Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

ÍT NHIỀU NHẬN ĐỊNH VỀ THIÊN CHÚA GIÁO - Phần Tín Lý 3

Riêng tôi, tôi nhận thấy người Công Giáo sau Vatican II cởi mở hơn, rộng dung hơn. Còn trước hình thức lễ nghi vụ ngoại ra sao, thì nay vẫn y thức như vậy. Đạo giáo đã là công truyền, tất nhiên phải vụ ngoại, phải là ngoại giáo, không thể nào là nội giáo được. Từ 1908 trở đi, các Giáo Hoàng ghét nhất là Phải Tân Tiến (Modernism). Thông điệp Lementabili (3 tháng 7, 1907) của Pius X phi bác 65 nhận định mà Giáo Hội cho là lầm lạc. Ví dụ:
-Điều 16: Phúc âm John không phải kể chuyện that về đời sống Chúa, mà là những suy nghiệm huyền đồng về đời sống Chúa.
- Điều 21: Sự mặc khải làm cơ sở cho đức tin Công Giáo chưa hoàn bị thời các Tông Đồ.
- Điều 27: Phúc âm không chứng minh Chúa Giê Su là Thiên Chúa. Đó là một tín điều mà ý thức Công Giáo suy diễn ra từ ý niệm Đấng Cứu Thế.
- Điều 35: Đấng Ki tô không phải luôn luôn ý thức được mình là đấng Cứu Thế.
- Điều 47: Công đoàn công Giáo cho rằng Phép Rửa Tội là bắt buộc, cộng vào với sự tuyên xưng Công giáo.
- Điều 47: Mấy lời của Chúa trong John 20:22-23 chẳng có liên quan đến Phép Giải Tội, mặc dầu các giáo phụ trong Công Đồng Trent thích nói vậy.
- Điều 55: Thánh Peter không bao giờ ngờ rằng Chúa đã phong cho mình làm Giáo Chủ Giáo Hội.
- Điều 59: Chúa Giê Su không có dạy một toàn bộ giáo lý khả dĩ áp dụng cho mọi nơi, mọi người, mà chỉ tạo ra một phong trào đạo giáo có thể chuyển biến, linh động để thích ứng tùy nơi, tùy người .
Thông điệp Pascendi của Giáo Hoàng Pius X ra ngày 8 tháng 9 năm 1907 kết tội những người Công Giáo thuộc phái Tân Tiên như sau:
- Nếu là triết gia, thi họ chủ trương "bất khả tri". Họ cho rằng lý trí chỉ hoạt động trong vòng hiện tượng, nên con người không thể biết Thiên Chúa bằng lý trí hay bằng sự mặc khải.
- Nếu là giáo hữu, thì họ đến với đức tin một cách kỳ quặc. Họ lý luận rằng lý trí không thể biết Thiên Chúa, thế thì tại sao tôn giáo lại là một hiện tượng phổ quát. Họ cho rằng sở dĩ con người cần Thiên Chúa chính là vì Thiên Chúa đã ở sẵn trong lòng con người. Thiên Chúa mà ở ngoài tâm hồn, con người sẽ không sao có thể biết được. Con người vẫn tin, nhưng đức tin không có cơ sở trên lý trí. (Tôi cũng tin rằng Thiên Chúa đã ngự sẵn trong tâm khảm con người, và con người nhận biết Thiên Chúa bằng trực giác, và bằng sự cảm nghiệm tâm linh).
- Nếu họ là các nhà Thần học, thì những người theo phái Tân Tiến cũng cho rằng Mặc Khải chính là sự cảm nghiệm nội tâm. Mặc khải là khi con người cảm nghiệm thấy Thiên Chúa trong lòng mình. Chính Giáo Hội cũng phải kinh qua sự thử thách của ý thức tập thể của nhân quần; mà ý thức này luôn chuyển dịch biến hóa theo lịch sử.
(Hỡi anh em khả kính, đây không phải là những lời bập bẹ quàng xiên của những kẻ vô tín ngưỡng, mà chính là của những người Công Giáo, hoặc những linh mục, và họ khoe khoang rằng họ sẽ cải tổ, sẽ canh tân giáo hội bằng những lập luận quàng xiên đó của họ).
- Nếu là sử gia, họ cho rằng khi giải thích các vấn đề cần phải cho khoa học, chứ không phải là để bao che, để nắm giữ quần chúng. Và với tư cách là những nhà khoa học họ thường khinh khi giáo lý Công Giáo, khinh khi các Thánh Giáo phụ, các Công đồng, và sự dạy dỗ.
Khi đọc những lời Giáo Hoàng chê trách, phê phán những người Giáo Hữu Tân Tiến, tôi thấy thương họ, vì thật ra họ nhìn đúng, nghĩ đúng, nói đúng, hành đúng.
Người A Đông phân biệt tiểu trí và đại trí. Tiểu trí để thích ứng với hoàn cảnh, nên chi biết được hiện tượng bên ngoài, nên không thể nào hiểu được Thiên Chúa là bản thể con người và vũ trụ...
Cái mà Âu Châu gọi là Mặc Khải chính là Đại trí khi đã khai mở. Con người sinh ra ở đời vì có căn cốt thần linh, có căn Trời, nên luôn luôn khát khao đi tìm Đạo, tìm Trời. Mới đầu thời còn u muội, ngu dốt, nên đi tìm Đạo tìm Trời bên ngoài mình; chịu sự hướng dẫn, sự chi phối bên ngoài của các Giáo Hội bên ngoài, của các người tự xưng mình là hướng đạo viên nhân loại. Nhưng khi con người đã trưởng thành về ý thức tâm linh, sẽ cảm nghiệm được một cách mãnh liệt rằng Thiên Chúa chẳng có ở đâu xa mà đã ngự trị ngay trong tâm khảm con người. Sự giác ngộ tâm linh ấy chính là sự Mặc Khải. Nếu ta hiểu Revelation là "Mặc Khải", thì đó là một sự khai mở tâm linh đã được diễn biến ra một cách âm thầm trong lòng con người. Nếu hiểu "Revelation" là "Mạc Khải", thì lúc Giác Ngộ chính là lúc bức màn Vo minh", "bức màn Ngu dốt" được xé mở ra, làm hiển lộ ra Thiên Tính con người, làm hiển lộ Thượng đế nội tại - vừa là Thượng Đê, vừa cũng chính là Bản Thể hằng cửu, bất biến của con người. Lúc ấy, với tầm nhìn lối nghĩ hoàn toàn thay đồi, con người hoàn toàn được giải phóng, con người mới thấy rằng có nhiều người xưa kia coi mình là thượng trí, thượng nhân, thực ra chỉ là những người khéo xu thời, xu thế; mới nhận ra ràng con người đã sai lầm tập thể về nhiều vấn đề, từ sự khai thiên, lập địa, đến thân thế con người, đến những công trình cải tạo con người và ngoại cảnh, đến đường hướng thăng hoa của con người .
Lúc ấy con người sẽ thành khẩn dùng cuộc đời mình để truy tầm chân lý, chứ không phải để bao che, lấp liếm những điều mà cha ông mình đã nghĩ sai, viết bậy
trong quá vãng. Mình không nhìn ra trước, không chịu sửa sai trước, thì người sau sẽ tìm ra, sẽ sửa sai sau. Tất cả chỉ là vấn đề thời gian, và trên con đường tiên hóa của nhân loại, chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như vậy. Mà khi một tư tưởng đã thay thi cả tòa tư tưởng cũng thay theo, như kiểu những con Dominos.
Sách the Battle for The American Church viết:
“Giả sử Chúa Giê Su không phải là Chúa giáng trần.
Giả sử trong cuộc dời ngắn ngủi của Ngài, Ngài đã không truyền dạy, mặc khải được đủ những giáo lý căn bản.
Giả sử chúa lập ra Giáo hội như kiểu một hội ái hữu.
Giả sử mọi tín hữu dều bình đẳng nhau trước mặt Chúa Cha.
Giả sử mọi người đều phải nỗ lực để tùy nghi đi tìm Thiên ý, họ thể nhờ các lình mục làm cốvân, nhưng không phải tùng phục linh mục.
Giả sử các cơ cấu tổ chức như Giáo hoàng, linh mục, giáo luật tỉ mỉ, hay tòa giải tội chỉ là những phát minh của con người.
Chúng ta sẽ có một quan niệm khác hẳn về Giáo hội, không giống những định nghĩa của Giáo Hội."(36)
Như vậy trong tương lai chắc chắn nhân loại sẽ có rất nhiều thay đổi về tôn giáo. Giáo Hoàng Paul VI ngày 11 tháng 9, 1974 đã than thở: "Giáo Hội hình như có khuynh hướng tự thiêu hủy mình"(37). Riêng tôi, tôi tiên đoán trong tương lai nhân loại sẽ
thay đồi như sau về phía tôn giáo:
Chúa sẽ không còn là một Chúa riêng của một dân tộc, không còn là một Chúa ngự trị trên Thiên Đình, mà sẽ được nhìn nhận là nguồn sinh của vũ trụ , ở khắp vũ trụ, là bản thể của vũ trụ muôn loài, và như vậy vũ trụ và muôn vật chỉ là những hình tướng biến thiên, những phân từ nhỏ nhoi của Đại Thể vô biên ấy.
Giác ngộ, mặc khải, là một hiện tượng phổ quát, siêu không gian thời gian, là sở hữu của Thánh hiền, Đông Tây kim cổ, chứ không dành cho riêng ai.
Thánh Thư là của thánh hiền hay của các cao nhân các đạo giáo viết ra. Đạo nào cũng có Thánh Thư, chứ không phải chỉ riêng có Do Thái hay Công Giáo mới có. Chúng là sở hữu chung của nhân loại. Nó cũng rất tương đối có chỗ hay có chỗ dở. Cái gì hay thì ta theo, cái gì dỡ thì ta bỏ.
Các thánh thư có thể có những huyền thoại xen lẫn với những chứng tích loch sử. Huyền thoại thì ta coi là không có thực. Ví dụ chuyện khai thiên lập địa, Adam Evà ăn trái cấm, hồng thủy tiêu diệt thiên hạ, chắc chắn là huyền thoại.
Nếu Adam Eva thực sự không phải là thủy tổ loài người như khoa học đã chứng minh, thì chắc chắn chuyện Thiên Chúa giáng trần chuộc tội thiên hạ chỉ là chuyện mà thánh Paul, thánh Augustine và Giáo Hội sau này nghĩ ra mà thôi.
Chúa Giê Su chỉ là một người Giác Ngộ sống phối hợp với Thượng Đế ngay từ khi còn ở gian trần này.
Xưa nay đã có vô số hiền thánh muôn phương liễu đạt được trình độ đó.
Phúc âm viết về Ngài có rất nhiều huyền thoại.
Các Giáo Hội chẳng qua là những hội ái hữu, cốt là để khuyên khích lẫn nhau, nâng đỡ lấn nhau, chứ không phải là những nhà tù, những phòng tra tấn, những lò sát sinh, hay những cơ quan dùng để khống chế, hành hạ con người về phương diện tinh thần, hay vật chất mỗi khi có điều kiện thuận tiện.
Tất cả những chuyện bất công xã hội, những tệ đoan xã hội, những bệnh hoạn tật nguyền, những sự cơ cực nghèo đói, những chiến tranh sẽ không còn nếu nhân loại thực tình thương yêu lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, cộng tác với nhau.
Con người sẽ phải được dạy dỗ rằng con người đích thực là những con cái Thượng Đế , hay nói cách khác đều có Bản thể thần minh, có Phật tánh. Cho nên con người phải được khuyến khích tiến bước mãi trên đường nhân nẻo đức trên đường hoàn thiện, sống đồng nhất, hợp nhất với Thượng Đế ngay từ khi còn ở gian trần này.
Chúng ta học lịch sử, vì lịch sử sẽ cho chúng ta thấy những sai trái của các đạo giáo. Có vậy ta mới biết đàng sửa sai.
Đạo giáo có nhiều trình độ, nhiều hình thức. Hình thức thấp nhất là Lễ Nghi (hương hoa, chuông trống, van vái). Rồi đến hình thức Tín Lý, Tín Điều. Rồi đến Luân Lý. Rồi đến một đời sống nghệ thuật, đẹp tươi, thuần phác, hồn nhiên. Cao hơn hết là đời sống hoàn thiện, sống phối hợp với Thượng Đế, hòa hài với tha nhân, với quần sinh và vũ trụ.
Con người không thể tiến ngay đến chỗ cao, nhưng cần phải tiến tới, cần phải tinh luyện tâm thần.
Đạo giáo thực ra có hai loại: Ngoại giáo và Nội giáo. Chạy theo những hình thức lễ nghi bên ngoài là theo ngoại giáo, ngoại đạo. Đi sâu vào tâm linh mà tìm Đạo tìm Trời, ấy là Nội Giáo, Nội Đạo, ấy là Chân Đạo, Thiên Đạo, Đại Đạo. Đại Đạo cũng rất là giản dị. Nó bắt nguồn từ sự nhận biết mình có Thiên Tính, rồi ra sẽ dùng cả đời mình để phát triển Thiên Tính đó cho đến chỗ tinh hoa cùng cực Phát triển mọi khả năng còn tiềm ẩn nơi mình để cải tạo tha nhân và ngoại cảnh. Biến thế giới thành một đại gia đình, biến ngoại cảnh thành Bồng Lai Tiên Cảnh, để cuối cùng sống hợp nhất với Trời, nên vẻ sáng của Trời ngay từ khi còn ở gian trần này…
Costa Mesa 2/1/89
 
GHI CHÚ
(1) Martyrologe Romain, Traduction francaise par Dom Albert M. Schmitt, Casterman, 1959, p. 469 - Isaac Asimov, In the Beginning, A Stonesong press Book, Crown Publishers, Inc. New York, 1981, p. 9.
(2) Religious traditionalists accused Darwin of "limiting God's glory in creation," of "attempting to dethrone God," of "implying that Christians for nearly 2000 years have been duped by a monstrous lie"
Dorothy Nelkin, The Creation Controversy, W.W. Norton & Company, New York, London, 1982, p. 28.
(3) The founders of The Creation Research Society (CRS) call themselves "scientific creationists". To attain the status of membership in the organisation, members must meet two requirements: a postgraduate degree in science and belief in the literal truth of the Bible. Applicants for memberships must sign a statement of belief: that the Bible is the written word of God and that its assertions are historically and scientifically true; that all basic types of living things including man, were made by direct creative acts of God as described in Genesis; and that the Noachian Deluge was a historical event.
Dorothy Nelkin, The Creation Controversy, W.W. Norton & Company, New York, London, p. 79.
(4) lb. p. 77-83.
(5) Dorothy Nelkin, The Creation Controversy, pp. 100-102.
(6) The final editor has left unchanged the two traditional accounts without attempting to smooth out their divergences of details. There are several Babylonial stories of the Flood which are in some respects remarkable similar to the biblical narrative. This last does not derive from them but draw on the same source, namely on the memory of one or more disastrous floods in the valley of the Euphrates and Tigris which tradition had enlarged to the dimension of a worldwide catastrophe..
The New Jerusalem Bible, Double Day & Company, Inc. Garden City New York, 1985, p. 25; Gen 6:1, note c.
(7) Isaac Asimow, In The Beginning, A Stonesong Press Book, Crown Publishers, Inc. New York, 1981, p. 156-157.
(8) One of the early documents in the tragic history of Judaeo- Christian relations in Spain is a letter from Pope Gregory to Reccared The Visgoth, commending him for a law, a "constitution", enacted against the infidelity, perfidia of the Jews, despite their efforts to block its promulgation with a bribe.
Edward A. Synan, The Popes and The Jews in the Middle Ages, The MacMilan Company, New York; Collier - MacMillan Limited, London, 1965, p. 41. Cf. ibidem pp. 8, 37, 92, 122.
(9) In the case of the Jews, does the Church not triumph more when, day after day, she persuades them, or converts them, than if on a single occasion and all at once, she should devour them with the maw of the sword1? Else would not that prayer of the universal Church, which is offered for the unbelieving
Jews - pro perfidis Judaeis - be established to this purpose ? lb. p. 78.
(10) Foris ab ecclesia constitutus, aeterno supplicio punieris, etiamsi pro Christi nomine virus incendiaris. Marcello Craveri, The Life Jesus, Grove Press, Inc. New York, 1967, p. 252.
(11) La position catholique traditionnelle - exprimee des les premiers siecles du christianisme par Origene, Cyprien et Augustin - est bien connue: Extra Ecclesiam nulla salus! Hors de I'Eglise, point de salut! D'ou aussi, pour tout le temps a venir: Extra Ecclesiam, nullus propheta! Hors de I'Eglise pas de prophete! Le Concile oecumenique de Florence (1438-1445) a defini sans ambiguite: "La sainte Eglise romaine... croit fermement, confesse et proclame qu'en dehors de I'Eglise catholique nul n'aura part a la vie eternelle, qu'il soit paien, Juif, incroyant ou separe de I'Eglise: il sera la proie du feu eternel destine au diable et a ses anges s'il ne la (I'Eglise catholique) rejoint pas avant la mort.
Hans Kung, Le Christianisme et les Religions du Monde, Edition du Seuil, Paris, 1984, p. 45.
The holy Roman Church believes, professes, and preaches that "no one remaining outside the Catholic Church, not just pagans, but also Jews or heretics, schismatics, can become partakers of eternal life; but they will go to the "everlasting fire which was prepared for the devil and his angels" (Matt. 25:41), unless before the end of his life they are joined to the Church...
Heretics am chi cac giao phai Tin Lanh; Schismatics am chi Giao H6i Chlnh Thtfng miln d6ng (Orthodox Church).
Jesuit Fathers of St. Mary College, St. Marys Kansas, The Church teaches, Tan Books and Publishers, Inc. Rockford, Illinois 61105, 1973, p. 78.
(12) The Syllabus went on to condemn the current belief that .. every man is free to adopt whatever religions he deems in accord with the light of reason; that in any religion men may find the way to eternal life.
Kennett Scott Latourette, A History of Christianity, Harper & Row Publishers, New York, Evanston & London, 1953, p. 1099.
(13) Furthermore, it is a dogma of faith that no one can be saved outside the Church.. But no one obtains eternal life if he dies separated from the unity of faith or from communion with the Church through his own fault.
The Church teaches, p. 97.
(14) Section 8 of Lumen Gentium reads:
This is the sole Church of Christ, which in the creed we profess to be one, holy, Catholic, and apostolic, which our Saviour, after his resurrection entrusted to Peter's pastoral care, commissioning him and the other apostles to extend and to rule it.... This Church constituted and organized as a society in the present world; subsists in the Catholic Church, which is governed by the successor of Peter and by the bishops in communion with him. Nevertheless many elements of sanctification and of truth are found outside its visible confines. Since these are gifts belonging to the Church of Christ, they are forces impelling toward Catholic unity...
Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Churchy Doubleday and Company, Inc. Garden City, New York, 1979, p. 26.
(15) In general, Innocent taught, the Mosaic Law promised temporal and earthy delights, a land flowing with milk and honey, the law of talion, conjugal joy, and a numerous progeny. Against all this, the law of the Gospel extols poverty, invokes a blessing in answer to a curse, venerates virginity - heavy burdens, to be sure, but to those moved by love they seem light. The Old Law was characterized by the active life and by the five senses which make it possible: "such are the carnal Jews, who seek only what sense perceives, who delight in the corporeal senses alone, and this despite the fact that their own prophets "spoke, not carnally, but spiritually."
Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, The MacMillan Company, New York, 1965, p. 88.
(16) Europe dominated by the papacy., knew neither equality nor justice; medieval legislation was as savage in its intentions as in its penalties, and the brunt of these fell upon the helpless Jewish population.
Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, The MacMillan Company, New York, 1965, p. 1.
(17) A Jew might complaint, perhaps, that I go too far in baiting him, when I term his understanding "ox-like". But let him read Isaiah, and he will hear what goes farther than "ox-like"! "The ox", he says, "knows his owner, and the ass his master's crib: Isreal has not known Me. My people had no understanding" [Isaiah 1:3]. You see, o Jew, I am milder than your own prophet: I put you on a par with the beast, he puts you beneath them!
Edmont A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, p. 77.
(18) Editor-in-Chief: Dr. Bezalel Narkiss, Picture History of Jewish Civilization, Harry N. Abrams Inc. Publishers, New York, 1970, p. 121-123.
Obscurantist zeal led Christians to burn cartload of precious Torah scrolls and of manuscript copies of the Talmud, that monument of learning and religious jurisprudence so dear to Jewish sensibilities, Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, 1965, p. 1.
(19)76. p. 114.
(20) An ecclesiastical council at Toulouse outlined a stern procedure for the eradication of heresy in the South. Among other measures, the council forbade the laity the possession of copies of the Bible, except the Psalms and such passages as were in the breviary, and condemned vernacular translation. It thus sought to remove one of the prevalent sources of heresy.
Kennett Scott Latourette, A History of Christianity, Harper & Row Publishers, New York, Evanston & London, 1955, p. 456.
(21) Kenneth Scott Latourette, A History of Christianity, p. 658.
(22) Kenneth Scott Latourette, A History of Christianity, Harper and Row Publisher, New York, Evanston & London, 1953, cac trang 435, 438, 541, 657-659, 842, 845, 457, 1012, 1082, va 568.
(23) Vergillius Ferm, An Encyclopedia of Religion, The Philosophical Library, New York, 1945, noi chu" Witchcraft, tr. 827.
(24) Kennett Scott Latourette, History of Christianity, pp. 438, 453-455, 513, 557, 456.
(25) And through the cities which they were passing, they wiped out completely, as enemies internal to the Church, the excrable Jewish remnants, or forced them to the refuge of baptism - but many of these later reverted, like dogs to their vomit.
Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, The MacMillan Company, New York, Collier MacMillan Limited, London 1965, Chapter V, The Crusades, pp. 66-82.
Về đọan lịch sử trên, xem ibidem, p. 70, và nguyên văn bằng tiếng Latinh do Ekkehard of Aura, Chronicon Universale, MGH, SS, vol. VI p. 208.
(26) Would any earlier pope have been diposed to greet Jewish visitors, as did Pope John, with the words of the patriarch who dispensed grain in a time of famine: "I am Joseph, your brother" (Gen 45:4).
Edward A. Synan, The Popes and the Jews in the Middle Ages, 1965, p. 4.
(27) Giáo Hoàng cho rằng luận cứ sau nay là sai lạc:
Every one is free to follow and to profess the religion which the light of reason leads him to judge to be the true religion.
Jesuit Fathers of St. Mary's College, The Church teaches, St. Marys. Kansas, Tan Books and Publishers, Inc. Rockford, Illinois 61105, 1973, p. 86.
(28) Xem Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, tr. IX.
(29) The "Filioque" controversy.
The origin of the Filioque controversy presents one of the unsolved mysteries of Church history. No one has so far discovered when, how and by whom the words "and from the Son" were added to the Creed, the text of which had been solemnly approved both by the East and West as their common confession of faith at the first four Ecumenical Councils. It appears that the addition was made in Spain some time in the sixth or in the seventh century, but the circumstances under which this change occured have so far not been discovered. From Spain the Filioque clause spread gradually to neighbouring Gaul, and from there to England, Germany and Italy. At first, the Roman Pontiffs were opposed to it, and Pope Leo III (795-816) even ordered the original text of the Creed to be inscribed on silver shields and hung in St. Peter's. Charlemagne and his successors, however, were determined to uphold the legetimacy of the addition, for it provided them with the handy weapon against
Byzantinum. In accusing the Eastern Christians of heresy, the Western rulers found a convenient excuse for agression. The refusal of the Orthodox to accept the Spanish addition to the Creed thereby became a pretext for the conquest of territories belonging to the Eastern Empire. Under political pressure Rome withdrew its opposition to the Filioque clause, and in the next century, at the coronation of the Emperor Henry II (1002-1024) in 1014, the Creed was solemnly intoned at St. Peter's complete with the offending addition.
The Concise Encyclopedia of Living Faiths, Ed. by R. C. Zaehner, Beacon Press: Boston, 1959, p. 95.
(30) Xem Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, pp. 188 va 456.
(31) Ministry, according to Hang Kung, really did not became sacred until the sixth century.
Bảng phúc trình thần học về hàng Linh mục (a theological study of the priesthood), soạn thảo do các Linh mục dòng Tên, Bernard Cooke va Karl Armbruster năm 1971, có viết nguyên văn như sau:
"We can go on to say that there is no evidence in the New Testament that any one individual exercised all these (priestly) functions in the first century of the Christian era".
Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, p. 331.
(32) Prayers offered, heads ducked in unison, crossings, chants, christenings, grace at meals, beats, incense, candles, nuns in the classroom alternatively too sweet and too severe, priests garbed black on the street and brilliant at the altar; churches lit and darkened, clothed and stripped to the rhythm of liturgical recurrences; the crib in the winter, purple February and lilies in the spring; confession as intimidation and comfort and so forth.
Bare Ruined Choirs, pp. 15-16.- Msgr. George A. Kelly, The Battle for the American Church, p. 13.
(33) Some years earlier, a non Catholic psychologists, Gordon Alport, had decided that nine tenths of all Church members were "extrinsically religious". This meant they used religion as a security blanket for the way in which they already lived, but harboring more prejudice against blacks or Jews than unbelievers. Such reasoning was picked up by psychologist Eugene Kennedy, whose book In the Spirit in the Flesh applauds the movement of Catholics away from "extrinsic religion" - based on ritual, rules, and dogmas - and to an "intrinsic religion" based on the Gospel's invitation to a life of risk-taking. The pre-Vatican II Church, according to Kennedy, was extrinsic religion, one that sought to impose answers to all questions that the faithful would face, resulting in Catholic conformism. Vatican II, on the other hand offered instead, intrinsic religion, calling believers to search deeper into their own humanity.
Msgr. George Kelly, The Battle for the American Church, p. 13-14.
(34) No. 6 "The narrations of John are not properly history, but a mystical contemplation of the Gospel".
No, 21 "Revelation, constituting the object of the Catholic faith, was not completed with the Apostles".
No. 27 "The divinity of Jesus Christ is not proved from the gospels. It is a dogma that the Christian conscience has derived from the notion of Messiah.
No. 35 "Christ did not always possess the consciousness of his Messianic dignity".
No. 42 "The Christian community imposed the necessity of Baptism, adopted it as a necessary rite, and added to it obligation of Christian promulgation"
No. 47. "The word of the Lord in John 20:22-23 in no way refer to the sacrament of Penance, in spite of what is pleased the Fathers of Trent to say".
No. 55 "Simon Peter never even suspected that Christ entrusted the primacy in the Church to him".
No. 59 "Christ did not teach a determined body of doctrine applicable to all times and all men, but rather inaugurated a religious movement adapted or to be adapted to different times and places".
Libro citato pp. 44-45.
(35) As philosophers Modernists are agnostic. They confine reason entirely within the field of phenomena (the appearances of things) and so deny man's natural capacity to know God from reason or revelation. As believers Modernists come to faith in a strange way. Man may not know God by reason. Still religion is a universal human phenomenon. How does this comes about? The explanation must be found within man himself (immanence). God originates in man's need of the divine. As an external being, God is unknowable. Man just believes but that faith has no rational basis.
As theologian, Modernist similarly find revelation in human experience. Revelation is man's consciousness of God. Even the Church must submit to the test of the collective consciousness of men, which evolves and continues to evolve through history. ["Venerable brethen, these are not merely the foolish babblings of unbelievers. There are Catholics, yea, and priests too, who say these things openly; and they boat that they are going to reform the Church by these ravings"].
As historians, Modernists distinguish exegesis that is scientific from that which is theological and pastoral. So as scientifics they "are wont to display a manifold contempt for the Catholic doctrines, for the Holy Fathers, for the ecumenical councils, for the ecclesiastical Magisterium...
Msgr, Gregory A. Kelly, The Battle for the American Church, pp. 43-44
(36) If Jesus Christ is not the Son of God made man, or,
If his basic relevation was not fully given in his short lifespan or
If he founded a Church only in the loose sense of a community of friendly believers, and
If all believers are equal in office before the Father,
If they must search in their own way for the mind and will of God - with the counsel from priests perhaps but without being subject to them.
If institutional structures such as papacy, priesthood, minute laws, or confessionals are considered a human invention, not the divine will.
Then we are dealing with a different understanding of Christianity than that found in the definitions of the Catholic Church. Libro citato, p. 38.
(37) Paul VI: sighed (September 11, 1974) that the Church appears "destined to burned itself out".
lb. p. 457.
Bức tranh sau đây: Phòng tra tấn của tòa án La mã đối với những ai không chịu rửa tội hoặc bất đồng quan điểm.  Tranh vẽ của Bernard Picart , con của điêu khắc gia lừng lẫy Etienne Picart .



Inquisition Torture Room by Bernard Picart (1673-1733), son of the famous engraver Etienne Pi

0 nhận xét:

Đăng nhận xét