Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
Warren I. Cohen - Hoa Kỳ, Trung Quốc, và học thuyết Kissinger
16:05
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trần Ngọc Cư dịch
Điều
mà người ta đã vui vẻ bỏ quên ở các cuộc tranh luận gay gắt hiện nay về
các chính sách của chính quyền Obama là vấn đề Hoa Kỳ phải ứng xử thế
nào với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích Mỹ,
cả trong lẫn ngoài chính phủ, đã có những quan điểm rất khác nhau về
cách quản lý mối quan hệ với Trung Quốc (TQ). Henry Kissinger, cùng với
Richard Nixon, đã đóng góp to lớn cho việc mở ra những quan hệ với TQ
vào đầu thập niên 1970. Cuốn sách vừa xuất bản của ông, On China
(Bàn về Trung Quốc), là một nỗ lực biện minh dài dòng về những điều ông
đã làm lúc bấy giờ và lý giải tư duy hiện nay của ông về phương cách
tránh xung đột với một TQ đang trỗi dậy.
Sự
gia tăng đột biến sức mạnh quân sự của TQ trong thập kỷ vừa qua đặt ra
một mối đe dọa nghiêm trọng cho các lợi ích của Hoa Kỳ và cho trật tự
quốc tế được thiết lập sau Thế chiến II. Cuộc đối đầu giữa Bắc Kinh và
Washington tại Eo biển Đài Loan – nghĩa là, giữa hai cường quốc nguyên
tử -- có thể được coi là một cuộc đối đầu nguy hiểm nhất hoàn cầu. Dù có
bất đồng đến đâu về bản chất của mối đe dọa TQ, các chuyên gia cũng
thực sự nhất trí cho rằng hai nước phải hợp tác với nhau.
Có
một số chính trị gia và trí thức chỉ trích TQ gay gắt, trong đó nhiều
người đã coi chính sách Mỹ kể từ khi chấm dứt Chiến tranh Lạnh đến nay
là nhượng bộ vô nguyên tắc (appeasement). Dù quyết tâm chống cộng hay
tha thiết cổ vũ cho nhân quyền, những người này đều muốn thay đổi chế độ
bằng một nền dân chủ tự do cho TQ. Mặc dù chúng ta liên tục ngạc nhiên
trong những năm qua trước sự sụp đổ của Liên Xô và ngọn triều cách mạng
tại Trung Đông, nhưng những trở ngại cho những biến cố tương tự có thể
xảy ra tại TQ là rất lớn. Hoa Kỳ chẳng làm được một điều gì đáng kể để
mang lại “diễn biến hoà bình” cho xã hội TQ, một diễn biến mà các lãnh
đạo và các nhà chính trị Mỹ đã kêu gọi kể từ thập niên 1950. Nước Trung
Hoa mà chúng ta chứng kiến hiện nay là nước Trung Hoa mà chính phủ Hoa
Kỳ phải đối phó trong một tương lai có thể thấy trước được.
Những
nhận thức về “mối đe dọa TQ” xoay quanh khả năng ngày càng lớn của
chính phủ TQ trong việc làm rối loạn trật tự quốc tế hiện hữu. Về quân
sự, TQ đang thu thập những phương tiện chiến tranh nhằm phóng chiếu
quyền lực của mình ra ngoài biên giới Đông Á và thách thức Hải quân Hoa
Kỳ tại Tây Thái Bình Dương, cụ thể là trong vùng lân cận Đài Loan. Những
thí nghiệm về chiến tranh mạng của TQ đã làm cho Lầu Năm Góc giao động.
Về kinh tế, nhu cầu vĩ đại của TQ về nguyên vật liệu đã đẩy cao giá cả
của rất nhiều thương phẩm. TQ đã mở rộng các hoạt động khai thác nguyên
liệu đến mọi châu lục ngoại trừ Nam Cực và đã dùng thủ đoạn để thao túng
thị trường khoáng sản “đất hiếm”. TQ đã đặt ra hối suất giả tạo cho
đồng nhân dân tệ bất chấp cả những khó khăn nó tạo ra cho Hoa Kỳ và
nhiều nước khác. TQ đã trí trá tránh né những bổn phận đối với WTO về
việc mở cửa thị trường nội địa và TQ đã gây nhiều thiệt hại to lớn [cho
các công ty nước ngoài] vì đã coi thường quyền sở hữu trí tuệ. Về chính
trị, TQ đã bao che một số quốc gia thù nghịch với Hoa Kỳ vì những vi
phạm nhân quyền của họ: Miến Điện, Sudan, Uzbekistan, và Zimbabwe. Điều
nghiêm trọng là, sự trỗi dậy của TQ đã cống hiến một mô hình thay thế
cho mô hình dân chủ và thị trường tự do của phương Tây trong việc tổ
chức quốc gia.
Không
có một chỉ dấu rõ ràng nào cho thấy Bắc Kinh có ý định sẽ làm gì với
quyền lực mới khôi phục của mình. Đường lối tuyên truyền chính thức của
nhà nước nói rằng TQ không có ý định xâm lấn, rằng TQ vẫn còn là một
nước đang phát triển, và rằng phải mất thêm nhiều thập kỷ nữa quân đội
TQ mới có thể cạnh tranh với quân đội Hoa Kỳ. Nhưng mặt khác, nhiều sĩ
quan cấp cao trong Giải phóng quân Nhân dân và một số trí thức TQ lại tỏ
ra hiếu chiến hơn, lên tiếng cảnh báo người Mỹ và các dân tộc khác
không được thách thức quan niệm đang phổ biến ngày một rộng rãi của TQ
về “quyền lợi cốt lõi của họ”. Những nỗ lực gần đây nhằm đe nẹt các nước
láng giềng của TQ tại Biển Đông chí ít cho thấy khả năng là, khi quyền
lực của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa gia tăng, nước này sẽ không chống
lại cám dỗ hành xử một cách quyết đoán, như các đại cường thường làm, kể
cả nước Trung Hoa ngày xưa và Hoa Kỳ.
Có
một số trí thức Mỹ nổi tiếng -- chẳng hạn, Andy Nathan tại Đại học
Columbia và Rod MacFarquhar và Elizabeth Perry tại Đại học Harvard –
không tin rằng những dự đoán hiện nay về sự trổi dậy của TQ là có cơ sở
vững chắc. Một số người tiên đoán sự sụp đổ của chế độ Cộng sản; một số
người khác tranh luận giản dị rằng kinh tế TQ sẽ chao đảo. Họ ghi nhận
những khuyết tật trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những món nợ cho
doanh nghiệp nhà nước vay mà không đòi lại được. Họ viện dẫn bất ổn xã
hội ngày một gia tăng, với bằng chứng là hằng chục ngàn cuộc biểu tình
chống chính phủ diễn ra khắp nước mỗi năm. Gần đây, các nhà nghiên cứu
dân số đã vạch ra tình trạng ngày một già nua của lực lượng lao động TQ
mà không có giới trẻ thay thế -- do chính sách một con của nước này.
Ngoài ra, những đòi hỏi của lao động TQ về đồng lương cao hơn và điều
kiện làm việc tốt hơn đang đẩy một số công nghiệp ra nước ngoài. Cộng
đồng tình báo tại Hoa Kỳ đã xét đến nhiều kịch bản khác nhau liên quan
đến sự sụp đổ của chế độ Bắc Kinh. Nhưng sự tăng trưởng kinh tế phi
thường của TQ vẫn tiếp tục, tương phản rõ nét với những khó khăn hiện
nay tại châu Âu và Hoa Kỳ. Bộ máy công an hiện diện khắp mọi nơi tại TQ
đã giúp Đảng Cộng sản bóp nghẹt sự chống đối của dân chúng trong nước
một cách dễ dàng.
Cuốn On China
của Kissinger có thể được coi như một diễn văn từ biệt của ông về quan
hệ Mỹ-Trung. Cũng như hầu hết các tác phẩm ông viết ra từ khi rời chức
vụ vào năm 1977, phần lớn cuốn sách này được dùng để tự đề cao mình và
bỏ qua một số sai lầm ghê gớm của ông trong những lần tiếp xúc đầu tiên
với Chu Ân Lai, đáng lưu ý nhất là việc ông đưa ra những nhượng bộ to
lớn về Đài Loan vào đầu các cuộc thương thuyết – một động thái tiến tới
việc bỏ Đài Loan – lớn hơn cả điều mà họ Chu có thể tưởng tượng. Nhưng
sự phân tích của ông về cách lý luận và phương pháp làm việc của phía
Bắc Kinh là đáng suy nghĩ. Hẳn nhiên, Kissinger nhấn mạnh rằng sự hợp
tác giữa TQ và Hoa Kỳ là thiết yếu cho hoà bình và ổn định của thế giới,
cũng như lợi ích của hai quốc gia. Ông luôn luôn ám chỉ rằng chính việc
Hoa Kỳ che chở cho Đài Loan và việc Hoa Kỳ đòi hỏi Bắc Kinh cải thiện
hồ sơ nhân quyền là nguyên nhân chính cho sự căng thẳng trong mối quan
hệ hữu nghị giữa hai nước, dù cho những chính sách này có phản ánh những
giá trị đáng chiêm ngưỡng bao nhiêu đi nữa. Ông không đòi hỏi người Mỹ
phải từ bỏ những giá trị của mình, nhưng gợi ý rằng đường lối thực tế
của ông, theo đó những giá trị này phải được đặt dưới các nhu cầu của
quốc gia, là vô cùng ưu việt.
Phần
đầu cuốn sách là một lịch sử đại cương về nước Trung Hoa cổ trước thời
Cộng hòa dân quốc. Kissinger dùng lịch sử này để giải thích những điểm
nhạy cảm và chiến lược của TQ. Việc ông phân tích tính nhạy cảm này cũng
là một cách trình bày tinh tế lời than phiền quen thuộc của TQ về một
“thế kỷ bị chà đạp”, những năm trong đó TQ bị bọn đế quốc châu Âu, Nhật
Bản, và Mỹ xâu xé. Kissinger còn đưa vào trong phần này một số vấn đề mà
TQ đã chịu đựng trước đó, chẳng hạn những đợt tàn phá do người Mông Cổ
gây ra, và nhấn mạnh nỗi sợ kinh niên của TQ về hiểm họa bị bao vây. Tuy
nhiên, Kissinger, cũng như người TQ, không chịu nói đến những nỗi nhục
nhã mà người Trung Hoa đã gây ra cho các nước láng giềng qua những thế
kỷ mà lãnh đạo của họ xây dựng Đế quốc Trung Hoa -- phần lãnh thổ tối đa
mà TQ đang tuyên bố chủ quyền. Trong quá trình kiến tạo một đế quốc như
vậy, người Trung Hoa cũng hống hách, tàn bạo không thua gì người châu
Âu, người Nhật Bản, hay người Mỹ trong việc xây dựng đế quốc của mình.
Người Trung Hoa cũng dùng biện pháp quân sự để xâm chiếm và khuất phục
những giống dân yếu kém mà họ cho là bọn man di thiếu phẩm chất con
người (subhuman) để biện minh cho hành vi của mình. Điều hiển nhiên --
nhưng bị làm cho lu mờ bởi cách Kissinger bàn về Khổng giáo và các chiến
lược lịch sử -- là chúng ta không có lý do, văn hóa hay di truyền, để
tin chắc TQ trong tư thế một đại cường có thể hành động ít hiếu chiến
hơn các đại cường khác qua hằng ngàn năm nay.
Điểm
rất dễ bộc phát xung đột trong quan hệ Mỹ-Trung hiện nay vẫn là Đài
Loan. Vào cuối thập 1940, khi Tưởng Giới Thạch và đám tàn dư của bại
quân lục địa cai trị đảo này với thái độ khinh miệt thô bạo đối với dân
bản xứ, chính quyền Truman đã toan tính bỏ rơi Đài Loan. Chiến tranh
Triều Tiên buộc chính quyền này phải thay đổi đường lối và quay ra hậu
thuẫn chế độ độc tài độc đảng của Tưởng Giới Thạch. Hầu hết các quan
chức chính phủ từng chỉ trích họ Tưởng, một con cưng của Cánh hữu Mỹ,
đều bị thanh trừng trong thời kỳ McCarthy [một giai đoạn chống cộng rất
điên cuồng tại Mỹ, DG.] Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles gia
tăng luồng viện trợ và ký một thỏa ước phòng thủ chung với Đài Bắc.
Việc Hoa Kỳ chống đối quyết tâm của Bắc Kinh tái thống nhất đảo Đài Loan
với lục địa là điểm thường gây bế tắc trong các cuộc thương thuyết
Mỹ-Trung. Mãi cho đến chính quyền Nixon mới có một toan tính thứ hai
nhằm bỏ Đài Loan. Nixon và Kissinger biết mình đã liều lĩnh gây phẫn nộ
bên cánh hữu nhưng, vì kết luận rằng thiết lập một quan hệ hữu hiệu với
TQ là có ích lợi hơn làm một nước bảo hộ Đài Loan, đã bày tỏ cho Chu Ân
Lai và Mao Trạch Đông biết quyết tâm bỏ Đài Loan của mình. Điều mà cả
Washington và Bắc Kinh đều đinh ninh là, nếu không có hậu thuẫn Mỹ, chế
độ Tưởng cuối cùng sẽ sụp đổ, tạo điều kiện thuận lợi cho TQ sáp nhập
Đài Loan.
Nhưng
Đài Loan đã không sụp đổ, thậm chí cả sau sự kiện bình thường hóa quan
hệ Mỹ-Trung và sự kiện Mỹ chấm dứt liên minh với Đài Loan dưới thời
chính quyền Carter. Thay vì sụp đổ, Đài Loan đã phát triển thành một
nước dân chủ vững mạnh, thường xuyên được lãnh đạo bởi những chính khách
từng được đào tạo ở Mỹ và chia sẻ những giá trị của Mỹ. Hậu thuẫn cho
Đài Loan lan rộng tại Hoa Kỳ khi cả giới tự do và giới bảo thủ Mỹ cùng
nhau bày tỏ niềm hân hoan trước sự chuyển đổi văn hóa chính trị của Đài
Loan. Những âm mưu hù dọa người dân đảo quốc của TQ đã bị Hoa Kỳ chặn
đứng, rõ ràng nhất là khi Bill Clinton gửi hai toán tàu chiến có hàng
không mẫu hạm (carrier battle groups) vào trong khu vực năm 1996. Vấn đề
Đài Loan một lần nữa đã trở thành nguyên nhân chính cho mối căng thẳng
giữa Washington và Bắc Kinh.
Kissinger
không bao giờ công khai kêu gọi bỏ rơi Đài Loan, nhưng rõ ràng là ông
vẫn còn tin tưởng rằng quan hệ hữu nghị với TQ là quá quan trọng, không
thể để cho nó bị đe dọa vì việc Mỹ tiếp tục hậu thuẫn Đài Loan. Suốt sự
nghiệp và ngay cả trong cuốn On Politics, Kissinger nhấn mạnh khuynh hướng Realpolitik
(chính trị thực tế) của mình. Ông ca ngợi Bismark và một số nhà lãnh
đạo khác, những nhân vật ít bận tâm với các lý tưởng nhân đạo nhưng biết
coi trọng lợi ích quốc gia. Kissinger không cần đến cái nhiệt tình
“truyền giáo” của Hoa Kỳ để đi rao giảng các giá trị Mỹ, nhưng ông lại
coi những nhân vật như Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông là những nhà chiến
lược đáng khâm phục, được khuôn nắn theo hình ảnh của ông.
Nếu
có cái gọi là một Học thuyết Kissinger, thì học thuyết này sẽ gạt bỏ
các giá trị nhân đạo qua một bên và chỉ tập trung một cách không nương
nể vào lợi ích chiến lược của quốc gia. Áp dụng vào quan hệ hữu nghị với
TQ, nhất là trong những năm kể từ khi sự trỗi dậy của TQ đã trở nên
hiển nhiên, Kissinger yêu cầu Mỹ phải chấm dứt chỉ trích chế độ độc tài
độc đảng của TQ và chấm dứt than phiền về những vi phạm nhân quyền của
TQ. Luôn luôn bênh vực tinh thần Hoà ước Westphalia, một chủ trương
không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, ông tuyên bố
người Trung Quốc là những người mang tinh thần Westphalia gương mẫu
trong thế giới ngày nay. Nếu Washington muốn tránh xung đột với một TQ
đang trỗi dậy, thì việc nhượng bộ về những điểm này và chỉ tập trung vào
những vấn đề mà TQ và Hoa Kỳ cùng có lợi ích chung sẽ là một điều khôn
ngoan.
Đương
nhiên, vẫn còn có một đường lối khác: đó là, quân bình các lý tưởng với
lợi ích quốc gia. Thật vậy, chúng ta có thể lý giải rằng hậu thuẫn các
lý tưởng nhân đạo của Mỹ ở nước ngoài cũng là phục vụ lợi ích quốc gia,
rằng cổ vũ dân chủ và tôn trọng nhân quyền khắp địa cầu sẽ gia tăng cơ
may sống trong một thế giới mà lợi ích của Hoa Kỳ có thể phát triển. Qua
nhiều năm nay, Hoa Kỳ là mô hình hấp dẫn đối với các dân tộc khác nhờ
nó có một xã hội cởi mở, một chế độ dân chủ, và cam kết bảo vệ nhân
quyền. Sự tập trung của Hoa Kỳ vào những giá trị này tỏ ra có sức hấp
dẫn trong thời Chiến tranh Lạnh. Ngày nay, những giá trị này có thể thu
hút loài người thêm một lần nữa, nếu chúng được phát huy mà không cần sử
dụng vũ lực -- nếu Washington khắc phục được vết ô nhục gắn liền với
cái ý thức về một sứ mệnh (sense of mission) của Mỹ trong thời chính
quyền George W. Bush.
Chúng
ta không thể kỳ vọng người TQ lấy làm thích thú vì Hoa Kỳ chỉ trích văn
hóa chính trị của họ; họ cũng sẽ không hài lòng vì Washington tiếp tục
hậu thuẫn Đài Loan. Những bất đồng này và việc Hoa Kỳ phản đối hành vi
của TQ ở nước ngoài chắc chắn sẽ tạo ra những va chạm trong những năm
tới. Người TQ chắc không khác hơn người Mỹ ở chỗ chịu chấp nhận những
phàn nàn về hành vi của mình mà không phản đối. Nhưng đấy là lý do chúng
ta cần đến những nhà ngoại giao. Những vấn đề này có thể đá qua đá lại,
có thể hậm hực với nhau, có thể thương thuyết -- tất cả đều không cần
đến xung đột vũ trang.
Ngày
nay TQ chưa ở trong tư thế có thể thay thế Hoa Kỳ như một siêu cường để
giải quyết các vấn đề thế giới, nhưng các học giả TQ tỏ ra rất hân hoan
trước viễn ảnh suy yếu của Hoa Kỳ. Nếu chúng ta muốn sống trong hoà
bình với TQ trong vòng từ 50 đến 100 năm, học thuyết Kissinger với chủ
trương tôn trọng những điểm nhạy cảm của TQ là một đường lối sai lầm.
Người Mỹ cần chứng tỏ rằng quốc gia của mình không suy yếu. Họ phải đối
phó thành công với những vấn đề kinh tế và chính trị mà họ đã đương đầu
trong những năm đầu tiên của thế kỷ này. Họ phải chuẩn bị về mặt quân sự
để ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu mà những đế chế thịnh trị của TQ đã
lao vào trong quá khứ. Các nhà phân tích Mỹ đủ mọi khuynh hướng chính
trị, bất luận nhận thức của họ về ý đồ của TQ là như thế nào, đều đồng ý
rằng đe dọa chính cho vai trò siêu cường quốc tế của Hoa Kỳ xuất phát
từ bên trong./.
Warren I. Cohen
là giáo sư danh dự của Đại học Maryland, Baltimore, và là học giả thâm
niên trong chương trình châu Á thuộc Trung tâm Học giả Nghiên cứu Quốc
tế Woodrow Wilson. Ông là tác giả cuốn America’s Response to China: A History of Sino-American Relations.
Nguồn: vanchuongviet.org
0 nhận xét:
Đăng nhận xét