Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
Cuộc đời tranh đấu của Mohandas Gandhi
12:26
Hoàng Phong Nhã
No comments
Gia tài tinh thần của Mohandas
Gandhi với tư tưởng đấu tranh bất bạo động Ahimsa trở thành một tư tưởng
quý báu trong kho tàng văn hóa của nhân loại.
Mohandas
Karamchand Gandhi sinh ngày 2-10-1869 tại tiểu bang Porbandar, Ấn Ðộ.
Cha của ông giữ chức dewan (thủ tướng) trong chính quyền tiểu bang nhưng
gia đình của ông vẫn không khá giả lắm; và có lẽ nhờ vậy cho nên khi
còn bé, ông có cơ hội vui đùa với bạn bè cùng tuổi thuộc nhiều thành
phần tôn giáo khác nhau. Năm lên sáu tuổi, ông cắp sách đến trường và
dần dần tỏ ra là một học sinh xuất sắc. Năm 12 tuổi, ông phải lấy vợ
theo sự sắp xếp của cha mẹ. Vợ của Gandhi, Kasturbhai Makanji, là một
người đàn bà kiên nhẫn, độ lượng và tận tụy kề vai sát cánh hy sinh với
chồng suốt cuộc đời cách mạng của ông.
Vào năm 1888, theo lời khuyên của nhà
tôn giáo Mavji Dave và với sự trợ giúp của gia đình, Gandhi xuất cảnh
qua Luân Ðôn, Anh quốc, để học luật. Ba năm sau, ông thi đậu bằng hành
nghề luật sư và trở về Ấn Ðộ mở văn phòng tư vấn. Nhân việc anh của ông,
Laxmidas, bị đại diện Anh Charles Ollivant sa thải một cách thiếu công
bằng (vì sự ém nhẹm tài chánh của Hoàng gia Bhavsingh), Gandhi đến văn
phòng chính quyền can thiệp cho Laxmidas nhưng bị Ollivant sai người
tống cổ ra cửa. Ông đem việc này nói với Ðại Luật Sư Sir Pherozeshah
Mehta và được khuyên là nên im hơi lặng tiếng (‘pocket the insult’) bởi
vì người Anh đô hộ Ấn Ðộ cho nên họ muốn gì thì được nấy.
Sự kiện vị luật sư trẻ người Ấn dám đụng
đến đại diện Anh quốc làm động lòng một thương gia đồng hương tên Abdul
Karim - chủ nhân của công ty Dala Adbulla & Co. Karim đề nghị với
Laxmidas là nên cho Gandhi qua Nam Phi giúp đỡ cho công ty Dala Adbulla
& Co. trong một vụ tranh kiện lớn. Karim đài thọ hoàn toàn chuyến đi
Nam Phi và trả lương hậu cho Gandhi. Chuyến đi Nam Phi đánh dấu bước
ngoặc mới trong cuộc đời của ông.
Vào tháng tư năm 1893, Gandhi để lại vợ
con ở Ấn Ðộ để lên đường đi Nam Phi. Trong khi đáp xe lửa đến Pretoria
để nhận nhiệm vụ vào tháng sáu năm đó, Gandhi đang ngồi trong toa hạng
nhất thì bị đuổi ra. Khi khẳng khái từ chối rời chỗ ngồi bởi vì ông đã
mua vé hạng nhất thì Gandhi bị nhân viên tàu hỏa đẩy ra khỏi toa xe lửa;
hành lý của ông bị quăng xuống đất. Ðêm hôm đó ông nghỉ trong phòng đợi
của nhà ga Pietermaritzburg và đi đến quyết định là ông không thể tiếp
tục chấp nhận bị kỳ thị và sẽ sử dụng phương pháp riêng của ông để chấm
dứt tệ nạn kỳ thị chủng tộc - phản kháng tích cực nhưng bất bạo động.
Vào tháng 5-1894, Gandhi tổ chức Nghị
Viện Ấn Ðộ Natal (Natal Indian Congress) để chống lại dự luật tước đoạt
quyền bầu cử, tức là ảnh hưởng chính trị, của dân Ấn Ðộ tại Nam Phi. Do
nỗ lực phản kháng này mà ông bị một số người Âu Châu đánh gần bất tỉnh
vào ngày 13-1-1897, nhưng ông không truy tố phạm nhân; theo ông, kẻ có
tội là chính quyền Natal vốn có chánh sách khuyến khích người Âu kỳ thị
người Ấn, và đây là một vấn đề chính trị phải được ông giải quyết trên
chính trường với lãnh tụ chính quyền.
Ðể tạo sự thông cảm với giới lao động
nghèo gốc Ấn, Gandhi mở một nhà y tế nhỏ nhằm giúp đỡ họ miễn phí. Song
song, ông cho ra tờ báo Indian Opinion để trình bày ý kiến của cộng đồng
Ấn đối với các vấn đề quan trọng. Ông cũng bắt đầu chủ trương đơn giản
hóa đời sống cá nhân tới mức tối thiểu.
Vào năm 1906, chính quyền Natal ra dự
luật bắt buộc tất cả thường dân gốc A¨ Châu phải đăng ký, mang thẻ kiểm
tra, và nếu trên 8 tuổi thì bị lấy dấu tay (như phạm nhân). Gandhi và đa
số dân Ấn ở Nam Phi tuyên thệ thà chết chứ không chịu đi ghi danh. Vào
tháng 10 năm đó, ông dẫn một phái đoàn qua Luân Ðôn để cầu viện với Quốc
Hội Anh về dự luật kỳ thị của chính quyền Natal; với sự vận động của
phái đoàn Gandhi, dự luật này không được Quốc Hội Anh chấp thuận cho nên
không được Anh Hoàng phê chuẩn. Tuy vậy, tin vui này không kéo dài bởi
vì khi chính quyền Nam Phi ở Transvaal trở thành nhà nước tự trị
(self-government) vào năm 1907 thì ảnh hưởng của Quốc Hội Anh trở nên vô
hiệu.
Tướng Smuts của Transvaal quyết định là
tất cả thường dân Ấn phải đăng ký và bị lấy dấu tay trước ngày 1-7-1907.
Nhiều người Ấn chống đối lại quyết định này và đã bị bắt giam, trong đó
có Gandhi. Khi thấy dân Ấn quá cứng đầu thà đi tù còn hơn bị nhục,
Smuts liên lạc và thương lượng với Gandhi. Cuối cùng hai bên đồng ý là
thường dân Ấn phải đăng ký một cách tự nguyện, nhưng thành phần trí thức
Ấn không bị lấy dấu tay mà chỉ cần ký tên. Sau khi hai bên thỏa thuận
xong các điều kiện giải hòa, Gandhi được phóng thích và bắt đầu lên
tiếng kêu gọi dân Ấn tự nguyện đi đăng ký. Một thanh niên Ấn, Mir Alam,
và bốn người khác chống lại sự kiện chuyển hướng đăng ký tự nguyện cho
nên đã đánh Gandhi trọng thương khi ông đi đăng ký vào tháng 2-1908. Sau
khi bình phục, ông không truy tố họ về tội trạng này.
Vào tháng 10 năm đó, Gandhi lại khuyến
khích dân Ấn đốt các thẻ kiểm tra để chống lại một số dự luật kỳ thị
khác (thuế thân, v.v.). Chiến thuật của ông là bắt buộc chính phủ phải
tốn tiền để nuôi người Ấn cho đến khi ngân sách nhà nước bị kiệt quệ.
Các thành viên Satyagraha, trong đó có Gandhi và con trai ông, hy sinh
phạm luật ‘phá rối trật tự’ để được vào tù; luật sư biện hộ cho họ có
nhiệm vụ xin cho họ bị án càng nặng càng tốt. Từ năm 1908 đến 1914,
Gandhi dẫn đầu nhiều cuộc đình công, biểu tình chống đối chính quyền và
phải ra vào tù nhiều lần. Vào tháng 1-1914, Tướng Smuts phải thương
lượng với Gandhi và từ từ bãi bỏ hết các bộ luật kỳ thị người Ấn như
luật thuế thân.
Người tù Gandhi đã thành công - mặc dầu
chỉ tương đối - trong việc bảo vệ nhân phẩm của dân Ấn tại Nam Phi. Giữa
tháng 7-1914, ông từ giã Nam Phi đi thăm Anh quốc rồi hồi hương về Ấn
Ðộ. Tưởng cũng cần kể lại một câu chuyện đã xảy ra trong gia đình Gandhi
vào tháng 10-1901 ở Nam Phi. Tại Natal, bà Kasturbhai muốn giữ lại số
vàng ngọc mà thương gia Ấn tặng ông bà để ghi ơn, nhưng Gandhi cực lực
phản đối. Ông ra lệnh là phải trả lại tất cả các tặng phẩm cho người Ấn ở
địa phương để tổ chức Nghị Viện Ấn Ðộ Natal của họ có quỹ hầu tiến hành
những công tác chống lại các dự luật bất công của chính quyền.
Trở về Ấn Ðộ ngày 9-1-1915, Gandhi cảm
thấy xa lạ với đất mẹ của mình. Ấn Ðộ nằm dưới ách thống trị của Anh
quốc là một đất nước hấp dẫn đối với ông từ xa, nhưng khi đặt chân lên
Ấn Ðộ thì ông chưa biết mình phải làm gì. Người dân Ấn đón chào ông một
cách hoan hỉ nhưng họ không biết ông có thể giúp đỡ được gì cho họ; một
số trí thức và giới vương giả Ấn lại tỏ vẻ dè dặt đối với nhân vật nổi
loạn Gandhi. Theo lời đề nghị của Gokhale - một người bạn cũng được xem
là vị cố vấn chính trị - Gandhi bỏ nhiều thời giờ đi khắp Ấn Ðộ để tìm
hiểu dân tình; ông biết là chỉ khi nào ông thấu hiểu được thực trạng của
nhân dân thì ông mới biết là mình có thể giúp được gì cho họ.
Vào tháng 6-1916, Gandhi được mời nói
chuyện tại lễ khai trương Ðại Học Ấn Giáo Benares (Benares Hindu
University). Trước mặt đại diện chính quyền đế quốc và các nhân vật
vương giả Ấn đầy quyền hành, Gandhi khuyên sinh viên nên học hỏi tiếng
Ấn thay vì Anh văn: ‘Ngôn ngữ của chúng ta phản ảnh bản thân chúng ta,
và nếu các bạn bảo tôi là ngôn ngữ của chúng ta quá nghèo nàn không thể
trình bày những tư tưởng cao cả nhất, thì tôi nói là chúng ta nên tự
diệt càng nhanh chừng nào càng tốt chừng đó!’ (Our language is the
reflection of ourselves, and if you tell me our languages are too poor
to express the best thoughts, then I say that the sooner we are wiped
out of existence the better of us!). Sau đó ông tấn công thành phần
vương giả giàu có và kết án là ngọc ngà châu báu của họ đến từ hành động
cướp của dân nghèo; ông kêu gọi họ nên mở kho ra để phân phát cho bần
dân.
Ðại diện chính quyền đế quốc và quan
khách vương giả bỏ ra về trước khi Gandhi kết thúc bài nói chuyện của
ông. Sau bài diễn văn đó, chính quyền đô hộ và thành phần vương giả Ấn
khinh bỉ Gandhi, nhưng nhiều tổ chức và đại học lại muốn ông đến chia xẻ
quan điểm của ông với họ; giấy mời từ khắp nơi gởi đến ông tới tấp.
Gandhi bắt đầu mang trên vai nhiệm vụ đánh thức dân tộc Ấn để họ nhận
thức được là họ phải thay đổi từ cách sống đến tinh thần hầu có thể nắm
lấy quyền lực chính trị trong tay, nếu không thì họ luôn luôn là những
nạn nhân tự nguyện của sự đàn áp (willing victims of oppression).
Vào tháng 12 năm đó, Gandhi dự hội nghị
của Nghị Viện Quốc Gia Ấn (Indian National Congress). Vai trò của ông
đối với tổ chức Nghị Viện trong giai đoạn này không có gì đáng kể, nếu
không nói là những nhân vật có ảnh hưởng trong tổ chức như Tilak,
Jinnah, và Besant (một phụ nữ cách mạng gốc Anh) lúc đó xem thường ông.
Tại hội nghị này, Gandhi gặp Rajkumar Shukla, một đại diện của nông dân
Champaran. Shukla tham dự hội nghị với trọng trách trình bày thực trạng
bất công ở Champaran và yêu cầu tổ chức Congress giúp đỡ. Rất tiếc là
Shukla không có ảnh hưởng chính trị cho nên không ai thực sự chịu lắng
nghe kiến nghị của ông - ngoại trừ Gandhi vốn không có việc gì để làm
lúc đó.
Tại vùng Champaran, giới địa chủ Anh với
sự giúp đỡ của chính quyền đô hộ cướp đoạt ruộng đất và bắt dân địa
phương trồng tỉa cho họ với đồng lương chết đói. Song song, dân địa
phương còn phải đóng cho bọn địa chủ một loại thuế lạ đời gọi là abwabs
mỗi lần có giỗ chạp, cưới gả, hay tậu ghe, ngựa, v.v. Nông dân Champaran
sống rất cực khổ và thỉnh thoảng họ biểu tình đòi cải cách nhưng không
thành công. Vào tháng 12-1916, nông dân vô danh Rajkumar Shukla lặn lội
đi xin tổ chức Nghị Viện giúp đỡ; nhưng không ai chịu lắng tai nghe lời
kể lể của ông. Gandhi ban đầu cũng không tin Shukla và chỉ hứa suông là
ông sẽ giúp sau khi được nhìn thấy tận mắt sự bất công - sự trợ giúp này
có thể sẽ không bao giờ xảy ra bởi vì Gandhi chưa từng nghe đến địa
danh Champaran và ông cũng còn nhiều việc quan trọng hơn để làm. Nhưng
sự van nài kiên nhẫn của Shukla khiến Gandhi không thể từ chối.
Ngày 10-4-1917, Gandhi đi thẳng đến
Muzaffarpur - nơi nông dân đang nổi loạn chống lại bọn địa chủ. Sau khi
trực diện với thực trạng cực khổ của giới bần nông, Gandhi họp tất cả
luật sư và thành phần trí thức địa phương lại để giúp ông trong việc
thâu thập các bằng chứng hầu kiến nghị (petition) lên chính quyền. Có
người phàn nàn là chiến lược của Gandhi khó thực hiện được bởi vì các
luật sư giàu có không thể kiên nhẫn vào tù phỏng vấn nông dân đang bị
bắt một cách miễn phí, một số người khác lại thấy là công việc này kéo
dài quá lâu mà lại không có hiệu quả ngay lập tức. Gandhi cứ tiếp tục
công việc đã được vạch ra; theo ông, nếu cần cũng có thể tốn hai năm
trời để thâu thập bằng chứng.
Gandhi biết là việc ông làm sẽ khiến bọn
địa chủ tức tối và họ sẽ tìm mọi cách để bắt ông hoặc tống xuất ông ra
khỏi Muzaffarpur cho nên ông đã chuẩn bị trước cho nguy cơ bị câu lưu.
Ông sắp xếp người thay thế để tiếp tục thâu nhận và cất giấu chứng cớ
sau khi ông bị bắt. Ông cũng gởi thư kêu gọi sự giúp đỡ của những người
có thế lực cũng như chính quyền đô hộ trung ương. Ông thẳng thắn trao
trả lại huy chương vàng Kaisar I Hin về công tác nhân đạo của ông bởi vì
thấy là ông đang làm việc nhân đạo cho nông dân Muzaffarpur mà bị cấm
đoán.
Cuối cùng thì Gandhi bị bắt nhưng được
cho tại ngoại hầu tra với điều kiện là phải đóng 100 rupees để thế chân.
Ông than là không có tiền thì lại được Chánh A¨n đổi ý cho ký tên thay
tiền, nhưng ông cũng không chịu ký. Rốt cuộc ông cũng được thả ra chờ
ngày hầu tòa mà không phải ký tên hay đóng tiền thế chân. Khi được thả
ra, ông vẫn tiếp tục làm việc như cũ mà không tỏ vẻ sợ hãi.
Có một người Anh tên Charlie Andrews đến
giúp đỡ nhóm của ông và ai cũng muốn Andrews ở lại lâu với họ để làm
một tấm chắn hộ mạng cho họ chống lại chính quyền địa phương. Gandhi bảo
Andrews phải lập tức rời khỏi Muzaffarpur bởi vì sự hiện diện của
Andrews có hại cho tinh thần của nhóm; họ phải tự rèn luyện lòng can đảm
để có thể làm việc một mình mà không sợ hãi bạo lực đàn áp của chính
quyền địa phương.
Sau một thời gian làm việc tận tụy, các
luật sư dưới sự điều động của Gandhi thâu thập được khoảng 25000 hồ sơ
và tường trình lên chính quyền đô hộ để đòi hỏi họ giải quyết. Ðại diện
chính quyền, thành phần địa chủ, và Gandhi sau nhiều ngày thảo luận đã
đi đến quyết định là giới địa chủ phải trả lại cho nông dân 25% số tiền
thuế mà họ đã lạm thâu. Chiến thắng này của Gandhi - được chính thức hóa
vào ngày 3-10-1917 - sau sáu tháng làm việc ngày đêm đưa ông vào vị trí
lãnh đạo nông dân chống lại sự đàn áp của giới địa chủ. Một nhân viên
thuộc địa Anh tên W.A. Lewis đã viết về tư cách của ‘vị Thánh’ sau cuộc
gặp gỡ Gandhi vào ngày 29-4 để bàn về tình trạng của nông dân
Muzaffarpur như sau:
‘Chúng ta có thể xem Gandhi như một nhân
vật quá lý tưởng, cực đoan, hay một nhà cách mạng theo ý kiến riêng của
chúng ta. Nhưng đối với dân raiyats ông là người giải phóng họ, và họ
xem ông như người có nhiều quyền phép ngoại hạn. Ông đi qua lại các làng
để kêu gọi họ ta thán cho ông nghe, và ông chuyển hóa óc tưởng tượng
của đại đa số ngu dân với viễn ảnh của nghìn năm về trước.’
Cuối năm 1917, Gandhi được bà Gangabehn
Majmundar tặng một khung dệt cũ kỹ. Ông bắt đầu tự dệt lấy vải để may áo
quần cá nhân, và phong trào khadi (dệt tại gia) bùng nổ. Các vụ tự
nguyện đốt vải vóc ngoại quốc đã xảy ra ở nhiều nơi để tô điểm thêm cho
tinh thần kiên quyết chống lại chế độ cai trị của thực dân Anh tại Ấn.
Vào tháng 2-1918, Gandhi hướng dẫn cuộc
đình công của giới thợ thuyền tại Ahmedabad. Sau một thời gian không có
kết quả, nhiều công nhân bắt đầu có ý muốn trở lại làm việc. Họ không
còn tiếp tục tin tưởng vào Gandhi vốn không có gì để mất mà họ thì có
thể bị chết đói. Biết được ý nghĩ này, Gandhi đã lấy mạng sống của mình
ra để bảo vệ sự đoàn kết của công nhân; ông bắt đầu tuyệt thực cho đến
chết, nếu cần thiết, để chứng minh cho giới công nhân thấy sự hy sinh
tuyệt đối của ông cũng như chứng tỏ với thành phần chủ nhân tinh thần
kiên quyết đình công của giới thợ thuyền. Sau hai ngày tuyệt thực của
Gandhi, giới chủ nhân đồng ý tăng lương 35% cho công nhân; và con người
ốm o gầy mòn Gandhi lại chiến thắng thêm một lần nữa cho giai cấp bần
cùng trong xã hội Ấn.
Vào tháng 3-1919, dự luật ngăn cấm các
hành động chống đối chính quyền thuộc địa được thông qua. Sau khi nghiên
cứu hậu quả tác hại của bộ luật mới, Gandhi - lúc này đã ở trong vị thế
lãnh đạo nhân dân - đi đến quyết định phải chống lại ảnh hưởng bất lợi
của bộ luật mới. Ông kêu gọi tổng đình công cả nước (hartal) trong vòng
48 tiếng đồng hồ bắt đầu từ ngày 6-4. Cuộc đình công bất bạo động đem
đến nhiều cảnh đổ máu giữa thường dân và lực lượng an ninh thuộc địa. Ở
Amritsar, vào ngày 13-4, sĩ quan Anh tên Reginald Dyer ra lệnh cho lính
bắn vào đám đông đang tham dự một buổi lễ của đạo Sikh. Vốn không hiểu
được giáo lệ Sikh quy định là nam giới phải mang dao trong người, Dyer
thấy dân mang dao lại tưởng tượng là họ đang biểu tình cho nên ra tay
đàn áp; sự tưởng tượng ngu dốt của Dyer đã làm thiệt mạng 379 nam nữ và
trẻ em vô tội cũng như khiến trên một ngàn người bị trọng thương. Vụ
thảm sát Amritsar đánh dấu sự rạn nứt đầu tiên trong guồng máy thuộc địa
Anh tại Ấn Ðộ.
Lúc đầu khi nghe tin về vụ bắn giết
thường dân vô tội ở Amritsar, Gandhi nghĩ là giới bần dân có lẽ phải bạo
động để cho Dyer hạ lệnh nổ súng. Nhưng khi ông biết rõ vụ thảm sát là
kết quả đến từ đầu óc ngông cuồng của tên sĩ quan thuộc địa, Gandhi kiên
quyết phải đấu tranh trực diện với chính quyền thuộc địa cho sự tự do
của dân tộc Ấn. Ông hoạch định chương trình hành động gồm 4 bước: (1)
người Ấn trả lại tất cả những huy chương, chức tước do chính quyền thuộc
địa ban cho; (2) tất cả luật sư đóng cửa văn phòng, nhân viên chính
quyền từ chức, và cha mẹ không cho con tiếp tục theo học những trường có
sự tài trợ của chính quyền thuộc địa; (3) tất cả binh lính Ấn trong
quân đội thuộc địa giã từ vũ khí; và (4) toàn thể nhân dân từ chối không
đóng thuế cho chính quyền thuộc địa.
Gandhi bắt đầu được dân Ấn gọi là Thánh.
Ông đi đâu cũng được họ tung hô ‘Vạn tuế Thánh Gandhi’ (Mahatma Gandhi
ki jai); nhưng ông lại muốn họ tung hô ‘Vạn tuế Ấn giáo-Hồi giáo’
(Hindu-Mussulman ki jai) nhằm tu bổ thêm cho tình đoàn kết giữa người Ấn
theo Ấn giáo và người Ấn theo đạo Hồi. [Sự chia rẽ giữa hai nhóm Ấn và
Hồi đã đưa đến cảnh chia ba quốc gia Ấn Ðộ sau này thành Pakistan,
Bangladesh và Ấn Ðộ].
Ðối diện với phong trào cách mạng bất
bạo động bùng nổ ở nhiều nơi (có chỗ thành viên phong trào bất-bạo-động
đã có nhiều hành động bạo động sát nhân như ở làng Chahuri Chaura),
chính quyền thuộc địa quyết định bắt giữ Gandhi vào ngày 10-3-1922. Ông
bị đưa ra xét xử và bị kết án 6 năm tù. Ngày 4-2-1924, ông được thả ra
vì tình trạng sức khỏe yếu kém (ông bị bệnh phải mổ trước đó một tháng
cho nên thành phần lãnh đạo chính quyền thuộc địa không muốn ông chết
trong lao tù của họ).
Ngày 26-1-1930, Gandhi kêu gọi dân Ấn
treo lá cờ độc lập do Nghị Viện Quốc Gia Ấn thông qua. Ngày 12-3-1930,
Gandhi bắt đầu cuộc hành trình lấy muối biển để chống lại chính sách độc
quyền kiểm soát sự sản xuất muối của chính quyền thuộc địa. Khởi hành
từ Sabarmati, Gandhi lúc đó đã 61 tuổi mang trên mình mảnh vải che thân
theo kiểu người ‘hạ nhân’ Ấn và cầm khúc gậy đi bộ 380 cây số đến bờ
biển Dandi để lấy muối. Ông xuất hành với dự tính chỉ đi một mình, nhưng
dọc đường hàng ngàn người đã đi theo tạo thành một cuộc trường chinh
lấy muối (the Salt March). Trên đường đi, Gandhi ghé qua các làng xã để
nói chuyện với dân chúng. Ở Bhatgam, ông phát biểu: ‘Chúng tôi tiến bước
trong danh nghĩa Thượng Ðế. Chúng tôi hành động thay cho người đói khổ,
không manh áo và không việc làm.’ (We are marching in the name of God.
We profess to act on behalf of the hungry, the naked and the
unemployment.’)
Sau khi Gandhi lọc được nắm muối đầu
tiên tại bờ biển Dandi, cả nước Ấn rơi vào cơn sốt lấy muối; đâu đâu
cũng thấy người dân thi nhau lọc lấy muối biển để dùng thay muối của nhà
nước thuộc địa. Chính quyền thuộc địa chưa biết phải phản ứng như thế
nào đối với hành động phản kháng mới này thì hai sự kiện xảy ra: (i) một
số thành viên của tổ chức cách mạng bạo động Hội Cộng Hòa Ấn giáo
(Hindustan Republican Association) cướp kho vũ khí ở Chittagong và trốn
vào rừng sau khi giết 6 người; và (ii) đội quân thuộc địa gốc Ấn giáo đã
từ chối không bắn vào đoàn người Ấn gốc Hồi giáo biểu tình chống chính
quyền ở Peshawar. Những biến chuyển mới này bắt buộc guồng máy thuộc địa
phải phản ứng mạnh bắt đầu với lệnh ngăn cấm báo chí Ấn không được
tường thuật về phong trào chống đối chính quyền thuộc địa.
Gandhi bị bắt vào ngày 4-5-1930. Hai
tuần sau, 2500 thành viên tổ chức Nghị Viện quyết định chiếm lấy cơ sở
sản xuất muối Dharasana một cách bất bạo động. Trong tay không vũ khí,
họ sắp hàng đi bộ vào sở muối và chỉ giơ tay đỡ bá súng của lính. Hai
người chết và khoảng 320 bị lính thuộc địa đánh trọng thương phải đưa
vào trạm y tế dã chiến, nhưng họ vẫn tiếp tục nối bước một cách bất bạo
động với mục đích chiếm lấy sở muối. Cuối cùng vì không thể tiếp tục
đánh đập mãi người tay không, lính thuộc địa xông vào bắt hai người đang
chỉ đạo nỗ lực chiếm sở muối bất bạo động, Sarojini Naidu và Manilal
Gandhi (con của Gandhi). Ấn Ðộ bùng nổ với nhiều cuộc biểu tình ở khắp
nơi. Chính quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp và bắt giam khoảng 100000
người.
Ngày 26-1-1931, Gandhi và những lãnh tụ
của tổ chức Nghị Viện được phóng thích vô điều kiện. Vào tháng 9 năm ấy,
ông đi Luân Ðôn để tham dự Hội Nghị Bàn Tròn về vấn đề độc lập của Ấn
Ðộ. Mặc dầu hội nghị không giải quyết được việc gì quan trọng, sự hiện
diện của Gandhi là một hiện tượng vĩ đại ở Âu Châu. Dân chúng tuôn ra
đường chào đón ông, và ngay cả những công nhân thất nghiệp cũng ủng hộ
ông mặc dầu chính Gandhi kêu gọi tẩy chay hàng hóa Tây phương; họ nói
‘nếu tôi ở trong hoàn cảnh của Gandhi tôi cũng kêu gọi như vậy’. Ông
viếng thăm Vatican và bị một cây thánh giá cao hút hồn vì ông ‘thấy hình
ảnh của Jêsus’ (I saw a figure of Chirst there); rất tiếc là Giáo Hoàng
Gia Tô lúc đó từ chối tiếp kiến ông.
Ngày 28-12-1931, Gandhi trở về Ấn và bị
bắt một tuần sau đó ở Bombay. Ông tiếp tục chủ trương chống đối chính
quyền một cách bất bạo động. Theo ông, ‘sự bất tuân luật pháp không
những là quyền tự nhiên của một dân tộc, đặc biệt là khi họ không có
tiếng nói hiệu lực trong chính quyền của họ, mà còn thay thế cho bạo lực
hay phản kháng vũ trang.’ (I believe that civil disobedience is not
only the natural right of a people, especially when they have no
effective voice in their own Government, but that it is also a
substitute for violence or armed rebellion).
Ngày 17-8-1932, Thủ Tướng Anh Ramsay
MacDonald quyết định công nhận thành phần ‘hạ nhân’ Ấn như một cộng đồng
riêng biệt có quyền bầu cử và ứng cử riêng rẽ nhằm đào sâu hố ngăn cách
xã hội trong âm mưu ‘chia để trị.’ Tại Ấn Ðộ, truyền thống Ấn giáo lâu
đời chia nhân loại ra làm 4 thành phần: giáo sĩ (Brahman), vua chúa quý
tộc (Ksatriya), điền chủ thương gia (Vaisya), và nô lệ (Sudra); những
người không nằm trong thành phần này là loại ‘hạ nhân’ (Paria) không ai
muốn giao thiệp hay đụng đến (the untouchables). Trong quan niệm cách
mạng của Gandhi, ba kẻ thù chánh là sự nghèo khổ của đại đa số dân Ấn,
tệ nạn khinh khi thành phần ‘hạ nhân’, và guồng máy đô hộ thực dân. Theo
ông, ‘sự thống khổ tinh thần chỉ chấm dứt khi mọi dấu vết của tình
trạng hạ nhân biến mất’ và ‘.. thà Ấn giáo chết còn hơn là tình trạng hạ
nhân tồn tại.’ (‘The agony of soul is not going to end until every
trace of untouchability is gone.’ ‘I would far rather that Hinduism died
than that untouchability lived.’) Vì vậy cho nên ông cực lực đả kích
quyết định ‘chia để trị’ của MacDonald và bắt đầu cuộc tuyệt thực mới để
phản đối.
Chính sự tuyệt thực của ông đã đánh thức
dân Ấn theo Ấn giáo. Các nhà thờ mở rộng cửa đón nhận thành phần hạ
nhân vào làm lễ mà không đặt bất cứ điều kiện nào. Chính quyền thuộc địa
bắt đầu tham khảo ý kiến của đại diện giới hạ nhân để sửa đổi quyết
định của MacDonald. Sau khi họ đi đến thỏa thuận cải cách quyết định
chia để trị thì sức khỏe của Gandhi rất yếu; họ vội vã đưa bản thảo đến
cho ông xem. Gandhi phủi tay bảo là họ phải đem đến cho Ambedkar - đại
diện giới hạ nhân - cho vị này tham khảo và chấp thuận trước.
Ngày 8-5-1933, Gandhi được thả ra và rồi
bị bắt lại ba tháng sau đó. Ông bắt đầu tuyệt thực bởi vì cai tù theo
lệnh chính quyền cấm không cho ông tiếp tục làm việc trong tù cho thành
phần hạ nhân. Sức khỏe của ông quá kém cho nên ông được đưa vào bệnh
viện cứu dưỡng; sau đó chính quyền phải phóng thích ông bởi vì nếu ông
bị chết trong tù thì họ sợ bị cả thế giới lên án.
Ngày 8-8-1942, tổ chức Nghị Viện với ý
kiến ‘cố vấn’ của Gandhi thông qua nghị định ‘Quit India’ [Rời Ấn Ðộ]
nhằm kêu gọi chính quyền Anh rút lui. Gandhi ở tuổi 73 lãnh đạo cuộc
tổng phản kháng bất bạo động toàn quốc với khẩu hiệu ‘Do or Die’ [Hành
Ðộng hay Hy Sinh] (We shall either free India or die in the attempt).
Chính quyền thuộc địa vội vã bắt giữ Gandhi để khống chế phong trào
chống đối; nhưng lần này ông được đối xử rất tử tế hơn những lần đi tù
trước. Vợ của ông qua đời vào ngày 22-2-1944, và ông được thả ra vào
tháng 5 cùng năm.
Là người muốn thấy một quốc gia Ấn Ðộ
độc lập không chia rẽ cho nên Gandhi phản đối tất cả những ai chủ trương
chia hai Ấn Ðộ. Rất tiếc cho ông là đại diện Hồi giáo Ấn Ali Jinnah chỉ
muốn làm lãnh tụ của một quốc gia riêng biệt cho nên không có ý định
thương lượng để bảo tồn biên thùy Ấn Ðộ. Gandhi - một người theo Ấn giáo
- rất rộng lượng cho nên đề nghị là Ấn Ðộ có thể được lãnh đạo bởi một
chính quyền Hồi giáo hầu Ấn Ðộ không bị chia đôi; nhưng ý kiến của ông
bị thành viên tổ chức Nghị Viện theo Ấn giáo phủ quyết.
Tổ chức Nghị Viện đồng ý với kế hoạch
của Luân Ðôn phân chia Ấn Ðộ ra thành ba quốc gia: Ấn Ðộ, Tây Pakistan,
Ðông Pakistan (đã đổi tên thành Bangladesh từ năm 1971). Khi Nghị Viện
đồng ý chia ba Ấn Ðộ, Gandhi rất đau lòng nhưng vẫn kêu gọi dân Ấn phải
ủng hộ quyết định của Nghị Viện. [Gandhi ước mơ sau này ông sẽ có dịp
tiến hành một cuộc trường chinh khác vào hai vùng Pakistan để kêu gọi
dân ở đây trở lại với Ấn Ðộ, nhưng rất tiếc là ông bị ám sát trước khi
có thể hoàn thành nguyện vọng này.]
Vào tháng 8-1946, Nehru - một thành viên
tổ chức Nghị Viện rất tận tụy với Gandhi - được Thống Ðốc Anh mời đứng
ra thành lập chính quyền lâm thời để Anh quốc có thể sắp xếp việc rút
lui. Ước mơ một Ấn Ðộ độc lập của Gandhi được thành tựu, nhưng ông lại
phải đối đầu với các vấn đề khó khăn khác. Lúc này hai vùng Pakistan
chưa được công nhận cho nên lãnh tụ Hồi giáo Ấn Ali Jinnah đưa ra chương
trình ‘Direct Action’ [Hành Ðộng Trực Tiếp] để khoanh vùng tự trị bằng
cách giết hại các gia đình theo Ấn giáo ở Pakistan. Cuộc tàn sát tập thể
bắt đầu, và dân Ấn giáo lẫn dân Hồi giáo vô tội bị giết hại mà không ai
có khả năng chấm dứt cuộc săn người rùng rợn (riêng chỉ ở thành phố
Calcutta đã có 5000 người chết trong vòng 4 ngày). Quân đội trở nên bất
lực trước sự khát máu của con người bị điên loạn trong danh nghĩa tôn
giáo. Cả Ấn Ðộ chỉ có một người nắm giữ lương tâm của cả dân tộc và có
thể chấm dứt cuộc tàn sát tập thể này. Người đó là Gandhi và vũ khí của
ông là tình thương yêu tất cả mọi người bất kể tôn giáo hay đẳng cấp xã
hội.
Ngày 1-9-1947, Gandhi bắt đầu tuyệt thực
ở Calcutta để tái lập hòa bình. Tin tức về Gandhi đang tuyệt thực để
chịu chết cho sự điên loạn của dân Ấn khiến họ bắt đầu suy nghĩ về các
hành động dã man của họ. Người theo đạo Hồi bắt đầu tự hỏi là nếu Gandhi
qua đời thì không còn ai thực sự bảo vệ họ, và chắc chắn là họ sẽ bị
đại đa số dân theo Ấn giáo nghiền nát. Người theo Ấn giáo lại sợ phải
chịu trách nhiệm về cái chết của Gandhi - người đã tận tụy hy sinh cả
cuộc đời để giành lại độc lập cho quốc gia. Cuối cùng hai bên Ấn Hồi
quyết định từ bỏ vũ khí và chấm giứt giết hại lẫn nhau.
Mặc dầu tình trạng tàn sát tập thể không
còn xảy ra nhưng bầu không khí thù nghịch giữa dân Hồi giáo và Ấn giáo
vẫn còn tồn tại. Gandhi quyết định tuyệt thực ở Delhi vào ngày 13-1-1948
cho đến chết để yêu cầu dân Ấn bất kể tôn giáo phải bắt tay đoàn kết.
Sức khỏe của ông rất yếu kém vào lúc này; ông đã bắt đầu nói sảng trong
giấc ngủ. Thành viên của tất cả các tổ chức tôn giáo ở Delhi đã vì mạng
sống của Gandhi mà gạt bỏ qua mọi sự khác biệt và cùng ký vào tuyên cáo
là họ sẽ chung sống trong hòa bình cũng như hứa bảo vệ thiểu số dân theo
Hồi giáo. Tuyên cáo này ra đúng lúc mà tình trạng sức khỏe của Gandhi
đã đi tới mức nguy hiểm (năm ngày sau khi ông bắt đầu tuyệt thực); may
mắn là ông đã hồi phục tương đối không khó khăn lắm.
Ngày 20-1-1948, một quả bom ám sát
Gandhi nổ tung gần tòa nhà ông ở nhưng ông vẫn bình tĩnh không tỏ vẻ lo
ngại. Ngày 30-1-1948 trong khi Gandhi đang đi đến nơi cầu nguyện thì bị
Nathuram Godse bắn chết. Godse là người theo Ấn giáo cực đoan và quyết
định ám sát Gandhi vì nghĩ là ông thương dân Hồi giáo quá mức. Khi
Gandhi qua đời, gia tài vật chất của ông không có gì; nhưng hình ảnh cụ
già ở chung với giới nghèo khổ, che mảnh vải thô kiểu ‘hạ nhân’, cầm cây
gậy đuổi thực dân Anh luôn luôn in rõ trong óc người dân Ấn, và gia tài
tinh thần của ông với tư tưởng bất bạo động Ahimsa trở thành một tư
tưởng quý báu trong kho tàng văn hóa của nhân loại.
S.T
0 nhận xét:
Đăng nhận xét