Oa-đài (Ortai), thống đốc Quế Châu mở chiến dịch càn quét, sai tướng Dương Quang Sĩ (Zhang Kwang Si) tấn công vào Quí Dương (Guiyang)  là thủ phủ rồi vào Liễu Bình (Lip'ing). Quân Hmong đông đến hơn 10 ngàn người trang bị đầy đủ vũ khí với súng hỏa mai và đại bác nghênh chiến. Tổn thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng quân Thanh thắng thế, tịch thu tất cả vũ khí của người Miêu đúc thành một trụ tượng kỷ niệm chiến thắng bằng sắt cao 11 bộ dựng ở một hòn đảo trên sông Liên, cửa vào Quí Dương.
Để trả thù, quân Miêu kéo từ núi xuống tàn sát dân ở 4 thị trấn ven sông. Nhà Thanh phải đem viện binh từ các tỉnh lân cận đến tấn công vào cứ điểm của người H'mông từ ba mặt. Quân Miêu vỡ, số thua trận đầu hàng đều bị giết sạch. Điều này làm cho các bộ lạc Miêu rút vào rừng sâu và liên kết dựng những hỏa đài báo hiệu sự tiến công của quân Thanh trên các sườn núi. Di tích của những hỏa đài này hiện vẩn còn. Quân Miêu nổi loạn cắt máu ăn thề kháng cự đến chết. Họ còn giết hết vợ con để khỏi phải bận tâm luyến ái. Họ phản công điên cuồng chẹn các đèo vào núi, làm cho cả Bắc Kinh lo lắng.
Dương Quang Sĩ được cử thay Oa-đài ra sức giải tỏa hết các chốt và cắt đường tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ đói khát phải mở đường máu. Hai mươi ngàn quân Miêu bị giết trên chiến trường. Khoảng hai mươi bảy ngàn khác bị bắt và một nửa số bị sát hại sau đó. Tổng số súng dài tịch thu lên đến gần 50 ngàn khẩu. Dương Quang Sĩ còn khủng bố dân lành, cướp phá hơn 20 ngàn làng mạc của người H'mông, tước đoạt đất đai của họ. Dân Miêu lại phải trốn chạy vào các vùng lân cận để thoát thân, một số vượt biên giới vào miền bắc Việt Nam, định cư ở Đông Quan và núi Hoàng Su-Phi. Tuy vậy số người H'mông còn ở lại vẫn chưa chịu hoàn toàn khuất phục, thỉnh thoảng vẫn tìm cách nổi dậy.
Đến năm 1740, đời Ung Chính, nhà Thanh ra lệnh dẹp bỏ hệ thống thổ-ty mà đặt quan trực tiếp cai trị vùng Tứ Xuyên, Quế Châu, Vân Nam, Quảng Tây cốt để đồng hóa họ và khai thác các quặng than, bạc và đồng cũng như lâm sản trong vùng. Nhà Thanh cũng gia tăng thuế má làm cho nhiều nông dân người Miêu điêu đứng, khiến họ nổi dậy không ngừng.
Năm 1796 người Miêu lại tập hợp đủ mạnh dưới sự lãnh đạo của 2 tù trưởng là Thỉ Sanh Báo và Thỉ Liêu Đăng (Shih San-Pao và Shih Liu-teng) ở biên giới Quế Châu, Hồ Nam để khủng bố nông dân người Hoa vốn do Thanh triều di dân đến dưới mỹ danh là "khách trú" và được quân đội bảo vệ. Bắc Kinh phải vội tăng viện để dập tắt cuộc bạo loạn, và chiến dịch kéo dài đến 13 năm mới xong. Quân Thanh tái thiết bức Miêu Thành từ lâu đã bị bỏ hoang và tăng cường thêm quân bố phòng để kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của người Hmong và quyết tâm đồng hóa họ. Người Thanh còn bắt trẻ con Miêu phải theo học chữ Hán và Hoa tộc được quyền cưới phụ nữ Miêu.
Nhiều nhóm Miêu không chịu đựng được sự áp bức đành phải trốn sâu hơn vào rừng ở những tỉnh lân cận. Vài nhóm Miêu đen kéo xuống vùng nam của Hồ Nam và bắc của Quảng Tây, Miêu trắng dời về phía bắc vào vùng Tứ Xuyên, và Miêu hoa trốn về phía tây vào vùng Vân Nam.
Lúc bấy giờ ở vùng Vân Nam, vốn xưa là nước Đại Lý đã có giống người Hản (Haw) cư ngụ. Họ là người theo đạo Hồi có liên hệ với người Panthay ở Miến Điện, chuyên về buôn bán thương mãi. Họ thường bị quan lại nhà Thanh khinh miệt và kỳ thị cho nên cũng đã nổi dậy nhiều lần đòi độc lập, như vào các năm 1818, 1826 và 1834 nhưng lần nào cũng bị đàn áp tàn bạo.  Nhưng từ năm 1855 cho đến 1873 người Hản vùng dậy và làm chủ được toàn vùng dưới sự lãnh đạo của Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) vì nhà Thanh còn bận đương đầu với loạn Thái Bình (Taiping) ở trung thổ. Trịnh Chiếu tuyên bố Vân Nam là một nước Hồi giáo độc lập cho đến khi nhà Thanh rảnh tay quay lại tái chiếm. Người H'mông cùng tham gia với người Hản nổi dậy nên cũng chịu chung số phận bị tàn sát dã man. Người ta ước tính có đến cả triệu người Vân Nam thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại. Thế là người Hản và người Miêu lại kéo nhau tràn vào Miến Điện và Đông Dương lánh nạn. Nhóm đến Việt Nam lần này đông khoảng 6 ngàn người kéo vào Đồng Văn ở gần biên giới.
Miêu tộc vào Việt Nam
Trước đấy từ năm 1815 đến 1818 đã có người Miêu chạy thoát đến cư ngụ ở Đồng Văn. Sau đó một nhóm tách ra di dân đến vùng bắc của ngọn núi Fan Si Pan, rồi bỗng dưng vài năm sau không ai tìm thấy dấu vết của họ đâu nữa, làng mạc bị bỏ hoang.
Câu chuyện thật ra rất ly kỳ có liên quan đến một tay buôn nha phiến người Tầu tên là Tôn Mã. Nhân một chuyến ghé qua Fan Si Pan để thu mua thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về một vùng đất hoang mầu mỡ ở dãy núi Xieng Khoảng phía đông nước Lào. Thực ra thì y chỉ muốn thủ lợi riêng bởi vì người Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha phiến để bán lại. Trong chuyến buôn kế tiếp y hướng dẫn một nhóm người Miêu tiên phong được "tiểu vương" (kiatong) Lo See Pa giao cho Kue-Vue cầm đầu, tìm đến vùng gần Nong Het. Khu đất rừng thật là phì nhiêu, thế là trong vòng vài năm, họ di dân đến đấy và thiết lập làng mạc xung quanh Nong Het và để tri ân kẻ chỉ đường, họ đặt tên con sông chảy qua là Tôn Mã.
Họ sống yên ổn ở vùng đất mới được vài năm thì Lo See Pa bị bọn cướp người Hoa giết chết trong một trận tấn công vào làng không thành cốt để đoạt nha phiến. Kẻ kế vị là Lo Sue Xia vẫn thuộc giòng họ Lo. Truyền thống này vẫn được duy trì vài thập niên mãi đến khoảng 1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm họ Lý và nhóm họ Moua xuất hiện.
Nhóm người Miêu họ Lý, lãnh đạo bởi Lý Nghia Vue vốn ở nước Đại Lý xưa kia bị quân Thanh truy kích trong vụ nổi dậy cùng với người Hán, kéo nhau đến Nong Het lánh nạn cùng với nhóm họ Moua cầm đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ nhiên là họ không chịu thần phục giòng họ Lo, và vẫn giữ nguyên tiểu vương của họ. Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được tôn kính hơn cả.
Cùng đợt tị nạn từ khi vùng Vân-nam bị thất thủ vào năm 1860 và loạn Thái Bình bị đập tan vào năm 1863, một khối lượng đông đảo người từ Trung Quốc tràn xuống Việt Nam, trong đó có cả Miêu tộc. Bọn họ là đám tàn quân nên còn mang theo vũ khí, đi cướp phá mạn thượng du Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bá, miền bắc nước ta dưới triều Tự Đức, nên sử ghi là giặc khách. Mạn Tuyên Quang có Nông hùng Thạc, mạn Cao bằng có Ngô Côn và Lý hợp Thắng chiếm tỉnh lỵ năm 1865. Về sau có dư đảng là bọn Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng và Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, hiệu cờ trắng cùng với giặc biển tên Phụng liên tục quấy phá khắp nơi ở miền Bắc.
Lúc bấy giờ tình hình nước ta thật điêu đứng với giặc ngoại xâm, trong nam thì  đã bị quân Pháp chiếm, mà chúng còn đang hăm he đặt nền bảo hộ và đánh Bắc kỳ. Ngoài bắc thì đám giặc khách uy hiếp làm quan quân ta chống đỡ không nổi. Riêng giặc ở thượng du đã có lúc tràn xuống tận Yên Bái vùng đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức phong cho Nguyễn Tri Phương làm Tây Bắc tổng-thống quân-vụ đại-thần đốc thúc việc tảo trừ, năm 1863 quân ta tái chiếm thành Tuyên Quang. Miêu tộc rút lui về Quảng Bá.
Tại núi Phước ở Quảng Bá lại xuất hiện một thủ lãnh người Miêu tên là Xiong, với tài nhào lộn và phi thân rất giỏi, tự xưng là tân vương của Miêu tộc. Các sắc dân thiểu số khác trong vùng như Mán và Nùng cũng thần phục y, gây một thế lực rất lớn. Chỉ trừ giống Thổ là chống đối. Y xây lâu đài, dựng triều đình, lập quân đội, làm vũ khí với súng hỏa mai. Xiong liền đem quân tấn công tàn phá Làng Dận và vùng cư dân lớn hơn khác của người Thổ gần Quảng Bá.  Chiến thắng này làm tăng thêm uy danh của Xiong. Trong vòng 12 năm sau, y giao việc hành quân cướp phá các vùng lân cận cho thuộc hạ, còn y thì chỉ vui hưởng tại cung điện mà thôi.
Sau khi Xiong chết vì ám sát thì vương quốc của y cũng tan rã, kẻ kế vị là Cha Shue, một tù trưởng ở dãy núi Hoàng Su Phi. Vùng y tự trị nằm vắt qua hai biên giới Việt-Hoa, và vào năm 1894 y còn được Thanh triều phong cho chức thổ-ty. Người Pháp lúc bấy giờ đã chiếm Việt-nam làm thuộc địa cũng để yên cho Cha Shue, vì họ cần người Miêu cung cấp gỗ độc quyền cho họ. Về sau Cha Shue còn gây thế lực bằng cánh đánh thuế trên số gỗ bán cho người Pháp. Uy tín của Cha Shue còn được truyền tụng ở Nong Het.
Người H'mông ở Lào và thuốc phiện
Sau khi định cư ở Lào, người H'mông lại phải ác chiến với người Khạ ở vùng Xiêng Khoảng vào nửa cuối thế kỷ thứ 19. Người Khạ hay còn gọi là người Kh'mu vốn là cư dân lâu đời tại Lào, có thể từ thế kỷ thứ 5; ban đầu họ là phiên bang của nước Phù Nam (Funan), sau lại lệ thuộc vương quốc Chân Lạp (Chenla), và rồi Khmer.  Vào thế kỷ 13 và 14, khi nước Nam Chiếu bị người Mông Cổ diệt, bộ tộc Lào và Tày di dân qua đất hạ Lào trở nên đa số và thiết lập vương quốc độc lập Luang Prabang. Từ đó người Khạ bị người Lào khinh miệt và bị bạc đãi tàn tệ, phải sống ở vùng thượng du.
Khi người H'mông định cư ở Xieng Khoảng, người Khạ bắt họ phải cống nạp nông sản và súc vật. Nhưng đến khi biết người H'mông còn sống sung túc bằng nghề trồng trọt nha phiến người Khạ lại đòi hỏi thêm thuốc phiện. Điều này đã đưa đến chiến tranh và người Khạ bị thua trận phải kéo chạy về vùng núi gần Luang Prabang.
Thị trường nha phiến trên thế giới khởi phát từ Á-châu bởi đế quốc Anh và Pháp vào đầu thế kỷ 19 đã giúp cho người Hmong đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất chất thô. Bọn đế quốc lại dùng số lợi nhuận khổng lồ để tái tài trợ cho những âm mưu bành trướng thế lực và cai trị thuộc địa. Cuối thế kỷ 19 khi quốc hội Anh thông qua đạo luật ngăn cấm chính phủ tham gia thì Pháp độc quyền thị trường ma túy. Chính vì nguồn lợi này mà Pháp đã thôn tính luôn cả Cam Bốt và Lào để có đường thông thương với thượng du Vân Nam. Ngay cả sau khi Pháp bị đánh bật ra khỏi Đông Dương vào 1954, ảnh hưởng của họ trên thị trường ma túy vẫn không giảm, và chính tập đoàn buôn lậu đã mua chuộc và làm thối nát chính quyền miền Nam để bọn họ dễ dàng làm ăn, và chắc chắn là bọn họ cũng lũng đoạn chế độ hiện nay tại Việt Nam. Cuối năm 1960, người ta ước tính là nông dân người H'mông ở Lào đã cung cấp khoảng 70% nhu liệu cho thị trường ma túy của thế giới.
Khi người Pháp đô hộ Lào từ năm 1893, họ dùng người Lào và Tày cai trị dân miền núi cho nên đã xảy ra khá nhiều chuyện bóc lột hà hiếp dân Miêu với thuế khóa nặng nề trên nông sản nha phiến. Năm 1896 người Pháp lại tăng thuế và đòi trả một phần bằng thuốc phiện, làm cho Miêu tộc nổi loạn, họ gọi người Pháp là Fa-ki theo âm của người Tầu là Pháp quỉ (Fa kouie). Lần đầu họ thành công khi tấn công đồn lính tây ở Ban Khang Phanieng, nhưng lại đại bại ở lần thứ hai khi đánh vào tiểu khu Xieng Khoảng. Vì vậy tiểu vương họ Lo bị truất phế và được thay vào bởi họ Moua, tên Tong Ger. Tân tiểu vương liền xin hòa đàm với nhà cầm quyền thuộc địa tại Bản Ban để được giảm bớt thuế, và sự giao thiệp giữa Pháp và người Hmong bớt căng thẳng.
Quân Cờ Đen và Miêu tộc
Năm 1870, dư đảng của giặc Thái-bình ở Trung-quốc sau khi tràn vào Việt-nam, chia làm hai phe Cờ vàng ở Tuyên-quang và Cờ đen ở Lào-kay chống chọi nhau ở mạn thượng du. Đến năm 1875 giặc cờ vàng bị dẹp tan. Còn Lưu hữu Phúc đầu đảng Cờ đen xin thần phục triều đình nhà Nguyễn rất sớm. Vua Tự-Đức phong cho Phúc làm đề đốc, và khi quân Pháp dưới quyền của Đại úy Hải quân Francis Garnier đánh thành Hà-nội, Garnier đã bị quân của Lưu hữu Phúc phục binh giết chết tại Cầu Giấy năm 1873.
Âm mưu của Pháp muốn chiếm Bắc Kỳ vẫn không phai, nên đầu năm 1882 Đại tá Hải quân Henri Riviere được lệnh đem tàu chiến ra đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai, thừa thắng hạ luôn thành Nam Định vào tháng ba, năm 1883. Nhưng đến khoảng cuối tháng 5 thì Riviere lại bị quân cờ đen phục ở Cầu Giấy giết chết. Quân cờ đen còn bêu đầu của Riviere từ làng này qua làng khác.
Nhiều cánh quân cờ đen khác thường đem quân sang Lào, đánh cướp nha phiến của người Hmong để mua lương thực và vũ khí, và bắt đi đàn bà con gái cho nên Miêu tộc phải nhờ người Pháp bảo vệ. Tháng 11, 1914 quân cờ đen tấn công đồn lính tây ở Sầm Nứa. Sau đấy tiến đánh Phong Saly và đã đụng độ đến mấy tháng với lực lượng H'mông và Pháp, trước khi bị bại phải tháo chạy trở về Trung Quốc.
Một thủ lãnh Miêu ở Hà Giang, Việt Nam tên Yang Yilong được tin bèn xin nhà cầm quyền địa phương Pháp trang bị vũ khí để mở những trận du kích đuổi quân cờ đen. Từ đó mở đầu cuộc hợp tác quân sự giữa người Miêu và Pháp, và kéo dài cho mãi về sau. Để trả thù quân cờ đen đốt phá các buôn làng của người Miêu mà họ đi qua.
Cuộc hợp tác giữa người Miêu và Pháp cũng chẳng mấy êm trôi khi chính quyền thuộc địa lại tăng thuế vào năm 1914, gánh nặng bất công đè trĩu trên vai người H'mông. Đã vậy thực dân Pháp lại quyết định mở những trục lộ giao thông giữa Việt Nam và Lào chạy qua Xiêng Khoảng và Phong Saly, và bắt dân H'mông đi làm phu, làm cho việc mùa màng bị đình trệ càng thiếu tiền đóng thuế. Nhiều làng kéo nhau trốn vào rừng sâu.
Năm 1917, phụ tá của kiatong Moua Tong già nua là Lo Bliayao lại tham nhũng bóc lột phu phen người Miêu đã đưa đến sự nổi dậy. Bliayao lại cậy vào quân địa phương của Pháp để đàn áp.
Lãnh tụ Chay Pa
Trong khi đó ở buôn làng người Miêu trong vùng Điện Biên Phủ xuất hiện một thủ lãnh tên là Chay Pa, gốc gác từ Vân Nam, biết nói và viết ba thứ tiếng Hoa, Lào và Việt, rành ma thuật, cầm đầu người Miêu chống lại ngươi Tày vốn đàn áp họ, và xúi dục người Miêu  không đóng thuế. Quân Pháp được gởi từ Sơn La đến để truy lùng Chay Pa, nhưng thường bị tập kích. Nhưng đến năm 1919, Chay Pa yếu thế phải rút quân sang Xieng Khoảng và hô hào người H'mông đứng lên chống Pháp để lập một vương quốc độc lập với kinh đô là Điện Biên Phủ. Chay Pa được sự hưởng ứng của người Miêu ở Xieng Khoảng nổi lên đánh phá các căn cứ của lính thuộc địa. Họ còn ám sát hụt tên Lo Bliayao làm tên này càng hợp tác với Pháp chặt chẻ hơn. Nhà cầm quyền thực dân Pháp tăng phái quân chính qui từ Việt-nam sang, và áp dụng kế sách ấp chiến lược cô lập quân nổi dậy. Chiến lược này lần hồi thành công và khiến loạn quân tan rã, nhưng quân Pháp vẫn treo giải cho đầu của Chay Pa. Y rút vào rừng sâu sống với vài bộ hạ thân tín nhưng lại bị theo dõi và bị ám sát vào tháng 11, năm 1922.
Lãnh tụ Lý Foung Touby
Sau vụ nổi dậy bất thành của Trịnh Chiếu ở Vân Nam, Tứ Xuyên, người Hản và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó có một người họ Lý đến được Nong Het năm 1865. Y lập gia đình và có 3 con; trong số có cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái của Lo Bliayao tên May. Hai người có 2 đứa con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy thêm vợ bé, và May buồn rầu tự vận. Điều này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo và Lý trở nên căng thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ quan Pháp can thiệp, và để tránh rắc rối nhà cầm quyền liền chia cho họ Lý cai quản Miêu tộc vùng Keng Khoai và họ Lo xem vùng Phac Boun. Năm 1935 Lo Bliayao qua đời, con là Tou Song thay thế chức kiatong.
Cùng năm này người H'mông lần đầu theo học trường tiểu học của Pháp mở tại Xieng Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lý và Moua đều cho con đi học để hy vọng tranh dành ngôi thứ chính trị về sau. Theo thời gian, Touby Lý đỗ xong trung học và theo học trường Hành chánh mở tại Vientiane.
Lo Tou Song ít học lại ham mê cờ bạc nên thâm lạm công quĩ rất phật lòng quan cai trị người Pháp. Nhưng Lý Foung lại khôn khéo đem tiền của mình đền bù giùm nên được lòng tin của quan bảo hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai trò chính trị xán lạn của đứa con trai Lý Touby đã được dọn sẳn. Đến khi người Pháp sa thải Tou Song khỏi chức kiatong ở Phac Boun, Touby liền được thay thế. Nhưng người em của Tou Song là Faydang rất lấy làm bất bình sinh oán hận Touby, khiếu nại đến hoàng thân Phetsarath ở Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn át.
Sau khi ra trường Hành chánh, với chỗ đứng vững chãi trong guồng máy chính trị, uy thế của Touby càng gia tăng. Y đã dùng sản lượng nha phiến do người H'mông trồng trọt để làm áp lực với người Pháp, vì Pháp đang muốn chiếm độc quyền thị trường thế giới lúc bấy giờ. Y còn thuyết phục người Pháp nâng cao vai trò của người H'mông trong xã hội Lào.
Đến năm 1949 Trung Quốc hoàn toàn do đảng Cộng sản thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến ở Vân Nam và biên giới Miến Điện vốn nằm dưới sự cai quản của tàn dư quân đội Quốc dân đảng bị cắt đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản lại quá đắt, cho nên Pháp tận dụng nguồn nha phiến của người Hmong để chiếm lĩnh thị trường. Năm 1953 Liên hiệp quốc ký công hàm chấm dứt việc các chính phủ tham gia buôn bán nha phiến, dẫn đến thị trường chợ đen. Sản lượng càng gia tăng và lợi nhuận càng cần thiết cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông dương vì chiến tranh leo thang.
Hợp tác với Pháp chống Nhật
Khi nước Pháp bị Đức Quốc Xã cai trị vào năm 1940, quân Nhật liền chiếm đóng Đông Dương. Toàn quyền Decoux được Nhật để yên tiếp tục phụ trách hành chánh, đã ra lệnh quân Pháp không kháng cự. Nhưng đến tháng 8 năm 1944, khi Paris được giải phóng thì cuộc diện liền thay đổi. De Gaule vội tiến hành kế hoạch phản công ở Đông Dương. Tháng 11, quân biệt động Pháp được thả dù xuống Cánh đồng Chum để lập khu kháng chiến. Không quân Mỹ lại dội bom các hải cảng ở Việt-nam.
Tháng 3, 1945 Nhật liền đảo chánh và ra lệnh tước khí giới của quân Pháp ở Đông Dương. Tuy vậy Pháp vẫn âm thầm tăng phái quân nhảy dù từ Ấn Độ vào thượng Lào với sự bao che của người H'mông. Khi Nhật biết có sự dính líu của người H'mông vào kế hoạch bí mật cuả Pháp, họ liền bắt Lý Touby và định đem xử bắn, nhưng nhờ giám mục Mazoyer ở Vientiane can thiệp nên được tha. Chẳng sờn lòng, Touby liền liên lạc với Đại úy Bichelot, chỉ huy quân biệt động Pháp để hợp tác chống Nhật.
Việc này làm cho quân Nhật điên cuồng, họ liên tục tàn phá các bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác với Pháp, và vô tình làm cho Miêu tộc càng ủng hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác với người Nhật truy diệt lính Pháp.
Tháng 3, 1945 người Nhật bắt giam tất cả viên chức chính quyền thực dân Pháp ở Lào, khuyến cáo vua Vong Sisavang tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân Phetsarath xây dựng đảng Lao Isalla (hay Lào tự do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ vào tháng 10. Nhưng đội biệt động Pháp ra tay tấn công Luang Prabang, chiếm hoàng cung và ép vua Lào tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước hết quyền của Phetsarath. Đảng Lao Isalla cầu cứu với Việt minh, cùng với nhóm H'mông của Faydang để chống Pháp, thế là bộ đội Việt minh được chính thức mời vào lãnh thổ Lào cùng với một khối cư dân Việt. Việt minh lại còn tuyên bố Xieng Khoảng là một căn cứ của Việt Nam. Tháng 11,  lực lượng biệt động Pháp phối hợp với dân quân Hmong của Touby đánh bật Việt minh ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp kết án Faydang là cộng sản, và đến mùa hè năm 1950 Faydang gia nhập đảng Pathet Lào (Cộng đảng Lào).
Lúc bấy giờ Hoa Kỳ, là đồng minh với Liên Xô chống phe trục, lại âm thàm liên lạc và trang bị vũ khí cho du kích quân Việt minh để quấy phá quân Nhật ở Đông dương làm cho thế lực của Việt minh gia tăng thêm. Đến khi Nhật đầu hàng đồng minh vào tháng 8, 1945, Hồ Chí Minh cướp thời cơ dành lấy chính quyền ở Hà Nnội, thành lập chánh phủ liên hiệp và tuyên bố Việt Nam độc lập. Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại không chịu giao lại cho Pháp mà lại giao cho Việt minh.
Pháp không chịu công nhận Việt-nam độc lập, nhưng lại mời Hồ Chí Minh sang Pháp để thương thảo điều kiện để Pháp ở lại Đông dương, và dời chuyện trao trả độc lập đến 1947 sau khi trưng cầu ý dân. Đồng thời Pháp lại hổ trợ cho một nội các chống Việt minh được dựng lên ở Sài Gòn, và còn có ý định lập một nước Nam Kỳ độc lập. Nhưng cuộc sống hòa bình gượng gạo với Việt minh không kéo dài được lâu. Tháng 11, 1946 một cuộc đụng độ võ trang Việt Pháp ở Hải Phòng dẫn đến cuộc chiến tranh toàn Đông dương.
Năm 1946, Pháp thuận cho Lào được độc lập trong Liên Hiệp Pháp và mở cuộc bầu cử dân biểu quốc hội. Một người trong gia đình Touby đắc cử vùng Xiang Khoảng, đó là Lý Foung Toulia. Họ tranh đấu để được đối xử bình đẳng như công dân Lào, và có đại diện trong hội đồng tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha phiến Pháp đề cử Touby làm phó tỉnh trưởng Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng của người Hmong trong chính quyền Lào.
Việt minh cũng chú ý đến nguồn lợi nha phiến để mua vũ khí ở biên giới Tầu. Sản lượng thuốc phiện của một tỉnh có thể trang bị vũ khí cho một sư đoàn. Người ta ước tính là chỉ riêng năm 1947, trị giá của mùa thu hoạch nha phiến lên đến 400 triệu đồng bạc Đông dương, gần bằng với trị giá tổng số gạo xuất cảng của toàn Đông dương cùng năm. Vì thế Pháp đã bằng mọi giá phải kiểm soát được nguồn tài nguyên này, năm 1948, một nghị định của Cao ủy Đông dương cho phép người H'mông hầu như độc quyền trồng nha phiến ở Lào.
Cùng năm, Touby được đưa về Sàigòn để Phủ cao ủy giao công tác thành lập một lực lượng biệt động địa phương chống Việt minh. Từ năm 1951 cho đến 1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp cho thi hành "chiến dịch X" để tài trợ trang bị các lực lượng người thiểu số. Phi cơ quân sự được lệnh chở thuốc phiện cuả người Hmong từ vùng đông bắc Lào về Sài Gòn, giao cho Lê văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy giờ là Giám đốc Cảnh sát phân phối. Qua một thời gian ngắn đó, Touby đã nhận được khoảng 4 triệu đô-la cho lực lượng người H'mông.
Đội Biệt Động Dù G.C.M.A.
Cuối năm 1950, quân Pháp không còn kiểm soát nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau những trận đánh đẫm máu với Việt minh. Việt minh quyết làm chủ mạn bắc là cốt mở rộng đường bộ để dễ dàng tiếp nhận viện trợ vũ khí từ cộng sản Hoa lục, mà trước đây chỉ nhờ dân công chuyển qua đường rừng núi.  Việt Minh mở những trận phản công lại trùng với chiến cuộc Cao Ly, nên trước những đe dọa phối hợp của Cộng sản quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Truman ra lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương trong vòng 4 năm lên đến 3 tỷ đô-la để tiếp tục ngăn chận Việt cộng.
Đầu năm 1950, đại tá Grall được Pháp bổ nhiệm chỉ huy một bộ phận hoạt động bí mật mang tên là GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aeroportes: Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ quan chuyên tuyển mộ, huấn luyện và trang bị cho nhiều toán du kích người sắc tộc thiểu số Đông dương, đặc biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần Việt nam và Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách khu Lào. GCMA lại được điều khiển bởi Cơ quan Tình báo và Phản gián của Pháp ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như vậy!). Toán du kích tân tuyển được đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để huấn luyện. Touby cũng đã được huấn luyện tại đây để về lãnh đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly, Xieng Khoảng và Sầm Nứa.
Trinquiner quyết gấp rút thành lập một lực lượng du kích ở tây bắc Lào để gây rối an toàn khu của Việt minh tại Sip Song Chau Thai, phía tây Hắc giang và gần biên giới Việt-Lào. Y chọn Lo Quang Chao, tù trưởng H'mông ở Lào Kay sức vóc hơn người, mang bí danh là Sô-cô-la. Đến tháng 4 năm 1952,  GCMA ở Hà nội đã thả dù cho Lo 2,500 cây súng trường để đám này kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi. Trinquiner hài lòng với những chiến công của Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp Trung úy quân viễn chinh Pháp cho Lo, và truy tặng Anh dũng bội tinh bằng cách thả dù huy chương xuống căn cứ cho Lo Quang Chao. Lo tung hoành ở vùng biên giới Việt Hoa một thời gian nhưng rốt cuộc bị giết chết vào tháng 8 năm 1953, và nhóm du lích của y tan rã
Tháng 4 năm 1953, Việt minh và Pathet Lào phối hợp chia thành hai gọng kìm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang, Faydang có mặt ở tuyến đầu. Pháp vội xây dựng phi trường dã chiến tại Cánh đồng Chum để tăng phái quân cơ động. Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm Hmong thuộc cánh Touby, và nay có thêm một phụ tá trẻ Vang Pao. Pháp đã đẩy lui được các cuộc tấn công của địch tại Lào, và Việt minh rút quân về lại Việt Nam để tập trung vào chiến dịch Điện Biên Phủ.
Vang Pao và Ảnh hưởng của Chú Sam
Pháp bị đại bại tại Điện biên phủ vào tháng 5 năm 1954, đưa đến hiệp định Geneva. Pháp rút lui dần khỏi địa bàn Đông dương. Việt nam bị chia cắt thành 2 miền theo vĩ tuyến 17. Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower cương quyết chận đứng sự lan tràn cộng sản ở Đông Nam Á nên gia tăng viện trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước Thái lan, Nam Việt và Lào. Hoạt động của CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để khuynh đảo các chính quyền địa phương, và đã đi vào con đường mà GCMA đã vẽ ra.
Quân Bắc Việt chỉ rút về một số, nhưng phần lớn ở lại Lào để gây dựng quân đội Lào cộng (Neo Lao Hak Sat ), đưa đến việc tranh dành quyền lực với Hoàng gia Lào. Năm 1957, Lào cộng được tham gia vào chính phủ liên hiệp Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài được 8 tháng khi phe hữu làm đảo chánh và bắt giam đại biểu của Pathet Lào. Quân độ Bắc Việt liền chiếm  hết những tỉnh của Lào chạy dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, và yểm trợ cho quân Lào cộng trong cuộc nội chiến. Hoa Kỳ hậu thuẩn phe Hoàng gia.
Cuối năm 1960, đại úy Kong Le của Quân đội hoàng gia, tự cho mình là trung lập,  làm đảo chánh với kỳ vọng chấm dứt được cuộc nội chiến, đã ra lệnh cho các lực lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi lãnh thổ Lào. Chỉ vài tháng sau, cánh hữu được CIA ủng hộ lật đổ Kong Le, làm cho phe trung lập phải liên kết với Pathet Lào, lại đưa Lào vào chiến tranh.
Dù phe hữu nắm quyền ở Vientiane, nhưng luôn thất bại ở chiến trường, nên đến tháng 7 năm 1962, một chính phủ liên hiệp khác được thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana Phouma lãnh đạo. Phe cộng không chịu đựng được sự khuynh đảo trắng trợn của Hoa Kỳ vào chính trường Lào, bất lợi cho họ nên đã rút vào rừng tiến hành vũ trang với sự tiếp tay của quân Bắc Việt. Cuộc chiến giằng co mãi làm Hoa kỳ sốt ruột, quyết định dội bom ồ ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho đến 1972, nhưng chẳng làm nghiêng được cán cân.
Đến cuối năm 1972, Mỹ quyết định rút khỏi Lào và cả Đông dương. Thủ tướng Souvana Phouma vội thương thảo với Pathet Lào để thành lập chính phủ liên hiệp trong thế yếu vào ngày 21 tháng 2 năm 1973. Phe Pathet Lào tìm mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh lại bộc phát từ 1974 cho đến 1975. Tháng 3 năm 1975 Pathet Lào và quân Bắc Việt mở các cuộc tấn công cuối vào các cứ điểm của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe cộng vào tháng 8. Tháng 12, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập do Souvanouvong làm chủ tịch, và bải bõ chế độ quân chủ ở Lào.
Trong cuộc chiến ở Lào, phe có tử vong cao nhất lại là người Hmong, có lẽ đến 1/3 dân số Miêu tộc, và 1/2 số trai tráng trên 15 tuổi đã bị hy sinh. Số phận của họ đều nằm trong tay một người phụ tá của Ly Foung Touby vốn là một cậu bé chạy giấy cho lính biệt động Tây, rồi lên chức đội cò và theo thời gian với chiến cuộc gia tăng đã leo lên đến cấp tướng trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang Pao.
Suy Ngẫm
Đọc lịch sử nổi trôi của một bộ tộc suốt mấy ngàn năm, đã từng một thời chen vai thích cánh với các sắc dân khác ở Trung Quốc. Nhưng đã không may thất thổ rồi mai một trước tham vọng bành trướng của Hoa tộc mà trở nên một sắc tộc miền núi, sống đậu vào các nước khác ở Đông Nam Á. Luật đào thải tự nhiên luôn luôn là nguyên lý. Mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, nước lớn luôn tìm cách thôn tính nước bé. Một khi sức tự cường của một dân tộc không còn thì sự tồn vong chắc là chóng mai một.   Tìm hiểu lịch sử để chúng ta phải thấm sâu ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng Lạc, qua bao đời đã không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù của dân tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay tinh vi hơn ngụy trang dưới nhiều lớp áo vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để xâu xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua bao đời đã kiên cường liên tục đánh đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm lần để cho con cháu vui hưởng độc lập. Hậu duệ có quên được điều đó chăng?
Trần Trúc-Lâm
Tháng Giêng, 1999
Mùa Giổ Tổ Hùng Vương
-----------------------
Tài liệu tham khảo
1. Cultural Atlas of China, Caroline Blunden, Mark Elvin - Facts on File, Inc. N.Y. 1983.
2.  A Short History of the Chinese, Mary A. Nourse - 3rd Edition, The New York Library,  N.Y.  1943.
3. Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh - Xuất Bản Bốn Phương, 1942.
4. Hmong - History of a People, Keith Quincy, EWU Press, 2nd Edition, 1995.
5. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - CSXB Đại Nam tái bản 1971.
6. Microsoft Encarta 97 Encyclopedia CD, Microsoft Corporation.

Nguồn http://e-cadao.com/coinguon/Nguoimieu.htm Last modified: 02/19/15