Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Alan Phan - Tội Ác của Tư Bản

Alan Phan
Theo blog Góc nhìn Alan

Trước hết, đây hẳn là một đề tài khá quen thuộc với đa số dân Việt Nam; sau gần 70 năm trường kỳ huyên thuyên về những tội ác “đất không dung, trời không tha” của bọn giẫy chết. Tuy nhiên, trước khi đào sâu về các tội ác này, hãy xét lại cho kỹ những huyền thoại và thực tại.
Huyền thoại
Danh từ tư bản thường đi liền với thực dân và hình ảnh đầu tiên khi nói về tội ác là sự kiện những ông bà chủ da trắng từ Âu Châu qua xâm chiếm các nước nghèo đói lạc hậu ở Á, Phi… để thu nhặt khoáng sản tài nguyên đem về cho mẫu quốc, cũng như để bóc lột sức lao động của dân địa phương không khác gì chế độ nô lệ thời phong kiến. Khi gặp bất cứ sự chống đối nào, họ sẵn sàng đem quân đội công an ra đàn áp, giết hại… và sau đó, dùng vũ khí mềm như tôn giáo, văn hoá…để xoa dịu, bóp nặn tư tưởng.
Thành công nhất là đế chế Anh nơi mặt trời không bao giờ lặn; và tham tàn nhất là các anh chị Pháp, cũng tạo được nhiều khối thuộc địa khắp thế giới. Dù nhỏ hơn nhưng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ý Đại Lợi… cũng kiếm được khá nhiều tài sản và chiến lợi phẩm. Nhật và Mỹ cũng tham gia cuộc chơi, nhưng đến muộn nên không tạo nhiều tiếng vang.
Hình ảnh này khá chính xác cho đến khoảng 1945, sau Thế Chiến thứ hai. Cuộc diện thế giới thay đổi mạnh mẽ thời đó, bắt buộc các quyền lực tư bàn phải đổi thay.
Thực tại
Khoảng 60 năm trở lại đây, phải nói những tội ác thiêu huỷ đời sống bình nhật của người dân thường xuất phát từ các lãnh tụ cùng mầu da, và bọn trắng đã chùi sạch tay chân dơ bẩn.
Phổ thông nhất là các cuộc thảm sát dựa trên khác biệt về triết lý chính trị. Sách vở Trung Quốc đầy dẫy những cuộc thảm sát dân vô tội từ phát xít Nhật hay các cường quốc da trắng. Một thống kê lịch sử ghi nhận con số hơn 1 triệu nạn nhân dân sự của bàn tay xâm lược Nhật. Tuy nhiên, không người Tàu nào đả động đến con số 60 triệu người dân bị Mao thanh trừng. Hay cuộc nội chiến giữa phe Quốc Dân Đảng và Cộng Sản đã khiến hơn 8 triệu người thiệt mạng. Chỉ riêng anh độc tài tí hon Pol Pot, theo gương Mao, giết hơn 1/3 dân số của xứ Kampuchia.
Hiện nay, Bắc Triều Tiên vẫn coi chuyện tử hình là án nhẹ…chỉ cần đóng phim khiêu dâm hay không hát bài ca tụng cha con ông Kim là đủ tội để ra pháp trường. Các nước Zimbabwe, Somalia, Rwanda, Central African Republic, Congo... là nhũng ví dụ não lòng khác cho số phận con người sinh nhầm chỗ.
Ngoài ra, phải nói thêm là mầu da của các tay tư bản đã không còn thuần trắng. Các tỷ phú Á Rập và Nhật Bản, các đại gia mới nổi của Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ La Tinh… đang sánh vai cạnh tranh với giới tư bản Âu, Mỹ, Úc… về quyền lực và phần bánh ngọt.
Chiến tranh uỷ thác
Một cuốn sách tôi đọc cách đây 10 năm (quên mất tên) mô tả về âm mưu của các nhà tài phiệt Do Thái tái cấu trúc lại bàn cờ quyền lợi của thế giới sau khi trật tự cũ bị lung lay. (Nhóm này sau hoạt động chính thức dưới danh nghĩa Trilateral Commission). Dù rất chi tiết và thuyết phục, tài liệu được xếp hạng như tiểu thuyết vì khó ai có thể tìm ra chứng cớ. Theo sách, các lãnh tụ và tỷ phú của Âu Mỹ nhận thấy những áp đặt bằng vũ lực và kềm kẹp khối dân thuộc địa không những tốn kém, thiếu hiệu quả…mà còn có thể gây những phản ứng xã hội và chính trị tổn hại đến mục tiêu sau cùng: sự thâu tóm tài nguyên và tiền bạc của các giống dân bị trị. Họ sáng tạo ra một chiến lược mới: chiến tranh uỷ thác (proxy wars).
Cũng tương tự như “outsourcing” ngày nay: hãy để bọn lãnh đạo địa phương hưởng một phần quyền lợi nhỏ. Bù lại, chúng sẽ cai quản và thay thế mình trong việc tận thu lợi nhuận. Tay chân và tăm tiếng các nhà tài phiệt sẽ không bị ảnh hưởng xấu; họ có thể nằm dài hưởng thụ những trái ngọt từ các thiên đường lớn nhỏ mà họ đã xây dựng với đủ loại đồ chơi cũng như hệ thống an ninh.
Hơn nữa, những số tiền hay tài sản mà các đàn em địa phương thâu tóm rồi cũng “châu về hiệp phố”. Nhờ một hệ thống pháp trị dân chủ, tự do và minh bạch, tiền từ các nơi vẫn liên tục chạy về Âu Mỹ Úc để tìm nơi trú ẩn an toàn.
Sự chuyển giao tội ác cho các tay chân địa phương là một bước đi vô cùng thông minh mà tôi tin rằng Tôn Tử cũng phải vuốt râu khen bọn hậu thế.
Những tội ác thực sự
Có cả triệu sách vở, hồ sơ tham khảo, tài liệu nghiên cứu… về những tác hại của hệ thống tư bản gây nên trên đủ mọi lĩnh vực văn hoá, chính trị, xã hội, kinh tế của hầu như tất cả quốc gia. Bạn nào ưa thích đề tài này có thể bỏ ra hơn chục năm mà vẫn chưa nắm được phần ngọn. Bài này chỉ là một gợi ý về tư duy tổng thể, một góc nhìn nhỏ nhoi của một vấn đề thực ra quá lớn, bao trùm mọi vận hành của chúng ta. Tôi chỉ xin các bạn lưu tâm đến vài “tội ác” chính mà giới tài phiệt đã điều khiển, xây dựng và phải chịu trách nhiệm.
Văn Hoá
Dù khó có thể định lượng và hiện gây ra nhiều tranh cãi, ảnh hưởng lớn nhất của triết lý tư bản mới qua “proxy wars” cũng như “toàn cầu hoá – globalization” là sự phát triển đại trà của một nền văn hoá dựa trên tham vọng và quyền lợi cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chụp giựt và thu tóm, không đếm xỉa gì đến những ích lợi hay nghĩa vụ công cộng. Văn hoá tạo nên những con kiến hùng hổ, chăm chú vào sự nghiệp, đồng tiền và hưởng thụ instant- ngay lập tức. Lớp người thuộc giới giàu có, khôn ngoan… càng ngày càng trở nên vô cảm và xây khắp nơi những bức tường cách ly để ngăn ngừa bệnh nghèo và người nghèo xâm nhập. Trên thể chế quyền lực, cụm từ “ái quốc” vẫn còn hấp dẫn, nhưng quan trọng hơn trong cán cân tổng thể, lợi nhuận của các công ty đa quốc là tối ưu tiên.
Ngày xưa, học thuyết xã hội của Mác Lê cố dành ảnh hưởng với chiêu bài “quốc tế cộng đồng”, nhưng sau mấy thập kỷ thử nghiệm tại các nước nhỏ, rồi Đông Âu và Trung Quốc, bộ máy chánh quyền bị lộ chân tướng bịp bợm và lừa đảo. Ngày nay, các nước cựu Cộng Sản như Liên Sô, Trung Quốc lại là các nước theo thuyết tư bản hăng hái nhất, với tất cả tính chất độc tài, man rợ, sơ khai.
Trong khi đó, những nước khai sáng chế độ tư bản đang gặp nhiều chống đối trong nội bộ và theo đúng đường lối dân chủ pháp trị, nhiều xã hội đã phải điều chỉnh lần hồi, nhanh nhất là Bắc Âu và chậm chạp hơn là Bắc Mỹ.
Môi Trường
Từ nền văn hóa này, chúng ta không lạ khi thấy một thiểu số nhân loại đang cố tình che giấu và quên đi những tác hại về môi trường sinh sống chung của thế giới. Nạn biến đổi khí hậu với sự rã băng nhanh chóng của vùng Nam Bắc Cực, sự tàn phá môi trường xanh còn sót lại của những khu rừng từ Brasil đến ASEAN, sự ô nhiễm tồi tệ của các giòng sông bên Trung Quốc, sự việc “mưa át xít’ tràn ngập Âu Mỹ cũng như Á Phi… là một đe doạ thường trực mà những người dân nghèo ngu dốt vẫn chưa suy ra.
Tất cả phát sinh từ căn tính tham lam của con người không bị xã hội cộng đồng kiềm chế, mà còn được khuyến khích hàng ngày hàng giờ qua các bộ máy tuyên truyền. Các mẩu chuyện tào lao về đại gia, về siêu sao chân dài, về “cướp, hiếp, giết” được đại đa số nhân loại từ dân trung lưu Âu Mỹ đến các bạn chân đất nghèo khổ ở Á, Phi…thu nhận làm món quà tinh thần vô cùng quý báu. Những ai nhàm chán thì có những gánh xiếc thời công nghệ số… các trận đá bóng, các giải thể thao, các màn nhạc hội… Tất cả khiến con người sau giờ làm việc không còn sức lực để suy ngẫm, thiền định hay lưu tâm đến những việc “không phải chuyện mình”.
Cố tình nhiễm độc
Cái tàn bạo tưởng là vô tình của hệ thống xã hội tư bản đẻ ra một tầng lớp quản lý chăm chú vào lợi nhuận cho các ông bà chủ (gọi là nhà đầu tư) đến nỗi họ quên mất những đạo lý tối thiểu của nhân cách. Ngoài những nhũng lạm tồn tại khắp nơi, khi thì kín đáo vì pháp trị, khi thì công khai nhờ luật rừng, qua hình thức kinh doanh dùng tiền người khác – OPM (dù là đầu tư của tư nhân hay lấy tiền thuế phí của công), sự chiếm đoạt và cướp giật trở thành một trò chơi nhiều giải thưởng.
Những thí dụ về sự cố tình nhiễm độc qua thực phẩm, dược phẩm, hoá chất, biến đổi gen… không chỉ giới hạn vào các anh chị kinh doanh nhỏ lẻ ở Trung Quốc mà còn là nguyên tắc làm việc và xây đế chế đa quốc đa lợi của cả ngàn đại gia Âu Mỹ từ mấy trăm năm qua.
Chỉ sau khi bị phơi bày về liên hệ giữa ung thư phổi họng và thuốc lá, các công ty Phillip Morris, BAT… mới ngừng là những cổ máy in tiền. Nhưng nếu bị chận ở các quốc gia phát triển, họ vẫn ào ạt tiến chiếm thị trường của các quốc gia mới nổi nhưng còn lạc hậu.
Bao nhiêu thập kỷ qua, Coca Cola và Pepsi biết rõ về tác hại khủng khiếp của sô đa chứa đường hoá học trên căn bệnh đái đường của bao nhiêu trẻ nhỏ. Nhưng họ chặn đứng mọi mưu toan can thiệp của các tổ chức xã hội bằng cách mua chuộc mọi chính trị gia sẵn sàng nhận đóng góp. Các công ty giải khát lớn nhỏ tại các quốc gia nghèo cũng học sát tấm gương để trở thành những blue chips của thị trướng chứng khoán, a la Coke and Pepsi models.
Mỡ hoá chất transfat đã được minh chứng là nguy hiểm cho tim mạch, nhưng đến nay, các công ty thực phẩm lớn như Nestle, Kraft… và cả McDonald, KFC… vẫn tìm đủ cách để tránh né ngăn chận những bộ luật đang được soạn thảo.
Về dược phẩm, sự cấu kết giữa các quan chức FDA, các bác sĩ cho toa và các nhà quản lý Pfizer, Novartis, Merck, Roche, AstraZeneca … để bán thuốc giá cao tối đa cho dân, vẫn là một đề tài đang bị điều tra và khảo sát bởi rất nhiều nhà khoa học và hoạt động xã hội.
Tóm lại, tôi không có ý định viết một cuốn sách ngàn trang về những thí dụ vô cùng đa dạng và nhơ nhớp của các công ty đa quốc. Nhưng bất cứ ai có thì giờ và động lực, các bạn sẽ không thiếu tài liệu tham khảo khắp thế giới.
Thay cho câu kết
Qua một đoạn văn ngắn của tư duy cá nhân về một triết thuyết có thể mô tả là vĩ đại (nói về tầm ảnh hưởng, không phải tốt xấu), tôi muốn xác định thêm hai điều về tư bản:
a. Chúng ta đều là tư bản
Trong thực tại, dù mang bất cứ tên gọi hay tước hiệu gì, khi tham gia vào kinh doanh, đi làm cho chánh phủ hay tư nhân hay các tổ chức thiện nguyện, đầu tư, sử dụng ngân hàng và các hệ thống thương mại tài chính quốc tế, chúng ta đã trở thành một mắc xích của chế độ tư bản. Trừ những nhân vật phi thường đã thoát ra thế tục, về ở ẩn, sống tự lập không cần trao đổi mua bán (các vị lãnh đạo tôn giáo thường giao tiếp với thế tục nhiều hơn các bạn), những ai còn lại đều chấp nhận cuộc chơi của tư bản, dù thương hay ghét hay dửng dưng.
Ngay cả tại Bắc Triều Tiên, ngoài 1 thiểu số rất nhỏ đang lây lất chờ chết, một người dân khi nhận thực phẩm cứu trợ, sủ dụng các vật dụng từ thiên đường Trung Quốc… cũng đã và đang làm một con cờ trong trò chơi tư bản.
b. Cái tự do của tư bản
Dù là một triết thuyết tràn khắp toàn cầu và gần như 100% nhân loại là tín đồ, tư bản không có kinh sách nào chánh thức, không có tổ chức, không có lãnh đạo, không có đảng phái, không có cả một bộ phận nào để ban phát thẻ hội viên. Bạn có muốn gia nhập hay đứng ngoài cuộc chơi là một lựa chọn đơn thuần cá nhân. Tuân theo quy luật (không viết ra rõ ràng) thì bạn có thể thâu ngắn con đường đến mục tiêu. Không thì cứ chậm rãi, không ai thúc hối, phê bình hay đòi bạn tự phê hết. Muốn học về tư bản thì phải tự đi tìm tài liệu, chỉ muốn nghe Lý Nhã Kỳ dậy về kinh doanh thì cứ tự nhiên.
Chính vì cái căn bản “tự do” này, nên tư bản tha hồ diễn biến hoà bình hay chiến tranh, tha hồ điều chỉnh, tái cấu trúc…kiểu lớn kiểu nhỏ, tuỳ người tham dự quyết định. Và đó cũng là lý do tư bản sẽ sống thêm vài thế kỷ nữa, mặc cho những khiếm khuyết luôn luôn tồn tại.
Nhưng cá nhân tôi thích nhất một điều về tư bản: không ai léo nhéo bên tai tôi suốt ngày về ưu việt, về đỉnh cao, về quyết liệt. Cứ làm đi rồi biết liền.
Alan Phan

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Vạch trần bộ mặt thật của Phan Thị Bích Hằng

Phóng sự của VTV!

VTV Vạch mặt thất đức của Phan Thị Bích Hằng và các "nhà ngoại cảm"

Phan Thị Bích Hằng -Mẹ đột quỵ, con xấu hổ không muốn đến trường 
"Tôi đau đớn vì việc chúng tôi làm được nhưng không phải lúc nào cũng nói ra" - Phan Thị Bích Hằng nói trong nước mắt.
Mỗi lần sóng gió nổi lên tôi đã mang bài thơ chữ "Nhẫn" đó trước mặt mình và làm kim chỉ nam cho hành động. Bài thơ chữ "Nhẫn" đó giờ lại vang lên trong trái tim tôi.

Bài học Ukraina – Nước ta trước họa Tàu Nga

  - Sau một thời gian quốc gia độc lập Ukraina rơi vào những rối loạn về chính trị vì thái độ khinh dân cùng hành vi bạo lực và tham nhũng của Tổng thống Viktor Yanukovych, ngày 22/2/2014, Quốc hội Ukraina đã bỏ phiếu truất quyền tổng thống của ông này.

Nga xâm lăng Ukraina.

Sau mấy hôm lẩn trốn, Yanukovych đến được nước Nga. Tổng thống Vladimir Putin của Nga lập tức mở ra một cuộc tập trận thị uy ngay vùng sát biên giới Nga-Ukraina. Đồng thời Putin công khai bộc lộ ý đồ xua quân xâm lăng Ukraina, bắt đầu từ khu tự trị Crimea của quốc gia Ukraina, nằm trên Biển Đen (Hắc Hải).

Để hợp thức hóa hành động xâm lăng này, Putin tung ra nhiều chiêu rất là bài bản mà khối Cộng sản quốc tế đã từng sử dụng trước đây. Quốc Hội Nga thông qua một nghị quyết “cho phép sử dụng biện pháp quân sự” để “bảo vệ kiều bào Nga” cư ngụ trên lãnh thổ Crimea. 

Trong khi đó một thứ đội quân “vô chủ, vô hình” mang mặt nạ, vận quân phục Nga nhưng không mang phù hiệu, lại được trang bị vũ khí Nga và xe tăng thiết giáp Nga, mở cuộc “tổng tiến công” khu tự trị Crimea này. 

Cùng lúc đó, ngày 03/3/2014, trong cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Đại sứ Nga Churkin đã đọc bức thư, nói là của ông Tổng thống Yanukovych bị lật đổ gửi Tổng thống Nga Putin, “đề nghị” người đứng đầu nước Nga sử dụng lực lượng quân sự tại Ukraina để “tái lập luật pháp và trật tự” tại nước Ukraina này. 

Bức thư của Yanukovych có đoạn: “Người dân đang bị bức hại vì những lý do ngôn ngữ và chính trị. Vì vậy, trong thư này, tôi kêu gọi Tổng thống Nga, ông Putin, đề nghị ông sử dụng lực lượng vũ trang Liên bang Nga để tạo dựng tính hợp pháp, tái lập luật pháp, hòa bình, trật tự, ổn định và bảo vệ người dân Ukraina”.

Putin vốn là tay tình báo lão luyện của Liên Xô cũ, từng đứng đầu cơ quan tình báo Liên Bang Xô Viết KGB hồi cuối thế kỷ 20. Đầu óc Putin luôn mang nặng những thủ đoạn đen tối, mưu mô gian trá cùng những ý đồ và tham vọng bành trướng của một đế quốc Liên Xô vĩ đại thuở nào với giấc mơ đứng đầu “thế giới đại đồng”. 

Điều này khiến người ta nghi ngờ rằng, sau 19 năm cầm quyền, Putin đang bước dài bước chân xâm lược hòng tái thôn tính các nước chư hầu cũ trong cái gọi là Liên Bang Xô Viết đã tan rã cách đây hơn hai mươi năm (1991), một hành động tái diễn trò xâm lược của Liên Xô đánh vào Hunggary năm 1953 và vào Tiệp Khắc năm 1968. Từ đó, Putin sẽ tái chiếm các chư hầu cũ của Liên Xô đề làm bàn đạp tấn công các quốc gia Đông Âu Cộng sản cũ, lập lại thế đối đầu với Tây Phương trong cuộc chiến mệnh danh là Chiến Tranh Lạnh.

CSVN tung hê Nga và Putin.

Ngay từ giai đoạn khởi đầu Nga mở cuộc xâm lăng Crimea, báo chí lề đảng Việt Nam đã tung hê đàn anh Putin một cách lố bịch đến nỗi hãng thông tấn BBC ngày 03/3/2014 đã nhận ra ngay thái độ của báo chí Hà Nội và lên tiếng báo động: “Các báo chí chính thống ở Việt Nam do chính quyền quản lý đã có những bài bình luận và phân tích thể hiện sự ủng hộ Nga và chỉ trích người biểu tình Ukraine trong cuộc khủng hoảng hiện nay”.

Bài báo của BBC ngày 03/3/2014 dưới nhan đề “Báo chí VN ủng hộ Nga về Ukraina?” đưa ra vài dẫn chứng, như báo CAND dẫn lời ông Putin: “nước Nga có quyền bảo vệ lợi ích của người dân Nga và những người nói tiếng Nga” và “Nga sẽ hành động trong khuôn khổ luật pháp cho phép”. 

BBC còn vạch mặt “một số báo Việt Nam không nói rõ Crimea thuộc Ukraine mà chỉ gọi chung chung là 'Cộng hòa tự trị Crimea'”. Hoặc “trang mạng của Đài Tiếng nói Việt Nam hôm 3/3 chạy tiêu đề ‘Hàng vạn người tuần hành ủng hộ Nga đưa quân sang Ukraine.’”….

Quả vậy, từ đầu đến cuối Tháng Ba 2014, nếu chúng ta chịu khó mỗi ngày chỉ lướt qua vài cái tít trên báo chí lề đảng về những diễn biến tại Crimea và Ukraina, tất thấy ngay cái xu hướng CSVN tung hê Putin và Nga nó lộ liễu đến mức nào! 

Người ra rêu rao: Đó là một cuộc chiến chính nghĩa! Nhân dân Crimea nói riêng và nhân dân một số nước thuộc Liên Bang Xô Viết cũ đồng thanh đứng về phía Nga, đi với Nga, sống chết với Nga, yêu cầu được sáp nhập vào Nga. Vỡ mặt Hoa Kỳ và Tây Phương! Tất thắng ắt về Nga và Putin! Vân vân và vân vân!

Cung cách bầy đàn kiểu phe ta trẻ con ấy thực ra chỉ là trò hề quen thuộc của CSVN thời kỳ thành trì chủ nghĩa cộng sản còn được cho là “bách chiến bách thắng”. Bổn cũ soạn lại đấy thôi.

Giấc mơ CSVN: Khôi phục địa vị siêu cường của Liên Xô.

Vào ngày 27/3/2014, người ta lại đọc thấy trên Đất Việt của CSVN một bài báo của tác giả Thiên Nam dưới nhan đề “Putin và cuộc họp tuyệt mật về Crimea của ‘Bộ Tứ KGB’”. 

Không rõ bài báo nhằm mục đích gì, nhưng đã là báo lề đảng, tờ Đất Việt không thể đi ra khỏi cái lề “tuyên truyền” do Bộ Thông Tin-Tuyên Truyền của CSVN đã chỉ ra. 

Phải chăng bằng cách đưa ra thông tin mang dáng dấp vô tư, bài báo làm công việc quảng bá KGB, “cơ quan tình báo hàng đầu của thế giới” thời Liên Xô? Bài báo nêu rõ: “Quyết định thu hồi Crimea bằng mọi giá đã được ông Putin đưa ra trong một cuộc họp tuyệt mật của ‘Bộ tứ KGB’ cùng 3 cố vấn thân cận nhất.” 

Sự kiện này chứng tỏ Liên Bang Xô Viết tuy đã sụp đổ, nhưng cái cơ quan tình báo KGB từng một thời làm mưa làm gió thì vẫn còn, ẩn mình dưới cái tên FSB – Cục Anh Ninh Liên Bang Nga! Nhân sự cao cấp của nó được cài vào trong hệ thống tình báo ấy. “Bộ Tứ KGB” được tờ “Thời báo New York” (The New York Times) nêu đích danh là: Vladimir Putin (Tổng thống Nga), Sergei Ivanov (Chánh văn phòng Tổng thống), Nikolai Patrushev (Thư ký Hội đồng An ninh) và Alexander Bortnikov (Cục trưởng Cục An ninh Liên bang Nga (FSB). Chính bộ tứ ác ôn này đã “nhất trí khôi phục quyền kiểm soát” của Liên bang Nga đối với Crimea.

Theo Đất Việt, “vào những thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, họ [ba nhân vật đằng sau Putin] đều là các cựu điệp viên của KGB, những đồng nghiệp thân thiết làm việc cùng với ông Putin tại thành phố quê hương ông là St Petersburg.” 

Tờ Đất Việt còn dẫn lời nhận xét của Ông Andrew Kuchins, Chủ nhiệm Dự án Nga của Viện nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế: “Cũng giống như ông Putin, họ đều là các cựu nhân viên tình báo dày dạn kinh nghiệm nhất của Liên bang Xô viết, cùng đồng tâm nhất trí khôi phục lại địa vị siêu cường của Liên Xô”.

Số phận của Criméa đã được hoạch định từ trước tại Moscow.

Cuộc truất phế Tổng Thống Viktor Yanukovych của Ukraina chỉ là cái cớ cho Putin xâm lăng Crimea. Bởi vì “ngay từ 2 tuần trước khi nhân dân Crimea trưng cầu dân ý quyết định độc lập và sát nhập vào Nga, Tổng thống Nga V. Putin đã có quyết định thu hồi Crimea bằng mọi giá, kể cả là dùng vũ lực” sau khi “bộ tứ” có “cuộc họp bí mật vào đêm 25 hay 26 Tháng Hai bàn về Ukraine và vấn đề thu hồi Crimea.” 

Bài báo tiết lộ: “Cuộc họp này diễn ra bí mật đến nỗi, ngay cả cánh tay phải thân tín của ông Putin là Ngoại trưởng Sergei Lavrov cũng không được biết và tham dự.”

Phần kết luận của tác giả bài báo, mới đọc qua tưởng là “khách quan”, nhưng ngẫm lại “ngậm đắng nuốt cay thế nào” như dưới đây:

Sau khi “cựu” Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych đào thoát khỏi Kiev vẻn vẹn 3 ngày, quyết định thu hồi Crimea đã được “Bộ tứ KGB” này đưa ra một cách nhanh chóng. Đó cũng chính là thời điểm, quốc hội Ukraine phê chuẩn quyết định thành lập một nội các mới tại Kiev.

Sau đó 1 tuần, ông Putin vẫn khẳng định trước cộng đồng quốc tế là Nga không hề có ý định sáp nhập Crimea vào nước Nga, nhưng sau hậu trường, các hoạt động chuẩn bị cho “ngày trở về” của Crimea được khẩn trương tiến hành. 

Sau khi Ukraine tuyên bố thành lập chính phủ mới, 150.000 binh lính Nga được đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. 

Chỉ 1 ngày sau, các toán vũ trang “lạ” đã chiếm lĩnh trụ sở quốc hội và tòa nhà chính quyền Crimea, hạ cờ Ukraine và thay bằng quốc kỳ Nga. Ngay sau đó, 2 sân bay lớn nhất ở Crimea bị phong tỏa.

Cuối cùng, Crimea đã li khai Ukraine và trở về với Nga một cách không thể đơn giản hơn. Và đóng vai trò quyết định trong “cuộc chơi lớn” ở Crimea chính là “Bộ tứ KGB”!

Chiến thắng của KGB: Khát vọng của CSVN được đáp trả.

Cuộc xâm lăng của Liên Bang Nga do Putin cầm đầu rõ ràng vừa gây phẫn nộ, vừa gây bàng hoàng cho lương tri loài người, cho quyền dân tộc tự quyết. Nhưng cuộc xâm lăng thô bạo ấy lại được chào đón bằng những cái vỗ tay vô liêm sỉ như vậy đó của những con người đang mơ giấc mơ hồi phục cái chủ nghĩa đã từng lấy dối trá và bạo lực làm cứu cánh hầu thẳng tay sát hại hàng triệu sinh linh vô tội. 

Thế nên người Việt Nam không ai ngạc nhiên về sự mở cờ của nhà cầm quyền csvn trước những bước tiến “oai hùng oanh liệt” của phía Nga và Putin đánh vào một quốc gia nhỏ bé hơn gấp bội về mọi mặt, mà công đầu thuộc về KGB của Liên Bang Xô Viết! 

Người ViệtNam chân chính có lòng thương yêu Dân Tộc, thương yêu Tổ Quốc mình không thể giữ mãi thái độ thờ ơ hay bàng quan trước cái ý đồ cổ võ sự hồi sinh của thứ chủ nghĩa phi nhân đã bị nhân loại chôn vùi từ hơn 20 năm qua – chủ nghĩa cộng sản. 

Cái ý đồ ấy được bộc lộ chẳng những qua mấy thông tin bóp méo sự thật của hàng loạt báo chí lề đảng, mà còn được cổ võ mạnh mẽ bởi những lời bộc bạch của những tay Cộng sản gạo cội trong nước, điển hình là của một “nhà chiến lược” CSVN qua một cuộc phỏng vấn gần đây. 

“Nhà chiến lược ấy” được giới thiệu là Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược Bộ Công An CSVN

Khi ông trả lời cho VTC News trong cuộc phỏng vấn ngày 03/03/2014, Lê Văn Cương dõng dạc tuyên bố: “Sau những biến động chính trị ở Kiev, cuộc chính biến Ukraine đã lan rộng và đe dọa đến tính mạng cũng như cuộc sống thường ngày của những người dân ở Crưm. Vì vậy Nga có trách nhiệm bảo vệ công dân của mình và hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.

Đây được xem là hành động bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nga tại Crưm nói riêng và Ukraine nói chung. Đây không phải là hành động ‘gây sự’ của Nga như chính quyền mới của Ukraine cáo buộc, mục đích của Nga công khai và đúng luật.” Bài phỏng vấn có tiêu đề là “Tướng Lê Văn Cương: Cảnh báo Mỹ đến Crum [Criméa], Nga không đùa”.

Người Việt Nam không khỏi giật mình về “tư tưởng chiến lược” của viên tướng được cho là chuyên gia bậc thầy về chiến lược trong hệ thống đảng cầm quyền tại nước ta. 

Ông tướng Công an lại công khai cổ võ cho hành động xâm lược, coi đó là “hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế”, một kiểu đánh giá phù hợp với đường lối chủ trương cố hữu của CSVN: bán nước với bất cứ giá nào và ngụy biện dưới bất kỳ hình thức nào, vào bất cứ cơ hội nào! 

Chỉ tội là tội cho tiền đồ bất hạnh của quốc gia dân tộc mình nếu có một ngày nào đó bị nước lớn lân bang xua quân vượt biên giới đánh chiếm, nhân danh bảo vệ lợi ích hợp pháp kiều dân của họ sống trên lãnh thổ nước ta, mà nhóm lãnh đạo đương quyền thì cứ hô hào đó là một hành động “công khai và đúng luật, không phải là hành động gây sự!” 

Bài phỏng vấn cho thấy ông tướng CACS Lê Văn Cương còn “nổ” ra nhiều lời phát biểu khác nữa, nhưng tựu trung các lời phát biểu khác ấy cũng chỉ nhai đi nhai lại cái luận điệu xuẫn động trên mà thôi. Kỳ thực, ông Cương chẳng có ý tưởng gì riêng, mà chỉ lặp lại nguyên văn lời biện bạch của Putin cho hành động cá lớn nuốt cá bé của y.

Dù vậy, những lời phát biểu của tướng Cương cũng đã để lộ “chiến lược” của CSVN làm nhụt khí tinh thần đấu tranh của người dân Việt Nam cho chủ quyền quốc gia và quyền tự quyết của dân tộc. Nguy cơ xâm lược của ngoại bang đối với Việt Nam và họa mất nước đang cận kề.

Họa phương bắc.

Về mối nguy xâm lược từ phương bắc, lịch sử đã chứng minh. Những hình thái vết dầu loang đáng ngờ và các sự kiện lấn đất, chiếm đảo, những gặm nhấm các phần lãnh thổ và lãnh hải nước ta đã diễn ra và hãy còn tiếp tục diễn ra là những bằng chứng không thể chối cãi.

Một số các tỉnh thành bị “xâm thực” đã được báo chí nêu ra. Từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi, từ Cao Nguyên Miền Trung đến Bình Dương, vân vân đều tràn ngập người Tàu từ Trung Quốc nhập cư chính thức cũng có mà nhập cư bất hợp pháp cũng dẫy đầy. Họ chiếm lĩnh thị trường lao động trong các nhà máy, ãng xưởng, trong khi nguồn lao động trong nước lại bị loại bỏ vất vưởng hoặc bị sử dụng như món hàng rẻ tiền bán ra nước ngoài dưới danh nghĩa “xuất khẩu lao động”. Còn người lao động Trung Quốc (hợp pháp hay không hợp pháp) thì hiên ngang sống phè phởn, hiên ngang dựng phố, lập làng và hiên ngang tạo ra những biệt lệ khiến “phép vua thua lệ làng”. 

Đó là chưa kể tới những hoạt động tình báo và phá hoại đủ kiểu của họ, một mặt ngấm ngầm tinh vi, mặt khác thì cố tình để lộ như để thách thức, thị uy. Mọi hoạt động của họ đều vô cùng nguy hiểm cho sự sống của con người hiện tại cũng như cho sự tồn vong của dân tộc. 

Chiêu thức tình báo dĩ nhiên là thiên hình vạn trạng chẳng biết đâu mà lường. Còn về mặt phá hoại thì cũng muôn màu muôn sắc, từ kinh doanh tới sản xuất, từ thành thị tới thôn quê đến tận hang cùng ngõ hẻm, vào sâu trong các rừng rậm núi cao hay các vịnh nước màu mỡ dọc miền duyên hải… vừa để thu lợi vừa nhằm hủy diệt môi sinh.

Từ thực phẩm đến áo quần và cả đồ chơi trẻ con, từ phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc “giữ xanh” hoa quả, thuốc làm tươi thịt cá… Đều do Trung Quốc đưa vào Việt Nam, nhằm mục đích đầu độc dân Việt, không phải giết ngay tức khắc mà là cấy bệnh nan y vào cơ thể để con người đau đớn, chết dần chết mòn! 

Đó là chưa nói tới những đầu độc về văn hóa, Hán hóa não trạng cũng như lối sống của các thế hệ người Việt Nam. 

Thoáng nhìn về quá khứ.

Những hành động tự tung tự tác của người Tàu trên đất nước ta ngày nay khiến chúng tôi nhớ thời đệ nhất VNCH, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ban hành một sắc lệnh cấm cửa 11 ngành nghề đối người Hoa kiều, trừ những kiều dân người Hoa nhập quốc tịch Việt Nam. TT Ngô Đình Diệm là chiến hữu chống cộng của Tổng thống Tưởng Giới Thạch bên Đài Loan. Tình bạn giữa hai người rất thắm thiết. Việc làm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm làm phật lòng Tổng Thống họ Tưởng không ít. Nhưng không vì tình bạn và đồng lý tưởng chống cộng mà nhà lãnh đạo quốc gia Việt Nam thời bấy giờ chối từ trách nhiệm của mình đối với dân, với nước và sự tồn vong của dân tộc. Ông Ngô Đình Diệm dứt khoát không nhượng bộ họ Tưởng, cương quyết không thu hồi quyết định cấm 11 nghề đối với người Tàu trên đất Việt, mặc kệ Tưởng Giới Thạch yêu sách và ra điều kiện này nọ.

Ngày nay thì sao? Cả nước đều rõ. Làm gì có một nhà lãnh đạo có được cái bản lãnh và khí phách ấy đối với ngoại bang? 

Rồi tới thời Đệ nhị VNCH. Khi Quân đội Hoa Kỳ được phép đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam, họ được phép lập căn cứ, các Công ty Dân sự Mỹ được phép đấu thầu xây dựng cầu đường cùng một số công thự, nhưng công nhân phải là người Việt Nam, tuyệt đối không được dùng lao động người Hoa Kỳ hay người của bất cứ người nước nào, dù lúc bấy giờ tại Miền Nam Việt Nam đang có mặt nhiều nhóm người nước ngoài khác như Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Phi LuậtTân. Họ rất mong được tuyển dụng vào các việc này. Nhưng không được. Thậm chí, cả trong các căn cứ của quân đội Mỹ, chỉ có quân lính Mỹ trú đóng, việc phục vụ và mọi thứ dịch vụ trong đó cũng cho giao phó cho công nhân người Việt. Họ làm việc thoải mái, không hề chịu một áp lực hay áp bức nào. 

Chính nhờ đó mà mức sống và kiến thức của người dân Miền Nam Việt Nam được nâng cao, con cái học hành đến nơi đến chốn; từ thành thị tới thôn quê, không một người nước ngoài nào có thể nhảy vào cạnh tranh, giành giực. 

Đặc biệt, trong hoàn cảnh ấy, người Việt Nam, kể cả phụ nữ và trẻ, không ai bị xuất cảng lao động, không ai bị bán ra nước ngoài… như ta thấy đầy dẫy trong nước ta hiện nay, cái thời đại gọi là thời xã hội chủ nghĩa vinh quang! Một chuyện nhỏ này thôi cũng cho thấy sự khác biệt giữa xưa cà nay trong xã hội Việt Nam: Hồi đó, người Mỹ có mặt khắp Miền Nam Việt Nam, nhưng số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Mỹ chỉ là thiểu số cực nhỏ. Và thật là hiếm hoi thấy có người đàn bà Việt Nam lấy chồng là người Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân…!

Khi một chế độ suy tôn Đảng lên bậc thống trị tuyệt đối đứng trên cả Tổ Quốc và Dân Tộc thì cái chế độ ấy không còn là chế độ phụng sự Quốc Gia-Dân Tộc mà chỉ là tập hợp của một nhóm “phe đảng” lấy bạo lực làm sức mạnh, một mặt đè nén dân, một mặt cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang núp dưới danh nghĩa hữu nghị 4-tốt-16-chữ-vàng! Cứ cái ôm lấy tốt cái vàng vẽ trên giấy này thì một ngày nào đó Việt Nam thế nào cũng sẽ chứng kiến cái cảnh cá lớn nuốt cá bé trong khi đám sai nha nước nhỏ thì cứ một mực tung hô hành động xâm lăng của nước lớn, cho đó là “hành động bảo vệ lợi ích hợp pháp”, là hành động “công khai và đúng luật”, “không phải là hành động ‘gây sự’”.

Mối họa từ giấc mơ Nga. 

Giấc mơ Mỹ là một thực tế. Nhưng người CSVN sau 1975 gán cho cụm từ một ý nghĩa đầy châm biếm nhạo cười mai mỉa dành cho người Việt của Miền Nam Việt Nam thời trước 1975. Bây giờ tại Việt Nam, khát vọng về một “giấc mơ Nga” đang trổi dậy mạnh mẽ trong lòng đám cầm quyền CSVN. Họ mơ về một nước Nga hùng cường làm sống lại chế độ CS quốc tế đã bị chính nhân dân Nga nguyền rủa và đập tan. 

Nước Nga hay Liên Bang Nga hiện là một thực thể thay thế Liên Bang Xô Viết đã sụp đổ. Có điều khác giữa Liên Bang Nga và Liên Bang Xô Viết là Nga ngày nay không còn nữa 13 nước chư hầu bao bọc xung quanh để bảo vệ “thành trì xhcn” như trước nữa. Nhưng với Việt Nam thì khác. Nhà cầm quyền CSVN lúc nào cũng coi Nga như là một Liên Xô hùng mạnh của thuở nào. CSVN luôn mơ tưởng về sự phục hồi của Liên Bang Xô Viết từ trong lòng Liên Bang Nga. Cho nên, mỗi lần nói lên mối quan hệ Việt-Nga là mỗi lần CSVN coi Nga như là “đàn anh”, là “người bạn thiết cốt”, là “anh em con một tổ”, là “đồng chí” giống như Liên Bang Xô Viết thuở nào.

Nếu với CSVN, Trung Quốc được tôn vinh là “người anh em thắm thiết môi liền môi”, thì Nga cũng được tung hô là người “ân nhân vĩ đại” mà Việt Nam có “nghĩa vụ” phải “đáp đền” và đáp đền một cách cụ thể xứng đáng: Cảng Cam Ranh và Điện Hạt Nhân Ninh Thuận là hai địa chỉ đã được khoanh vùng. Người Nga đã từng hùng cứ Cam Ranh sau Tháng Tư 1975 và đã chia tay nó, nay lại quay về và lạicó thêm Ninh Thuận tạo thế liên hoàn. 

Khi Cam Ranh trở thành cảng sửa chữa tàu bè do Nga quản lý, thì việc người Nga, binh lính Nga và tàu chiến Nga hiện diện ở đó sẽ là chuyện “bình thường” thôi. Hơn nữa, 6 chiếc tàu ngầm quân sự của Nga đã bán cho Việt Nam mà Nga có trách nhiệm bảo trì tu bổ thì cũng là cơ hội cho Nga tha hồ tăng cường nhân sự về mặt quân sự trên cái bán đảo đầy màu mỡ này. Từ đó quân đội Nga đương nhiên có quyền “bảo vệ” thành phần chuyên viên tinh hoa của họ ở tỉnh Nnh Thuận đang phụ trách xây dựng, vận hành các Nhà máy điện hạt nhân ở đó mà Nga đã là chủ đầu tư! Rồi mói đây, Nga lại phụ trách xây dựng nhà máy nguyên tử tại Đà Lạt lớn gấp 30 lần Nguyên Tử Lực Cuộccủa thời VNCH. Cho nên vùng hoạt động của Nga chắc chắn sẽ bao trùm trọnkhu vực ba tỉnh Khánh Hòa-Ninh Thuận và Lâm Đồng! Một diện tích không nhỏ có sự tập trung lâu dài của người Nga trên đất nước Việt Nam! Vấn đề dân sinh ở khu vực này chắc chắn sẽ không đơn giản một khi Nga đòi thiết lập làng chuyên gia của họ ở đó. Trong thực tế, phía Nga và phía chính quyền địa phương Ninh Thuận đã cùng đi khảo sát khu vực lựa chọn để tiến hành dự án xây dựng cơ ngơi cho người Nga rồi!

Ai học được chữ ngờ?

Câu hỏi đặt ra ở đây một lần nữa: Nếu trong nước nổ ra một biến động bất thường, như một cuộc biểu tình đòi hỏi thay đổi nhân sự chằng hạn, thì nhà cầm quyền CSVN sẽ làm gì nếu phía Nga và Tàu viện cớ “bảo vệ lợi ích hợp pháp” của người Nga, người Tàu như là một hành động “công khai và đúng luật”, dứt khoát đó “không phải là hành động ‘gây sự’” để đưa quân tới những điểm nóng?

Chúng tôi chưa bàn tới việc Trung Cộng hay Nga Cộng đã cài sẵn tình báo, ngụy tạo một biến động nào đó để chơi trò tầm ăn dâu trên khắp đất nước Việt Nam! 

Người Việt Nam trong nước không quên hình ảnh khá “lạ lùng” xảy ra xung quanh khu tượng đài Lý Thái Tổ Hà Nội nhân kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Hoa năm 1979. 

Hôm ấy một số nhân sĩ và thanh niên yêu nước tổ chức lễ tưởng niệm các chiến sĩ VN tử trận trong cuộc chiến chống quân xâm lược phương bắc năm 1979. Lễ tưởng niệm tôn nghiêm vừa tiến hành với một nhúm nhỏ trí thức và thanh niên ye nước, bỗng một đám đông người ăn mặc khác thường gồm đàn ông đàn bà kéo nhau ra chiếm cứ khu tượng đài, nhảy múa kệch cỡm theo nhịp một bài nhạc Trung Hoa mở hết công xuất rất ồn ào! 

Người ta nghi ngờ hành động này là một tín hiệu thách thức nhà cầm quyền Việt Nam có dám dập tắt bài ca Trung Quốc không, hay buộc phải giải tán những người dự lễ tưởng niệm!

Cuối cùng CSVN tuân theo chỉ thị ngầm của đàn anh, ngoan ngoãn thẳng tay giải tán người dự lễ tưởng niệm. Còn đám đông ồn ào kia thì ung dung nhảy múa theo điệu nhạc xập xình xon-đố-mì cho đến khi không còn bóng dáng một người nào trong nhúm nhỏ dự lễ tưởng niệm!

Giả sử, nếu một ngày nào đó vở kịch nham nhở kia lại tái diễn với những màn biểu diễn khác do bọn tình báo Nga-Hoa dàn dựng và kích động, thì chẳng biết số phận đất nước ta sẽ đi về đâu! Có lẽ giải pháp mà Vladimir Putin đã chọn cho Crimea và Ukraina sẽ là phuơng thức giải quyết tối ưu dành cho Việt Nam chăng? Rồi thì lý lẽ sẽ thuộc về kẻ mạnh, đàn anh nước lớn? Họ “hành động bảo vệ lợi ích hợp pháp?”. Đó “không phải là hành động ‘gây sự’, và đó là “mục đích công khai và đúng luật?” 

Bấy giờ “nhà chiến lược” Lê Văn Cương và các “đồng chí” của ông sẽ nghĩ gì? Nói gì? Làm gì? Hay sẽ vỗ tay hoan hô đoàn quân chiến thắng mang vinh quang về cho “Đảng ta”? 

30/3/2014

Chia thừa kế theo pháp luật

(Dân trí) - Bố tôi đột ngột chết mà không để lại di chúc. Bố mẹ tôi có tài sản là nhà đất đã có sổ đỏ đứng tên cả bố và mẹ tôi, hiện nay mẹ tôi đang ở căn nhà đó.

Xin hỏi tôi và 2 chị gái tôi có được hưởng tài sản của bố tôi để lại không ? (Bố mẹ tôi chỉ có 3 chị em chúng tôi và tất cả đều đã có gia đình). Nếu có thì được chia như thế nào ? (Trần Văn Bửu - Hoà Bình)

Luật sư Nguyễn Hồng Bách trả lời:
Theo quy định tại điều 27 luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì nhà và đất của bố mẹ bạn là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của bố mẹ bạn, do đó, theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và Bộ luật dân sự cần xác định về quyền thừa kế theo pháp luật như sau:
Vì bạn không cung cấp thông tin là ông nội, bà nội có còn sống hay không nên chúng tôi chia ra các trường hợp như sau:
1/ Nếu cả ông nội của bạn còn sống thì phần di sản của bố bạn được chia như sau:

1/2 giá trị căn nhà của bố mẹ bạn được chia làm 6 phần trong đó: ông nội, bà nội, mẹ bạn, 2 người chị gái của bạn và bạn (những người ở hàng thừa kế thứ nhất), mỗi người được 1/6 (một phần sáu) tức là 1/12 (một phần mười hai) giá trị nhà và đất.
2/ Nếu chỉ có ông nội hoặc bà nội còn sống thì chia như sau:

1/2 giá trị căn nhà của bố mẹ bạn được chia làm 5 phần trong đó: ông nội hoặc bà nội, mẹ bạn, 2 người chị gái của bạn và bạn (những người ở hàng thừa kế thứ nhất), mỗi người được 1/5 (một phần năm) tức là 1/10 (một phần mười ) giá trị nhà và đất.
3/ Nếu cả ông nội và bà nội đều đã chết trước khi bố bạn chết thì chia như sau:

1/2 giá trị căn nhà của bố mẹ bạn được chia làm 4 phần trong đó: mẹ bạn, 2 người chị gái của bạn và bạn (những người ở hàng thừa kế thứ nhất), mỗi người được 1/4 (một phần tư) tức là 1/8 (một phần tám ) giá trị nhà và đất.
Như vậy là bạn và các chị gái của bạn, ông nội, bà nội (nếu còn sống) là những người được hưởng di sản do bố bạn để lại.

Văn phòng Luật sư Hồng Bách và Cộng sự, Số 6 đường Trung Yên 3, Trung Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội. Điện thoại: 84.4. 37868574 Fax: 84.4. 3786 8575. Website: hongb ach.com

Nguon: Dan Tri

Hòa giải ở cơ sở về tranh chấp đất đai: Những bất cập từ thực tiễn

Qua đợt giám sát của UBTVQH về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai tại một số địa phương cho thấy, công tác hòa giải trong các tranh chấp đất đai chưa được thực hiện đầy đủ tại các cấp cơ sở. Ở những nơi làm tốt công tác hòa giải, tỷ lệ khiếu kiện đất đai thường thấp hơn những nơi công tác hòa giải được làm chiếu lệ. Cùng với đó, những bất cập trong công tác hòa giải cơ sở liên quan đến tranh chấp đất đai đòi hỏi cần khẩn trương hoàn thiện, sửa đổi.
Luật Đất đai 2003 quy định, khi xảy ra tranh chấp đất đai bắt buộc phải qua hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp, chỉ sau khi UBND cấp xã đã tiến hành hòa giải mà một hoặc các bên đương sự không nhất trí thì mới được phép khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết (nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án). UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai.

Theo Phó cục trưởng Cục I, Thanh tra Chính phủ Phan Thăng Long, đây là quy định rất hợp lý bởi trong quá trình hòa giải tại cơ sở, chính những hòa giải viên là những người có uy tín tại địa phương đó, là người hiểu rõ hơn ai hết nội tình của các tranh chấp đất đai cũng như lịch sử của các mảnh đất đang có tranh chấp, cùng với những hiểu biết pháp luật cần thiết, hòa giải viên sẽ giúp hai bên tranh chấp hiểu rõ được đúng sai, qua đó, các tranh chấp được giải quyết hợp tình hợp lý. Việc giải quyết bằng con đường hòa giải vừa phát huy được tinh thần đoàn kết trong gia đình, dòng họ và nội bộ nhân dân vừa giảm các vụ KNTC liên quan đến đất đai.

Tuy nhiên, theo đánh giá chung của lãnh đạo các tỉnh, thành phố mà Đoàn giám sát của UBTVQH tiến hành làm việc cho thấy, do quy định hòa giải còn một số bất cập, đồng thời, một số cấp cơ sở chưa nhận thức được vai trò quan trọng của công tác hòa giải nên đã thực hiện hòa giải qua quýt, không đúng thủ tục, làm đi làm lại nhiều lần, gây tốn kém cho công dân.

Đề cập đến những bất cập của hòa giải cơ sở về tranh chấp đất đai, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Tĩnh Trần Thế Dũng dẫn chứng, thực tế có hiện tượng nhiều vụ tranh chấp đất đai đã được chính quyền cơ sở tiến hành hòa giải thành công, nhưng sau đó một trong các bên tranh chấp lại bội tín, gửi đơn thư KNTC đến các cấp chính quyền. Từ thực tế này, UBND Thành phố Hà Tĩnh kiến nghị Luật Đất đai (sửa đổi) cần có quy định biên bản hòa giải thành giữa các vụ việc tranh chấp đất đai có hiệu lực pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền không thụ lý các đơn thư KNTC liên quan đến tranh chấp đất đai đã được hòa giải thành.

Vậy có nên quy định giá trị pháp lý của biên bản hòa giải trong các tranh chấp đất đai? Hoạt động hòa giải cơ sở về nguyên tắc là hoạt động tự nguyện giữa các bên, tự nguyện tham gia, tự nguyện thỏa thuận và tự nguyện thi hành các thỏa thuận đó. Biên bản hòa giải là sự ghi nhận sự thỏa thuận giữa của các bên, mang ý nghĩa đạo lý, danh dự và tạo nên sự ràng buộc về mặt đạo đức, tâm lý giữa các bên. Vì vậy, việc có quy định giá trị pháp lý của văn bản này hay không? Và biên bản hòa giải có phải là quyết định công nhận của các đương sự cũng như được bảo đảm thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay không? Vấn đề này cần phải xem xét và cân nhắc kỹ.

Ngoài băn khoăn về giá trị pháp lý của biên bản hòa giải, quá trình giám sát của Đoàn giám sát cũng đã ghi nhận phản hồi về khó khăn của các địa phương, đặc biệt là các Hội đồng hòa giải trong việc lập biên bản hòa giải khi chưa có hướng dẫn cụ thể, thống nhất về hình thức, nội dung cần có của một biên bản hòa giải tranh chấp đất đai. Điển hình của khó khăn này chính là tình huống: bà A xảy ra tranh chấp về diện tích ranh giới đất với ông B, sự việc được đưa ra UBND xã C hòa giải nhưng không thành, và UBND xã C đã lập biên bản hòa giải không thành gửi các đương sự với nội dung tranh chấp đương sự và kết quả hòa giải. Khi bà A khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện D thì phát hiện biên bản hòa giải được lập không bảo đảm về hình thức, thiếu cả quốc hiệu và chữ ký của ông B. Cuối cùng, tòa yêu cầu bà A phải nộp biên bản hòa giải hợp lệ mới thụ lý. Cuối cùng công việc hòa giải lại phải tiến hành lại mất nhiều thời gian, công sức của các bên. Từ tình huống này, một số địa phương kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn thống nhất hình thức, nội dung của biên bản hòa giải, bởi Pháp lệnh hiện hành chỉ quy định, hòa giải viên tiến hành lập biên bản hòa giải chứ không quy định cụ thể như thế nào.

Một tồn tại nữa trong quá trình thực hiện hòa giải cơ sở liên quan đến tranh chấp đất đai là trường hợp UBND cấp xã triệu tập nhiều lần nhưng người bị kiện cố tình không đến, không thể tiến hành hòa giải các tranh chấp đất đai được. Trong khi luật hiện hành quy định, nếu chưa qua thủ tục hòa giải ở địa phương thì Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện. Thực tế xảy ra nhiều trường hợp, thời gian hòa giải kéo dài, các bên hòa giải không thành, một bên đương sự gửi đơn đến Tòa án thì đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật, đương sự không còn quyền khởi kiện lại vụ án. Từ những tồn tại này, các văn bản pháp luật liên quan đến hòa giải cơ sở về đất đai cần có quy định cụ thể cách giải quyết trong trường hợp người bị kiện cố tình không thực hiện hòa giải, đồng thời xem xét quy định lại thời hiệu khởi kiện làm sao để không ảnh hưởng đến thời hiệu của người khởi kiện do quá trình hòa giải kéo dài.

Để công tác hòa giải cơ sở xung quanh các tranh chấp đất đai được thực hiện đầy đủ, bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan, cần tăng cường đào tạo, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đất đai, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải tranh chấp đất đai. Trong đó, cần có cơ chế khuyến khích già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo, những người có uy tín trong các khu cộng đồng dân cư tham gia vào công tác hòa giải cơ sở. Đồng thời, vai trò của Ủy ban MTTQ các cấp cũng cần được quy định rõ ràng hơn trong công tác này.
        Trong quá trình bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của người dân, hình thức chính quyền đối thoại trực tiếp với người dân có đất bị thu hồi cần được thực hiện rộng rãi nhằm giải đáp thắc mắc, tháo gỡ khó khăn cụ thể, phổ biến chính sách của Nhà nước và các văn bản pháp luật về đất đai cho người dân. Kinh nghiệm từ các địa phương cho thấy, nơi nào lãnh đạo làm tốt công tác đối thoại với người dân bị mất đất thì địa phương đó ít có những vụ việc, "điểm nóng" KNTC về đất đai, ít vụ khiếu kiện đông người liên quan đến thu hồi đất.

Tự Cường

Giải quyết tận gốc những bất cập chính sách, pháp luật về đất đai

Ngày 7-11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo của UBTVQH về kết quả giám sát. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
Mở đầu phiên thảo luận sáng nay, Quốc hội đã nghe Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo của UBTVQH về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai.
70% khiếu kiện là về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Theo số liệu tổng hợp của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2003 đến năm 2010, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận và xử lý trên 1,2 triệu đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai bình quân hàng năm chiếm 69,79%. Riêng từ năm 2008-2011, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt 84%. Trong đó, số vụ khiếu nại đúng chiếm 19,8%, có đúng có sai chiếm 28% và sai chiếm 52,2%; số vụ tố cáo đúng chiếm 16,2%, có đúng có sai chiếm 29,6% và sai chiếm 54,2%.
Nội dung khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính trong quản lý đất đai chủ yếu tập trung: khiếu nại các quyết định hành chính về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chiếm khoảng 70%; về giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; về cấp, thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đoàn giám sát nhận định, đây là vấn đề phức tạp nếu không được giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Theo UBTVQH, một vướng mắc rất lớn trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai là do sự chồng chéo, bất cập của các văn bản pháp luật. Theo đó, ngoài Luật Đất đai còn có 20 luật có nội dung liên quan đến đất đai, 22 nghị định của Chính phủ, 12 chỉ thị, 17 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 230 văn bản của các Bộ, ngành liên quan khác.
Bên cạnh đó, UBTVQH cũng cho rằng, nguyên nhân còn là do sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai; sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức; UBTVQH cũng nhấn mạnh sự hiểu biết và ý thức chấp hành chính sách, pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo của một bộ phận người dân còn hạn chế và việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cơ quan có trách nhiệm chưa tốt, chưa thường xuyên, liên tục.
Ma trận văn bản pháp luật
Thảo luận tại hội trường, hầu hết các đại biểu đều nêu lên những bất cập trong chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng đất. Hạn chế lớn nhất hiện nay là chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai qua các thời kỳ có nhiều thay đổi, thiếu tính ổn định, chưa đồng bộ, có những quy định chưa sát thực tế, thiếu cụ thể. Có quá nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật về đất đai. Trong các văn bản hướng dẫn lại có sự chồng chéo mâu thuẫn, từ đó việc áp dụng thực hiện gặp khó khăn dễ xảy ra sai sót. Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) nhận định: “Một ma trận trong các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra một sự rối cho cơ sở khi thực hiện. Bên cạnh đó thì việc khiếu nại đòi lại đất cũ của người dân khá nhiều và phổ biến trên cả nước”.
Thực tế, các chính sách liên quan bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua các năm thay đổi theo hướng có lợi cho người dân gây so bì về quyền lợi giữa những người dân có đất bị thu hồi tại thời điểm trước và sau khi có chính sách mới. Giá đất đền bù tại nhiều nơi chưa sát giá thị trường; có sự chênh lệch lớn giữa giá Nhà nước bồi thường và giá do nhà đầu tư thỏa thuận với người dân; giá đất tại các khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giá đất nội thị, ngoại thị trong cùng một đô thị, giá đất giữa đô thị và nông thôn trong cùng một tỉnh còn có sự chênh lệch lớn, có một số nơi chênh lệch quá lớn.
Đại biểu Khúc Thị Duyền (Thái Bình) nêu thực trạng: “Cùng một nội dung về đền bù giải phóng mặt bằng, văn bản trước đang thực hiện dở dang thì văn bản sau đã ra đời nên nhiều địa phương rất khó thực hiện. Giá đền bù cho đất nông nghiệp thấp, người dân chưa yên tâm, chưa nhất trí với giá đất mà nhà đầu tư đền bù. Trong cùng một dự án, chỉ cách một con mương nhưng giá đất đền bù đã chênh lệch nhau 5 lần”.
Nhiều đại biểu cho rằng, chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn có những tồn tại và việc thực hiện quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch chưa nghiêm, dẫn tới tình trạng thu hồi đất để hoang, triển khai dự án chậm, lãng phí nguồn tài nguyên đất, trong khi đó người dân ở vùng dự án không còn đất sản xuất, không có việc làm dẫn đến bức xúc, khiếu kiện.
Ngoài ra, hàng loạt nguyên nhân khác cũng được các đại biểu chỉ ra. Theo đại biểu Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc), một nguyên nhân quan trọng dẫn đến khiếu kiện, nhất là khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện đông người là do cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai, giải quyết về khiếu nại tố cáo, tranh chấp về đất đai vừa yếu vừa thiếu. Có nơi còn có thái độ vô cảm, bàng quan với những bức xúc của nhân dân. Đại biểu Huỳnh Văn Tiếp (TP Cần Thơ) thì nhận định, kỷ cương, kỷ luật hành chính trong khiếu nại, tố cáo chưa nghiêm, có không ít trường hợp cấp trên đã có ý kiến kết luận, quyết định và chỉ đạo giải quyết, nhưng cấp dưới không thực hiện hoặc chậm trễ trong việc thực hiện. Đại biểu Khúc Thị Duyền (Thái Bình) cho rằng, công tác thanh tra của cán bộ địa chính và chính quyền địa phương về quản lý đất đai còn bất cập dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát và sử dụng đất kém hiệu quả, dẫn đến việc khiếu kiện của người dân. Đại biểu Trương Minh Hoàng nêu lên một nguyên nhân quan trọng, đó là những biểu hiện tiêu cực, sách nhiễu của những cán bộ có quyền và trách nhiệm giải quyết những vấn đề liên quan đến đất đai, khiến người dân bức xúc.
Đại biểu Thân Đức Nam (Tp. Đà Nẵng) thì đánh giá, sự bất cập của Luật Đất đai hiện hành là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự khiếu kiện của người dân. Theo đó, Luật Đất đai quy định người được giao đất, thuê đất, phát sinh quyền sử dụng đất, do đó người sử dụng đất xem quyền sử dụng đất như một quyền tài sản của mình, dù quyền sở hữu thuộc về toàn dân, do nhà nước đại diện.
Trong khi đó, Luật Đất đai lại quy định khi Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất thì bồi thường theo giá thị trường. “Quy định như vậy có nghĩa là Nhà nước mua lại quyền sử dụng đất đã giao, kể cả đất giao không thu tiền như đất nông nghiệp. Đây là mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng mà hậu quả xảy ra trên thực tế là người dân đòi cho được giá thị trường giống như bán lại quyền sử dụng đất cho nhà nước, trong khi đó giá thị trường trên thực tế vượt quá xa giá trị sử dụng hiện hữu của miếng đất.” - đại biểu tỉnh Quảng Nam phân tích.
Sửa Luật Đất đai là yêu cầu cấp thiết
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai, các đại biểu đã đề xuất nhiều kiến nghị xung quanh nội dung này. Trong đó, yêu cầu cấp thiết là sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp của Luật Đất đai phù hợp với quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tố tụng hành chính; quy định rõ các quyền đại diện chủ sở hữu và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước; tạo khung pháp lý thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại chính đáng để người dân được yên tâm.
Đại biểu Khúc Thị Duyền (Thái Bình) nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Đất đai 2003 là rất cần thiết theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành, địa phương để đảm bảo quản lý thống nhất, rõ ràng. Nhà nước quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không phải do người sử dụng đất tạo ra, đảm bảo sự hài hoà về lợi ích của Nhà nước với lợi ích người sử dụng đất và lợi ích của nhà đầu tư; thống nhất chỉ có một giá đất đền bù cho đất nông nghiệp khi thu hồi. Bên cạnh đó, tăng cường đào tạo nghề, giúp người dân có việc làm mới để ổn định cuộc sống sau khi bị thu hồi đất; quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính cấp xã; tăng cường tuyên truyền chính sách, pháp luật về đất đai cho nhân dân.
Đại biểu Thân Đức Nam kiến nghị, cần giải quyết căn cơ những nguyên nhân bất cập của Luật Đất đai, về cơ chế thu hồi đất, trong đó có cơ chế thu hồi đối với các dự án công ích và cơ chế chuyển nhượng theo quan hệ dân sự đối với các dự án thương mại.
Đại biểu Nguyễn Thu Anh (Lâm Đồng) và một số đại biểu đề xuất cần sớm ban hành một quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai. Đại biểu Huỳnh Văn Tiếp (thành phố Cần Thơ) kiến nghị, trong sửa đổi Luật Đất đai, cần quy định bỏ hình thức chủ dự án tự thỏa thuận với dân; quy định giá đất bảo đảm nguyên tắc phù hợp cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đại biểu Đinh Thị Phương Lan (Quảng Ngãi) đề nghị, Nhà nước cần thực hiện đúng chức năng cung cấp dịch vụ công trong việc thu hồi đất, nhà nước chỉ điều chỉnh những quan hệ giao dịch đất trong trường hợp cần bảo vệ nhóm yếu thế hoặc vì lợi ích chung của quốc gia.
Trong khi đó, đại biểu Trần Văn Tấn (Tiền Giang) đề xuất, cần phải khắc phục từ hai phía, cả chính sách pháp luật và khâu tổ chức thực hiện, để chính sách pháp luật không còn mâu thuẫn, chồng chéo và khâu tổ chức thực hiện phải nghiêm túc, minh bạch, công bằng. Chính quyền cơ sở phải tâm huyết năng động và chính quyền cấp trên biết lắng nghe.
PV

Những bất cập của pháp luật trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai

(Thanhtravietnam.vn) - Theo báo cáo tổng kết công tác giải quyết khiếu nại hành chính thì số lượng các vụ việc khiếu nại về đất đai luôn chiếm tỷ lệ lớn (khoảng 80% tổng số khiếu nại hành chính) và có tính chất phức tạp. Trong khi đó các qui định của pháp luật làm căn cứ để giải quyết loại khiếu nại này lại còn nhiều điểm bất cập ảnh hưởng không nhỏ tới quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức sử dụng đất.

Qua tìm hiểu và thực tiễn thực hiện các qui định của pháp luật liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại về đất đai, chúng ta có thể thấy những điểm bất cập chủ yếu sau:
1. Phức tạp trong việc xác định đối tượng khiếu nại và văn bản áp dụng.
Việc cùng qui định về đối tượng khiếu nại trong lĩnh vực quản lí đất đai của Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Đất đai đã làm cho các cá nhân, tổ chức sử dụng đất rất khó khăn trong việc xác định đúng các quyết định hành chính, hành vi hành chính mà họ được khiếu nại.
Luật Khiếu nại, tố cáo không giới hạn cụ thể về phạm vi các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lí đất đai có thể bị khiếu nại mà chỉ đưa ra định nghĩa chung “Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lí hành chính.
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của* người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo qui định của pháp luật”.
Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này cũng chỉ giới hạn phạm vi các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lí đất đai được khiếu nại theo thủ tục khác với thủ tục khiếu nại được qui định tại Luật Khiếu nại, tố cáo. Các quyết định, hành vi này bao gồm:
- Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
- Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;
- Quyết định cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
- Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất;
- Hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc thuộc phạm vi: giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất.

Các qui định của pháp luật làm căn cứ để giải quyết khiếu nại*về đất*đai còn nhiều điểm bất cập
Như vậy, để thực hiện việc khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lí đất đai, các cá nhân, tổ chức sử dụng đất cần phải xác định đúng tính chất, nội dung của các quyết định, hành vi mà họ muốn khiếu nại rồi đối chiếu với các qui định của Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật này để xác định vụ việc của mình sẽ được giải quyết theo thủ tục chung được qui định tại Luật Khiếu nại, tố cáo hay thủ tục đặc thù được qui định tại Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Tuy nhiên, việc xác định phạm vi các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lí đất đai được khiếu nại theo thủ tục đặc thù không được qui định trong Luật Đất đai mà được qui định trong Nghị định số 181/2004/NĐ-CP (Nghị định 181) lại càng làm gia tăng tính phức tạp trong việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với những quyết định, hành vi này. Bởi vì, nếu so sánh giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này về hiệu lực pháp lí thì Luật Khiếu nại, tố cáo là văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn.
Do đó, có quan điểm cho rằng việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lí đất đai cần phải được thực hiện theo qui định của Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Mặt khác, cũng có quan điểm cho rằng Nghị định 181 phù hợp với Luật Đất đai. Do đó, việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính qui định tại Điều 162 của Nghị định này phải được thực hiện theo qui định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 136 của Luật Đất đai qui định: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ qui định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng”.
Như vậy, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh có thể được xác định là đối tượng của khiếu nại. Tuy nhiên, theo qui định tại khoản 3 Điều 138 của Luật Đất đai thì việc giải quyết khiếu nại về đất đai qui định tại khoản 2 Điều này không bao gồm trường hợp khiếu nại về quyết định giải quyết tranh chấp đất đai. Do đó, có quan điểm cho rằng việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh được thực hiện theo qui định tại khoản 2 Điều 136 của Luật Đất đai, còn việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính được qui định tại Điều 162 của Nghị định số 181 được thực hiện theo qui định tại khoản 2 Điều 138 của Luật Đất đai.
Ngược lại với quan điểm này, qui định tại Điều 160 của Nghị định số 181 đã không xác định quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh là đối tượng của khiếu nại mà xác định: Trong trường hợp không đồng ý với các quyết định giải quyết tranh chấp này, các bên tranh chấp có quyền gửi đơn xin giải quyết tranh chấp đất đai đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (nếu không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện) hoặc Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (nếu không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
Theo qui định tại khoản 10 Điều 2 của Luật Khiếu nại, tố cáo thì quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh được xác định là quyết định hành chính. Do đó, việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với loại quyết định này được thực hiện theo thủ tục chung qui định tại Luật Khiếu nại, tố cáo. Tuy vậy, do những qui định không rõ ràng và không thống nhất trong Luật Đất đai và Nghị định số 181 nên việc khiếu nại đối với loại quyết định này gặp không ít khó khăn. Đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hành chính thì loại quyết định này không được xác định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

(Còn nữa)*
**Ths. Nguyễn Mạnh HùngGiảng viên Khoa Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội

Nghiên cứu xã hội hóa lĩnh vực giám định tư pháp

(PL)- UBND TP.HCM vừa ban hành quyết định về nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp, các lĩnh vực giám định tư pháp trên địa bàn TP.HCM đến năm 2015.

Theo đề án này, Công an TP.HCM, Sở Y tế phối hợp với các sở, ngành liên quan để củng cố các tổ chức giám định tư pháp thuộc cơ quan nhà nước, đáp ứng kịp thời cho công tác điều tra xét xử; đồng thời nghiên cứu xã hội hóa các lĩnh vực giám định tư pháp.

Sở Tư pháp TP.HCM có nhiệm vụ giúp UBND TP.HCM quản lý hoạt động giám định tư pháp, xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giám định tư pháp, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giám định viên tư pháp… Các cơ quan chuyên môn phối hợp với Sở Tư pháp lựa chọn người đủ tiêu chuẩn cấp thẻ giám định viên tư pháp để bổ sung nhân sự cho Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM, Trung tâm Pháp y, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch…
N.THI

Ngăn chặn nợ, chậm nộp bảo hiểm xã hội: Cần chữa từ gốc

Theo luật, các DN nợ bảo hiểm xã hội có thể bị tước giấy phép, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng chưa một đơn vị nào bị xử lý như vậy, dù không ít DN chiếm dụng hàng tỉ đồng ròng rã năm này qua năm khác.*
*
Ngành cầu đường và xây dựng có số doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm nhiều nhất (ảnh minh hoạ của TTXVN)
Ngoài nguyên nhân luật chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ thì trách nhiệm của ngành BHXH, của chính quyền cơ sở đến đâu...?

Những khoản tiền mất trắng và...Ngày 15.1, trong buổi làm việc với chúng tôi, ông Kiều Minh - Trưởng ban Ban thu của BHXH Việt Nam - cho biết những dấu hiệu khả quan: Số nợ tuyệt đối hằng năm tuy vẫn tăng, nhưng nếu tính theo số tương đối (%) với tổng số tiền phải thu thì năm sau thấp hơn năm trước.

Cụ thể, năm 2007 nợ BHXH trong cả nước là 1.734 tỉ (số làm tròn) - bằng 6,6 % tổng số phải thu trong năm, giảm so với nợ năm trước 0,6%. Tương tự, năm 2008 các con số đó lần lượt là 2.286 tỉ đồng; 6,5% và 0,1%. Năm 2009, theo báo cáo nhanh của BHXH các tỉnh, các con số đó là 2.094 tỉ; 4,8% và 1,7%.

Phân tích riêng nợ năm 2008 với tổng số tiền là 2.286 tỉ đồng, đáng chú ý nhất có 2 dạng mang nhiều yếu tố chủ quan nhất: Loại nợ khó đòi là 537 tỉ đồng – đây là khoản nợ do người sử dụng lao động cố tình trây ỳ, chậm đóng kéo dài thời gian từ 6 tháng trở lên. Thứ hai là loại nợ có khả năng không thu hồi được là 83 tỉ đồng – đây là khoản nợ do người sử dụng lao động không có khả năng thanh toán hoặc đơn vị đang làm thủ tục giải thể, phá sản hoặc DN “ma” (DN thành lập chỉ cốt mua bán hoá đơn GTGT hoặc đấu thầu công trình, sau đó bỏ luôn). Đó là những khoản tiền nhiều khả năng mất trắng, nhưng chẳng ai phải chịu trách nhiệm (?!).

Trong tổng số nợ 2.286 tỉ của năm 2008 thì nợ của DN ngoài quốc doanh là 926 tỉ, DN có vốn nước ngoài là 725 tỉ và DN nhà nước là 466 tỉ đồng.

Theo số nợ BHXH Hà Nội 9 tháng năm 2009 của 55 DN nợ trên 1 tỉ đồng, trong đó các DN ở các ngành cầu đường và xây dựng chiếm tới gần 2/3. Hai đơn vị nợ nhiều nhất (11,7 và 8,7 tỉ đồng) cũng thuộc hai Cty cầu đường.

... đâu là nguyên nhânTheo ông Kiều Minh, nguyên nhân chủ quan của thực trạng trên là vẫn còn một số cán bộ làm công tác thu tiền nể nang, thậm chí còn “bắt tay”, “tư vấn” cho DN để trây ỳ công nợ.
Về pháp lý, mức phạt tiền với hành vi vi phạm BHXH còn quá nhẹ so với số tiền hàng tỉ đồng nợ.

Theo NĐ135/2007/NĐ–CP thì mức phạt tiền cao nhất chỉ là 20 triệu đồng. Sau đó, theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính được UBTVQH thông qua ngày 22.4.2008 thì mức phạt cao nhất cũng chỉ là 30 triệu đồng. Mặt khác, ngành BHXH cũng chỉ có quyền kiểm tra mà không có quyền xử phạt. Nếu muốn, lại phải chuyển sang Bộ LĐTBXH. Mà lực lượng thanh tra của bộ này cũng quá mỏng. Vì vậy, nhiều DN vẫn... vô tư nợ.

Theo ông Trương Lâm Danh - Phó Chủ tịch LĐLĐ TP.Hồ Chí Minh, cần bổ sung “quy định riêng” về xử phạt vi phạm Luật BHXH với mức phạt tương ứng 10% số tiền trốn đóng BHXH, cao nhất là 500 triệu đồng, đồng thời khi bổ sung “quy định riêng” xử phạt về vi phạm Luật BHXH, đề nghị các cơ quan soạn thảo luật nêu rõ các dấu hiệu để kết luận là người sử dụng lao động “trốn đóng” BHXH hay là “chiếm đoạt” BHXH của người lao động, từ đó mới có đủ căn cứ pháp lý để xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.

Cũng theo ông Danh, việc người sử dụng lao động thu BHXH của người lao động mà không nộp cho cơ quan BHXH (tùy mức độ) là có hành vi “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 137 Bộ luật Hình sự, chứ không thể nói là nợ được. Tương tự, luật cũng quy định nhiều nội dung rất nghiêm nhưng chưa được thực thi, như các DN có thể bị tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động không thời hạn, thậm chí xử lý hình sự; tuy nhiên, cũng chưa có trường hợp nào bị phạt theo hình thức này.

Mặc khác, tổ chức công đoàn ở cơ sở chưa dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi người lao động, đặc biệt đối với những trường hợp mà người sử dụng lao động đã trích tiền đóng của người lao động, nhưng không nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.*

Cần có cách nhìn mới về nợ BHXH
Theo ông Trương Lâm Danh - Phó Chủ tịch LĐLĐ TP. Hồ Chí Minh: Trước nay cả BHXH lẫn các ngành chức năng đều sử dụng cụm từ “nợ BHXH” hoặc “nợ đọng BHXH kéo dài” là chưa chính xác, bởi thực tế, Nhà nước giao quyền cho người sử dụng lao động chủ động trích 6% tiền lương tháng của người lao động để đóng BHXH, nhưng người sử dụng lao động “bỏ túi” thì không có nghĩa là đã được người lao động đồng ý cho vay. Tóm lại, khi người sử dụng lao động không đóng BHXH cho người lao động thì chỉ có thể hiểu là “trốn đóng BHXH” hoặc “chiếm đoạt BHXH” chứ không thể coi là “nợ BHXH”.
Minh Đức
Nguồn: Theo Lao Động
*

Người Việt Nam sống ở nước ngoài thừa kế nhà trong nước

“Tôi mang quốc tịch Việt Nam nhưng đã kết hôn và đang sống tại Nhật Bản. Tôi là con một, trong khi mẹ ở trong nước đã nhiều tuổi, muốn làm di chúc cho con thưởng thừa kế ngôi nhà thuộc diện Nhà nước quản lý. Vậy quyền của tôi như thế nào?” (Bạn đọc Doan Nhu)
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, nếu cụ có quyền sở hữu nhà hợp pháp thì có thể di chúc lại cho con. Tuy nhiên, thực tế việc đăng ký quyền sở hữu nhà với người Việt Nam sống tại nước ngoài còn chưa được hướng dẫn cụ thể. Nếu bạn mới ra nước ngoài, vẫn còn hộ khẩu trong nước thì thủ tục sẽ không phức tạp lắm.
Tuy nhiên, nếu nhà mà cụ đang sống là thuê của Nhà nước, thì không thể lập di chúc để lại cho con. Thay vào đó, cụ có thể chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà cho bạn. Hoặc, cụ có thể yêu cầu công ty quản lý nhà bán cho mình (nếu nhà thuộc diện được bán), sau đó để lại thừa kế cho bạn.
AH&Law On Line