Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
Peter Rutland và Philip Pomper – Stalin là người đã làm Liên Xô tan rã.
16:09
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Hai
mươi năm sau cuộc đảo chính làm tan rã Liên Xô, cần phải trở lại với
câu đố về sự cáo chung bất ngờ của nó. Nhân vật nào phải chịu trách
nhiệm nhiều nhất về sự sụp đổ của Liên Xô? Câu trả lời thường là nhà
lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev (đối với những người theo phái tự do)
hay tổng thống Mĩ Ronald Reagan (đối với những người bảo thủ). Nhưng
trên thực tế, chỉ có một nhân vật xứng đáng được quan tâm mà thôi: đấy
là Josef Stalin.
Stalin
thường được người ta mô tả như là một thiên tài độc ác nham hiểm, người
đã lợi dụng sự kém cỏi của phương Tây và sự hiện diện của Hồng quân ở
Berlin vào năm 1945 nhằm mở rộng đế chế Xô Viết vào sâu trong lãnh thổ
châu Âu.
Trên
thực tế, sự phóng chiếu sức mạnh của Liên Xô vào Trung Âu là sai lầm
chiến lược, đã đưa nhà nước Xô Viết đến chỗ diệt vong. Stalin chấp nhận
hoàn toàn luận cứ của Vladimir Lenin, cho rằng chủ nghĩa đế quốc là
“giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Điều này có nghĩa là còn tồn
tại thì chủ nghĩa tư bản còn tìm cách bành trường bằng những cuộc chiến
tranh đế quốc và chinh phục lãnh thổ. Để bảo vệ Liên Xô trước cuộc tấn
công như thế, Stalin quyết định giữ lại những đội quân khổng lồ ngay cả
trong thời bình và đầu tư nhằm bảo đảm an ninh cho một dải đất rộng lớn ở
Đông Âu, coi đấy là vùng đệm trước những cuộc đột kích trong tương lai.
Nhưng
tư duy chiến lược của Stalin là tư duy cổ lỗ. Trong những thập niên sau
năm 1945 đã không hề có một cuộc tấn công đế quốc chủ nghĩa nào. Việc
triển khai tên lửa đạn đạo xuyên đại dương có gắn đầu đạn hạt nhân làm
cho chiến tranh giữa các siêu cường trở thành phi lí. Hơn nữa, não trạng
đế quốc chủ nghĩa đã tự tan vỡ sau những vụ tắm máu liên tiếp trong Thế
chiến I và Thế chiến II. Trong suốt thập kỉ sau năm 1945 các đế chế ở
châu Âu rơi vào tình trạng phân rã, còn Mĩ thì không quan tâm tới việc
xây dựng đế chế hay khởi sự những cuộc chiến lớn trên bộ nữa.
Như
vậy là, Stalin đã bảo vệ mình trước mối đe dọa không tồn tại nữa và ông
ta đã biến Liên Xô thành đế chế đa sắc tộc trong thời đại khi mà việc
xây dựng đế chế đã trở thành lỗi thời và chủ nghĩa dân tộc đang ngày
càng có thêm sức mạnh.
Những
người bảo vệ Stalin - ở nước Nga đương đại hiện vẫn còn nhiều người như
thế - mô tả ông ta là nhà lãnh đạo có con mắt nhìn xa trông rộng, người
đã cứu Liên Xô khỏi cuộc tấn công của chủ nghĩa quốc xã. Họ biện hộ cho
những đau khổ mà nhân dân Liên Xô phải chịu đựng dưới thời Stalin, coi
đấy là giá phải trả cho quá trình công nghiệp hóa đất nước một cách
nhanh chóng và bảo đảm an ninh cho quốc gia trước kẻ thù – hai điều kiện
tiên quyết hằm bảo đảm cho các công dân một tương lai tươi sáng. Nhưng
trên thực tế, Stalin đã rơi vào bẫy của những giả định cổ lỗ sỹ của thế
kỉ XIX về tính chất của chiến tranh và bản chất của quyền lực trong hậu
bán thế kỉ XX.
Trong
khi tìm cách bảo vệ mình trước chủ nghĩa đế quốc phương Tây, Stalin lại
đưa nước Nga vào con đường tự hủy diệt. Liên Xô đã è cổ gánh khoản ngân
sách quân sự quá lớn, ngốn ít nhất cũng khoảng 25% GDP và phải triển
khai mấy triệu binh sĩ để kiểm soát những khu vực thuộc địa ở Đông Âu.
Trước
khi Thế chiến II kết thúc, Stalin đã sát nhập các nước vùng Baltic,
Moldova và Tây Ukraine vào Liên Xô. Đa số tuyệt đối dân chúng những vùng
lãnh thổ bị chiếm đóng này không muốn trở thành một phần của Liên Xô,
thậm chí sau này những nhà lãnh đạo cộng sản của các nước đó cũng có
những tình cảm như thế. Nếu Stalin không khăng khăng sát nhập các nước
vùng Baltic mà để cho họ đi theo con đường của Phần Lan – tức là độc lập
với Nga từ năm 1918 – thì có khả năng là những cố gắng cải cách của
Gorbachev trong giai đoạn perestroika đã thu được thắng lợi rồi.
Như đã thấy, công cuộc cải cách của ông ta đã trệch hướng vì những cuộc
bạo loạn mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước vùng Baltic và khu
vực Caucasus. Hơn thế nữa, việc Gorbachev sẵn sàng chấp nhận sử dụng bạo
lực một cách có giới hạn nhằm đè bẹp những người có tinh thần dân tộc
chủ nghĩa ở Liên Xô, từ Azerbaijan đến Lithuania, đã làm cho những lực
lượng dân chủ ủng hộ Boris Yeltsin rời bỏ liên minh cải tổ.
Gorbachev
được trao Huân chương Nobel Hòa bình vào năm 1990 vì ông đã tự nguyện
lãnh đạo công cuộc giải tán đế chế Xô Viết ở Đông Âu một cách hòa bình.
Nhưng quyết định quan trọng nhất về việc không sử dụng quân đội Liên Xô
nhằm bảo vệ khối cộng sản thì không phải là của Gorbachev, được đưa ra
vào năm 1988, mà là của Yury Andropov, được đưa ra vào năm 1981. Đối mặt
với phong trào Đoàn Kết ở Ba Lan, chủ tịch KGB lúc đó là Andropov đã
thuyết phục Tổng bí thư Đảng Leonid Brezhnev rằng đưa quân vào Ba Lan,
tức là lặp lại các sự kiện ở Praha năm 1968, sẽ chỉ có hại cho Liên Xô –
đấy là chưa kể quân đội đang bị sa lầy ở Afghanistan. Các lãnh tụ cộng
sản Ba Lan phải tự giải quyết lấy công việc của mình – chủ yếu dựa vào
thiết quân luật, điều này đã giúp họ giữ được chính quyền thêm vài năm
nữa. Năm 1988 Gorbachev chỉ làm một việc là công khai tuyên bố chính
sách đã có hiệu lực trên thực tế từ năm 1981 mà thôi.
Các
cường quốc phải thích ứng với những đặc tính luôn thay đổi của hệ thống
thế giới, đấy là nói nếu họ vẫn muốn dẫn đầu. Các nhà lãnh đạo phải lo
trước thiên hạ chứ không thể chỉ dựa mãi vào những thành tích của quá
khứ. Cả các chính khách lẫn các viên tướng đều không được đánh mãi cuộc
chiến đã qua. Trong những lựa chọn chiến lược của mình, Stalin đã mắc
chính cái sai lầm mà người ta thường mắc như thế. Ông ta tưởng là sẽ còn
một Thế chiến II nữa và sẽ còn một hiệp đấu nữa trong trận xung đột
mang tính đế quốc chủ nghĩa. Những người kế tục ông ta cũng như hai thế
hệ người Nga đã phải trả giá quá đắt .
Peter Rutland là giáo sư về quản lí nhà nước của đại học Wesleyan University ở Middletown, Connecticut. Philip Pomper là tác giả cuốn: Lenin’s Brother: The Origins of the October Revolution.”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét