Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

THƯ PHÁP TỨC LÀ NGƯỜI





image-3.jpg
image.jpg
Thư pháp thực sự là bức họa của tâm; mức độ chứng ngộ được biểu hiện qua dòng chảy của mực. Khi một ai cố gắng, một cách sai lầm để xóa bỏ những chữ do Vương Hy Chi (Wang Xizhi) viết, họ đều phát hiện rằng các chữ ấy đúng là đã thấm qua gỗ. Dù có đục sâu cỡ nào, cũng khó mà xóa được chúng.
Gần đây, những nghiên cứu của Tẻayama Katsuyo đã chỉ cho thấy rằng thư pháp thiền đúng thật là “sinh động”. Ông ta thu thập những tác phẩm thư pháp thiền đích thực, những bản giả mạo, và những bản sao chép từ những tác phẩm nầy, rồi khảo sát chúng bằng kính hiển vi điện tử, phóng lớn một phần của tác phẩm chừng 500 hoặc 100 lần. Những vết mực được phóng lớn của những thư pháp đích thực thì rung động mạnh mẽ, tràn đầy khí lực (ki), thiêng liêng bí ẩn; ngược lại, các vết mực của các thư pháp giả mạo hoặc sao chép thì phân tán, yếu ớt và thiếu sinh động. Thư pháp cũ dù có trải qua hằng trăm năm vẫn như vừa mới được viết lên, những dòng chữ như đang ôm lấy người xem.
Do vì các nhà thư pháp thiền khước từ các bằng chứng khoa học, chính nội dung của thư pháp đến từ bên trong hơn là không có gì cả. Do vậy, mỗi tác phẩm là vô song, phản ánh tính vĩnh hằng từ sự rung động của nhà thư pháp với thiên nhiên, với các dụng cụ để thể hiện, và với hình ảnh còn lưu dấu trong tâm họ.
image-33.jpg
Ichi (ni) gyo môn ghi hai thiền ngữ: (hàng bên trái: bình thường tâm thị đạo 平常心之道 của Chuho (1760-1838), trú trì chùa Daitokuji; hàng bên phải: trực tâm thị đạo tràng 直心是道場 của thiền sư Kyodo (1808-1895) thuộc tông Lâm Tế)
Trong cảnh giới cao nhất, nhà thư pháp hoạt dụng trong một thế giới thuần khiết thanh tịnh; sự hợp nhất của người viết, bút, mực và giấy sẽ phá hủy mọi tương quan ràng buộc. Đó là tự do – thoát ly mọi luật lệ, mọi tiêu chuẩn, mọi quy ước. Tuy nhiên, sự chứng ngộ trong thư pháp không dễ gì dạt được mà không phải trải qua nhiều năm công phu tinh cần từ căn bản bằng cả nỗ lực của thân và tâm.
image-1.jpg
直指人心
top0605.jpg
Thư pháp thiền hoàn toàn đơn giản. Trong khi phần lớn các thư pháp trình bày trong tập sách nầy lại dựa trên hệ thống hình họa đơn giản và nhấn mạnh vào các hình thái rạch ròi, tường tận.. Thư pháp thiền cũng dò đến tận nguồn sâu thẳm, sáng rỡ của chân lý, dò đến ngôn ngữ thường ngày không bị hủy hoại bởi học thuyết duy lý và thần bí chủ nghĩa. Nó không nghi thức, không quy tắc, và rất đơn giản, chẳng có gì ngoài mực đen trên giấy trắng. Ngay cả khi đề cập đến những đề tài về ngôn ngữ bí truyền, các nhà thư pháp thiền được thẳng tắt vượt qua hệ thống biểu tượng rườm rà rắc rối, bỏ qua những giáo điều ma thuật, như bản chất thanh tịnh thuần khiết vốn có của nó.
Quan, nghĩa là cửa ải mà mọi thiền sinh phải vượt qua. Thư pháp tác giả vô danh.
image-31.jpg
image-32.jpg


image-47.jpg
image-2.jpg
image-24.jpg

LỊCH SỬ

Thật khó để nói về lịch sử thư pháp Thiền; dĩ nhiên, nó liên quan với lịch sử Phật giáo Thiền nhưng không phải chỉ riêng như vậy. Có thể đồng ý với nhau rằng có thư pháp ở Trung Hoa trước khi có Thiền tông – chẳng hạn, thư pháp chữ thảo của thánh thi Vương Hy Chi (Wang Xizhi), sống vào khoảng 200 trước khi Bồ Đề Đạt Ma từ Tây Trúc sang. Ngay cả sau khi Phật giáo Thiền được truyền bá ở Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản, không phải hoàn toàn các nhà thư pháp thiền đều là người của Thiền tông.
Không có mẫu mực nào còn lưu lại từ nét vẽ Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa (một trong số các vị tổ ấy, ngài Huệ Năng, là không biết chữ). Hai nhân vật kỳ đặc của Trung Hoa vào thế kỷ thứ 8 thường được xem là biểu tượng của thư pháp Thiền – “Zhang say” và “Sư cuồng Huai”. Sau khi nốc vào một lượng lớn rượu, Zhang tấp những chữ “cuồng thảo” lên bất kỳ chỗ nào ngay tầm tay – tường, thân cây, nồi, áo quần. Có khi anh ta nhúng đầu tóc mình vào mực rồi viết bằng đầu tóc. Cũng tương tự như vị đệ tử điên của ông ta, sư Huai, nổi tiếng với việc dùng lá chuối thay cho giấy mà sư mua không nổi. Tuy nhiên,sư lại kiếm tiền để uống rượu, và viết vào những lúc say khướt.
Thực tế các hành vi buồn cười ấy lại không được tán thành bởi phần lớn các vị trú trì của Thiền tông. Những biểu hiện thiếu nghiêm túc đều không được chấp nhận: Hầu hết các tác phẩm do các tăng sĩ Trung Hoa viết từ thế kỷ thứ 10 đến thứ 13 đều tiêu biểu cho sự nghiêm túc sâu lắng, sinh động, nhưng tao nhã và kín đáo. Các nhà thư pháp Trung Hoa có uy tín trong thơì kỳ này gồm những Nho sĩ như Tô Đông Pha và Huang Tingjian (Ko Teiken; 1045-1105); và thiền sư Yuanwu Keqin; Engo Kokugon; 1063-1135); Wujun Shifan (Bushan Shiban; 1177 – 1249), Xutang Zhiyu (kido Chigu; 1185-1296); Zhang Jizhi (Co Sokushi; 1186 – 1286); Lanqi Daolong (Rankei Doryu; 1203 – 1268); Wuxue Ziyuan (Mugaku Sogen; 1226 – 1286); Yishan Yining (Issan Ichinei: 1247 – 1371); Gulin Quingmao (Kurin Seimu; 1261 – 1323), và Liaoan Qingyu (Ryoan Seiyoku; 1288 – 1363).
Thư pháp của Eisai (1141 – 1215) và Đạo Nguyên Dogen (1200 – 1253), hai Tăng sĩ Nhật Bản khai sáng tông Lâm Tế và Tào Động nơi quê hương mình,đã có những nhét tương đồng với các bậc thầy Trung Hoa với phong cách nghiêm túc, tự chủ, và sinh động. Daito Kokushi, vị khai sơn chùa Daitokuji (Đại Đức Tự) ở Kyoto, có lẽ là người đầu tiên hoa quyện hai phong cách thư pháp Trung Hoa và Nhật Bản. Chùa Daitokuji đã tạo nên một lớp hậu duệ gồm các nhà thư pháp nổi tiếng, đến mức có thể gọi là “một trường phái” thư pháp Thiền. Trường phái thư pháp chùa Daitokuji là lâu đời nhất và đông đảo nhất. Các nhà thư pháp Nhật Bản khác được kể đến trog thời kỳ này là Muso (1276 – 1351); Kokan (1278 – 1346), Ikkyu (1349 – 1478).
Vào nửa thời gian đầu thời kỳ Edo, các nhà thư pháp sau đặc biệt nổi tiếng: Kogetsu (1571-1643); Takuan (1573-1645); và Seigan (1588-1661); tất cả các vị ấy đều từ chùa Daitokuji; Fugai (1568-1650); Shinetsu (1642-1696) và Manzan (1636-1715) từ tông Tào Động; và Bankei (Bàn Khuê Vĩnh Trác; 1622-1693); và Munnan (d-1676) thuộc tông Lâm Tế.
image-5.jpg
image-25.jpg
Thiền tự an trú mình giữa hai cực của khái niệm “ 無” của Munnan; và “Hữu 有” của Nyoten. Cùng toàn thể bài kệ là dòng chữ 有如浮雲 Hữu như phù vân.
image-45.jpg
image-6.jpg
image-46.jpg
Theo sau sự sáng lập tông Hoàng Bá (Obaku) thuộc Thiền tông ở chùa Mampukuji năm 1694, một dạng thư pháp mới của Trung Hoa được truyền vào Nhật Bản. Thư pháp của Hoàng Bá đậm hơn, mạnh hơn, thảo hơn so với thư pháp thế kỷ trước. Không như tông Tào Động và tông Lâm Tế vốn nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa Nhật Bản, tông Hoàng Bá vẫn giữ khoảng cách khuynh hướng Trung Hoa trong kiến trúc thiền viện, lối tu tập, thực phẩm, và thư pháp. Trong số những nhà thư pháp trường phái Hoàng Bá là Ẩn Nguyên (Ingen), trụ trì chùa Vạn Phúc tự (Mampukuji).
image-48.jpg
Thế kỷ thứ 18 và 19 đánh dấu thời kỳ hoàng kim của thư pháp thiền Nhật Bản. Bạch Ẩn (Hakuin 1685-1768); Jiun (1717-1804); Torei (1721-1792); Sengai (1750-1837); Ryokan (1758-1831); Nanzan (1756-1839) là những nhân vật sinh động trong thời kỳ nầy, cho ra đời một số lượng lớn các tuyệt tác.
Trong thề kỷ nầy, các thiền sư như Nantembo (1839-1925) và Gempo (1865-1961) đã thự hiện thư pháp không thua kém gì các bậc thầy đời trước. Thư pháp ngày nay, Rohis nhiệt tâm theo đuổi và trú trì các thiền viện lớn thuộc các tông phái đều phải dành nhiều thời gian mỗi tuần để thể hiện những tác phẩm thư pháp thích hợp để đáp ứng yêu cầu của Phật tử, như món quà dành tặng cho người thân và môn đệ, hoặc để trưng bày trong những dịp lễ. Chắc chắn một số các thư pháp dạng nầy sẽ được đánh giá rất cao bỡi các thế hệ sau khi họ biết rằng đó là tác phẩm của các nhà thư pháp thiền lớn trong thế kỷ trước.
-
John Stevens
Thích Nhuận Châu dịch
Trích từ THƯ PHÁP LINH TỰ ĐÔNG PHƯƠNG

PHỤ LỤC

C
language-grass-script.jpg
Chinese Running or Cursive Script
This is an Example of Cursive Script.
This is an example of Cursive Script. This cursive style of calligraphy by Wen Zhengming (1470-1559) has been called “The Dance of the Brush.” It is used as a means of artistic expression: the character itself is less important than its expressive quality.
language-cursive-script1.jpg
Chinese Seal Scripts
This Example of Seal Script was used on a Zhou Dynasty Bronze Vessel.
This is an example of Seal Script. These may be thought as in some sense “drawn,” curvilinear, and with little variation in line thickness. They range from Oracle Bone writing to the Small Seal style officially adopted by the Qin Dynasty.
language-seal-script.jpg
Three Kinds of Archaic Graphs and their Transitions to Modern Characters
Top Row: Complex single-element graphs whose modern parallels are direct descendants of archaic forms.
Middle Row: Simple multiple-element graphs lacking modern equivalents.
Bottom Row: Complex multi-element graphs with either modern descendants or equivalents.
language-oracle-bone1.jpg

0 nhận xét:

Đăng nhận xét