-
Vương Hy Chi (303-361): tên chữ là Dật Thiếu, làm quan tới chức Hữu quân Tướng quân, nên còn được gọi là Vương Hữu quân. Người Lang Nha (nay là Lâm Nghi, Sơn Đông). Hầu hết các thể chữ đều giỏi, nhưng nổi tiếng nhất là Chính, Hành và Thảo. Tác phẩm nổi tiếng có Lan Đình tự thiếp và Thập thất thiếp.
-
Vương Hiến Chi (344-386): tên chữ là Tử Kính, làm quan đến Trung thư lệnh, nên còn được gọi là Vương Đại lệnh. Ông là con thứ bảy của Vương Hy Chi, cùng nổi tiếng về thư pháp với cha, đời bấy giờ gọi hai cha con là Nhị Vương. Sở trường của ông là Hành và Thảo.
-
Ngu Thế Nam (558- 638): tên chữ là Bá Thi, do được phong làm Vĩnh Hưng huyện tử, nên còn được gọi là Ngu Vĩnh Hưng. Người Dư Diêu, Việt Châu (nay là Dư Diêu, Chiết Giang). Nổi tiếng về chữ khắc bia. Tác phẩm truyền lại, được nhiều người nhắc tới, là Khổng Tử miếu đường bi.
-
Âu Dương Tuân (557-641): tên chữ là Tín Bản, làm quan đến chức Thái tử Suất canh lệnh, nên còn được gọi là Âu Dương Suất canh. Người Lâm Tượng, Đàm Châu (nay là Trường Sa, Hồ Nam). Một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.
-
Chử Toại Lương (596 – 658 ?): tên chữ là Đăng Thiện, do được phong Hà Nam Quận công, nên còn được gọi là Chử Hà Nam. Nổi tiếng về Khải thư.
-
Lý Ung (678 – 747): tên chữ là Thái Hòa. Vì có làm Thái thú Bắc Hải, nên còn được gọi là Lý Bắc Hải. Người Giang Đô, Dương Châu (nay thuộc Giang Tô). Thành tích chính ở Hành thư.
-
Tôn Quá Đình (? – ?): không rõ quê quán. Ông nổi tiếng về Thảo thư, đồng thời là nhà lý luận về thư pháp đời Sơ Đường.
-
Trương Húc (? – ?): tên chữ là Bá Cao. Vì làm quan đến Kim ngô Trưởng sử, nên còn được gọi là Trương Trưởng sử. Lại vì cuồng ngông, thích rượu, nên có tên là Trương Điên. Người Tô Châu, Giang Tô. Nổi tiếng về Cuồng thảo, từng được gọi là Thảo thánh.
-
Nhan Chân Khanh (709 – 785): tên chữ là Thanh Thần, từng làm Thái thú ở Bình Nguyên nên còn được gọi là Nhan Bình Nguyên. Là một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.
-
Hoài Tố (725 – 785): tên chữ là Tàng Châu, còn được gọi là Tuý Tăng hay Túy Tố. Ông đi tu từ nhỏ. Người Trường Sa (thuộc Hồ Nam). Nổi tiếng về Cuồng thảo.
-
Liễu Công Quyền (778 – 865): tên chữ là Thành Huyền, người Hoa Nguyên, Kinh Triệu (nay là Diệu Huyện, Thiểm Tây). Là một trong số 4 nhà Khải thư lớn của Trung Quốc.
-
Dương Ngưng Thức (873 -954): tên chữ là Cảnh Độ, hiệu Hư Bạch, người đời gọi ông là Dương Phong Tử. Người Hoa Âm (Thiểm Tây). Có thành tựu lớn về thư pháp.
-
Sái Tương (1012 – 1067): tên chữ là Quân Mạc, từng làm Đoan Minh điện Học sĩ, thụy hiệu là Trung Huệ, nên còn được gọi là Thái Trung Huệ. Ông là một trong số 4 nhà thư pháp lớn đời Tống. Giỏi về Chính, Hành, Thảo.
-
Tô Thức (1037 – 1101): tên chữ là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha Cư Sĩ. Do có tên thụy là Văn Trung, nên người ta còn gọi ông là Tô Văn Trung. Người My Sơn, My Châu (nay thuộc Tứ Xuyên). Tác phẩm thư pháp nổi tiếng của ông, có Phong lạc đình ký.
-
Hoàng Đình Kiên (1045 – 1105): tên chữ là Lỗ Trực, hiệu Bồi Ông, hoặc Sơn Cốc Đạo Nhân, Sơn Cốc Lão Nhân. Người Phân Ninh, Hồng Châu (nay là Tu thuỷ, Giang Tây). Nổi tiếng về Hành thư và Cuồng thảo. Tác phẩm thư pháp nổi tiếng có U lan phú.
-
Mễ Phất (1051 – 1107): tên chữ là Nguyên Chương, hiệu Hải Nhạc Ngoại Sử, Lộc Môn Cư Sĩ v.v. Tính cuồng phóng, nên ông cũng được gọi là Mễ Điên. Người Thái Nguyên, Sơn Tây, sau dời đến Tương Dương nên còn được gọi là Mễ Tương Dương. Các thể thư pháp đều giỏi, đặc biệt là Hành thảo.
-
Triệu Cát (1082-1135), tức Tống Huy Tông, tự xưng là Giáo Chủ Đạo Quân Hoàng Đế. Giỏi cả thư lẫn hoa, đặc biệt là Chính, Hành, Thảo.
-
Triệu Mạnh Phủ (1254-1322): tên chữ là Tử Ngang, hiệu Tùng Tuyết Đạo Nhân v.v. Người Hồ Châu (nay là Ngô Hưng, Chiết Giang). Giỏi cả các thể thư pháp, nhất là Chính khải, Hành thư và Tiểu khải. Tác phẩm thư pháp nổi tiếng, có Diệu Nghiêm tự ký…
-
Tiên Vu Khu (1256 – 1301): tên chữ là Bá Cơ, hiệu Khốn Học Sơn dân… Người Ngư Dương, Đại Đô (nay là Bắc Kinh). Giỏi về Chính, Hành, Thảo, đặc biệt là Hành và Thảo.
-
Khang Lý Quỳ Quỳ (1295 -1345): tên chữ là Tử Sơn, hiệu Thứ Tẩu, người Mông Cổ, sinh ra ở Khang Lý (Tân Cương). Giỏi về các thể Chính, Hành, Thảo, đặc biệt là Thảo thư.
-
Chúc Doãn Minh (1460-1526): tên chữ là Hy Triết, hiệu Chi Sơn. Người Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô). Nổi tiếng về Cuồng thảo.
-
Văn Trưng Minh(1470-1559): tên chữ là Trưng Minh, sau đổi là Trưng Trọng, hiệu Hành Sơn Cư Sĩ. Từng giữ chức Hàn lâm viện Đãi chiếu, nên còn được gọi là Văn Đãi chiếu. Người Trường Châu (nay là Tô Châu, Giang Tô). Nổi tiếng về Tiểu khải và Hành thảo.
-
Đổng Kỳ Xương (1555 -1636): tên chữ là Huyền Tể, hiệu Tư Bạch hoặc Hương Quang Cư Sĩ. Người Hoa Đình, Tùng Giang (nay là Tùng Giang, Thượng Hải). Nổi tiếng về Hành thảo.
-
Trương Thụy Đồ (? – 1644): tên chữ là Trường Công, hiệu Nhị Thủy. Người Tấn Giang (nay là Tuyền Châu, Phúc Kiến). Giỏi về Hành thảo.
-
Vương Đạc (1592 – 1652): tên chữ là Giác Tư, hiệu Tung Tiều. Người Mạnh Tân (nay thuộc Hồ Nam). Là nhà thư pháp có nhiều ảnh hưởng vào giai đoạn cuối Minh đầu Thanh. Giỏi cả các thể chữ, đặc biệt là Hành và Thảo.
-
Trịnh Nhiếp (1693 – 1765): tên chữ là Khắc Nhu, hiệu Bản Kiều. Người Hưng Hóa, Giang Tô (nay thuộc Dương Châu). Là một trong “Bát quái” (8 nhân vật, quái kiệt về thư pháp) của Dương Châu. Nổi tiếng cả về Khải, Lệ, Hành viết lẫn lộn cùng nhau. Có người đương thời từng bình luận: “Trịnh Bản Kiều đem Triện, Lệ, Hành, Thảo đúc chung trong một lò, thật không thể giải thích được”:.
-
Lưu Dung (1719 – 1804): tên chữ là Sùng Như, hiệu Thạch Âm (gần đây, trong một bộ phim nhiều tập của Trung Quốc, ông được gọi bằng Lưu La Oa, ta dịch là Lưu Gù). Người Chư Thành, Sơn Đông. Ông nổi tiếng về Hành thư.
-
Hà Thiệu Cơ (1799 – 1873): tên chữ là Tử Trinh, hiệu Đông Châu. Người Đạo Châu (nay là Đạo Huyện, Hồ Nam). Là nhà thư pháp nổi tiếng về Hành thư vào cuối đời nhà Thanh.
2. Chu Nhân Phu: Trung Quốc cổ đại thư pháp sử. Bắc Kinh Đại học xuất bản xã. 1992.
3. Nhiều tác giả: Tứ thể thư pháp khái luận. Giang Tô cổ tịch xuất bản xã 1992.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét