Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
Lev Tolstoi – Bàn về chủ nghĩa xã hội
15:24
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Các bạn muốn tôi viết cho tập
sách của các bạn một bài bàn về những vấn đề kinh tế và xã hội, nghĩa là
theo ý tôi, từ quan điểm kinh tế, đâu là hình thức tốt nhất cho xã hội
hiện nay. Tôi không thể nào thực hiện được ước muốn của các bạn, vì, thứ
nhất, khác với những người xã hội chủ nghĩa và những ông thày của họ,
tôi không biết, không thể biết và tôi nghĩ là không ai có thể biết những
qui luật biến dịch của đời sống kinh tế của các dân tộc cũng như hình
thức tốt nhất cho sự phát triển của xã hội hiện đại. Thứ hai, tôi không
thực hiện được còn vì rằng giả sử như tôi cho rằng mình biết những qui
luật phát triển kinh tế cũng như hình thức tốt nhất cho sự phát triển
của xã hội, như những nhà cải cách xã hội chủ nghĩa, từ Saint-Simon,
Fourier, Owen đến Marx, Engels, Bernstein và những người khác, thì tôi
cũng không dám nói. Không dám nói vì theo quan điểm của tôi, không thể
nào tiên đoán được hay xác định được những hình thức của đời sống kinh
tế tương lai, cũng như không thể nào tiên đoán được cũng như xác định
được địa vị của từng người trong tương lai, vì vậy mà tất cả những qui
luật do con người nghĩ ra và những cơ cấu xã hội tốt nhất khác nhau do
những người khác nhau đưa ra không những không thúc đẩy phúc lợi của
người dân mà là một trong những nguyên nhân làm rối loạn xã hội, mà dân
chúng hiện nay đang phải chịu đựng.
Tôi nghĩ như thế vì rằng thông
qua quan sát và suy luận người ta có thể tìm ra và xác định những qui
luật chuyển động của các thiên thể và đời sống của thực vật cũng như
động vật, nhưng không thể nào tìm ra được qui luật sống cho mình và đồng
loại của mình mà chỉ dựa vào việc quan sát cuộc sống ngoại tại của con
người trong khi lại bỏ qua những tính chất đặc biệt của lí trí và ý chí
mà chỉ con người mới có. Làm thế cũng chẳng khác nào đi tìm và xác định
qui luật sống của động vật – tức là những con vật có khả năng tự do di
chuyển, có cảm giác và bản năng – trên cơ sở những qui luật được rút ra
từ những quan sát vật chất vô sinh hay là từ những quan sát được thực
hiện đối với cây cỏ, tức là những sinh vật không có các tính chất của
động vật.
Nói cho ngay, một người có thể
thoái hoá đến mức chẳng khác gì con vật, khi đó anh ta sẽ sống theo qui
luật của đời sống động vật, thậm chí đời sống của vật chất vô sinh nữa.
Nhưng trong những biểu hiện chung nhất, con người luôn luôn đã và vẫn là
một sinh vật khác hẳn với tất cả các sinh vật khác và khác với các vật
thể khác trong thế giới vật chất, chỉ có con người mới có lí trí và ý
chí. Vì vậy mà đời sống của con người, trong mọi lĩnh vực – gia đình, xã
hội, chính trị, kinh tế, quốc tế – đã, đang và nhất định sẽ diễn ra
hoàn toàn không phải trên cơ sở những qui luật khách quan do các lí
thuyết gia về cơ cấu chính trị và trong lĩnh vực kinh tế học như những
ông Marx, những ông Engels, những ông Bernstein v.v…, đưa ra mà luôn
luôn diễn ra trên cơ sở một qui tắc khác, chung cho tất cả mọi người và
được phát biểu từ thời cổ đại bởi các vị tư tế, đức Phật, Lão tử,
Sokrat, Chúa Jesus, Marcus Aurelius, Epictetus, Rousseau, Kant, Emerson,
Channing và tất cả những nhà tư tưởng có đạo khác. Qui tắc đạo đức mang
tính tôn giáo này quyết định tất cả các biểu hiện của đối sống con
người, bao gồm các lĩnh vực như gia đình, xã hội, chính trị, quan hệ
quốc tế và cả kinh tế, nhưng lại quyết định theo một cách hoàn toàn khác
với tất các học thuyết xã hội, xã hội chủ nghĩa, chính trị, quốc tế
khác đang làm. Sự khác biệt là ở chỗ, thứ nhất, những qui luật khách
quan và những học thuyết về cơ cấu của xã hội loài ngưới, tức là những
học thuyết đưa ra các qui luật đó, thì muôn hình muôn vẻ và cái nọ chống
báng lại cái kia; trong khi nền tảng của qui tắc đạo đức-tôn giáo, được
tất cả mọi người và mọi học thuyết tôn giáo thừa nhận thì lại chỉ có
một, đấy là: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác (kỉ sở
bất dục, vật thi ư nhân). Sự khác nhau thứ hai và chủ yếu là trong khi
tất cả các học thuyết chính trị, quốc tế, xã hội cũng như các học thuyết
xã hội chủ nghĩa xác định trước các hình thức cho cuộc sống của con
người và đòi hỏi người ta phải cố gắng nhằm đạt cho được những hình thức
đã được xác định trước đó thì qui tắc đạo đức-tôn giáo lại không hề xác
định trước bất kì hình thức sống nào, cả gia đình, chính trị, quốc tế
lẫn kinh tế, nó chỉ đòi hỏi người ta, trong mọi lĩnh vực hoạt động đều
phải tránh những hành động đi ngược lại qui tắc này, chỉ cần thực hiện
qui tắc này là lập tức đạt được ngay lợi ích mà tất cả các học thuyết
chính trị và xã hội vẫn hoài công hứa hẹn.
Sự khác nhau này cũng tương tự
như sự khác nhau giữa hai nhóm công nhân được ông chủ cử làm cùng một
việc – thí dụ như chuẩn bị mặt bằng để làm đường. Công nhân được phát
cuốc xẻng và bảo phải cuốc chỗ cao và lấp chỗ trũng cho bằng phẳng,
nhưng lại không nói để làm gì. Một nhóm, gồm toàn những người hăng hái,
nhẹ dạ và vì vậy mà tự tin, tuy không hiểu mục đích của công việc nhưng
lại cho rằng lời nói của ông chủ không rõ ràng, mơ hồ và chẳng có ích
gì; muốn cho công việc của mình có ý nghĩa, họ tìm cho nó một mục đích
xác định hơn. Một số người cho rằng tốt nhất là đào luống trồng bắp cải
thì hơn là cào cho phẳng mà chẳng có mục đích rõ rệt nào; số khác bảo
đào cho sâu để tìm kho báu hay vàng; nhóm thứ ba lại bảo tốt nhất là nên
đào ao hay đào giếng và bắt đầu làm theo ý mình. Làm cái mà chủ không
bảo, lại còn tự mình nghĩ ra mục tiêu, những người công nhân này bắt đầu
cãi cọ với nhau, gây khó khăn cho nhau, họ không những không làm cái
đáng lẽ phải làm, không làm cái có ích mà còn làm hỏng cuộc đời mình bởi
những vụ va chạm chắc chắn sẽ xảy ra giữa họ với nhau. Những người tự
quyết định trước những hình thức tổ chức đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội và đem sức mình ra thực thi những hình thức xã hội đó thường hành
động như thế đấy. Còn những người tuân theo qui tắc đạo đức-tôn giáo
thì hành động giống như những người công nhân thông minh, tức là những
người làm cái mà ông chủ đã bảo, họ tin rằng thực hiện ý chí của ông chủ
thì mọi việc chỉ có tốt chứ không thể nào khác được.
Dường như đấy thật là đơn giản
và thật tự nhiên và cũng là bản chất của sinh vật có lí trí. Trong cuộc
cuộc đời ngắn ngủi và có thể chấm dứt bất cứ lúc nào, con người phải
tuân theo cái qui tắc đạo đức-tôn giáo đó, tức là cái qui tắc vẫn sống
trong tâm hồn mỗi người và được tất cả các tôn giáo vĩ đại trên thế giới
thừa nhận, chứ không phải là tuân theo những yêu cầu mâu thuẫn nhau
nhằm thực thi những hình thức của đời sống mà con người cho là tốt nhất,
những hình thức chỉ có thể đạt được bằng cách phá hoại những đòi hỏi
của qui tắc đạo đức nói trên. Thế mà ngay từ thời thượng cổ, qui tắc đạo
đức-tôn giáo đã từng bị người ta vi phạm, hiện nay vẫn đang bị vi phạm
và một số người cho rằng cần phải vi phạm nếu muốn thực thi và giữ cho
được một hình thức tổ chức đời sống nào đó mà họ cho là tốt nhất. Tất cả
các chính phủ, từ độc tài nhất cho đến dân chủ nhất, tất cả các đảng
cách mạng, tất cả những người cộng sản, những người xã hội chủ nghĩa
thuộc mọi trường phái đều cổ xuý và làm như thế. Vì sao? Vì mê tín, đấy
là cái nguyên nhân chung của tất cả những tại hoạ mà người ta tự tạo ra
cho mình. Vì mê tín mà người ta tự nghĩ ra những mục tiêu, mỗi người
thích một kiểu – nào là mục tiêu quốc gia, yêu nước, xã hội, xã hội chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, vô chính phủ, thế rồi đáng lẽ phải thực hiện
chức năng thiên bẩm của mình và nhận được tất cả những lợi ích dành cho
mình thì người ta lại đem tất cả sức mình ra để sắp xếp cuộc sống cho
những người khác và thế là, mà cũng không thể nào khác được, họ không
những không đạt được lợi ích mà họ kì vọng mà đạo đức thì ngày càng suy
đồi, cuộc sống ngày càng khó khăn thêm. Tất cả các cuộc chiến tranh,
những vụ hành quyết, các cuộc cách mạng, những vụ cướp bóc người lao
động bởi những kẻ ăn không ngồi rồi, tất cả những tai hoạ xã hội đều từ
cái mê tín này mà ra. Không thể nào khác được. Vì khi tôi tin rằng tôi
có thể biết cách sắp xếp cuộc sống tốt nhất cho dân chúng thì thực chất
là tôi chẳng có mục đích nào khác ngoài mục đích ích kỉ của cá nhân
mình.
Xin lấy một thí dụ. Học thuyết
xã hội chủ nghĩa đòi cho quần chúng lao động được quyền sử dụng thành
quả lao động của mình. Nhưng ai tước đoạt thành quả của người lao động?
Bọn tư sản. Ai cho bọn tư sản quyền tước đoạt thành quả của người lao
động? Chính quyền. Mà chính quyền thì là cảnh sát, quân đội. Quân đội và
cảnh sát cũng là từ những người bị bọn tư sản tước đoạt thành quả lao
động. Tại sao những người này làm thế, tự mình tước đoạt thành quả lao
động của mình? Tại vì họ bị lừa. Thế là tất cả là do lừa dối. Các học
thuyết xã hội chủ nghĩa cổ xuý điều gì nhằm tránh được sự bịp bợm đó? Cổ
xúy cho những mối liên kết đủ mọi loại nhân danh quyền lợi của công
nhân: hợp tác xã, đình công, tuyên truyền học thuyết xã hội chủ nghĩa.
Nhưng chẳng lẽ những biện pháp này có thể tiêu diệt được cái sự bịp bợm
mà một số người thấy rằng cần phải bịp bợm những người khác còn những
người kia thì chấp nhận bị bịp ư? Giả sử những người sắp xếp đó, cứ cho
là những người xã hội chủ nghĩa đi, có thể đưa ra được những đạo luật mà
bọn tư sản và tất cả các sở hữu chủ đều phải tuân theo. Nhưng chưa bao
giờ có, hiện không có và cũng không thể có chuyện là những người đứng ra
sắp xếp đồng thuận về một cơ cấu xã hội được tất cả mọi người công nhận
là tốt nhất. Mà nếu đã không có sự đồng thuận như thế thì nhất định
phải cần (như đã từng cần và hiện đang cần) chính quyền, tức là sự áp
bức của một số người đối với một số người khác. Mà muốn có áp bức thì
lại phải có chính cái sự lừa bịp kia, kết quả là theo chỉ đạo của những
kẻ nắm quyền, dân chúng lại áp bức chính mình.
Chính quyền, để thực sự là một
chính quyền, sẽ phải duy trì sự bịp bợm đó bằng đủ trò dối trá và những
hành động cứng rắn nhằm chống lại chính cái dân chúng đã bị bịp bợm đó:
chính quyền phải có nhà tù, thậm chí án tử hình, cần phải có cảnh sát,
quân đội, tức là những người có nhiệm vụ thực thi mệnh lệnh một cách vô
điều kiện, kể cả giết người. Cái chính quyền phải cần những điều kiện
như thế mới hoạt động được lại có thể thúc đẩy được phúc lợi của nhân
dân hay sao?
Cần phải làm gì để dân chúng
không còn khuất phục sự lừa dối đó, không còn áp bức lẫn nhau nữa? Rõ
ràng là chỉ có một phương tiện: liên kết tất cả mọi người vào một qui
tắc sống, từ qui tắc này sẽ xuất hiện chế độ xã hội. Qui tắc này sẽ lập
tức tiêu diệt nguyên nhân chủ yếu của cái ác hiện đang tồn tại, đấy là
sự bịp bợm, do sự bịp bợm này mà dân chúng mới áp bức lẫn nhau và để cho
bọn tư sản tước đoạt thành quả lao động của mình. Chỉ cần người ta tuân
theo qui tắc đạo đức-tôn giáo, tức là tuân theo cái qui tắc không cho
phép người nọ áp bức người kia, không bao giờ tham gia vào việc áp bức
như thế, thì sự áp bức, nguyên nhân chính của thể chế kinh tế bất công
sẽ tự động bị tiêu diệt.
“Thì đúng là như thế, đấy là nói
nếu tất cả mọi người đều không tham gia. Nhưng nếu một người không chịu
đóng thuế hay không chịu đi lính thì ăn thua gì”, có người sẽ nói.
Nhưng anh ta từ chối không phải vì anh ta được lợi hay không được lợi.
Anh ta từ chối áp bức người khác – đóng thuế hay đi lính – không phải là
anh ta nhắm mục đích gì mà chỉ là vì anh ta, cũng như bất kì người nào
khác, đã tìm được cách hành xử từ qui tắc, nếu không phải là qui tắc tôn
giáo thì cũng là qui tắc đạo đức, mà ai cũng phải theo, không công nhận
qui tắc đó thì đời sống của con người sẽ thành ra thấp kém hơn cả đời
sống của con vật.
Vì vậy mà quan trọng không phải
số người từ chối tham gia vào việc áp bức mà quan trọng là nhân danh cái
gì. Vì vậy mà một người từ chối cũng mạnh mẽ hơn hàng triệu những người
đang hành hạ, bỏ tù, xử tử người từ chối kia.
Hành động của anh ta còn có hậu
quả phong phú hơn, ý nghĩa hơn tất cả những bài diễn văn đọc tại nghị
viện, các cuộc hội nghị quốc tế, chủ nghĩa xã hội và tất cả những trò
khôi hài, tất cả những phương tiện làm người ta xa rời chân lí. Các
chính phủ và bọn tư sản biết rõ chuyện này. Người ta có thể nhận thức
được nó bằng cảm giác tự bảo tồn, ở Nhật thậm chí người ta còn cấm cả
những tác phẩm tuyên truyền cho cái chân lí đơn giản và ai cũng biết
này, và còn bỏ tù những người cổ xuý cho nó nữa. Các chính phủ và bọn tư
sản biết rõ mối nguy nằm ở chỗ nào. Họ không thể không biết vì đấy là
câu hỏi sống chết của họ. Vấn đề sống chết đối với họ là ở chỗ nói ra
hay không nói ra cái chân lí đơn giản là bất kì người có lí trí và có
khả năng yêu thương nào cũng không cần phải làm nô lệ cho kẻ khác, không
được nghe chúng mà học chém giết và chém giết những người mà họ được
lệnh chém giết, không chỉ không được làm mà đây còn là một tội ác ghê
tởm nhất, một tâm hồn kém nhạy cảm nhất cũng cảm thấy kinh tởm; ngoài
ra, điều đó còn có hại đối với người đồng ý làm và thậm chí còn có hại
đối với tất cả anh em của anh ta nữa.
Các chính phủ và bọn tư sản sợ
cái nhận thức đã thức tỉnh này chứ không phải là sợ chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội, nghị trường và đủ mọi loại đại hội, ngược lại, lại có
lợi cho các chính phủ và bọn tư sản: tất cả các tổ chức này, bằng những
bài phát biểu và tranh luận rắc rối, thực sự đã làm cho nhân dân không
nhận thức được nguyên nhân của cái ác mà các tổ chức này dường như đang
tìm cách chống lại.
Vâng, người dân của cái gọi là
thế giới Ki-tô giáo của chúng ta lại sống bằng đủ thứ mê tín dị đoan: mê
tín nhà thờ, mê tín nhà nước, mê tín khoa học, mê tín thể chế, mê tín
lòng yêu nước, mê tín nghệ thuật, mê tín tiến bộ, mê tín chủ nghĩa xã
hội. Không thể nào khác được: không có đức tin thì nhất định sẽ có mê
tín. Đức tin không còn. Thế giới Ki-tô giáo đã trải qua những hình thức
thô lậu của Thiên chúa giáo, của đạo Tin lành. Điều đó cũng không sao,
nếu dân chúng hiểu rằng vì họ cần tôn giáo và họ đã sống qua giai đoạn
của nhà thờ Ki-tô giáo, một tôn giáo không đáp ứng được các đòi hỏi của
họ, bây giờ họ cần phải đem hết sức mình ra để tìm cho bằng được những
nền tảng đúng đắn để xây dựng cuộc sống. Nhưng đáng tiếc là trong thế
giới Ki-tô giáo của chúng ta đã diễn ra một hiện tượng lạ lùng, nó đã
che giấu và tiếp tục che giấu không để người dân biết được tình trạng
khốn khó của họ – che giấu được một thời gian vì hoàn cảnh khốn khó sẽ
làm người ta tỉnh ngộ – đáng lẽ là sau khi đã mất tôn giáo, tức là đánh
mất nền tảng của đời sống, người ta phải dùng hết sức mình để thiết lập
lại các cơ sở tôn giáo, xã hội loài người chưa từng sống và không thể
sống thiếu các cơ sở tôn giáo được, thế mà cái thế giới được gọi là văn
minh châu Âu của chúng ta lại rất lấy làm sung sướng là đã không còn tôn
giáo nữa, và quyết định là hoàn toàn không cần tôn giáo, rằng từ lâu
chúng ta đã đứng trên những tín ngưỡng thô lậu của các học thuyết tôn
giáo rồi. “Cái bọn cưỡi lừa mới cần tôn giáo, chúng ta vượt quan giai
đoạn đó rồi. Chúng ta không chỉ đi với tốc độ 60 km một giờ mà còn bay
qua dãy núi Alps, đi dưới nước, chúng ta có chiếu bóng, có điện thoại,
có máy hát, có điện tín không dây. Còn cần gì nữa? Có cả những triệu phú
chẳng biết dùng tiền làm gì và hàng triệu người thất nghiệp đang chờ
việc, 13 tỉ đồng chi phí cho chiến cụ mỗi năm và hàng triệu người cầm
súng, hàng trăm ngàn người sẵn sàng lao vào đâm chém nhau, tất cả đều
chẳng có gì quan trọng cả vì tất cả sẽ được chủ nghĩa xã hội và tiến bộ,
tức là những thứ chúng tôi đang tận lực nghiên cứu, giải quyết hết. Tôn
giáo nào ở đây? Với mức độ phát triển như thế mà còn nói đến những điều
ngu ngốc lỗi thời thì thật là chuyện nực cười.”
Cái gọi là thế giới văn minh của chúng ta đã lú lẫn đến mức nào!
Rút cục, ý nghĩa của những suy
luận dài dòng ấy là như thế này. Các bạn, những người trẻ tuổi, những
người của thế kỉ XX, nếu đúng là các bạn muốn thực hiện cái chức năng
nhân bản cao cả của mình thì trước hết các bạn phải giải thoát khỏi, thứ
nhất, tín điều cho rằng bạn biết hình thức tốt nhất cho xã hội loài
người trong tương lai, thứ hai, giải thoát khỏi tín điều về lòng yêu
nước, Nga hay Tiệp hoặc Slav thì cũng thế, thứ ba, giải thoát khỏi tín
điều về khoa học, nghĩa là giải thoát khỏi niềm tin mù quáng vào tất cả
những gì mà người ta truyền đến cho các bạn dưới danh hiệu là chân lí
khoa học, trong đó có cả những lí thuyết kinh tế và xã hội chủ nghĩa,
thứ tư, giải thoát khỏi tín điều chủ yếu, nguồn gốc của tất cả mọi điều
xấu xa, đấy là tín điều cho rằng tôn giáo đã chết, tôn giáo đã là hiện
tượng của quá khứ. Sau khi đã giải thoát khỏi những tín điều đó rồi thì
trước hết bạn phải cố gắng nghiên cứu tất cả những vấn đề trong lĩnh vực
xác định nền tảng chân lí, nền tảng tôn giáo của đời sống đã được tất
cả các nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thế giới đưa ra, và sau khi đã nắm
được thế giới quan tôn giáo, bạn phải thực hiện những đòi hỏi của nó,
nhưng không phải để đạt được mục đích xác định nào đó mà chỉ để thực thi
cái chức năng nhân bản của chính mình, cái chức năng sẽ dẫn chúng ta
đến mục đích chắc chắn là hạnh phúc, nhưng cũng chắc chắn là chúng ta
chưa biết.
Nguồn: http://az.lib.ru/t/tolstoj_lew_nikolaewich/text_0850.shtml
0 nhận xét:
Đăng nhận xét