Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014
Phân tâm học hiện đại qua cái nhìn Phật giáo
02:47
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phân tâm học là ngành tâm lý học chiều sâu do Sigmund Freud
(1856 – 1939) sáng lập, mặc dù trước ông có những nhà tâm lý học đi
theo hướng này, ví dụ như Mesmer (1734 – 1815) đã sử dụng thôi miên để
chữa bệnh tâm lý, trường phái Nancy (cuối thế kỹ XIX) sử dụng thôi miên
để chữa bệnh tâm thần, hay Von Hartman viết một cuốn sách được tái bản
đến lần thứ 11 khi ông còn sống là cuốnTriết học về Vô thức (1869).
Đúng
như nhận xét của Ellenbenger (1970): “đa số những gì gán cho công của
Freud là những kiến thức đang phổ biến vào thời ấy, và vai trò của ông
là kết tinh nên chúng và cho chúng một hình thức độc đáo”. Sau Freud một
chút là Carl Jung (1875 – 1961). Jung đã quen biết và hợp tác với Freud
từ 1906 cho đến Đại hội phân tâm học lần thứ IV (1912) và sau đó tách
riêng (dù Freud đã đề cử Jung làm chủ tịch của Hiệp hội Phân tâm học thế
giới) vì không đồng ý với quan điểm libido (dục lực) đầy tính dục tình
của Freud, trong khi ông quan niệm libido là một sức mạnh bản năng tâm
lực hơn.
Ngày nay có hàng trăm viện, trung tâm
Jung trên khắp thế giới. Hội Tâm lý học Phân tích quốc tế (IAAP) được
thành lập năm 1955, có 2500 nhà phân tích phân tâm học của Jung trên thế
giới được đào tạo chính quy, số tạp chí chuyên đề phân tâm học của Jung
cũng lên tới con số vài chục. Thập niên 1950, D.T.Suzuki đã có cuộc hội
thảo với những nhà phân tâm học, một số bài được in trong Thiền và Phân
tâm học (London 1960).
Sau đây chúng ta nhìn sơ lược qua một số chủ đề của phân tâm học trong một viễn cảnh của Duy thức học Phật giáo.
Và chúng ta biết rằng Duy thức học không phải là tất cả “tâm lý học”
Phật giáo, mà chỉ là một phần, vì Duy thức học chỉ một tông phái Phật
giáo. Chúng ta cũng cần ý thức rõ rằng tâm lý học nói chung còn là một
khoa học mới mẻ, chưa tiến được nhiều so với vật lý học, và cả hai đang
mơ về một lý thuyết thống nhất: “Tâm lý học chưa chiến thắng được cuộc
chiến thống nhất vĩ đại của nó. Nó đã có được những tia chớp nhận thức,
nó đã có một ít chìa khóa, nhưng nó chưa đạt đến một tổng hợp hay một
trực giác thuyết phục và hợp lý”, Heidebreder 1933). Nhận xét này vẫn
đúng cho đến cuối thế kỷ XX, như các nhà tâm lý học thời hiện thời nhận
định.
1. Vô thức
Sự khám phá ra vô thức đã đặt nền móng
cho phân tâm học, vì phân tâm học là tâm lý học về vô thức hay tiềm
thức. Vô thức là kho chứa những cảm xúc, những tình cảm, những tham
muốn, những giận ghét v.v… bị “dồn nén” (những chữ trong ngoặc kép là
của phân tâm học) vào bên trong, kho chứa những “mặc cảm mang màu sắc
cảm xúc”. Để hiểu sơ vô thức là gì, chúng ta nói đến thí nghiệm liên
tưởng từ (association test) của Jung. Người được thử nghiệm phải trả lời
tức khắc khoảng 100 từ được đọc chậm bằng những từ đầu tiên vừa hiện
trong đầu mình. Người kiểm tra sẽ ghi thời gian phản ứng đối với từng
chữ một. Khi trước một từ mà đương sự phản ứng chậm, ngập ngừng, thì đây
là từ có vấn đề: từ ấy đã chạm đến một mặc cảm. Ví dụ tới từ “màu đỏ”,
đương sự ngập ngừng, thì có thể là hồi còn nằm trong nôi y đã bị ai đó
đắp cho cái mền màu đỏ mà vô tình phủ lên mặt, và từ đó y sợ màu đỏ cho
tới lớn, sự sợ hãi màu đỏ đã chìm vào vô thức và điều kiện hóa hành động
sống bình thường của y. Để làm cho y hết sợ màu đỏ, nhà phân tâm học
dùng “thôi miên” hay “liên tưởng tự do” hay “phân tích giấc mơ” (theo
phương pháp Freud) hoặc dùng phương pháp “phân tích bằng cách nói
chuyện” (theo Jung) để đưa sự dồn nén (repression) hay mặc cảm
(complexe) ấy ra ánh sáng của ý thức. Khi được đưa ra ý thức, khi nó
được biết đến, mặc cảm đó được giải phóng, người ta lành bệnh, hết sợ
màu đỏ một cách vô thức.
Đời sống bình thường của con người được
quy định, bị điều động rất nhiều những mặc cảm này. Ví dụ. sư nghiệp của
Napoleon, ngoài tài năng quân sự và tham vọng cầm quyền, còn bị điều
động bởi một mặc cảm thấp lùn mà mọi người thường chế giễu khi còn ở
trường sĩ quan. Hoặc Hitler, còn có mặc cảm là người thợ sơn, một người
lính tầm thường, ngoài ra người ta còn thấy tính bạo hành (sadisme)
trong việc đưa 6 triệu người Do Thái vào lò hơi ngạt. Hoặc các thanh
niên đua xe, ngoài việc thích tốc độ, còn có thể có mặc cảm thu sút nên
muốn chứng tỏ mình. Hoặc những người nghiện rượu, nghiện ma túy cũng có
những vấn đề mặc cảm nào đó, hay nói theo Phật giáo có những phiền não
không thể giải tỏa nào đó. Sự khám phá ra vô thức cho chúng ta thấy,
cuộc sống bình thường của chúng ta phần nhiều diễn ra trong vô thức,
không có ý thức. Chúng ta thường hành động một cách vô ý thức, đây là
điều Phật giáo gọi là hành động không tỉnh giác, hành động vô minh.
Bây giờ khi so sánh với Duy thức, thì
cái vô thức của những nhà phân tâm học đã đi đến cái thức thứ tám (alaya
– vijnana), kho chứa tất cả những ấn tượng, những cảm xúc, thói quen…
của con người. Thức thứ tám hay thức a lại da là kho chứa (tạng thức)
tất cả những gì năm thức giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) cảm nhận,
được tô đậm thêm bằng sự phân biệt của thức thứ sáu là ý thức, được
khúc xạ qua mạt na (thức chấp ngã thứ 7). Thức thứ 8 là thức nền tảng
của sinh mệnh, chứa tất cả những hành động (nghiệp) của quá khứ. Những
gì được chứa là những chủng tử (hạt giống) chờ cơ duyên để biểu hiện ra
(hiện hành).
Vô thức của phân tâm học là thức thứ 8 của Duy thức. Có điều thức a lại da của Duy thức thì rộng hơn và sâu hơn vô thức.
Rộng hơn: vô thức chỉ chứa những mặc
cảm, những phiền não lớn (gây ra bệnh tâm thần) còn a lại da thì chứa
tất cả những kinh nghiệm sống của con người có được qua 8 thức.
Sâu hơn: vì a lại da không chỉ chứa tất
cả những kinh nghiệm sống trong một kiếp mà của tất cả kiếp, từ khi có
thời gian đối với con người.
Ở đây cũng nói thêm, một số ít nhà phân
tâm học và cả một số nhà mà bây giờ chúng ta gọi là trường sinh học (như
Edgard Cayce), khi thôi miên nhiều bệnh nhân, họ có thấy một số nguyên
nhân gây bệnh không ở trong đời này mà ở một quá khứ vượt qua đời này.
Ví dụ, người sợ nước một cách vô cớ thì y đã chết đuối trong quá khứ,
hoặc người vào một phòng không có cửa hay một hẻm cụt thì sợ, vì y đã
chết trong hầm không có lối thoát vào đời trước, hoặc khi thôi miên có
người nói bằng những tiếng cổ ngữ rất xưa mà y chưa từng học hay gặp…
Nhưng một số truyền thống tôn giáo - triết học không tin có những đời
trước, những ghi nhận này không được công nhận chính thức. Ở đây chúng
ta ghi nhận thêm một điều: công cụ để thăm dò vô thức là thôi miên thì
kém rất xa công cụ thăm dò vô thức của Phật giáo là thiền định và thiền
quán.
Cũng chính vì không hình dung ra những
đời trước cho nên khi thấy trong tâm thức những người khác nhau lại có
những cổ mẫu (archetype) giống nhau nên Jung đã cho có một “vô thức tập
thể” chung. Theo quan điểm Phật giáo có những cổ mẫu giống nhau là vì
những người ấy trong những đời trước đã sống cùng những nơi chốn như
nhau nên tâm thức của họ được in vào những hình ảnh, những biểu tượng
giống nhau. Nếu vô thức là tập thể thì một người thành Phật, nghĩa là
chuyển thức hoàn toàn thành trí, như Đức Thích Ca, thì tất cả mọi người
đều đồng thời được tịnh hóa tâm thức, đều được giải thoát. Cho nên không
có a lại da tập thể, mà chỉ có tương tác giữa các vô thức hay a lại da
thức với nhau.
Nhờ sự khám phá ra vô thức, chúng ta
biết nhân cách con người rộng lớn hơn ý thức rất nhiều. Chỉ nói riêng về
sự ứng dụng phân tâm học vào văn học, mặc dù phân tâm học vẫn là môn
học phát triển chậm và không mạnh ở Việt Nam, hiện nay chúng ta thấy
những giáo sư về văn học đã giới thiệu, nghiên cứu và có người đã dùng
nó trong nghiên cứu văn học: Đỗ Lai Thúy (Phân tâm học và văn hóa nghệ
thuật, NXB Văn hóa thông tin, 2004,Phân tâm học và văn hóa tâm linh),
Phương Lựu (Lý luận phê bình văn học Phương Tây thế kỷ XX, NXB Văn Học,
2001), Nguyễn Văn Dân (Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học
xã hội, 2004), Tạp chí văn học số 2, 7, 9 năm 1995…
2. Chữa bệnh
Như vậy với vô thức và sự dồn nén, theo
quan điểm phân tâm học, hầu hết mọi người đều có tâm bệnh, vì hầu hết
đều có ít nhất là một mặc cảm nào đó. Nhưng đối với Phật giáo, thì tất
cả chúng ta, tất cả chúng sinh đều có bệnh, và mầm bệnh không chỉ mới
một đời này mà đã tích tập từ đời trước. Đó là bệnh lo sợ, bệnh tham
lam, bệnh giận dữ, bệnh si mê, bệnh phiền não, tất cả những cái này là
những sức mạnh (nghiệp lực) tạo ra căn bệnh lớn nhất là sống và chết,
vòng sanh tử tiếp nối triền miên không dứt. Với Phật giáo, ngày nào con
người hết phiền não, không còn bị lôi kéo theo vòng quay của sống chết,
ngày đó con người mới được gọi là hết bệnh. Vì lẽ đó, Đức Phật được kinh
điển xưng là Bậc Đại Y Vương.
Cách chữa bệnh của phân tâm học là hữu
thức hóa nội dung bị che giấu trong vô thức, hay đưa ra ánh sáng của ý
thức những mặc cảm làm sinh bệnh ở trong vô thức. Sự “mở rộng ý thức”
này, mở rộng ánh sáng vào vùng tối của vô thức là hướng chiến lược của
chữa bệnh theo phân tâm học.
Quan niệm về bệnh của Phật giáo sâu rộng
như vậy, theo đó người ta luôn luôn mang bệnh (Khổ đế) và tích tập thêm
nguyên nhân của bệnh trong người (Tập đế: chân lý thứ 2 của bốn chân lý
cao cả của Phật giáo) nên không chờ đợi bệnh hiển lộ ra thành những
triệu chứng tâm thần, trầm uất, mất ngủ, ám ảnh, nổi mụn nhọt, động
kinh… mà Phật giáo chủ động chữa bệnh ngay khi chúng còn tiềm ẩn trong
vô thức. Đó là sự thực hành những pháp môn Phật giáo, hay theo ngôn ngữ
thường dùng là “tu hành”.
Do quan niêm vô thức của phân tâm học
hạn hẹp hơn a lại da thức của Duy thức, phương pháp chữa bệnh cũng giới
hạn hơn, nên cùng lắm phân tâm học chỉ chữa lành được những bệnh ở đời
này, còn sự lành bệnh của Phật giáo là sự lành bệnh tất cả mọi đời, sự
lành bệnh vĩnh viễn. Sự chữa lành của Phật giáo dựa trên thiền định,
thiền quán và thiền định thiền quán đồng thời, như nhiều kinh nói, mà
kinh Viên Giác là một ví dụ.
Phật giáo không chỉ giải tỏa những dồn
nén, những mặc cảm – những cái này chỉ là những phiền não thô – mà còn
giải tỏa nguyên nhân sâu sa của phiền não, dồn nén, mặc cảm, đó là sự
chấp ngã, chấp pháp (chấp vào một cái ta giả tạo và chấp rằng những hiện
tượng là có thật và không bao giờ biến đổi). Hai cái chấp này đã tạo ra
hai sự che chướng, phiền não chướng và sở tri chướng. Những “vô minh”
này đã che chướng, cắt lìa con người khỏi thực tại, làm cho tâm thức con
người trở thành què cụt, méo mó, biến dạng và chính cái này đã tạo ra
khổ đau. Khổ đau kết đọng trong tâm (tâm bệnh) sẽ thành khổ đau kết đọng
nơi thân (thân bệnh), đây là quan điểm của y học Phương Tây hiện đại, y
học tâm thể (médecine psychosomatique). Như thế, sự chữa lành của Phật
giáo sâu xa hơn, và do đó sự phục hồi con người trở lại trạng thái lành
bệnh (hết vô minh) cũng toàn diện hơn, đến mức con người tổng thể (chữ
dùng của Jung để chỉ con người đã lành hẳn bệnh) của Phật giáo là một
trạng thái sâu xa và rộng lớn không thể nghĩ bàn.
3. Sự tiếp cận của phân tâm học với Phương Đông
Khi đào sâu vào ý thức và vượt qua ý
thức để đến một vùng gọi là vô thức, phân tâm học cho chúng ta biết rằng
con người thì vốn rộng lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Với Freud thì
con người gồm có bản năng tính dục (Id), ngã (ego) và siêu ngã
(superego), cái vượt khỏi cái tôi). Với Jung thì cái vượt khỏi lên cái
tôi là “vô thức tập thể”, một chiều sâu chung của các tâm thức con
người. Jung không quan niệm vô thức là phần tối tăm dưới đáy như Freud,
mà là phần ‘có những yếu tố cao siêu, siêu cá nhân’. Càng về sau, các
nhà phân tâm học quan niệm vô thức có chiều cao của nó là “siêu thức”và
phân tâm học là “tâm lý học về những chiều cao”. Abraham Maslow (1908 –
1970) dùng thuật ngữ “hữu thể” cho tất cả những kiểu thể nghiệm mà chúng
ta gọi là siêu thức, vì một trong những đặc tính của chúng là đem lại
một cảm giác “viên mãn của hữu thể” (Bông hồng tâm linh hay sự phát
triển siêu cá nhân, R. Assagioli, Huyền Giang dịch trong Phân tâm học và
văn hóa tâm linh).
Trong phạm vi một bài ngắn, chúng ta
không bàn những giới hạn và có thể có những sai lầm của những ý niệm
trên. Chúng ta chỉ chú ý một điều: Phân tâm học phương Tây bắt đầu tiếp
cận với đạo học phương Đông, nghĩa là đi từ một chữ tâm viết thường đến
một chữ Tâm viết hoa, như truyền thống phương Đông đã làm. Chính vì
hướng đi tất yếu của phân tâm học là khám phá và mở rộng đào sâu con
người nói chung và tâm thức con người nói riêng mà phong trào tâm phân
học vẫn còn tồn tại và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Khác với một
phong trào khác như cơ cấu luận hay cấu trúc luận (structurialisme)
xuất hiện ở Âu Mỹ vào thập niên 50 rất nổi đình nổi đám nhưng đã chìm
xuống chỉ sau hai, ba thập niên: cơ cấu luận đã trở lại với giới hạn nhỏ
hẹp của chính nó.
Nói về sự tiếp cận của phân tâm học
phương Đông, có lẽ tốt hơn, chúng ta trích vài đoạn trong lời giới thiệu
của Jung tựa đề “ Bình giảng tâm lý học” (1935) viết cho cuốn Tạng thư
về Đại giải thoát (The Tibetan Book of the great Liberation) do Evans
Wentz dịch ra tiếng Anh:
“Sự kiện phương Đông có thể sẵn sàng bỏ
cái ngã (ego) khá dễ dàng hình như chỉ ra một cái tâm không phải là cái
tâm bình thường của chúng ta. Chắc chắn cái ngã không đóng cùng một vai
trò trong tư tưởng phương Đông như nó đã giữ vai trò ấy trong văn hóa
chúng ta. Có lẽ như tâm thức phương Đông ít quy ngã hơn, những nội dung
của nó nối kết lỏng hơn với chủ thể, sự nhấn mạnh lớn lao hơn được đặt
vào những trạng thái tâm thức mang tính vô ngã…
“Chúng ta phải vươn tới được những giá
trị phương Đông từ bên trong mà không phải từ bên ngoài, tìm kiếm chúng
trong chính chúng ta, trong cái mà những nhà phân tâm học gọi là vô
thức. Bấy giờ chúng ta sẽ khám phá sự sợ hãi của chúng ta đối với cái vô
thức là lớn biết bao nhiêu và sự chống cự của chúng ta là khinh khủng
biết bao nhiêu. Do sự chống cự này mà chúng ta nghi ngờ chính cái có vẻ
rất rõ ràng hiển nhiên đối với phương Đông, cái có tên lànăng lực tự
giải thoát của tâm hướng nội. Phương diện này của tâm không được phương
Tây biết đến một cách thực tiễn, dù cho nó là bộ phận cấu thành quan
trọng nhất của cái vô thức.
“Chúng ta không cho rằng tâm là một thực
thể siêu hình học hoặc có bất kỳ một mối nối kết nào giữa cái tâm cá
nhân và một tâm vũ trụ còn chưa được biết. Thế nên, tâm lí học của chúng
ta là một khoa học thuần túy hiện tượng mà không có một nội dung siêu
hình học nào. Sự phát triển của tâm lí học phương Tây trong hai thế kỷ
vừa qua đã thành công trong việc đã cô lập tâm thức vào lĩnh vực riêng
của nó và cắt đứt nó lìa khỏi tính nhất thể vốn có của nó với vũ trụ …
“Thành ngữ ‘thấy thực tại’ rõ ràng ám
chỉ tâm như là thực tại tối thượng. Tuy nhiên ở phương Tây, vô thức bị
xem là một phi thực tại kì quái. “Thấy tâm” bao hàm tự giải thoát. Điều
này có nghĩa là, về mặt tâm lý học, chúng ta càng chú tâm vào tiến trình
của vô thức chừng nào thì chúng ta càng tách lìa với thế giới của dục
vọng và của phân chia chừng đó, và chúng ta càng gần hơn với trạng thái
vô thức với những phẩm chất nhất thể, vô tướng và không có thời gian của
nó chừng đó… Tự hiểu biết ở đây là ‘biết tâm’, nó có nghĩa là sự hiểu
biết cái vô thức là thiết yếu cho bất kì sự hiểu biết nào về tâm lý của
chính mỗi người…”
Qua đoạn văn này chúng ta thấy được
khuynh hướng tất yếu của phân tâm học phương Tây khi nghiên cứu tâm thức
con người là trở về với cội nguồn, với nền tảng, bản tánh của tâm thức,
nghĩa là trở về với cái Tâm viết hoa của phương Đông.
4. Con người toàn diện
Vào những năm 60, Herbert Marcuse, một
triết gia ở Mỹ chịu ảnh hưởng của Freud ( cuốnEros and Civilization-Dục
tính và văn minh) và Heidegger, nhận định rằng con người hiện đại là con
người một chiều (one- dimensional man). Theo quan điểm phân tâm học,
con người một chiều là con người chỉ sống theo một hướng trên chiều rộng
của ý thức, không có chiều sâu của vô thức trong đó có tâm linh. Như
hiện nay chúng ta thấy, vì thiếu chiều sâu của tâm linh nên con người
chỉ biết tiêu thụ và sản xuất điên cuồng, làm hư hỏng môi trường trái
đất, tàn sát nhau bằng những cuộc chiến gọi là “ sự va chạm của nền văn
minh” (nhan đề một cuốn sách của Samuel Hungtington), những bom và hỏa
tiễn “thông minh” cho đến “bom người” của khủng bố, những “cá lớn nuốt
cá bé” trong kinh tế… Đúng như Freud đã nói (1930) trong Văn minh và
những bất toại nguyện của nó ( Civilization and its discontents), văn
minh chẳng phải đang thay thế cho dã man bằng cách dồn nén cái dã man
vào chỗ sâu kín ( sao không triệt để như Phật giáo là hóa giải thay vì
dồn nén ?), mà chính là đang chuẩn bị để cho sự dã man thực hiện những
đợt phun trào mới. Và người phương Tây nghĩ thế nào về lời tiên tri của
Andre Malraux rằng “thế kỉ 21 là thế kỉ của tôn giáo hay thế kỉ của tâm
linh”?
Phân tâm học hy vọng đưa chúng ta tới
đâu? Đâu là con người toàn diện cho chúng ta hướng tới? Chúng ta phải
hoàn thiện theo chiều hướng nào?
Trong quan niệm của Jung, đó là một nhân
cách tổng thể gồm cả ý thức và vô thức hài hòa với nhau: “Nhà phân tích
phải thiết lập mối liên hệ với cả hai nửa của nhân cách người bệnh, bởi
vì chỉ từ đó mới có thể có được con người trọn vẹn và tổng thể”. Sự
thống nhất hài hòa này được Jung gọi là sự “ tự thể hiện mình”. Không
hẹn mà gặp, đây là điều nòng cốt của triết học Heidegger. “Con người
hiện đại, và như vậy cả triết học của nó, đều đã bỏ quên thể tính”. Thể
tính (Etre, Sein) của Heidegger chính là cái vô thức viết hoa của Jung.
Theo Jung, con người tiến hóa đến sự
hoàn thiện của chính nó bằng một quá trình mà ông gọi là cá nhân hóa
(individualization). Cá nhân hóa không phải là chủ nghĩa cá nhân hay sự
quy ngã, mà ngược lại, đó là sự mở rộng của ý thức cá nhân để xuyên thấu
và hòa hợp được với vô thức. “Tính cách một mặt, một chiều của ý thức
cần được sửa chữa, được bù trừ bởi sự tương tác giữa ý thức và vô thức.
Điều này mô tả sự đấu tranh để đạt đến sự trọn vẹn mà Jung tin là sẵn có
trong tất cả mọi người” (E.A.Bennet – What Jung really said? 1966). Đây
là lời của chính Jung: “Quá trình này trên thực tế là sự nhận biết một
cách tự phát tính toàn thể của con người… Nhưng bởi vì mọi thứ hiện hữu
hướng tới một cách tổng thể, nên tính một mặt, một chiều tất định của
đời sống ý thức của chúng ta tiếp tục được sửa chữa và được bù trừ bởi
một con người chung trong chúng ta (nhấn mạnh của bài viết người này) ,
mục tiêu của nó là sự hoàn toàn hòa nhập giữa ý thức và vô thức, hay
đúng hơn, sự đồng hóa cái tôi vào một nhân cách rộng lớn hơn”.
Con đường đi đến một con người toàn
thiện, “tổng thể”, đi đến “một con người chung trong chúng ta”, hay nói
theo ngôn ngữ của Thiền tông, đi đến “khuôn mặt xưa nay”, “con người
chân thật không có danh vị” (‘vô vị chân nhân’ của Thiền sư Lâm Tế), con
đường ấy vẫn được tiếp tục cho đến các nhà tâm lý học ngày nay.
Chẳng hạn, chúng ta đọc cuốn sách Những
thành tựu lẫy lừng trong tâm lý học hiện đại của Pierre Daco (biên dịch
Võ Liên Phương, NXB Thống Kê,2004). Cuốn sách giới thiệu P.Daco: “Một
nhà tâm lý học có nhiều kinh nghiệm, có một chỗ đứng vững chắc để trả
lời vô số câu hỏi mà cuộc sống hiện đại đặt ra cho chúng ta. Ông rất nổi
tiếng với các cuộc nói chuyện trên đài phát thanh, các bài báo cũng như
các buổi diễn thuyết, đã tră lời hàng ngàn lá thư về các vấn đề liên
quan tới con người. Ông đã chứng minh cho chúng ta thấy khoa tâm lý học
đã đem lại nhiều lợi ích cho con người hơn lả khoa phẫu thuật đã đem lại
cho cơ thể”. Pierre Daco đã chấm dứt cuốn sách của mình bằng những lời
như sau:
“Bản thân sự giáo dục cũng không quan
trọng cho lắm. Nếu giáo dục không dạy cho con người biết tổng hợp cuộc
đời thì nó vẫn khô khan và không có giá trị nào…Con người không nên tìm
kiếm sự giáo dục mà là tìm kiếm sự sung mãn, trọn vẹn. Anh ta phải tìm
hiểu các khả năng của chính mình và thực hiện chúng trong sự hài hòa của
chính anh ta…Đạt được chủ thể tính (tương đương với cá nhân hóa của
Jung ) là mục tiêu cao quý nhất. Không có chủ thể tính, con người
“tưởng” đã hiểu, nhưng thực nó chỉ nhìn qua ‘cái tôi’ đã hóa đá. Chủ thể
tính chỉ có thể đạt đến với sự giải tỏa được chính mình và các vấn nạn
vô thức…
“Với một chủ thể tính sáng suốt, con
người đạt đến sự tỏa sáng. Đến lúc đó anh ta là một sức mạnh ổn định để
ban phát. Sự tỏa sáng không bao giờ được tìm thấy trong lo sợ hoặc yếu
đuối. Nó được tạo ra trong sự thoải mái tinh thần, và con người không
còn chạy trốn các vấn đề của nó.
“Chúng ta không nên chiêm ngưỡng những
gì vĩ đại ở vài con người. Sự vĩ đại đó chỉ là hậu quả của những khả
năng đã được giải tỏa. Nhưng chúng ta phải thương xót vì còn có một cái
gì còn thiếu ở nhiều người khác, thay vì những gì họ có thể là…Và như
thế, bằng tâm lý học, con người có thể đứng vững trên đôi chân mình
trong hàng ngũ các nhà nhân bản tích cực. Sự quân bình của nó là bệ
phóng. Sự lo âu và sợ hãi đã biến mất với niềm vui của thiên nhiên vừa
tìm lại được. Anh ta bước lên một vùng cao, với sức mạnh được tăng thêm
nhiều, sự khoan dung sáng suốt và cao thượng. Anh ta nhã nhặn, hướng về
người khác. Sự hào phóng và lòng tốt của anh ta không xuất phát từ một
nhu cầu bên trong, nhưng do một sức mạnh bình lặng. Anh ta có sự thông
hiểu bởi vì trong tâm trí của anh mọi đấu tranh đã chấm dứt…Tính khả ái
của anh đến từ một sức mạnh vĩ đại, chứ không từ sự yếu đuối…”
Chúng ta có thể nói, một con người tổng
thể, toàn diện và hài hòa là một con người “tỏa sáng”. Chúng ta đã gặp
những sự tỏa sáng mạnh mẽ và trọn vẹn hơn nữa suốt con đường lịch sử
Phật giáo.
Để chấm dứt, chúng ta đọc một diễn tả cụ
thể của Lục Tổ Huệ Năng (thế kỉ thứ 7) về con đường tiến đến một con
người tổng thể toàn diện như thế nào, từ một thức a lại da (vô thức) như
một biển lớn đầy các thứ thủy quái phiền não đáng sợ đến sự tỏa sáng
của con người tổng thể và toàn diện. Sự chuyển hóa này, đối với Duy thức
tông, được gọi là “chuyển thức thành trí” , nghĩa là chuyển cả ý thức
và vô thức thành trí huệ, và trí huệ là sự tỏa sáng rốt ráo trọn vẹn
(Trí huệ Ba la mật):
“Đại chúng! Thân vật chất của con người
là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm
là đất, tánh là vua…Muốn thấy Phật, hãy hướng vào tánh mà nhìn, chớ
hướng ra bên ngoài tìm kiếm…Chấp ta, chấp người là núi Tu Di, tham dục
là biển nước, phiền não là sóng lớn, lòng độc hại là rồng dữ, lòng giả
dối là quỷ thần, lòng tà vạy là rùa trạnh, lòng tham sân là địa ngục,
lòng ngu si là súc sinh.
“Các thiện tri thức! Thường làm mười
điều thiện thì thiên đường tự đến, trừ bỏ chấp ta chấp người thì thì núi
Tu Di đổ, bỏ lòng tà vạy thì biển nước khô, không có phiền não thì sóng
lớn diệt, bỏ độc hại thì cá rồng tuyệt.
“Trên đất tâm mình có tánh giác Như Lai,
phóng ra ánh sáng lớn, ngoài chiếu sáu cửa sạch trưng, phá hết cõi trời
dục lục, tự tánh chiếu vào bên trong, ba độc liền dứt, các tội địa ngục
nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài đều sáng suốt như vậy, chẳng khác gì
cõi Phật ở Tây Phương”.
Đây có phải là sự thành tựu mà tâm phân học Tây phương vẫn mơ ước ?
NGUYỄN THẾ ĐĂNG (NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét