Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015

THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM :HƯƠNG LIỆU VÀ CÁC LINH HỒN


Linh Mục Trần Tam Tỉnh 

3. NHỮNG VIỄN ẢNH
Sự sống của Giáo Hội vì thế đã bị xáo trộn bởi các cuộc «bách hại» là những hiện tượng không ăn khớp với bản tính hết sức bao dung của người dân Việt xét về mặt tôn giáo. Cha Marini cho đó chỉ là «những cuộc bách hại nhỏ nhoi, những con ruồi quấy rầy, những con muỗi chọc tức» thôi. Quả thật đúng thế, đã có những cuộc bách hại, nguyên do là vua chúa hồi đó phải chờ quá lâu các chuyến tàu đại bác, hoặc do những lời cáo buộc rằng Kitô hữu phạm tội bất hiếu vì không chịu thờ cúng ông bà, hơn nữa có sự ngờ vực đối với một thứ đạo do người nước ngoài điều khiển, mang vào những tập tục ngoại lai và biểu lộ một thái độ bất dung không thể nào hiểu nổi.
Sự ngờ vực này nhất định có phần cơ sở thực tế. Thái độ của hai vị giám mục đầu tiên tới Việt Nam, Giám mục Pan-luy và giám mục Lămbe đơ la Mốt, cũng như các mưu toan sau này của một số lớn các vị thừa sai, tạo cơ sở cho một ông quan tên Cương ghi lại trong Cuốn Tâm thư (XI,97), mô tả người phương Tây như «những kẻ rất lanh lợi hăng hái, chỉ nghĩ tới chuyện mỗi ngày chinh phục thêm những vùng đất mới. Tất nhiên điều đó sẽ làm cho nhà vua (chúa Nguyễn) tin chắc rằng các nhà truyền giáo phương Tây có mưu đồ nổi loạn cướp ngôi». Đó là nguyên do cuộc đàn áp năm 1750. Trước đó đã có nhiều vụ đàn áp khác, như năm 1686, 1704, 1712, 1715 trong Nam, còn dưới quyền chúa Trịnh ở hà bắc lại có các cuộc đàn áp xảy ra những năm 1721. 1723, 1737, 1745 và 1773.
Trong mỗi cuộc cấm đạo, nhà vua ra lệnh trục xuất các thừa sai nước ngoài và trừng phạt khi nặng lúc nhẹ các giáo dân «đã vì lầm lạc hoặc nhẹ dạ bị các thầy Tây lôi kéo lừa bịp».
Có một cuộc «cấm đạo» đẫm máu hơn xảy ra dưới thời Tây Sơn.
Vào nửa sau thế kỷ XVIII, chế độ thối nát của các vua chúa ở phía Bắc cũng như Nam đã gây cảnh đói kém khiến các tần lớp dân nghèo ta thán. Cuộc nổi loạn hình thành cụ thể dưới sự lãnh đạo của một nông dân đất Tây Sơn tên Nguyễn Huệ, cùng với hai anh đứng lên lật đổ chính quyền các chúa rồi thống nhất đất nước thành một cõi. Tại phía Bắc, vua Lê Chiêu Thống đi cầu viện nơi người Trung Hoa, còn ở miền Nam thì một người con dòng chúa Nguyển là Nguyễn Ánh, lại nhờ quân Thái Lan giúp giành lại vương quyền.
Nhờ áp dụng một chiến thuật chớp nhoáng, Nguyễn Huệ chỉ mất không đầy một tuần đã đập ta 20 vạn quân Thanh. Tháng giêng năm 1789, sau khi đã đánh bại 20.000 viện quân Thái Lan, Nhà Tây sơn tiến hành nhiều cuộc cải cách xã hội và chính trị và họ đã không nương tay đối với các cố thừa sai. Nhất là từ năm 1777, khi giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) giám mục thành Adran cai quản địa phận Đàng Trong, đứng vào hàng ngũ ông chúa đã bị lật đổ. Nguyễn Ánh vì muốn lấy lòng người Tây hầu giúp mình đánh lui kẻ thù, nên công khai tỏ thiện cảm với các cố thừa sai mà ai cũng cho là bạn thân của chúa. Điều này khiến anh em Tây Sơn nổi giận và căm tức, chẳng những đối với các thừa sai nước ngoài, mà cả đối với tất cả tín hữu Kitô, bị coi như hoàn toàn làm tay sai cho ngoại bang và cho chúa Nguyễn.
Nguyễn Ánh không lính, không tàu, quay nhìn sang các cường quốc phương Tây. Ông bắt đầu liên hệ với quân Bồ Đào nha tại Macao, với quân Hòa Lan tại Batavia và với quân Anh ở Ấn độ đang sẵng lòng tiếp tay giúp đỡ. Giám mục Bá Đa Lộc không để mất cơ hội này để vừa giúp đỡ chúa Nguyễn và làm lợi cho nước Pháp đang trên đà cạnh tranh quốc tế. Nguyễn Ánh phó thác đứa con đầu mới 5 tuổi, với cả ngọc ấn để chính thức nhờ ông đi cầu viện với nước Pháp. Tại triều dinh Vécxây (Versailies), giám mục trình bày với bá tước Mông-mô-ranh (Montmorin) một bản thảo lược, làm cả đám người chính trị lẫn sĩ quan chính qui, đều lấy làm tâm đắc. Ông nêu ra các lợi ích trong việc nước Pháp can thiệp vào Việt Nam:
Lợi ích thứ nhất: Giả thiết rằng phương pháp chắc ăn nhất nhằm đánh bại quân Anh tại Ấn Độ là phá hoại hoặc làm suy yếu ngành thương mại của chúng. Vào thời bình, người Pháp sẽ làm suy giảm nhiều mức lợi mà quân Anh có thể thu được nơi việc buôn bán với Trung Quốc, nếu mình tổ chức buôn bán mà nhẹ phí tổn hơn và dành cho nhiều sự dễ dàng hơn.
Lợi ích thứ hai: Trong thời chiến, sẽ dễ dàng cấm việc buôn bán đó đối với bất kỳ nước thù địch nào. Bởi vì khi mình tuần tiểu ngay đầu cửa vịnh, hoặc chắc hơn nữa ngay đầu cửa vịnh. Còn hở là lối vào cảng Quảng đông thì sẽ chận được việc ra vào cảng bất cứ tàu của ai mình muốn chận.
Lợi ích thứ ba: Mình sẽ sẽ gặp được tại Nam Kỳ các phương tiện dễ dàng và ít tốn kém cho việc sửa chữa, sơn lại tàu bè, hoặc đóng them tàu mới.
Lợi ích thứ tư: Mình sẽ gặp được tại? đây tất cả những gì cần thiết để tiếp tế cho hạm đội, hoặc cung cấp cho thuộc địa khác các thứ nhu yếu phần.
Lợi ích thứ năm: Khi cần thiết, có thể chiêu mộ tại chỗ phu phen, lính bộ, lính thủy v.v...
Lợi ích thứ sáu: Mình có thể dễ dàng chận đứng quân Anh khi chúng nó muốn tính chuyện bành tướng sang bờ biển phương Đông.
Các mối lợi ích khác có thể còn quang trọng hơn tuy còn xa xôi... đòi phải có những cách nhìn rộng lớn hơn, có lẽ lúc này Chính phủ chưa dễ dàng như thế?, thiết tưởng cứ dựa vào những lợi điểm hiển nhiên trước mắt đã và tạm gác chưa nói tới cái mối lợi về lâu về dài mới nghĩ tới được.
Nhằm thuyết phục kỹ hơn người Pháp, vị giám mục nhấn mạnh trong tập Nhật ký về Nam kỳ rằng, biện pháp quân sự là điều thực hiện đươc dễ dàng: «Dân xứ này hiền lành, rất kỷ cương, khá dũng cảm. Nhưng bất kỳ ý kiến gì của Tây cũng làm họ sợ. Họ thừa nhận chúng tôi vượt xa họ về sức mạnh và họ rất sợ chúng ta... Tôi đã thấy (tại Ấn Độ) trong cuộc chiến vừa rồi, quân lính người Ấn rất sợ quân người da trắng và chúng không thể chịu nổi khi thấy lính da trắng tiến gần. Phương chi cái cảm giác khiếp sợ đó và sự thâm tín về sự yếu kém của họ và sự vượt trỗi của ta càng to lớn hơn biết bao, nơi một nước lần đầu tiên bị quân đội phương Tây đánh bại:
«Bọn lính ngụy (Tây Sơn) có được trang bị súng trường, gươm, lao, tầm vông vắt nhọn v.v... nhưng chỉ năm tên mới mới có một tên cầm súng; và lại họ không thành thạo gì trong việc bắn súng và súng thường là rất dở. Họ chẳng được luyện tập gì và rất rời rạc, không tập trung. Sau hết, họ chỉ có đại bác trên chiến thuyền, còn trên bộ chẳng bao giờ họ dùng đại bác. Như thế thì dễ thấy ngay rằng, chẳng cần gì lực lượng lớn lao mới đánh chiếm được cả nước này, nhưng vị trí của người Pháp trong lúc tới sẽ rất khác. Nhà vua hợp pháp (Nguyễn Ánh) cũng còn nhiều người phò theo. (...)
«Tóm lại, có quân Pháp tại Nam kỳ sẽ chắn chắn cho phép thay đổi được cán cân ảnh hưởng lớn lao của nước Anh... cho ta nắm được tất cả các mặt biển vùng Trung Hoa và các quần đảo; có thể làm chủ tình hình cả ngành thương mại trong vùng thế này này».
Nhờ Giám mục Bá Đa Lộc, một hiệp ước đã được ký kết ngày 28-11-1787 theo đó vua nước Pháp hứa viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh và ông này đáp lễ lại bằng việc nhượng lại cho nước Pháp Côn Đảo và cửa Hội An (Quảng Nam Đà Nẵng).
Từ lâu, người phương Tây, Anh, Hòa Lan, đã từng coi Côn Đảo là mội địa điểm thuận lợi để thiết lập một thương điểm và một căn cứ quân sự, vì từ hòn đảo này, có thể kiểm soát việc tàu bè qua lại từ Xiêm sang Trung Quốc.
Các khó khăn chính trị nội bộ đã không cho phép nước Pháp gửi lực lượng quân sự qua, như đã hứa trong hiệp hước Vécxây. Nhưng Bá Đa Lộc không nản lòng. Với tài chính của Hội Truyền giáo Pari, với sự ủng hộ tiền bạn của bạn bè và với các phương tiện của bản thân, giám mục đã mua tàu, trang bị khí giới và thuê một số sĩ quan người Pháp. Như vậy ông tính giúp được Nguyễn Ánh đè bẹp Tây Sơn sau một ít năm chinh chiến.
Được tin giám mục trở lại, có sĩ quan Pháp tháp tùng, anh em Tây Sơn rất tức giận. Người ta đọc được lời thổ lộ sau đây của một nhà viết sử truyền giáo: «Các quan Tây Sơn càng tỏ ra gay gắt với Kitô giáo từ khi giám mục thành Ađran trở lại, làm cho họ ngờ vực người Kitô giáo và nhất lá các vị thừa sai, cả hai đều ra sức hổ trợ cho nhà vua hợp pháp (Nguyễn Ánh mà các nhà thừa sai công nhận là vua hợp pháp, còn Tây Sơn thí bị gán cho tội phản loạn) được trở lại ngai vàng vua cha. Sự bách hại, vốn chưa hề dứt từ 30 năm qua, đã tái phát dữ dội hơn năm 1798».
Thực ra đây chẳng chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc chắn. Vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đã có lần chận bắt một bức thư Nguyễn Ánh gửi cho giám mục Labarlette, xin đức cha tổ chức một đạo quân gồm người tín đồ Kitô giáo tại chỗ, hầu hỗ trợ cho lực lượng quân Pháp chỉ huy đánh tứ ngoài vào.
Sau hết, Nguyễn Ánh đã lên ngôi năm 1802, lấy tên Gia Long, lập nên nhà Nguyễn, Huế được chộn làm kinh đô. Các nhà thừa sai đang chờ đợi được Gia Long ban cho đặc ân. Nhưng triều đình Huế vẫn tảng lờ các yêu cầu của cái giám mục Pháp.
Một mặt, Gia Long và vua kế tiếp không chấp nhận cho người Việt lai đi theo một tôn giáo vốn cấm việc thờ cúng tổ tiên, song truyền bá những chuyện dị đoan ngoại lai và do những người phương Tây cai quản.
Theo số thống kê năm 1800, thì hồi ấy con số người công giáo đã lên tớn 320 ngàn, với 119 linh mục Việt Nam chịu sự cai quản của 115 thừa sai và 3 giám mục, trong đó 2 người Pháp và một Tây Ban Nha.
Đàng khác, các vua nhà Nguyễn, đã mang sẵn nỗi âu lo về chủ nghĩa đế quốc phương Tây, đang ngày càng de dọa nghiêm trọng hơn. Nước Anh củng cố quyền thống trị trên Ấn Độ, bằng cách thôn tính châu Úc và Tân Tây Lan và sắp sửa áp đặt ý muốn của họ trên Trung Quốc sau trận chiến thuốc phiện. Nước Pháp đã chiếm Angiêri và đang đi tìm căn cứ trên bờ biển Trung Quốc. Dĩ nhiên các nỗi lo âu ấy không phải là cớ chính đáng cho các cuộc bách hại thời Minh Mạng (1833 và 1838). Theo các sắp chỉ nhà vua, «đạo của bọn Hòa Lan» là một tà đạo, một đạo bất nhân, cấm đoán việc thờ cúng tổ tiên, một thứ đạo gieo hỗn loạn vào phong tục và trật tự của nước nhà. Nhà vua ra lệnh cấm không cho thừa sai xâm nhập cà xử tử những ai ngoan cố tiếp tục truyền bá Kitô giáo.
Có thể tránh được các vụ đổ máu này, nếu Kitô giáo đến Việt Nam, biết tỏ ra bao dung hơn, cởi mở hơn, biết bám rể sâu hơn và văn hóa xứ sở và khôn khéo hơn. Trong các cơn bão táp này, các cố Tây đã không khôn ngoan, đi cầu cứu với Pháp, vốn là một đế quốc đang chực sẵn cơ hội tốt hòng xâm chiếm Việt Nam, vịn cớ là để bảo vệ sự tự do tôn giáo.
Ngày 25 tháng 2 năm 1843, thiếu tá Phavanh Lơvéc (Favan-Leveque) chỉ huy chiến hạm Hêrôn được thư cố thừa sai Samedông (Chamaison) đưa tin rằng, chính quyền Việt Nam đang giam 5 thừa sai Pháp tại nhà ngục Huế, bèn đưa chiến hạm tới đòi phải thả họ ra. Hai năm sau, tư lệnh hải quân Phocniê Đaypoơla (Forniel-Dupla) thừa lệnh Đô Đốc Xêxin (Cécile) đến Turan (Tourane, tức Đà Nẵng) đòi triều đình phải thả giám mục Lơphevơrơ (Lefévre) đang bị giam với bản án tử hình. Năm 1847 thiếu tá chỉ huy tàu Lapierơ (Lapierre) lại can thiệp đòi thả giám mục Lơphevơrơ, đã bị bắt lại và bị kết án tử hình lần thứ hai. Song trong khi các cuộc thương lượng nói trên đang được tiếng hành, thì hai chiến hạm Pháp đã đánh chìm 5 tàu chiến Việt Nam. Theo thông tấn Pháp, thì tàu Việt Nam đã tấn công chiến hạm Pháp trước, nhưng điều đó khó má xảy ra, bởi vỉ tàu Việt Nam lúc đó chỉ là những chiếc ghe được trang bị bằng súng nhỏ thôi.
Vua Thiệu Thị tức giận, ra 4 sắc chỉ cấm đạo trong những tháng sau đó. Các tín hữu Việt Nam lại một lần nữa làm nạn nhân của thái độ người Pháp, mệnh danh là đem đến cho họ quyền tự do thờ cúng!
Tiếc thay, các cố Tây không rút ra được bài học từ kinh nghiệm bi thương đó. Lúc này, trong hạm đội Pháp rải khắp vùng biển Trung Quốc, quá vị thừa sai Pháp ngày càng tin chắc rằng họ phục vụ lợi ích của đất nước họ, và cũng làm lợi cho đạo, khi họ yêu cầu nước Pháp can thiệp quân sự vào Việt Nam. Quả thực, làm sao nước Pháp có thể bỏ rơi việc này? Năm mươi năm trước đó, trong những giờ đen tối của Giáo Hội Pháp, khi các tu sĩ Pháp bị trục xuất, giản tán, khi má các hội Dòng đều bị cấm đoán tại Pháp, họ hặp được những kẻ bênh vực cho công lao của họ một cách danh chính ngôn thuận. Chỉ cần đọc bản báo cáo của Poctalix (Portalia) ngày 6-11-1802 thì đủ rõ tâm tình của nước Pháp, bài giáo sĩ, tỏ ra thế nào với các cố thừa sai như sau:
«Những sự dễ dàng mà các vị thừa sai đã có được để thiết lập các thương trấn tại những miển đất xa xôi nhất, đã mở rộng cửa cho họ khuếch trương ngành thương mại của nước ta, mở ra những tuyến giao lưu mới và chuẩn bị khơi nguồn cho nhiều tài sản mới. Họ là những bị thừa sai đã mang tới mút cùng trái đất, cái tên vinh quang của nước Pháp, đã phát triển ảnh hưởng của Pháp và cho nước Pháp có được những quan hệ mới với các dân tộc mà bấy lâu thiên hạ chưa hề biết tới. Chính các vị thừa sai này đã đem lại cho chúng ta, mỗi lần họ về thăm gia đình, những hiểu biết về nghệ thuật và khoa học: Chính các vị thừa sai đã nâng lên số lượng các phương tiện sinh sống của chúng ta, bằng cách thích ứng tại nước mình các sản phẩm vốn là hoa quả của miền đất khác, thuộc khí hậu khác... Chính các nhà thừa sai Pháp, từ năm 1660 đã giúp cho nước Pháp biết được những mối lợi quan trọng có thể thu được, từ các quan hệ với các dân tộc châu Á và năm 1669 đã tạo cơ sở hầu thiết lập nên Công tu Ấn Độ đầu tiên của Pháp. Họ đã xin được vua Xiêm chấp thuận cho tàu bè Pháp khỏi đóng thuế cập bến bỏ neo và cũng chính các vị ấy đã thuyết phục nhà vua cho một cửa khẩu và một hồn đảo gần Mécghi (Merguy) trong vịnh Bănggan (Bangale) để tàu thuyền qua mùa đông, hoặc sửa chửa. Vì thế, chính sách nhà nước chớ coi thường các tổ chức (tôn giáo) có khả năng đóng góp hữu hiệu đến thế cho sự phồn vinh của quốc gia».
Bài ca ngợi đó đã được đọc lên do một nhân vật rõ ràng không thể bị ngờ vực là bợ đợ cha cố hoặc có lòng đạo đức gì lắm. Nó tỏ ra cho thấy rõ các thực tế lịch sử và những lợi lộc về kinh tế cũng như chính trị, nhờ hoặt động của các cố thừa sai.
Nhưng giữa thế kỷ XIX, nghề buôn bán đã bị vượt xa bởi nhu cầu bành tướng thuộc địa. Châu Âu kỹ nghệ hóa cần có thị trường tiêu thụ và nguyên liệu. Lợi dụng vụ tàn sát một vài vị thừa sai Pháp ở Việt Nam, cành hữu tư sản công giáo, Pháp đã làm áp lực để chính quyền đệ nhị cộng hòa khai thác các điều vụng về của nhà vua Việt Nam, hầu đánh chiếm nước này. Ơ-gen Vơi-do (Eugene Veullot) đã viết: «Quyền lợi con người mà châu Âu kitô phải bắt buộc các dân mọi rợ tôn trọng và việc quan tâm bảo vệ danh dự của chúng ta, đòi chúng ta phải trả thù cho các vụ xâm phạm đến đồng bào chúng ta tại đất Annam».
5. THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM
Hai nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ việc Pháp xâm lăng Việt Nam là giám mục Pelơranh (Pellerin) cai quản địa phận Huế và linh mục Huc, cựu thừa sai truyền giáo. Giám mục Pelơranh đã khẳng định trước mặt triều đình Napôlêông III rằng: «Nếu quân Pháp đánh chiếm nước này, thì giáo dân bản xứ sẽ tiếp đón họ như những kẻ cứu tinh». Linh mục Huc cũng viết thư cho vua rằng: «Chiếm lấy Nam kỳ là việc dễ dàng nhất trần gian, nó sẽ đem lại những kết quả vô cùng to lớn. Nước Pháp hiện có tại biển Trung Quốc những lực lượng dư sức để tiến hành công việc đó. Dân bản xứ thì hiền lành, siêng năng, rất dễ đón nhận đức tin Kitô giáo và đang rên siết dưới ách tàn bạo ghê tởm. Họ sẽ tiếp đón chúng ta như những người giải phóng, những vị ân nhân. Chỉ cần ít lâu thôi là đem họ theo đạo được hết và làm cho họ nhiệt tình yêu mến nước Pháp».
Chưa từng có luận điệu tuyên truyền tài tình tinh vi mức ấy! Bọn tư bản gặp được nơi những lời khẳng định lặp đi lặp lại đó, những công cụ hầu đánh lừa nhân dân Pháp. Đám quân sự hoan hỉ lao vào những cuộc viễn chinh dễ dàng như thế.
Năm 1856, thiếu tá M.đơ Môntinhi chỉ huy chiến hạm Lacaprixơdơ (La Capricieuse) tới Đà Nẵng, với mục đích đòi vua Tự Đức nhường hải khẩu đó cho Pháp, để cho người Pháp được hoàn toàn tự do buôn bán trên khắp cả nước và tự do giảng đạo công giáo. Viên thuyền trưởng tiếp giám mục Pelơranh cai quản địa phận Huế tại chiến hạm của ông. Giám mục lên tàu cung cấp cho ông các tin tức tình báo và nhân danh toàn thể các thừa sai tìm hiểu xem mục đích thật chiến hạm tới đây làm gì. Tự Đức không muốn nhượng bộ, còn Đơ Môngtinhi lại không có đủ số quân để chiếm cả nước, hoặc trừng phạt kẻ thù theo lời thỉnh cầu của các thừa sai. Chiến hạm Lacaprixơdơ rời Việt Nam mang theo giám mục Pelơranh, người có vũ chủ chốt việc Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Cử chỉ của Đơ Môngtinhi gây phản đối khắp nơi từ phía các cố thừa sai. Các ông này gửi về Pháp những bức thư tỏ thái độ tức giận. Giám mục Roto (Retoro) viết trong thư đề ngày 24-6-1857: «Chưa bao giờ gặp phải một thất vọng ê chề như thế: Phần chúng tôi phải nói rõ thôi, chúng tôi đã se cả tấm lòng mình lại, khi trông thấy cả tòa nhà huy vọng mình ôm ấp trân trọng đã sụp đổ nhanh như thế, rồi nghe lặn đi lặp lại bên tai người Pháp chúng tôi những lời hết sức khó chịu, chẳng hạn: Bọn họ kéo tới mà mình có mời đâu, rồi họ bỏ đi sau khi làm hại chúng mình... Hậu quả của tất cả việc đó là gì? Là đem chúng tôi ném vào răng cọp, sau khi đã chọc tức nó mà hại chúng tôi». Và chính giám mục kể trên lại kêu lên trong một bức thư khác: «Chúng tôi đã hy vọng biết bao khi mới nghe tin cuộc hành quân sắp tới nơi, để đòi cho chúng tôi cách này hay cách khác một sự bình an và sự tự do hoàn toàn, để báo thù cho danh dự nước Pháp đã bị xúc phạm quá lâu nay rồi... Thất vọng biết chừng nào thật ê chề khi biết chắc chắn rằng lính Pháp đã chẳng chịu làm gì hết trơn».
Và linh mục thừa sai Têôphan Vêna (Théophane Vénard), rồi đây được phong Á thánh như một vị thừa sai lừng danh nhất của Hội thừa sai Pari và của Việt Nam, đã viết cho thân phụ hồi tháng 6 năm 1857 như sau: «Dân chúng cả nước, lương cũng như giáo, đều vổ tay và tỏ lòng hoan hỉ, nhưng nghĩ rằng ông vua tàn bạo của họ sắp bị truất phế. Nhưng thấy quân đội Pháp chúng ta chỉ tạo ra nguyên chuyện lạ thôi, rốt cùng họ bị dân chúng chế diễu, còn chúng con thì chỉ lãnh đủ sự ô nhục, những người thừa sai nghè hen, những đứa con của nước Pháp, một vương quốc cao sang.
Các cuộc viễn chinh hèn nhát kiểu đó chẳng xứng đáng chút nào với nước Pháp, vốn mang một quả tim quảng đại đến thế. Nếu nước Pháp chịu làm việc gì trước thế giới, thì phải làm một cách vĩ đại mới hợp với bản chất vĩ đại của nó».
Quả đúng, qua cuộc hành quân kể trên, quân Pháp đã làm Tự Đức nổi giận lôi đình. Một sắc chỉ cấm đạo ngặt hơn, tàn ngặt hơn, tàn bạo hơn, đã được đưa ra đàn áp, nhằm mục đích phá hủy toàn bộ hạ tầng cơ sở của cái tôn giáo cấu kết quá chặt chẽ như thế với quân Pháp. Vua đã sai lầm khi đánh giá tình hình ngoài mặt, không nghĩ tới nguy cơ sắp đổ xuống trên đất nước mình. Phần vua Nepôlêông III, chịu sự áp lực của giám mục Pelơranh từng hứa rằng tất cà tín hữu người Việt sẽ hợp tác tới toàn diện với quân Pháp, vua cũng nghi vị giám mục đó và vị thừa sai khác giải thích cho hiễu rõ tình hình lực lượng quân sự và các điểm chiến lược của Việt Nam, nên đã ủy nhiệm cho phó đề đốc Rigê đơ Giơnuiy (Rigault de Genouilly) đánh chiếm Việt Nam. Ông này đã nhận được lời mời giám mục Rơto căn dặn như sau: «Nếu Ngài đô đốc muốn thực hiện công việc một cách vững chắc, bền bỉ, vừa đem lại vinh dự cho nước Pháp, vừa làm lợi ích cho nước Pháp, hoặc là đặt một ông vua có đạo dưới quyền bảo hộ của nước Pháp để ta chiếm giữ hải cảng và các hồn đảo vịnh Turan (Đà Nẵng) một cách vĩnh viển».
Rigault De Nouilly
Rigault De Nouilly
Trên chiến hạm Nêmêdix (Némésis), Rigô đơ Giohuiy có giám mục Pelơranh bên cạnh, đảm bảo việc giao liên với các thừa sai và tín đồ kitô, vốn được chỉ thị cung cấp cho đô đốc các tin tình báo về vị trí các đội quân Việt Nam và các vụ chuyển quân. Được vị giám mục đảm bảo rằng hễ trông thấy hạm đội hùng mạnh của Pháp và Tây Ban Nha tới (bởi vì quân Tây Ban Nha ở Manila đã phái một trung tá để tham dự cuộc hành quân «trừng phạt» với Pháp) thì tất cả dân chúng giáo lương sẽ nổi loạn chống nhà vua và việc đánh chiếm nước này chỉ là việc làm và ba hôm là đô đốc Rigơ đơ Giơhuiy bèn triển khai đội hình 14 chiến hạm ngay trước vịnh Turan. Nhưng đã xảy ra bất đồng về chiến lược giữa giám mục và phó đô đốc. Do thiếu kết hợp các tin tình báo và chiến thuật, quan Pháp đã bắc phá cản Turan ngày 31-8-1858 nhưng rồi do dự không muốn về thủ đô Huế đang được bảo vệ bởi những tướng lãnh giỏi nhất của Việt Nam.
Bỏ lại Turan một đơn vị đóng chốt, Đơ Giơhuiy xuống đánh chiếm Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Sài Gòn thất thủ, nhưng cuộc kháng chiến được tổ chức tiếp tục xung quanh các vùng đât bị chiếm đóng, tạo vòng vây phong tỏa tiếp viện. Binh lính Pháp có thể chết đói tại đây, nếu giám mục Lơfevơrơ đã không kịp thời vận động giáo dân tiếp viện.
Năm 1860, cuộc hành quân Pháp-Anh đánh Bắc kinh bắc buộc quân Pháp phải tạm hoãn công việc chinh phục Việt Nam. Vua Tự Đức lợi dụng thời hạn đó để tổ chức tự vệ. Vua nói: «Cần phải diệt tận gốc cái đạo tàn ác kia đi, bởi nếu không có bọn tín đồ, thì lũ quân man rợ phương Tây sẽ không có ai phù giúp không nhận được tiếp tế gì hết. Thiếu tiếp viện thì chúng phải rời khỏi nước ta thôi».
Nhưng, sau sự thất bại ở Bắc kinh, quân Pháp quay lại mạnh mẽ thêm và quyết tâm dánh chiếm toàn bộ nước Việt Nam. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, nhà vui đã phải ký hòa ước ngày 5 tháng 6 năm 1862, nhượng cho nước Pháp 3 tỉnh, bồi thường chiến tranh 20 triệu tiền Pháp và ban bố tự do thờ cúng cho người công giáo.
Trong việc tổ chức cai trị các vùng đất chiếm được bọn quân Pháp chiêu mộ người hợp tác, nhưng theo lời đô đốc Riơniê (Rieunier), chúng chỉ gặp được «tín đồ kitô hoặc những tên vô lại». Bốn ngàn giáo dân đến quây quần xung quanh bọn xâm lược. Thật dễ đoán biết sự tức giận phẫn nộ không những của triều đình Huế mà cả trong dân chúng người «lương» nổi lên cao độ chừng nào. Các sắc chỉ cấm đạo công bố giữa năm 1859 và 1861 là gay gắt và nghiêm khắc nhất từ trước tới nay.
Sắc chỉ 17-1-1860 truyền phải phân tán người công giáo tới sống xen ở giữa các làng người lương, đễ mỗi tín đồ phải có 5 đồng bào lương kiểm soát. Tất cả các làng và nơi thờ tự của công giáo phải triệt hạ; tài sản của người công phải bị tịch thu và sau hết phải khắc chữ TÀ ĐẠO lên má các tín đồ.
Sau hòa ước 1862, Tự Đức công bố ân xóa khắp cả nước. Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của vua, vua ra lệnh tha cho tất cả các tín hữu kitô đang bị tù, cho những người bị phân sáp trước đó được trở về làng cũ, được nhận lại tài sản của họ, nhà cửa, ruộng đất, và còn được miễn thuế và được sống yên thân.
Tại Nam kỳ, trừ tín hữu kitô và những tên xu thời, nhân dân dân các vùng bị chiếm đóng đều tổ chức kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của những nhà chí sĩ yêu nước xuất thân từ quần chúng. Đây là loại chiến tranh du kích, được tiến hành vừa táo bạo vừa rất tài tình. Trong cuốn sử viễn chinh Nam kỳ, Panluy đơ la Berierơ (Pallu de la Barriere) mô tả theo điều tai nghe mắt thấy như sau: «Thực tế là đâu đâu cũng có các ổ kháng chiến, nó chia nhỏ li ti ra, có thể hầu như nói được rằng mỗi người An Nam là một ổ kháng chiến. Đúng hơn, phải kể mỗi người nông dân đang bó lúa là một điểm du kích! Và chiến thuật này khiến quân lính Pháp chẳng còn biết đâu mà mò: «Thật không có màng kịch nào buồn tẻ hơn, đơn điệu hơn, mệt mỏi hơn cái thảm cảnh quân lính Pháp ở trên đất cũng như nơi mặt biển. Một tên địch mình trông thấy hoài, nhưng một tên khác lại ngụy trang dấu mặt. Cứ thấy kẻ thù luôn luôn thoát khỏi tầm tay, khiến có cảm tưởng như chúng ta chỉ bắn vào không khí».
Rigault De Nouilly
Nguyễn Đình Chiểu
Trước cuộc nổi dậy khắp nơi như thế, quân Pháp bèn tổ chức tiến công và chiếm đóng toàn bộ Nam kỳ vào năm 1867. Song dầu thấy quân địch thu được những chiến thắng cách chớp nhoáng và quan trọng như thế, du kích quân người Việt vẫn không bỏ cuộc kháng chiến. Và bởi xác tin rằng người công giáo đồng lõa vớn bọn xâm lược, họ cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình. Theo ông Nguyễn đình Chiểu, một nhà thơ Việt Nam yêu nước, thì «dân chúng bị tiêm nhiểm phải cái đạo tà nên kẻ thù xâm chiếm nước nhà mà chẳng ai chống cự lại». Và nhà thơ này cũng liên tưởng đến các chiến công của kháng chiến vốn chỉ được trang bị thô sơ, đã viết trong bài thơ phúng điếu các chiến sĩ Cần Giuộc như sau: «Hỏa pháo chỉ dùng ngọn đuốc rơm, đã đủ thiêu rụi một chủng viện. Dùng cây dao làm kiếm, cũng chặt được đầu tên thiếu úy».
Ở đây, nên ghi nhận cái ý tinh vi của vần thơ Việt Nam, đặt chủng viện thừa sai song song với thiếu úy thực dân. Thời gian này, tại Sài Gòn đã bị chiếm các hội thừa sai tổ chức xây dựng trường học, tu viện, nhà thương theo kiểu phương Tây.

6. GIÁM MỤC PUY-GI-NIÊ.
Sau khi đã chiếm xong toàn bộ Nam kỳ, quân Pháp vội vàng đi thăm dòng sông Mêkong, mục đích là tìm một đường giao thương với Trung Quốc. Họ thấy ngay, không thể ngược dòng sông này lên tới Trung Quốc. Họ bàn quyết định cho tàu đi ngược dòng sông Hồng ở Bắc kỳ.
Năm 1873, Giăng Đuypui (Jean Dupuis), một tay mạo hiểm Pháp, vịn cớ phải ngược dòng sông Hồng để bán vũ khí cho người Hoa, đã chống lại lệnh cấm của nhà cầm quyền Việt Nam. Thiên hạ biết rằng y đã nhận được tiếp viện hùng mạnh của đô đốc Đuyporé (Dupre) thống sứ Nam kỳ, thuộc địa Pháp kể từ 1868. Trong một thư gửi giám mục Xôhiê (Sohier) địa phận Huế ngày 6.10.1873, y thổ lộ: «Hẳn đây là vấn đề đặt cơ sở cho ảnh hưởng Pháp dọc bờ sông Hồng và chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ cả Bắc kỳ luôn». Quả là một thách thức đối với chính quyền Việt Nam.
Theo tin tình báo nhận được từ các thừa sai tại Bắc kỳ, quân Pháp nắm được tình hình chính trị của miền Bắc Việt Nam, Lê Bảo Phụng, từng bí mật quan hệ nhiều với quân Pháp, đã tổ chức một cuộc bạo loạn gây bất ổn cho xứ sở. Đàng khác, các toán quân Cờ Trắng, Cờ Vàng, Cờ Đen người Hoa cướp phá khuấy nhiễu nhiều vùng tại đất Bắc. Những bọn này trước kia ở trong quân đội của Tai Pinh, nhưng rồi đã bị quân chính qui Trung quốc săn đuổi. Nắm vững tình hình đó nhờ các cố thừa sai, quân Pháp tìm cách để nhảy vào. Cớ đây rồi: Đuypui bị các nhà cầm quyền Hà nội bắt giữ. Đuypơrơ phái Phrăngxít Gacníe (Francis Garnier) dẫn một hạm đội tiến ra. Tới Hà nội, Phrăngxít Gác-niê đơn phương ra lệnh thả Giăng Đuypuy, phải mở sông Hồng cho tự do giao thông và bãi bỏ quan thuế ở đây. Đứng trước khước từ của nhà cầm quyền Việt Nam, Gacniê đánh chiếm Hà nội ngày 19.11.1873. Ông bắt liên lạc ngay với giám mục Puyginiê: «Thưa đức cha, không ai am tường Bắc kỳ bằng Đức cha và đức cha lại có lòng yêu mến nước Pháp. Đức cha có vui lòng giúp tôi cũng cố những gì chúng ta đã chiếm được bằng cách chỉ cho tôi những người bản xứ có khả năng cai trị dưới quyền tôi không? » «Dĩ nhiên sự hợp tác của giám mục Hà nội là điều đã ăn chắc từ trước rồi». Khi ngọn cờ Pháp xuất hiện ở Bắc kỳ, giám mục mừng vui sung sướng, Ngài ra sức giúp quân lính chúng ta tất cả những việc gì có thể thích hợp với vị trí một giám mục thừa sai tại Bắc kỳ «sử gia đã ghi rõ như thế trong cuốn sử về cuộc đời giám mục. Giám mục đã đóan chắc binh lính rằng ông có thể nhập ngũ dưới ngọn cờ của kẻ chiến thắng, bởi vì ngọn cờ này là cờ nước Pháp. Nhờ người công giáo, Phrăngxít Gácniê đã chiếm được Nam Định, Hải Dương và những vùng khác thuộc đồng bằng sông Hồng một cách nhanh chóng. Nhưng, mặc dầu được giám mục bảo là phải cảnh giác, Gácniê đã bị giết ngày 21.12.1873 trong một cuộc phục kích tại Cầu Giấy. Đám tang của y được cử hành trọng thể bởi giám mục Puyginiê với hai giám mục Pháp khác.
Chiến thắng và cái chết của Phrăngxít Gácniê đã gây ra sau đó những cuộc bắt đạo dữ dội. Theo tài liệu của chính quyền Nam kỳ, mỗi lần quân đội Việt Nam bị thất bại, thì dân chúng người lương lại thêm căm thù dân công giáo: «Nhiều cuộc tàn sát đốt làng đã theo sau vụ Nam Định bị quân Pháp đánh chiếm ngày 9.12.1873. Tại các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội những cảnh đó trở nên rất tàn bạo, khi người ta nghĩ rằng sau cái chết của Gácniê quân Pháp có thể rời bỏ Bắc kỳ».
Chẳng cần nhấn mạnh liên hệ nhân quả ở đây, tài liệu trên kể thêm rằng: «Cơn bắt đạo xảy ra sau sự rút lui của chúng tôi khỏi Bắc kỳ đã không hoành hành trong các địa phận thuộc Dòng Đa-Minh Tây Ban Nha cai quản. Các thừa sai của họ vẫn được tự do tương đối và đã được đối xử khoan hồng. Giám mục (Côlomer) đã được vua Tự Đức cấp cho đất xây nhà thờ và nhiều huân chương vàng bạc tưởng thưởng họ, vì đã đóng góp tốt cho việc giữ gìn tri an trong các tỉnh mạn đông sông Cái (tức sông Hồng) ».
Trong một tài liệu song song - truyền đơn do các chí sĩ Nghệ Tĩnh tung ra năm 1871 - người ta đọc thấy những lời tố cáo thừa sai như sau: «Từ bên ngoài, từ bên trong, bọn chúng (người Tây) gặm dần đất nước ta như tằm ăn dâu: nhà thờ mọc lên, dân chúng theo đạo, rõ ràng là nguy cơ trước mắt đó, đất nước ta đang bị xói mòn dần, ngay dưới bàn chân».
Cho tới ngày chết, 25.4.1892, giám mục Puyginiê chẳng bỏ qua bữa nào mà không hoạt động để cũng cố thêm vị trí nước Pháp tại xứ sở con nuôi này của ông. Người ta đang giữ được hàng chục điệp văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ thuộc địa. Và một phần nhờ các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể dập tan cuộc kháng chiến vũ trang của Người Việt Nam. Cuộc kháng cự hùng mạnh nhất đã xảy ra tại Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng được biền thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ, có thành, có đường hầm và hệ thống giao thông hào được bố trí rất thông minh. Tinh thần các chiến sĩ lúc đó rất cao. Nhằm «bình định» cứ điểm này, quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới quyền chỉ huy của trung tá Métxanhgiê (Metzinger). Cuộc tấn công ngày 16-12-1886 bị đẩy lùi. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có một sĩ quan trẻ, đại úy Giôphơrơ (Joffre sau này là thống chế Pháp trong chiến tranh thế giớ thứ nhất) nghĩ tới việc nhờ linh mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm và là Phó vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của giám mục Puyginiê, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân, Ba Đình đã thất thủ.

Các bà sơ báo cáo tin tức cho Pháp

Thật đau lòng cho một sử gia người Việt Nam công giáo khi phải nhắc lại những năm tháng ấy, thấy quân đội Pháp hành quân «bình định» chỉ được nghĩ ngơi trong các làng giáo: «Sau một cuộc hành quân mệt rã rời, quân lính của ta kiệt sức vì thiếu ăn, mà tiến vào một làng người lương thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng nếu gặp được làng người công giáo thì trẻ con chạy ra đóng đường và kêu ầm lên: Công giáo, công giáo đây! để quân chúng ta biết rằng chẳng có gì phải sợ ở đó, rồi dân làng đem chuối, trứng, gà ra chiêu đãi. Sự khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng ghi nhớ nhỉ? ». Những giòng trên đây chẳng phải do một bàn tay Cộng sản ghi lại, mà là do một tu sĩ dòng Tên đã say sưa thích thú về thái độ của người có đạo kitô lúc đó nghĩ rằng bổn phận của họ là phải hợp tác (với Pháp) vì mình là người công giáo (F. Rouvier, Loin du Pays, Paris 1896, tr/ 103-104).
Rigault De Nouilly
Phan Bội Châu
Cụ Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước, đã gửi cho họ những lời tâm huyết trong cuốn Việt Nam vong quốc sử, xuất bản năm 1905 như sau: «Có một hạng người mà tổ tiên là Việt Nam, nhưng đã cùng vợ con trở thành tín đồ kitô. Này, hãy nghe tôi nói. Chúng ta đều sinh ra trong cùng một xứ sở, chúng ta cùng sống với nhau dưới gầm trời, cùng ăn một thứ cơm gạo... Bởi thế, chúng ta phải liên kết với nhau hầu bảo vệ giống nòi, hơn là quì gối trước mặt quân thù. Sau cái chết của các ngươi, có thể các người lên thiên đường, nhưng bây giờ đây, các ngươi phải cầu nguyện cho hòa bình; cuộc sống của các ngươi tại ngục tù trần gian này thật là khốn khổ, tại sao các người lại dững dưng được? Quả thực, mặc dầu là kitô hữu, các người thảy là người dân Việt Nam. Các người đừng đi theo quân Pháp, đừng giúp chúng nó làm hại Tổ quốc chúng ta. Như vậy, các người sẽ lập được công đức trung thành với Chúa, môn đồ của Đấng Kitô Cứu Thế, đồng thời thật là đồng bào Việt Nam».

7. GIÁO HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA.
Từ ngày xâm chiếm Viêt Nam cho tới năm 1945, quân Pháp hằng phải đương đầu với các cuộc nổi dậy liên tục, lúc thì rộng lớn, khi thì giới hạn hơn. Không những nhân dân Việt Nam vì hãnh diện với nền băn hóa 4000 năm, không thể chịu cái nhục bị đô hộ, nhưng cũng vì thế chế độ cai trị thuộc địa đã giam hãm họ mãi trong sự nghèo khổ, dốt nát và bất công. Với những ly rượu, ly thuốc phiện, bọn thực dân bắt quần chúng say sưa quân cả bản thân và nghiện ngập đến trở thành đần độn như súc vật. Cứ đọc chẳng hạn những bản báo cáo mà phủ toàn quyền gửi về cho Bộ thuộc địa Pháp, sẽ thấy Báo cáo ngày 29-1-1908 viết: «Việc bán rượu trong cùng một thời kỳ (tháng 10-1907) đã vượt con số 700 ngàn lít, nhưng giảm mất 60 ngàn lít so với tháng trước... Còn thuốc phiện trái lại mức bán có gia tăng luôn. Tháng 10, đã bán được gần 1.800 kí thuốc phiện, nghĩa là gần gấp đôi số lượng đã bán cùng kỳ năm 1906».
Báo cáo ngày 19-2-1908 ghi: «Việc tiêu thụ rượu tháng 11-1907 đã lên tới 744.798 lít, vượt tháng 10 được 40.957 lít, nhưng thấp hơn tháng 11 năm 1906, vì năm ấy đã bán tất cả 923.245 lít rượu. Còn việc bán thuốc phiện vẫn gia tăng một cách rất đáng phấn khởi».
Vài ví dụ đó chỉ rõ công trình văn minh «Thiên Chúa Giáo» người Pháp thực hiện tại Việt Nam đứng ở mức đạo lý cao chừng nào. Tuy thế, trong thời kỳ này, công giáo vẫn đang phồn thịnh và ngày càn một phát triễn hơn. Có vài người lãnh đạo công giáo Việt Nam còn dám gọi thời thuộc địa đó là «thời vàng son của Giáo Hội tại Việt Nam».
Việc phát triển công giáo trước hết là về mặc kinh tế. Nhằm tỏ lòng tri ân đối với các hoạt động thừa sai ngày 28-8-1962, tức chỉ 2 năm sau khi chiếm được 3 tỉnh ở Nam kỳ, toàn quyền thực dân đã ra nghị định dâng «nhưng không cho Nhà Chung mạn Tây Nam kỳ, hoàn toàn được chủ quyền về một sở đất tọa lạc tại Sài Gòn». Đàng khác, mặc dầu có luật tách biệt Nhà thờ khỏi Nhà nước được bỏ phiếu năm 1905 và áp dụng tại «mẫu quốc» rồi, luật đó vẫn không bao giờ được công bố và áp dụng tại thuộc địa. Nhiều vụ nhượng đất đai đã được thực hiện cho Nhà Chung, chẳng hạn những năm 1923, 1926, 1927, 1930, 1931, không nói tới các vụ hiến đất «cách riêng tư», một số quan người Pháp đã lấy đất công dâng cho Nhà chung, thể theo lòng đạo đức cá nhân của họ.

Nhà thờ lớn Hà-Nội

Nhà thờ Đức Bà Sài-Gòn
Năm 1939, tài sản của Nhà Chung thừa sai Pháp trị giá trên 5 triệu đồng, tức là trên 50 triệu quan tiền Pháp. Trị giá đó là chính thức, nhưng theo các luật gia thuộc địa Caratini và Gơranggiăng (Grandjean) thì thấp hơn giá trị thực tế và không bao gồm tất cả các tài sản của Giáo Hội, vì đã bỏ ra ngoài của của cải các xứ đạo và nhiều pháp nhân giáo hội khác vốn có quyền sở hữu. Tài sản các Nhà Dòng Đaminh Tây Ban Nha cũng rất quan trọng. Nói cho đúng thì một phần các tài sản của Dòng, nhất là đất đai và ruộng vườn thường là của trối, hoặc của dâng cúng từ phía giáo dân. Nhưng các Nhà Chung được liệt vào hạng địa chủ lớn nhất thời ấy.
Cũng có thể nhắc thêm một số đặc ân quan trọng, Nhờ một nghị định ngày 8-2-1868, giám mục Sài Gòn được miễn cước phí về toàn bộ thư tín chính thức gửi cho nhà cầm quyền và cho các thừa sai. Năm 1877, người ta cũng cho tòa giám mục Sài Gòn được miễn phí khi đánh điện tín theo nhu cầu công việc của Nhà Chung. Ngày 22-8-1867, một quyết định của Nhà nước thuộc địa ra lệnh cấp cho tòa giám mục Sài Gòn 4000 quan. Sau cùng, theo nghị định ngày 14-12-1868, «các phần tử giáo sĩ tại thuộc địa, khi đi dưỡng sức thì được Nhà nước trả cho 50% phí tổn trong 5 tháng nghỉ đầu». Năm 1872, chính quyền Nam kỳ ban cho Nhà chung Sài Gòn một khoản trợ cấp hàng năm là 170.000 tiền Pháp. Số ngày đã bị cắt từ năm 1882 theo sau việc khiếu nại của những người ngoài công giáo. Năm 1887, nhà nước Nam kỳ đã cấp cho các Nhà Chung ở Bắc và Trung Việt Nam số tiền 50.000 quan Pháp.
Nói cho đúng thì với các tài sản và đặc ân kể trên, Giáo hội đã lo mở mang một hệ thống trường tư thục khác nổi tiếng, tạo dựng các nhả thương (nơi đó các nữ tu người Tây lãnh lương tháng 75 đồng, còn các chị người bản xứ chỉ được 30 đồng, theo nghị định ra ngày 9-7-1921) và các trại chăm sóc bệnh cùi, cũng như thiết lập nhiều cơ sở từ thiện lớn.
Xét về dân số, thì người công giáo đã tăng gấp 3 lần trong vòng một thế kỷ (từ 600 ngàn vào thời đầu đô hộ lên tới một triệu 700.000 năm 1945). Nhưng giáo dân hầu hết là nông dân, thường thì khi theo đạo để được chở che khỏi bị các quan chức thối nát quấy nhiễu và đôi khi còn được đảm bảo chén cơm độ nhất.
Hồi đầu, Giáo hội tỏ ra rất dè dặt đối với Văn Thân. Năm 1887, toàn quyền Lanetxăng (Lanessan) chính thức đến thăm giám mục Hà Nội là đức cha Puyginiê. Sau đó Lanetxăng thuật lại rằng: «Bởi thấy đức cha cứ nói đi nói lại về vấn đề Văn Thân, tôi mới đặt ra cho đức cha câu hỏi: Đức cha nghĩ nước Pháp phải đối xử với họ thế nào? Đức cha trả lời dứt khoát ngắn gọn rằng: «Phải tiêu diệt bọ họ đi», vừa nói vừa đưa tay ra dấu, cho thấy rỏ thái độ dứt khoái của Đức Cha. Tôi mới hỏi: Tại sao thế? Đức Cha trả lời: Tại vì bọn Văn Thân rất co ảnh hưởng, họ có uy tín lớn và một khi được làm quan là thiên hạ kính trọng họ, vì vậy nhất thiết phải thanh toán bọn họ đi. Bao lâu còn Văn Thân, chúng ta sẽ phải lo lắng đủ thứ, bởi vì bọn họ quá yêu nước, không thể nào chấp nhận sự cai trị của chúng ta. Hơn nữa, chẳng bao giờ một người Văn Thân chịu theo đạo Kitô».
Mặc dầu ngành giáo dục Kitô giáo có phát triển, hạn trí thức người Việt nói chung vẫn không đón nhận đức tin Kitô giáo. Phần lớn họ cho rằng công giáo phải chịu trách nhiệm về việc đất nước mất độc lập (cứ đọc các tác phẩm lịch sử, hoặc tiểu thuyết lịch sử thì đủ rõ điều này). Một số người khác nghĩ rằng, mặc dầu Giáo hội có cơ cấu rất mạnh, nhưng vẫn hoàn toàn nằm bên ngoài nền văn hóa Việt Nam.
8. CHỦ NGHĨA PHONG KIẾN TRONG ĐẠO.
Phải nói rằng cá cố thừa sai, do màu da và chiếc áo chùng thâm của họ, họ đứng ở một vị trí rất cao trên chiếc than xã hội. Người ta phải cung kính họ ngang với các quan đầu tỉnh (gọi là công sứ tại hai miền Trung và Bắc). Và nhiều ông đã lợi dụng vị trí của họ như thế để cai quản theo kiểu bạo chúa. Một vài thí dụ. Cố Antôn đi qua một làng lương, trên người mang áo chùng thâm và áo các phép. Một số thiếu niên người lương thấy cố ăn mặc kỳ cục thì cười diễu, có vài trẻ dám chửi rủa cố. Trở về nhà tức giận, tập hợp giáo dân lại, ra lệnh cho họ đi ruồng qua làng lương kia, trừng phạt đích đáng mấy đứa có tội, nghĩa là đánh đập tất cả những người họ bắt gặp ngoài đường tung hoành trong làng ấy như đối với quân thù vậy. Các cụ bô lão trong làng lương bèn gửi khiếu nại lên huyện. Và thật ngỡ ngàng khi thấy quan huyện bắt họ phải mua lễ vật, theo phong tục Việt Nam mà đến sắp mình lạy trước mặt cố, xin tha thứ cho những gì đã xúc phạm cố. Quan huyện còn nói thêm: «Đó là bản án còn nhẹ đấy, bởi đây là lần đầu tiên dân tụi bay đã phạm lỗi như thế. Chớ quên rằng, nếu còn tái phạm, thì bô lão sẽ vào tù, còn phạm nhân thì sẽ bị tử hình».
Cố Giăng, nằm trong một cái cáng do 2 giáo dân khiêng tới 1 thành phố cách nhà 18 kilômét. Vừa ra khỏi xứ đạo, một trong hai thưa rằng mình bị bệnh, xin cố kiếm ai thay thế hộ. Cố bảo: «Cứ bắt được ai thì bắt!» Có một người đi qua, cố kêu: «ê anh kia, đến khiêng ta đi tỉnh!» Người kia lắc đầu: «Không, tôi không thể và tôi không muốn». - «Thằng xấc láo, mày không muốn hả? Thằng giặc!» Người kia vẫn không chịu khiêng: «Tôi là lý trưởng, tôi không thể khiêng được». Đứng trước sự khước từ dứt khoát như thế, ông cố xuống khỏi cáng, cầm gậy bổ tới đánh đập viên lý trưởng, miệng nguyền rủa: «Lý với không lý, liệu mà khiêng cáng cho tao. À, thằng giặc cộng sản! Mày sẽ biết tao tao! ».
Hôm đó, cố Tây đến nhà quan đầu tỉnh và tố cáo rằng làng lương bên cạnh xứ đạo của ông đang nổi loạn, mà chính tên lý trưởng cầm đầu. Qua ngày sau viên lý trưởng bị cách chức và bị tống vào ngục. Không hiểu cố Tây có tạ ơn Chúa cho mình chiến thắng tên ngoại đạo kia chăng, nhưng chắc cố phải rất thích thú thấy rằng phong trào chống giáo sĩ bên chính quốc Pháp chưa được du nhập sang các vùng thuộc địa.
Cả bên trong Giáo Hội cũng có phân biệt đối xử một cách ngang nhiên. Cố thừa sai tin chắc rằng nhờ ơn Chúa và nhờ vào da trắng của ông, ông phải lo bảo vệ danh dự của người da trắng và cách đặc quyền chính trị của người da trắng. Hàng giáo sĩ Việt Nam được đào tạo để luôn biết sống trong lệ thuộc. Cần ghi nhận rằng hồi 1630, sĩ số các thừa sai chỉ là 20% trong hàng giáo sĩ tại Việt Nam, nhưng họ chiếm giữ toàn bộ các chức vụ quan trọng: như giám mục, tổng quản, hạt trưởng, giám đốc chủng viện, bề trên hội Dòng, chánh xứ ở thành thị. Trong hầu hết các địa phận, linh mục người Việt không được ngồi cùng một bàn với ông cố Tây, càng không được ăn cơm chung với cố.
Giám mục Côxtanini (Costantini) đã viết về óc phong kiến trong đạo bên Trung Hoa thời đó thế này: Khi tôi đếnh Trung Hoa, tôi thấy cả nước chia ra 56 giáo điểm, mỗi điểm có một vùng đất rộng lớn và rất phân biệt với nhau. Tôi có ngay cảm giác là các giáo điều này chẳng khác nào những căn cứ biệt lập, trong đó các giáo sĩ người Hoa sống và làm việc như người phụ thuộc thôi. Cần nói thêm rằng hồi đó, tại nhiều Nhà chung, vẫn giữ phong tục dành cho thừa sai nước ngoài được ngồi ghế đầu. Người ta thấy có vị thừa sai trẻ măng vừa từ châu Âu tới, đã được ngồi trên cả một nhóm linh mục địa phương, trong đó có cả những người già dáng kính với bộ râu đã bạc trắng».
Cảm tưởng của vị khâm sai tòa thánh tại Trung Quốc trùng hợp với óc phân biệt chủng tộc tại Việt Nam, nhất là khi Việt Nam khác Trung Quốc ở chỗ là một thuộc địa trọn nghĩa, một «thuộc địa để khai thác» nói theo tử ngữ chính thức của nhà cầm quyền Pháp. Tại Bùi Chu, ngày lễ Thánh Đaminh, tất cả các linh mục người Việt, bất kể hạng tuổi nào, phải tới sụp lạy trước mặt các thừa sai, kể cả đối với mấy người còn trẻ măng, hoặc chỉ là thầy phó tế thôi, và hôn kính giày các thừa sai đó, để giúp mình nhớ lại lời thánh Phaolô: «Phúc đức thay bàn chân các nhà truyền giáo».
Cảnh phân biệt chủng tộc ấy còn nổi bật hơn nữa trong lãnh vực đặc ân mà Giáo Hội dành cho giáo dân người Pháp, như tại các thành phố hoặc tại nơi họ cư ngụ, phải dành cho họ những chỗ đầu trong nhà thờ, nơi đó không một người Việt nào được phép ngồi vào, kể cả những ngày có đông giáo dân dự lễ đến nơi hàng trăm người cứ phải đứng, Giáo dân người Việt là giáo dân hạng thứ. Người ta quen kể họ như những trẻ thiếu niên được sức mạnh và uy quyền Giáo hội bảo hộ cho.
Ngoại trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người công giáo thường được tập trung lại thánh làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khòi liên hệ với đồng bào, thúc đảy họ từ khước, tảy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chánh thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc cái tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Các sách của Vônte (Voltaire), Môngtekiơ (Montesquieu), khỏi nói tới Các Mác, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng latinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo dân thì không thể sờ tới).
9. TRONG TRẬN GIÓ XOÁY NHỮNG NĂM 30.
Phải sống xa rời cả đất nước mình, nhận mệnh lệnh chẳng phải từ Rôma mà từ phố Bác (Pari) và từ Manila (điểm phát xuất các thừa sai Tây Ban Nha), giáo sĩ cũng như giáo dân Việt Nam nói chung đều phải sống ngược với phong trào yêu nước của nhân dân.
Năm 1930, Nguyễn Thái Học, với đảng quốc gia tư sản là Việt Nam quốc dân đảng, quyết định phất cờ kêu gọi dân chúng nổi dậy làm một cuộc cách mạng vũ trang, thề nguyền «liều chết để cả thế giới biềt rằng tinh thần dân Việt là bất tử». Cuộc nổi dậy nổ ra tại Yên Bái (9-2-1930) và một số tỉnh lân cận đã giết chết một số sĩ quan Pháp, một vài tên thực dân và 1 linh mục. Cuộc đàn áp sau đó thật đẩm máu. Các lãnh tụ đảng bị bắt và xử tử. Những người tỏ thiện cảm bị kết án và đày sang Côn Đảo. Nhiều người bị dội bom chấy sạch.
Các Nhà chung công giáo phản ứng lại theo cách của mình. Họ tung ra luận điệu về nguy cơ cộng sản – dầu cuộc nổi dậy được chỉ huy bởi 1 đấng tư sản quốc gia – họ tìm mọi cách minh chứng trước dư luận quần chúng Pháp rằng: Giáo Hội là lực lượng duy nhất bảo đảm cho sự hiện diện của nước Pháp tại Việt Nam, cũng như vấn đầ an ninh, trật tự xã hội. Chẳng bọ Bề Trên thừa sai Pari tuyên bố: «Nhà nước vốn phải gánh những trách nhiệm nặng nề và cảm thấy sự nặng nề đó, nên đã hiểu được vai trò bảo vệ trật tự nhờ có Nhà chung là quan trọng chừng nào… Sự rối ren khiến Nhà nước phải lo lắng từ 2 năm nay là phải lẽ đấy… nhưng nó chẳng dính dáng gì tới khối dân công giáo. Nhờ lớp dân chúng nên không cách nào cộng sản xâm nhập vào được. Vì thế, từ nhiều tháng nay, các linh mục bạn bè chỉ cho tôi thấy chỗ này chỗ kia có thài độ mới mẻ tại địa bàn người lương, giá đây họ còn thù ghét công giáo, nay lại nhìn công giáo như là thành trì độc nhất có thể ngăn chặn sự tấn công của những kiểu tàn bạo tân thời».
Những «địa bàn người lương» mà cố Tây nói đây. là thành phần tư sản thành thị và các quan lại vốn lo sợ, nều đế quốc thuộc địa sụp đổ thì chúng sẽ mất cả nồi cơm và các đặc quyền đặc lợi của mình. Muốn phụng sự Chúa và nước Pháp tốt hơn, có những nhà thừa sai và giáo dân đã tiếp tay khá mạnh mẽ cho bọn cảnh sát trong việc «bình định xứ sở».
Cuộc khởi nghĩa thất bại ở Yên Bái không làm dân chúng chị bỏ khí giới, mặc dầu hết sức đói khổ do khủng hoảng kinh tế thế giới và do sự bóc lột triệt để của chế độ thuộc địa. Tại các thành phố lớn, nổi lên những cuộc biểu tình quan trọng: 42 cuộc từ ngày 1 tháng 5 năm 1930 đến đầu tháng năm năm 1931. Tại nông thôn, dân chúng đói khổ kêu đòi: «Trả đất cho người cày» và đồng thời tổ chức xuống đường đấu tranh. Ngày 12 tháng 9 năm 1931, gần 20.000 nông dân biểu tình tại thành phố Vinh. Chính quyền gọi máy bay tới ném bom và kéo quân lính tới bắn xả và dân chúng. Mặc dầu bị đàn áp tàn bạo, cuộc nổi dậy vẫn cứ tiếp tục. Nói chung dân công giáo, nghe theo lệnh các cố, đều đứng ngoài cuộc. Một số thừa sai không ngần ngại cung cấp tình báo cho cảnh sát và đem nộp cho chúng một số linh mục yêu nước. Thái độ và những cách hành động như thế gây bâng khuâng cho chính Rôma. Vì từ thế chiến thứ nhất, Vatican, lo âu trước cung cách dấn thân thực dân của các thừa sai, đã nhiều lần đưa ra lời cảnh báo: «Thật tai hại biết bao khi thấy các thừa sai quên mất địa vị mình, đến nổi đặt những điều lo lắng bản thân và quê hương trần gian của mình lên trên Nước trời và chứng tỏ một sự nhiệt tình thật không khôn ngoan lo cho việt bành tướng sức mạnh của xứ sở, sự chiếu tỏa lan rộng danh dự của quê hương lên trên tất cả. Các kiểu cách như thế chỉ là một thứ dịch tả phá hoại công việc tông đồ mà thôi» (Maximum Illud, Tông Huấn «Việc quan trọng nhất» ra ngày 30-11-1919).
Và đức Piô trong Thông điệp «Các sự việc Giáo hội», công bố năm 1925 đã nói: «Hãy đặt giả thuyết rằng, người dân xứ thuộc địa ngày nào đó sẽ đạt tới một trình độ văn minh mà mức trưởng thành chính trị muốn làm những người chủ đất nước họ, nên sẽ tìm cách trục xuất hết quân lính và thừa si của nước mà họ từng bị đô hộ…». Đêm đặt lính tráng chung một hàng với thừa sai, quả là chuyện đau lòng đối với một Giáo hoàng mà tinh thần tin mừng và cải cách đã khiến nhiều nhà thừa sai phải bực bội. Giám mục Senxo Coxtantini (Celso Costantini) đặt sứ tòa thánh được phái sang Trung Quốc, đã gặp phải sự chống đối khắp nôi khi ông ta cho các cố thừa sai biết rằng: đức Piô XI dự tính phong một số giám mục người Trung Hoa và giao cho họ cai quản một số địa phận. Nhiều người cho rằng điều đó khác gì một sự phản bội máu và mồ hôi cố thừa sai đã đổ ra suốt 3 thế kỷ nay! Kẻ khác lại cho rằng làm như thế là điên khùng.
Trước đó, linh mục Lebơ (Lebbes) một thừa sai người Bỉ đã bị vạ treo chén bởi giám mục của ông và ông đòi Giáo hội Trung Hoa lại cho người Trung Hoa. Người ta biết rằng điều đó cũng xảy ra tại Việt Nam. Mặc dầu giám mục Mac-cu (Maceou) địa phận Phát Diệm, một người khá cởi mở, đã đồng ý nhận cho một giám mục phó người Việt ở với mình, nhưng phần đông các cố thừa sai lại chống. Phải rất nhiều kiên nhẫn và sau nhiều cuộc thương lượng, Rôma mới có thể phong vị giám mục người Việt Nam đầu tiên năm 1933, vị thứ hai năm 1936 và vị thứ 3 năm 1939. Cũng cần thêm rằng, chính quyền Pháp chống lại việc bổ nhiệm các giám người Việt. Thật ra, người ta chỉ trao cho các giám mục bản xứ những địa phận nông thôn, 14 địa khác vẫn ở trong tay các giám mục thừa sai, vốn chỉ cò gần 20% sĩ số trong hàng giáo sĩ ở Việt Nam.
Các cuộc bổ nhiệm kể trên gây sự tin tưởng cho hàng giáo sĩ và giáo dân Việt Nam và đã làm nảy sinh một phong trào yêu nước trong giáo giới. Tại các địa phận còn do các giám mục Pháp hoặc Tây Ban Nha cai trị, một số giam mục đã can đảm gửi sang Rôma thư thỉnh nguyện xin tòa thánh đem Giáo-hội Việt Nam trao lại cho người Việt Nam. Bị kết án là nổi loạn, một vài vị đó đã bị phạt vạ treo chén, nhiều vị khác bị đày tới những xứ đạo nhỏ bé hẻo lánh và không có ảnh hưởng gì.
Cùng với sự thất bại nước Pháp năm 1939 và qua cuộc xâm lăng của quân phiệt Nhật từ năm 1941, người công giáo Việt Nam nhận ra, cũng như phần lớn đồng bào mình, rằng tòa nhà thuộc địa sắp sụp đổ tới nơi. Người ta bắt đầu dám nói tới lòng yêu nước, nhưng cách kín đáo tại các chủng viện. Một vài linh mục và giáo dân tỏ ra thiện cảm thông đồng với các phong trào cách mạng trong bưng. Tại Ninh Bình, một nhóm thanh niên công giáo đi vào rừng khán chiến, đánh Pháp đuổi Nhật.
10. THẬP GIÁ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG.
Ngoại trừ các cố thừa sai, chẳng một ai lấy làm lạ khi thấy hàng giáo sĩ và giáo dân các xứ đạo đã sắp hàng đứng sau lưng cụ Hồ Chí Minh từ ngày Cách mạng tháng 8 và ngày tuyên bố độc lập mồng 2 tháng 9 năm 1945. Dù được ách đô hộ của hàng giáo sĩ nước ngoài vượt qua trên đầu vị Khâm Mạng Tòa thánh người Pháp, giám mục Nguyễn Bá Tòng đã nhân danh các giám mục và dân công giáo Việt Nam, gửi một Sứ điệp cho Đức giáo hoàng Piô XII ngày 23 tháng 9 năm 1945, trong đó có đoạn nói:
«Nhân dân Việt Nam yêu quí của chúng con muốn nhờ trung gian 4 vị giám mục của hô, dâng lên Đức Thánh Cha lòng tôn kính sâu xa và xin Đức Thánh Cha ban phúc lành, tỏ lòng rộng lượng và cầu nguyện cho nền độc lập mà nhân dân chúng con mới dành lại được vá quyết tâm bảo vệ với mọi giá. Chính phủ chúng con cũng đã ra một nghị quyết tốt đẹp và nhân ái, chọn ngày quốc khánh cho cả nước trùng với lễ kính các tử đạo Việt Nam, mà tòa thánh mới cho phép mừng vào chủ nhật đầu tháng 9. Toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt tôn giáo, mừng lễ này với một tinh thần yêu nước chân thành và nồng nhiệt chưa từng có với những cuộc biểu tình to lớn và nao nức, tỏ ta cho thấy toàn dân cùng quyết tâm bảo vệ chính quyền cho mình, dầu có phải đổ máu».
«Đứng trước những biến cố hết sức xúc động như thế này và bản thân chúng con cảm động đến tận trong lòng, vì ý thức bổn phận thiêng liêng đối với Tổ quốc chúng con, các giám mục người Việt Nam chúng con nài xin Đức Thánh Cha, tòa thánh Rôma, các đức Hồng Y, các đức Tổng giám mục, Giám mục và toàn thể anh chị em công giáo khắp thế giới và đặt biệt là công giáo Pháp, hãy hổ trợ cho việc quyết định của Tổ quốc yêu quí chúng con».
Bức thư chân tình và cảm động đó có ẩn chứa một mối lo âu: các Giám mục Việt Nam sợ rằng Rôma với Đức giáo hoàng ủng hộ việc quân Pháp tái chiếm Đông dương. Muốn hiểu đúng nội dung của bức thư này, cần nhắt lại các biến cố quyết định với lịch sử Việt Nam năm 1945.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tước vũ khí quân Pháp, hầu như chẳng gặp một chống cự nào. Vua Bảo Đại xóa bỏ các hiệp ước bất công đã ký với Pháp, tuyên bố «nền độc lập Việt Nam trong lòng Đại Á» dưới sự hướng dẫn của Nhật bản. Thực ra đó là một cuộc áp đảo nền đô hộ của Nhật một cách trá hình. Cùng thời đó, mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) phát xuất từ chiến khu Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh gia tăng du kích đánh lại quân Nhật. Lợi dụng sự đầu hàng của đế quốc Hừng Đông, cụ Hồ Chí Minh tung ra mạnh mẽ lời hiệu triệu toàn dân đứng lên giải phóng đất nước. Ngày 17 tháng 8, một cuộc mít tinh đã biến thành một cuộc xuống đường Giài phóng.
Ngày 19 tháng 8, cuộc cách mạng đã dành được thắng lợi mà không phải đổ máu. Khắp nơi, quần chúng nhân dân tuông ra đường hoan hô nền độc lập thật sự đã đến. Ngày 23 tháng 8, Bảo Đại thoái vị, đem bảo kiếm và hoàng ấn nộp cho chính phủ Cách mạng Lâm thời, Bảo Đại đã tuyên bố: «thà làm dân thường một nước tự do hơn được làm vua một nước bị trị».
Ngày 2 tháng 9, tại quảng trường Ba Đình, cụ Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập nước nhà trước đông đảo dân chúng, cả nước đã vui mừng «Nhân dân ta đã đập tan gông xiềng gần một thế kỷ của thực dân Pháp, để đem lại cho Tổ quốc Việt Nam chúng ta nền độc lập».
Cụ không dấu diếm những khó khăn. Khắp nơi còn nguy cơ. Trước hết quân đồng minh đã giao cho lính Trung quốc phía bắc vĩ tuyến 16 và cho lính Anh phía nam, để giải giáp quân Nhật. 200 ngàn quân của Tưởng Giới Thạch làm áp lực, đòi thiết lập tại Hà Nội một chính phủ thân Trung Hoa. Phía nam, lực lượng quân Anh lại giúp quân đội Pháp của tướng Lơ-kole (Leclerec) đổ bộ «tái chiếm». Đơ Gôn gặp đô đốc Thiery Đắgiăng-liơ (Thierry de Argenlieu), một tu sĩ dòng Camêlô, làm cho Cao ủy Pháp tại Đông Dướng, nghĩa là làm Toàn quyền. Có lẽ ông hy vọng rằng vị linh mục này sẽ thành công trong việc qui tụ dân công giáo lại đi theo ủng hộ mình, như hồi chinh lần đầu, cách đó một thế kỷ.
Ngày 2 tháng 9, trong cuộc mít tinh của đông đảo dân chúng mừng độc lập, có những người Pháp núp tại một nhà thờ Sài Gòn chĩa súng vào đám đông làm chết 47 người và bị thương. Trong đem 22 rạng ngày 23 tháng ấy, quân lính Pháp nổ súng tấn công và bắt đầu cuộc tái chiếm Nam bộ.
Cụ Hồ Chí Minh nêu khẩu lệnh: Hoặc là chết, Quân đội, nhân dân Nam bộ kháng cự dũng cảm với những cây súng xưa, gươm giáo và tầm vong vạt nhọn. Từ khắp nơi đổ về nào người nào của, tiếp viện cho kháng chiến.
Chính phủ cách mạng vừa chống cự lại cuộc tiến công của Pháp, vừa phải đương đầu với những khó khăn về chính trị và kinh tế. Quân lính Trung Hoa đến gọi là để giải giáp người Nhật, nhưng không che đậy nổi tham vọng thực dân của chúng. Chính phủ chỉ có trong tay vỏn vẹn một triệu đồng, để lo toan mọi chuyện (ngân hàng Đông dương lúc đó vẫn nằm trong tay quân Pháp), phải tổ chức lại tất cả, cái gì cũng chỉ bắt đầu, với những cán bộ đầy nhiệt huyết nhưng chưa kinh nghiệm, có những chương trình cải cách táo bạo nhưng dân chúng lại chưa hiểu ra.
Nhằm ngăn chận sự tê liệt kinh tế, chính phủ tổ chức tại nguyên quyên Tuần lễ vàng nhân dân phấn khởi hưởng ứng. Giám mục Hồ ngọc Cẩn địa phận Bùi Chu, đem cả giây chuyền vàng thánh giá dân cùng vào công quỹ.
Tại miền Nam, quân Pháp tăng cường các cuộc hành quân, lùng bắt các nhà yêu nước tại thành thị, ruồng bố các vùng nông thôn. Chúng ra sức bẻ gãy tinh thần kháng chiến của dân chúng.
Một lần nữa, 4 vị giám mục người Việt Nam lại đưa ra lời kêu gọi người Kitô giáo trên khắp thế giới và đặt biệt là nhân dân Anh (mà quân đội mang trách nhiệm để cho quân lính Pháp đổ bộ lên mạn nam vĩ tuyến 16) và Hoa kỳ là nước đã trở thành cường quốc hàng đầu thế giới sau thế chiến, rằng: Đất nước chúng tôi hiện đang bị xâm lăng, chúng tôi quyết bảo vệ nền độc lập, chính nghĩa công bằng và tự do. Còn dân nước chỉ vì đầy lòng yêu nước tinh túy mà đang chịu tràn sát trên các chiến trường, lẽ ra họ phải được đưa ra cùng nhau xây dựng đất nước mình.
«Trong lúc hòa bình đã được vãn hồi trên toàn thế giới lẽ ra chúng tôi phải được cùng bao dân tộc khác hàn gắn các đổ nát do chiến tranh tàn gây ra, thay vì tiếp tục dồn thêm đổ nát. Chúng tôi phải chịu ảnh hưởng không sao tránh khỏi của cuộc thế chiến vừa qua, đã tàn phá và xáo trộn tất cả. Chúng tôi đã phải chịu một nạn nói khủng khiếp làm chết đi một phần đồng bào của một nạn đói mới có thề còn khủng khiếp hơn nạn trước. »
«Hỡi anh chị em công giáo thế giới, hãy đến trợ giúp cho các miền giáo phồn thịnh đức tin của Việt Nam, hãy đến viện trợ cho Tồ quốc thân yêu của chúng tôi đã từng cống hiến cho anh chị em 90.000 vị nhân chứng đạo thánh và còn hứa hẹn nhiều mùa gặt to lớn hơn. Hỡi nhân dân các nước Anh và nước Mỹ, hã cho chúng tôi sự can thiệp có ích lợi, khiến chúng tôi thoát khỏi cảnh rùng rợn của chiến tranh, trong khi cả thế giới đã được hưỡng thái bình..!!.. »
Lời kêu gọi đó đã thành tiếng vang trong tờ Thông tin tại Bơruygiơ (Bruges, nướic Bỉ) tố cáo nước Pháp tái diễn một cuộc chiến xâm lăng, bất chấp các quyền lợi của nhân dân Việt Nam và việc làm tàn ác đó lại được thực hiện dưới sự điểu khiển của một linh mục Their d’ Acgiăngliơ.
«Điều này làm cho người ta lấy làm tiếc rằng ?những linh mục tu sĩ – chẳng ai lại không biết lý lịch của đô đốc Thiery d’ Acgiănglơi – lại dám nhận, ?dẫu là với ý ngay lành đi nữa, trách nhiệm của cuộc chi ến tranh xâm lăng Chính sách của đô đốc đã làm cho người ta tin theo luận điệu cho rằng linh mục và thừa sai công giáo là những tay chân công cụ củ chủ nghĩa đế quốc phương Tây».
Tại Việt Nam, như đã kể trong chương sách này, chẳng phải người ta có luận điệu, mà đây là sự thật. Hơn nữa, mặc dầu 4 giám mục người Việt Nam đã lặp lại lời kêu gọi ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc, 14 giám mục thừa sai đều giữ im lặng. Phải chăng họ đồng tình với cuộc chiền tái xâm lược của Pháp? Phải chăng họ không chấp nhận cho người dân Việt công giáo được tỏ tình yêu nước của mình?
Đã hẳn, trong những tháng sau Cách mạng tháng 8, một vài số thừa sai đã có những điều cay đắng với những giáo dân không ngần ngại tốc giác hành động thực dân và phân việt chủng tộc của các ông.
Trong nhiều địa phận, giáo sĩ Việt Nam nói to lên yêu sách của họ rất chánh đáng, nhưng bị trù dập mãi từ lâu năm trước. Quả thế, thật là điều kỳ cục, trong một nước độc lập và trong một Giáo hội có tới 80% giáo sĩ đã là người bản quốc, thế mà linh mục cũng như giáo dân cứ bị một nhúm người phương Tây cai quản mãi. Nhớ lại đức Piô đã từng kêu gọi các thừa sai chuyển giao chỗ mình cho giáo sĩ bản xứ, trả Giáo hội Việt Nam lại cho người Việt Nam. Tại các địa phận Hà Nội, Hải phòng, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Thái Bình, hàng giáo sĩ gây áp lực để các giám mục thừa sai đặt những Linh mục tổng quản người Việt và giáo xứ đạo thành thị cho các linh mục bản xứ coi sóc thế các cố thừa sai.
Ngày 10.10.1945 tại Thái Bình 20.000 giáo dân kéo tới hoan hô hội đồng mục vụ địa phận gồm nguyên các linh mục người Việt, chỉ trừ giám mục. Nhiều khẩu hiệu được kết băng phất phới trước gió, như «hoan hô Đức Giáo Hoàng. Giáo hội Việt Nam hoàn lại cho người Việt Nước Việt Nam độc lập muôn năm». Dòng người đông như nước lũ diễn hành qua trước tòa giám mục, có hội đồng mục vụ mới bênh cạnh, xuất hiện trước ban công và giơ tay ban phép lành cho dân chúng. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ra một thư chung bắt các linh mục đọc trong các lễ chủa nhựt bãi bỏ chức tổng quản và hội đồng mục vụ, vịn cớ rằng giám mục đã làm chuyện đó vì bị ép buộc. Các linh mục quản xứ đã không chịu đọc thư chung đó cho giáo dân nghe.
Các linh mục linh mục Tổng quàn được đặt lên trong tất cả các địa phận, khối quần chúng giáo dân tin tưỡng vào lòng yêu nước của mình, hăng hái tham gia cuộc kháng chiến vệ quốc và xây dựng một nước Việt Nam độc lập.
Như vậy, cùng các giám mục và linh mục đứng đầu người công giáo Việt Nam đã muốn xóa đi hình ảnh một giáo hội hợp tác với quân xâm lược, một giáo hội chỉ làm công cụ cho nước Pháp, một giáo hội đã từng sống bên lề của một dân tộc đang chiến đấu cho chủ quyền và sự tự do của mình.
Một trang sử vừa được lật sang. Song tiếc thay chẳng được bao lâu.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét