Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Tế. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2018

Tập đoàn FLC tự đẩy mình dính vào “bẫy nợ” của Trung Quốc, Việt Nam đối mặt với rủi ro cao về mất chủ quyền?





Việc làm ăn với Trung Quốc đã nhiều lần được cảnh báo luôn đầy rẫy nguy cơ và hậu quả đắng ngắt so với những cam kết tốt đẹp được vẽ ra ban đầu. Ấy vậy mà ở Việt Nam không ít doanh nghiệp vẫn cố tình xòe tay nhận những đồng Nhân Dân Tệ của những doanh nghiệp gốc Hoa với tham vọng kiếm lợi từ việc triển khai hàng loạt các dự án trên khắp cả nước. FLC của Trịnh Văn Quyết cũng nằm trong số đó. Điều này lý giải tại sao FLC từ một công ty cỏn con nhanh chóng lớn mạnh và đang lộng hành khắp cả nước bằng cách cướp đất dân nghèo, phá hoại tài nguyên, môi trường,… Cùng một chiêu bài của kẻ đang toan tính hãm hại đất nước và con người Việt Nam là Trung Quốc.

Tập đoàn FLC tự đẩy mình dính vào “bẫy nợ” của Trung Quốc?

Với số vốn điều lệ năm 2008 chỉ vỏn vẹn 18 tỷ đồng, đến năm 2014 VĐL đã tăng lên 3.140 tỷ, năm 2015 tăng lên 8.400 tỷ… sau 7 năm vốn tăng lên gấp hơn 465 lần, một mức tăng siêu tưởng, mờ ám, nhờ đâu mà Tập đoàn FLC lớn nhanh như thổi vậy? Chưa kể, với số vốn ban đầu chỉ vỏn vẹn 18 tỷ, liệu FLC có thể mua nổi những miếng đất vàng trị giá hàng chục nghìn tỷ hay không? Chúng ta từng chứng kiến Quyết cố tình chây lỳ không trả nợ, thậm chí là “qua cầu rút ván” cả các đối tác nhỏ lẻ, hay “chơi trò mèo” khi bán chui cổ phiếu chỉ để đút túi vài tỷ đồng, vài trăm triệu, thì liệu tay đại gia siêu nổ này có đủ tiền để đầu tư hết dự án nghìn tỷ này đến dự án triệu USD khác? Chúng ta cũng chứng kiến các dự án của Quyết rất nhiều lần bị “đứng hình” do thiếu vốn, nhưng rất nhanh sau đó liền có một dòng tiền cấp vốn để Quyết tiếp tục “hà hơi thổi ngạt” cho các dự án này. Vậy ai là kẻ đã âm thầm bơm tiền cho Quyết?
Hồi tháng 3/2017, theo thống kê tài sản trên sàn chứng khoán Việt Nam, người nhiều tiền nhất chính là Trịnh Văn Quyết – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn FLC, vào khoảng 44.000 tỷ đồng, tương đương gần 2 tỷ USD. Thị trường từng bán tín, bán nghi về khối tài sản tỷ đô của ông Trịnh Văn Quyết, năng lực đầu tư bất động sản vô biên, vốn thực,… hay chỉ là chiêu “nâng bi tên tuổi”? Đi tìm hiểu sự thật, người ta mới té ngửa phát hiện, đây thực chất chỉ là “dòng vốn ảo” được ông Quyết “hút” từ khắp các kênh ngân hàng, người mua nhà, cổ đông và cả những đối tác bị quỵt tiền như đã kể ở trên.
Được biết, ông Quyết hiện nay đang là con nợ của nhiều ngân hàng khác nhau: BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Phương Đông, PVCombank,…, với tổng giá trị các khoản vay ngắn, dài hạn khoảng 4.500 tỷ đồng. Đáng chú ý trong các khoản vay gần đây của FLC có 105 tỷ đồng từ ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC). Nợ ngân hàng Việt Nam thì không nói, nhưng nợ ngân hàng Trung Quốc thì hệ quả sẽ thế nào?

TQ đang được xem là “đế quốc chủ nợ”

Trung Quốc gần đây đang được thế giới nhắc tới như là một “đế quốc chủ nợ”. Bằng cách sử dụng nợ chính phủ để “uốn cong” đường hướng của các nước khác theo ý muốn của họ mà không cần súng ống. Hầu hết các con nợ của Trung Quốc hiện nay đều đang đối mặt với rủi ro cao về mất chủ quyền. Năm 2015, một công ty Trung Quốc đã bỏ ra 388 triệu USD để thuê 99 năm đối với cảng nước sâu Darwin của Úc – nơi đóng quân của hơn 1.000 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Tương tự, sau khi cho quốc gia châu Phi Djibouti vay hàng tỷ đô đến mức ngập nợ, Trung Quốc đã thiết lập căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của nước này trong năm 2017, chỉ cách căn cứ hải quân Mỹ vài km. Một số quốc gia khác như Argentina, Namibia hay Lào đều bị rơi vào “bẫy nợ” của Trung Quốc, buộc những nước này phải đối mặt với những quyết định “đau đớn” để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ.
Còn nước ta thì sao? Kinh nghiệm từ rất nhiều dự án có bàn tay dơ bẩn của Trung Quốc nhúng vào đều gây ra những tác động tiêu cực không thể nào “sửa chữa” nổi: vụ ô nhiễm môi trường của Formosa khiến cá chết hàng loạt vẫn còn ám ảnh người dân các tỉnh miền Trung cho đến tận bây giờ (cá tại Kỳ Anh, Vũng Áng cứ cách vài tháng lại chết hàng loạt); dự án đường ống nước sông Đà vỡ đến lần thứ 18 liên tiếp vì dùng nguyên liệu Trung Quốc; vấn nạn đội vốn khủng cùng ô nhiễm môi trường trầm trọng tại dự án Boxit Tây Nguyên và dự án Nhà máy thép Thái Nguyên,…
Điểm đặc biệt là, cái cách FLC đang làm giàu cũng na ná với cái âm mưu mà Trung Quốc đang muốn sử dụng đối với nước ta. Được biết, hiện nay tập đoàn FLC đang bị các tổ chức Quốc tế theo dõi về nạn tàn phá rừng phòng hộ, lấy những bãi biển của ngư dân gọi là “quy hoạch dự án” và những miếng đất đẹp nhất làm dự án và khoác lên cái áo danh hiệu “dự án đầu tư”. Các dự án làm sân golf, khu resort, khách sạn, biệt thự sinh thái của Cty CP Tập đoàn FLC đã ôm trọn các vùng đất ven biển, và nhiều dự án đất vàng khác đi kèm với thành tích là: dự án đi tới đâu thì xóa sạch rừng phòng hộ tới đó, nhất là rừng phòng hộ ven biển. Tập đoàn này cướp hết các bãi biển đẹp nhất, nơi mà lâu nay ngư dân mấy đời làm bãi neo đậu thuyền bè đánh cá. Cùng một điểm chung: phá hoại thiên nhiên, cướp đất dân, đẩy dân vào cảnh cùng quẫn, chiếm các vị trí chiến lược quan trọng (đồn biên phòng ở Quảng Ngãi),… việc Tập đoàn FLC hợp tác làm ăn với Trung Quốc là đều hiển nhiên xảy ra.

Bản quy hoạch tổng thể dự án quần thể du lịch nghĩ dưỡng và đô thị FLC Bình Châu – Lý Sơn bao gồm cả đồn Biên phòng ở Quảng Ngãi

Thực chất cái gọi là vay vốn Ngân hàng Công thương Trung Quốc mà FLC đang vay, đều là vốn do chính Chính phủ Trung Quốc cung cấp chứ không phải của bất kỳ doanh nghiệp nào. Chính phủ nước này có chính sách hỗ trợ mua các dự án bất động sản của các nước khác, mục đích sau cùng là làm rối loạn nền kinh tế và đưa người Trung Quốc xâm nhập vào lãnh thổ. Nhìn Nha trang, Đà Nẵng, Vũng Tàu,… là hiểu. Không chỉ thế, hiện tại thành phố HCM các doanh nghiệp Trung Quốc cofn ra yêu cầu UBNDTP cho người nước ngoài sở hữu nhà 100 năm, thử chờ xem 100 năm đó còn có phải là nước VN hay không hay toàn dân Trung Quốc?
Với kiểu kinh doanh chỉ dựa vào “vốn ảo” như Trịnh Văn Quyết hiện nay, thì trong tương lai gần sẽ có một ngày FLC dần dần phải bán hết vốn cổ đông để có thể trụ tiếp. Trong trường hợp không còn tài sản nào để thể chấp các ngân hàng trong nước, FLC đành lòng phải bán hết vốn cho Trung Quốc, khi đó chuyện gì sẽ xảy ra? Há chẳng phải là toàn bộ các dự án rộng hàng ngàn hecta sẽ lọt vào tay Trung Cộng? Toàn những vị trí đắc địa, thậm chí là liên quan đến an ninh quốc phòng. Bài học từ các quốc gia khác và các dự án có yếu tố Trung Quốc khiến chúng ta không thể nào ngó lơ một chuyện hết sức nguy hiểm này.
Sau cùng, tự hỏi liệu có hay không chuyện Việt Nam sẽ mất nước từ những âm mưu thâm độc có sự tiếp tay của chính những doanh nghiệp hại dân như Trịnh Văn Quyết?
(Zing / The Leader / Dân Việt)

Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2017

Ngân sách thời ‘Đời sống của anh em đã cùng cực rồi!’

ngan_hang_vietnam“…Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã lao vào năm suy thoái thứ chín liên tiếp, con giun xéo lắm cũng phải quằn. Dự báo không bao lâu nữa, dự trữ trong những tầng lớp dân chúng nghèo nhất sẽ hầu như cạn…”
 
 
ngan_hang_vietnam
Lại vừa hiển lộ những dấu hiệu rõ ràng cho thấy ngân sách
Việt Nam đang rơi vào bi kịch.
Bán hết!
Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đang dự kiến sẽ bán hết 137 doanh nghiệp nhà nước từ nay đến năm 2020.
Vào cuối năm 2015, giai đoạn mà thủ tướng khi đó là ông Nguyễn Tấn Dũng sắp “rớt đài” tại đại hội 12 của đảng cầm quyền, chính phủ đã phải đôn đáo thúc đẩy việc thoái vốn ở 10 doanh nghiệp, kể cả “con bò sữa” Vinamilk, để thu về khoảng $7 tỷ cho ngân sách. Đó cũng là khoảng thời gian mà ngân sách phải trả nợ nước ngoài cao chưa từng thấy: $20 tỷ trong năm 2015.
Cũng từ cuối năm 2015, một số thông tin cho biết chính phủ Việt Nam đã phải trù tính đến việc bán vốn tại hàng trăm doanh nghiệp nhà nước để có thể thu về hơn $400 tỷ – theo một dự tính lạc quan.
Con số hơn $400 tỷ này hai lần GDP hàng năm của Việt Nam và sẽ giúp “ổn định kinh tế xã hội,” qua đó kéo dài tuổi thọ của chế độ cầm quyền ở Việt Nam thêm ít năm nữa, trong khung cảnh hầu như toàn bộ các nguồn “ngoại viện” – từ các chủ nợ lớn nhất như Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, cho đến nguồn kiều hối của hơn 4 triệu “kiều bào ta” ở hải ngoại – đều hoặc ngưng trệ hẳn, hoặc giảm sút thê thảm.
Nhưng trong thực tế, SCIC có bán được vốn nhà nước để cứu vãn ngân sách đang có nhiều dấu hiệu cạn kiệt?
Ngay trước mắt, SCIC chỉ có thể bán được 37 trong tổng số 137 doanh nghiệp muốn tống táng. Số doanh nghiệp còn lại – gọi là doanh nghiệp hạng C – là không bán được. Thậm chí, một số doanh nghiệp cấp địa phương dù được chào mời đến lần thứ ba, vẫn không bán được.
Cần nhắc lại, kế hoạch thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước khỏi các thị trường bất động sản, chứng khoán đã được chính phủ phát động từ năm 2013 và dự tính sẽ hoàn thành vào năm 2015. Nhưng cho đến nay, các doanh nghiệp nhà nước mới chỉ thoái vốn được hơn 50% số cần thoái vốn. Mà như vậy, làm sao các doanh nghiệp này thu đủ tiền để chuyển trả lại ngân sách Bộ Tài Chính một khi SCIC muốn bán sạch vốn nhà nước?
Công ích cũng khốn đốn!
Công ty thủy nông Sông Tích trên địa bàn Hà Nội nằm trong khối doanh nghiệp công ích ở Việt Nam là một minh họa cho sự khốn đốn. Theo “thông lệ” phân bổ ngân sách địa phương, khối doanh nghiệp công ích vẫn thường được hưởng chế độ ưu tiên hơn so với nhiều doanh nghiệp kinh doanh, tức ngân sách cấp cho doanh nghiệp công ích thường phải bảo đảm ổn định, hoặc có giảm thì cũng không giảm nhiều.
Từ Tháng Giêng đến Tháng Mười, 2016, công ty Sông Tích chỉ tạm ứng lương cho cán bộ công nhân viên với mức bình quân 3.5 triệu đồng/người/tháng. Nhưng từ Tháng Mười Một, 2016, mọi chế độ tiền lương, phúc lợi xã hội của người lao động trong công ty không được chi trả một đồng một cắc, họ cũng không được tạm ứng. Công ty không còn tiền để trả cho người lao động.
Vào năm 2015, công ty này còn được ngân sách cấp 130 tỷ đồng cho “sự nghiệp công ích.” Nhưng đến năm 2016 thì chỉ còn được cấp 60 tỷ đồng, bằng khoảng 40% kinh phí của năm 2015.
Chưa bao giờ số phận của hơn 3,700 cán bộ, công nhân viên, và người lao động tại doanh nghiệp này lại khốn đốn như lúc này. Thậm chí, một số giám đốc các công ty phải đau xót thừa nhận rằng: “Đời sống của anh em đã cùng cực rồi! Họ chán chường và tuyệt vọng.”
“Cánh tay nối dài” chỉ còn một nửa
Vào năm 2016, nhiều thông tin cho biết nhiều hội đoàn nhà nước, kể cả những hội đoàn “cánh tay nối dài của đảng” đã bị cắt giảm nguồn cấp ngân sách đến 50%. Đến đầu năm 2017, “chủ” của một trong những “cánh tay nối dài” ấy – Hội Nhà Văn Việt Nam – xác nhận sự sụt giảm mạnh mẽ này. Thậm chí, chủ tịch hội đoàn này là “chính khách” Hữu Thỉnh, còn phải than thở là nếu không có ngân sách thì Hội Nhà Văn Việt Nam có thể phải giải tán vì không biết kiếm đâu ra tiền để “nuôi” ban chấp hành và hàng ngàn hội viên.
Có thể hình dung rằng mức độ giảm ngân sách bình quân cấp cho các hội đoàn nhà nước và khối doanh nghiệp công ích trong năm 2016 là từ 40 – 50%. Đây là mức giảm đột ngột và rất lớn.
Có thông tin cho biết trong năm 2017, ngân sách cấp cho khối hội đoàn sẽ tiếp tục sụt giảm khoảng 30%, để tính chung trong hai năm 2016 và 2017 thì khối hội đoàn nhà nước bị cắt giảm khoảng 60% ngân sách.
“Chi tiêu như thế thì chỉ có chết”
Tại kỳ họp giữa Tháng Ba, 2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, Bộ Trưởng Tài Chính Đinh Tiến Dũng phải góp thêm tán thán để đời: “Chi tiêu như thế thì chỉ có chết.”
Trước ông Đinh Tiến Dũng, Phó Thủ Tướng Vương Đình Huệ cũng trở thành nhân vật than thở nhiều về gánh nặng ngân sách và nạn bội chi.
Còn cho đến giờ, ông Đinh Tiến Dũng mới thừa nhận một thực tế phũ phàng: “Năm 2016 dự báo giá trị thực tế GDP là 5.1 triệu tỷ đồng nhưng thực hiện chỉ được 4.6 triệu tỷ đồng.”
Tình hình ngày càng bi đát…
Thực ra, bi đát đã từ lâu. Thoạt đầu là việc lần đầu tiên “kiến trúc sư” Nguyễn Tấn Dũng phải ra trước Quốc Hội xin nâng trần bội chi ngân sách từ 4.7% lên 5.3% tại kỳ họp đầu năm 2014 – một thái độ chấp nhận chẳng đặng đừng về trần bội chi Việt Nam vượt trên mức nguy hiểm 5% theo thông lệ quốc tế.
Tuy thế, trần bội chi lý thuyết trên vẫn chưa là gì khi xuất hiện con số bội chi ngân sách nhà nước chỉ riêng năm 2013 đã là 6.6%.
Trong bối cảnh ngay cả khối công ích còn bị cắt giảm ngân sách, một bất công rất lớn lại vẫn xảy ra: Bội chi ngân sách năm 2015 và năm 2016 không hề giảm, thậm chí còn có chiều hướng tăng. Nếu năm 2013 được xem là “đỉnh” của bội chi ngân sách là 6.6% GDP, thì những năm gần đây tỷ lệ bội chi cũng tròm trèm 6% GDP.
Ngay vào đầu năm 2016, con số xin ngân sách mà các địa phương trình lên trung ương vượt gấp 20 lần khả năng chi của ngân sách trung ương. Trong khi đó, rất nhiều dự án kinh tế và xã hội đang bị đình đốn vì không biết lấy đâu ra tiền. Nợ công tăng vọt với mức 20% một năm và trong thực tế đã bằng cả GDP nguyên năm.
Riêng năm 2016 vẫn bội chi ít nhất 250 ngàn tỷ đồng.
Bội chi là thế, nhưng thu ngày càng giảm. Việc phát hành “trái phiếu chính phủ” mà những năm trước vẫn thường “vắt” được của giới ngân hàng thương mại đến 280 ngàn tỷ đồng, nhưng năm 2017 đã phải giảm chi tiêu này xuống còn 180 ngàn tỷ đồng, tức sụt đến hơn 30%.
Hơn 30% cũng là tỷ lệ sụt giảm của lượng kiều hối của “kiều bào ta” gửi về quê nhà trong năm 2016 so với năm 2015.
Với tình trạng bội chi bất chấp như thế, một số chuyên gia độc lập đã dự liệu rằng ngân sách trung ương sẽ không thể “kéo” qua được hết năm 2018.
Nghĩa là Việt Nam rất có thể rơi vào tình trạng giống như Argentina trong hai lần vỡ nợ vào năm 2001 và năm 2014.
Đầu năm 2017, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc bất chợt phải bật ra cảnh báo về tương lai “sụp đổ tài khóa quốc gia.” Cần đặc tả là lời tán thán này là có cơ sở, bởi vì ông Phúc đã nhiều năm nắm “tay hòm chìa khóa” của chính phủ.
Trước Thủ Tướng Phúc, chưa có bất kỳ một quan chức cao cấp hay trung cấp nào dám nói về “sụp đổ” – một từ ngữ bị đảng coi là đặc biệt nhạy cảm.
Vậy trong khi tiền chi cho khối công ích giảm mạnh, số bội chi đi vào túi ai?
Theo báo cáo chi ngân sách của Bộ Tài Chính, số phân bổ được xem là “ổn định” nhất vẫn là ngân sách chi lương cho khối hành chính sự nghiệp và khối đảng – một nét tương đồng với phát biểu “tham nhũng vẫn ổn định” của ông Huỳnh Phong Tranh thời còn là tổng thanh tra chính phủ.
Đáng chú ý là mục chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính vẫn luôn “đạt kế hoạch.” Có thể hiểu là làm gì thì làm, nguồn thu ra sao không biết, nhưng phần chi lương cho hành chính bị phản ánh có đến 30% công chức không làm gì cả vẫn phải giữ nguyên.
Đất nước cũng bởi thế nghèo đi là phải!
Dân tình cũng bởi thế ngày càng nheo nhóc cùng đôi vai quằn trĩu do sưu cao thuế nặng cho một chế độ xa dân đến mức khó còn đường quay lùi!
“Khôn nhà dại chợ”
Một xu hướng “khôn nhà dại chợ” là phần thu nội địa ngày một tăng lên, đang gây áp lực lớn về gánh nặng thuế, phí đặt lên vai người dân và doanh nghiệp. Trong khi thu từ thuế xuất nhập khẩu và dầu thô giảm mạnh, thì thu nội địa chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách. Từ mức 59% giai đoạn 2006-2010, tăng lên 68% trong giai đoạn 2011-2015, đặc biệt năm 2015 thu nội địa đã chiếm 74.4% tổng thu ngân sách.
Năm 2016, chính phủ đặt ra mục tiêu thu ngân sách khoảng hơn 1 triệu tỷ đồng, tăng 11% so với dự toán và 14% dự trù thực hiện của năm 2015. Đây là lần đầu tiên thu ngân sách của Việt Nam đặt ra kế hoạch vượt con số 1 triệu tỷ đồng, tương đương 20% GDP dự báo của năm 2016.
Các nguồn thu nội địa được Bộ Tài Chính nhắm tới là bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Hiện vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp ước vào khoảng 1.3 triệu tỷ đồng, nhưng mới thoái thu được 5%.
Với xăng dầu, thời gian qua, khi thuế nhập cảng giảm thì Bộ Tài Chính đã ngay lập tức tăng thuế bảo vệ môi trường với mặt hàng này lên tới 300%.
Các số liệu thống kê gần đây về tỷ lệ huy động thuế, phí của Việt Nam hiện nay vẫn ở mức bình quân khoảng 20%, cao hơn hẳn so Thái Lan 16.1%, Philippines 13.5%, Indonesia 12.4%, Malaisia 14.3%…
Thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình của khu vực, nhưng tỷ lệ thu cao hơn hẳn, khiến mỗi người dân Việt Nam phải gánh chịu khoản thuế, phí/GDP gấp từ 1.4 -3 lần so với các nước.
Theo báo cáo môi trường kinh doanh 2016, Ngân Hàng Thế Giới công bố tỷ lệ huy động thuế phí đối với doanh nghiệp ở Việt Nam lên tới 39.4% lợi nhuận. Tức là làm được 10 đồng, nộp thuế gần 4 đồng.
Dân phản kháng
Tăng giá và thuế là một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt. Sự tồn vong của đảng cầm quyền cũng lệ thuộc không khác hơn, nếu xét trên phương diện những thiệt hại về chính trị trên trường quốc tế và ngay trong lòng dân.
Xã hội và người nghèo cũng vì thế càng bị điêu đứng do các cuộc tranh giành bất tận của các nhóm quyền lực, cuộc chiến thao túng hoành hành không có giới hạn của những kẻ lắm tiền nhưng vẫn muốn có nhiều tiền hơn nữa.
Mọi thứ đều có giới hạn của nó. Cơ chế bổ lệ phí vào đầu dân theo kiểu dựng lên càng nhiều càng tốt trạm thu phí BOT, rốt cuộc đã khiến chính người dân thấp cổ bé họng phải phản ứng. Vào Tháng Ba năm nay, dân rùng rùng kéo chặn trước trạm thu phí Tam Nông ở tỉnh Phú Thọ và trạm Bến Thủy ở tỉnh Hà Tĩnh để phản đối việc thu phí.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã lao vào năm suy thoái thứ chín liên tiếp, con giun xéo lắm cũng phải quằn. Dự báo không bao lâu nữa, dự trữ trong những tầng lớp dân chúng nghèo nhất sẽ hầu như cạn và sẽ không một ai trong số họ muốn bỏ thêm một đồng nào để nuôi dưỡng một bộ máy gần 3 triệu công chức viên chức đảng và chính quyền với cung cách “hành là chính,” cùng 30% trong đó “không làm gì cả.”
Phạm Chí Dũng
Nguồn: diendantheky.net/2017/05

Việt Nam, Hoa Kỳ và TPP

…Nói vắn tắt lại thì Việt Nam nên tham gia Hiệp ước TPP, tự chuẩn bị cho thế hợp tác cao hơn và phức tạp hơn bằng những cải cách sâu rộng ở bên trong cho cả xã hội…”
 
 
bocongthuong_trantuananh
Bộ trưởng Bộ công thương Trần Tuấn Anh phát biểu trong một cuộc họp báo sau cuộc họp TPP tổ chức bên lề Hội nghị APEC tại Hà Nội ngày 21 tháng 5 năm 2017. AFP photo
Việt Nam đang ở giữa nhiều chọn lựa quan trọng về chiến lược kinh tế đối ngoại, khi tình hình thế giới lại có những thay đổi lớn. Điển hình là Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP không có Hoa Kỳ và việc thương thuyết một hiệp định thương mại song phương với nước Mỹ.
Nguyên Lam: Việt Nam là thành viên của Hiệp hội ASEAN gồm 10 quốc gia Đông Nam Á và năm nay còn đăng cai tổ chức các hội nghị của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương gọi là APEC, với Thượng đỉnh sẽ được triệu tập tại Hà Nội vào tháng 11 này. Tuần qua, hội nghị các Bộ trưởng Thương mại của Diễn đàn APEC tại Hà Nội khiến dư luận chú ý đến quan điểm của 11 nước về Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP sau khi Hoa Kỳ triệt thoái. Rồi tuần này, Thủ tướng Việt Nam sẽ là người đầu tiên trong Hiệp hội ASEAN thăm viếng Hoa Kỳ và có thể đàm phán một Hiệp định Tự do Thương mại Song phương với nước Mỹ. Thưa ông, trong bối cảnh đó, người ta có thể nêu câu hỏi về những lợi hại của Việt Nam trong chiến lược kinh tế đối ngoại khi Chính quyền Donald Trump đã có những chủ trương khác về ngoại thương nên đã rút khỏi Hiệp ước TPP?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nói về bối cảnh tôi xin được nhắc lại một số chuyển động thì ta mới cân nhắc được những lợi hại trong điều kiện mới. Trước hết, Hiệp ước TPP mất bảy năm và 20 lần hội họp giữa 12 nước mới hoàn thành vào cuối năm 2015. Nhưng, dư luận Mỹ đã đổi ý về sự lợi hại nên hết ủng hộ các thỏa thuận trong Hiệp ước. Vì vậy đa số dân biểu nghị sĩ bên đảng Dân Chủ trong Quốc hội đã chống TPP và nhiều đảng viên Cộng Hòa cũng tỏ vẻ hoài nghi nên dù Tổng thống Barack Obama đích thân vận động vẫn không dám đưa Hiệp ước cho Quốc hội khóa 114 biểu quyết vì thể nào cũng bị bác. Trong cuộc tranh cử tổng thống, hai ứng cử viên dẫn đầu là bà Hillary Clinton bên Dân Chủ và ông Donald Trump bên Cộng Hòa đều phản bác nhiều quy định của TPP. Khi đắc cử và nhậm chức, Tổng thống Trump chỉ hợp thức hóa một thực tế mới của chính trường Hoa Kỳ là rút khỏi Hiệp ước TPP. Từ đấy, bài toán còn lại là 11 nước kia có nên tiếp tục xúc tiến Hiệp ước hay không? Bài toán ấy đặc biệt quan trọng cho Việt Nam vì cùng với Malaysia là hai nước được hưởng lợi nhiều nhất nhờ Hiệp ước này.
Nguyên Lam: Thưa ông, cũng nói về bối cảnh thì sau khi Hoa Kỳ triệt thoái thì Trung Quốc lại thúc đẩy một sáng kiến của họ từ năm 2012 là kêu gọi 16 quốc gia gồm 10 nước Hội viên ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc và New Zealand hoàn thành một hiệp định tự do thương mại gọi là “Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực” hay RCEP. Là một thành viên của Hiệp hội ASEAN, Việt Nam nên cân nhắc thế nào về giải pháp đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi đưa ra sáng kiến này, Bắc Kinh tưởng sẽ hoàn tất vào năm 2015 mà nay vẫn chưa xong sau kỳ họp thứ 18 khá gay go vào tuần qua tại Philippines. Người ta cứ cho là Hiệp định RCEP này không đòi hỏi nhiều cam kết phức tạp như Hiệp ước TPP nên hy vọng thành hình sớm hơn để tiến tới chế độ tự do thương mại cho cả khu vực Á Châu Thái Bình Dương bao gồm 21 thành viên của Diễn đàn APEC. Sự thể lại chẳng lạc quan như vậy không chỉ vì phản ứng bảo hộ mậu dịch của Ấn Độ hay hồ sơ rắc rối về quyền sở hữu trí tuệ.
Sự thật là nhiều quốc gia ngày nay lại hoài nghi mọi cam kết quốc tế về tự do mậu dịch và trở về xu hướng đàm phán song phương. Người ta quá chú ý tới quan điểm của Mỹ trong Hiệp ước TPP với các nước Thái Bình Dương mà quên rằng một hiệp ước tương tự của Hoa Kỳ với các nước Âu Châu là Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư Xuyên Đại Tây Dương hay TTIP cũng bị khựng và lần này là do sự chống đối của nhiều nước trong Liên Hiệp Âu Châu. Trường hợp đó cũng xảy ra với hiệp ước tự do thương mại CETA giữa Canada và Âu Châu. Thậm chí cơ chế Liên Âu còn mặc nhiên trả lại quyền quyết định về tự do thương mại cho từng nước hội viên. Trong khung cảnh đó, Việt Nam cũng nên suy nghĩ lại về quyền quyết định của mình.
Nguyên Lam: Theo ông thì Việt Nam nên suy nghĩ lại ra sao, căn cứ trên những yếu tố nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nói chung thì chế độ tự do thương mại và đầu tư giữa các nước là điều có lợi về kinh tế như ta đã thấy tại Việt Nam sau khi chấm dứt chính sách ngăn sông cấm chợ thời bao cấp và mở ra thế giới bên ngoài qua hai đợt đổi mới. Nhưng về dài thì lợi ích kinh tế nhờ tự do trao đổi lại phân phối không đều và gây thiệt hại cho nhiều thành phần dân chúng. Trong các nước dân chủ thì phản ứng của các thành phần bị thiệt hại này mới dẫn tới làn sóng chống đối như ta đang chứng kiến tại Mỹ và Âu Châu. Khi ấy, lãnh đạo các nước nên nghĩ sao về sự lợi hại của tự do thương mại?
Tôi cho là ta nên nhìn từ dưới lên, từ các thành phần nghèo khốn lên giới trung lưu khá giả ở thành thị để khỏi gây ra những dị biệt ngày một lớn giữa thành phần khá giả và hướng ngoại ở trên với những người ở dưới không theo kịp nhịp độ của cạnh tranh. Vì vậy, vấn đề không thuần túy là kinh tế mà còn có kích thước xã hội. Thứ hai, khi mở cửa ra ngoài thì lãnh đạo phải ưu tiên lo cho đa số ở dưới và tạo điều kiện cải tiến khả năng lao động với năng suất cao hơn trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng và môi sinh trong lành hơn. Theo tinh thần đó thì Hiệp ước TPP có yêu cầu về chế độ lao động và bảo vệ môi sinh thật ra có lợi mà Việt Nam nên áp dụng. Thứ ba, ở bậc cao hơn thì lãnh đạo cũng phải cân nhắc hai vế tư doanh và quốc doanh trong ý hướng phát triển khả năng kinh tế của tư doanh thay vì chỉ bảo vệ ưu thế của quốc doanh. Khả năng cạnh tranh của tư doanh mới là sức mạnh bền vững và đi theo con đường của Bắc Kinh với vai trò quá lớn của các tập đoàn kinh tế nhà nước là điều bất lợi về dài.
Nếu Việt Nam thiên về Mỹ ...
thuongmai_vukhoan_zoellick
Bộ trưởng Thương mại Vũ Khoan (trái) và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Robert Zoellick ký Hiệp định Thương mại Song phương ngày 10 tháng 12 năm 2001 tại Nhà Trắng ở Washington, DC. AFP photo
Nguyên Lam: Thế còn với Hoa Kỳ thì sao, thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta không quên rằng qua năm đời Tổng thống, từ ông Ronald Reagan tới Barack Obma, Hoa Kỳ có hiệp ước tự do thương mại song phương với hơn một chục quốc gia và nay sẽ thương thuyết lại với từng nước đã ký hiệp ước đa phương, như Hiệp ước NAFTA với hai nước Bắc Mỹ. Nếu Việt Nam thông qua Hiệp ước TPP với 11 quốc gia còn lại thì chẳng những có lợi qua việc buôn bán với nhóm đó mà lại có thế mạnh khi sẽ đàm phán với Hoa Kỳ là điều Thủ tướng của Hà Nội có thể nêu ra khi đến Hoa Kỳ vào tuần tới.
Khi đó, kinh nghiệm thương thuyết Hiệp ước TPP và cả Hiệp định Thương mại Song phương với Mỹ từ năm 2000 là những bài học quý giá vì cho thấy nhiều vấn đề tồn đọng giữa đôi bên, như quyền lợi giới lao động hay luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, là những điều vẫn là thời sự. Chúng ta cũng không quên vai trò quan trọng của Quốc hội Hoa Kỳ, nơi mà tình trạng chà đạp nhân quyền và đàn áp dân chủ tại Việt Nam khiến Hà Nội không chỉ gặp trở ngại từ Hành pháp mà còn bị nhiều dân biểu nghị sĩ Mỹ chống đối. Ngược lại, việc muốn tham gia “Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực” RCEP do Bắc Kinh đề xướng chỉ chứng tỏ kinh tế Việt Nam vẫn là vệ tinh của Trung Quốc để xâm nhập thị trường Hoa Kỳ nên sẽ gặp khó ở cả hai đầu.
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin đề nghị ông giải thích cho thế nào là gặp khó ở cả hai đầu?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Không nói về hồ sơ an ninh và tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc trên vùng biển Đông Nam Á, là điều Chính quyền Donald Trump rất quan tâm mà nếu chỉ nhìn vào hồ sơ kinh tế thì Việt Nam đạt xuất siêu bao nhiêu với Hoa Kỳ lại bị nhập siêu bấy nhiêu với Trung Quốc. Thực tế thì Việt Nam mua nguyên nhiên vật liệu và thiết bị của Trung Quốc để làm gia công cho họ và bán hàng Tầu dưới thương hiệu Việt Nam vào thị trường Âu-Mỹ. Hiệp ước TPP là cơ hội thoát Tầu và tìm đầu ra ở các thị trường lớn khác. Nay dù hết có Mỹ thì cơ hội đó vẫn còn với các nước kia. Nhưng nếu lại thiên về giải pháp của Bắc Kinh thì Việt Nam khó đạt hiệp ước song phương với Mỹ. Người dân Mỹ, và Quốc hội Hoa Kỳ không hiểu vì sao lãnh đạo Hà Nội kiếm lợi nhờ làm ăn với Trung Quốc mà lại mong Hoa Kỳ bảo vệ an ninh của Việt Nam ngoài vùng biển Đông Nam Á trước sức ép của Trung Quốc. Trong hiện tại, Quốc hội Mỹ đang quan tâm đến sự bành trướng của Bắc Kinh và muốn biết là Việt Nam đứng ở đâu.
Nhìn vào dài hạn, từ nhiều năm nay khi Trung Quốc tiến lên trình độ sản xuất cao hơn với các mặt hàng tinh vi thì Việt Nam trở thành nơi có tiềm năng thay thế vai trò gọi là “công xưởng toàn cầu” của Trung Quốc nên đã tiếp nhận đầu tư của các tập đoàn tiên tiến, như Samsung của Nam Hàn hay Intel của Mỹ. Ưu tiên của Việt Nam là nâng cấp giáo dục và đào tạo để thêm lực lượng lao động có tay nghề khả dĩ khai thác được cơ hội mới và cải thiện được cuộc sống cho nhiều người. Một hiệp ước song phương với Hoa Kỳ sẽ đáp ứng yêu cầu đó.
Nguyên Lam:Câu hỏi cuối, thưa ông, Việt Nam gặp rủi ro gì khi thiên về quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ và tách dần khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Bài học từ 1.9.7.5 cho thấy Việt Nam không gặp rủi ro là bị Hoa Kỳ xâm lăng và chiếm đóng. Bài học từ 1.9.9.5 cho thấy Việt Nam có lợi về kinh tế sau khi tái lập bang giao với nước Mỹ. Ngược lại, Việt Nam đã gặp rủi ro lớn với Trung Quốc từ mấy chục năm nay và càng ngày càng mất quyền chủ động vì sức ép muôn mặt từ Bắc Kinh. Nếu tiếp tục chiều hướng này thì chủ quyền quốc gia cũng chẳng còn và lãnh thổ bên trong lại bị tàn phá vì hiệu ứng tai hại của Trung Quốc. Nhưng chính là chiến lược bành trướng của Bắc Kinh lại khiến cả thế giới lo ngại và Việt Nam hết còn đơn độc đứng trên tuyến đầu.
Vào cảnh ngộ đó, Việt Nam không nên là vùng hỏa tuyến của các nước chống Tầu tại Đông Á nhưng vẫn nên mở rộng khả năng chọn lựa để ra khỏi thế kẹt thành hình từ mấy chục năm qua. Lĩnh vực kinh tế hay thương mại là sự chọn lựa tương đối an toàn hơn cả mà lại có lợi cho người dân. Là thành viên của Hiệp ước TPP với 11 nước và có hiệp định song phương với Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ thoát dần khỏi bóng rợp của Trung Quốc. Quan trọng hơn cả là lãnh đạo Hà Nội nên hiểu ra điều ấy mà thay đổi cách suy nghĩ khi nhiều quốc gia khác cũng đang đòi lại quyền đàm phán và quyết định về quyền lợi của quốc gia. Thế giới đang có một đổi thay lớn khi nước nào cũng coi quyền lợi của quốc gia là tối thượng thì chúng ta cũng phải thay đổi cách suy nghĩ và hành xử vì quyền lợi của mình chứ đừng lụy vào một ý thức hệ viển vông lạc hậu. Nói vắn tắt lại thì Việt Nam nên tham gia Hiệp ước TPP, tự chuẩn bị cho thế hợp tác cao hơn và phức tạp hơn bằng những cải cách sâu rộng ở bên trong cho cả xã hội.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn kỳ này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguồn: rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

Thay đổi tư duy quản lý đất đa

người nông dân dù chỉ có quyền sử dụng đất, không có quyền sở hữu đất nhưng họ vẫn hành xử với đất và đầu tư vào đất như là những người chủ thực sự.
 
dat2
Những oan ức được viết lên biểu ngữ, trang phục tố cáo những việc làm sai trái của chính quyền địa phương by Nguyễn Tường Thụy
Mọi người được phép tích tụ ruộng đất, câu chuyện thần tiên đi ngược lại chủ trương phân chia ruộng đất và hạn điền mà Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện trong hơn 60 năm qua, nay có dấu hiệu chuyển biến.
Chiến lược phát triển nông thôn
Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát đi tín hiệu này qua phát biểu của ông Nguyễn Văn Bình, Trưởng ban Kinh tế Trung ương tại Hội nghị Phát triển Doanh nghiệp Nông nghiệp trong tiến trình tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, được tổ chức hôm 8/9 tại Hà Nội.
Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại vào tối ngày 15/9/2016, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, từ Hà Nội phát biểu :
"Trước đây đã nói nhiều về việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, bây giờ Chính phủ nhấn mạnh rất nhiều đến vấn đề gọi là chuyển đổi mô hình quản lý của Nhà nước sang mô hình gọi là Nhà nước kiến tạo, Nhà nước xây dựng.
Thế thì đây chính là lúc để Chính phủ xem xét tạo nên những chính sách đột phá, trong đó đặc biệt có mảng đất đai. Tất nhiên là thay đổi luật không phải dễ dàng và nhanh chóng được nhất là Luật Đất đai vừa mới sửa đổi, nhưng mà những chính sách đột phá có lẽ phải bắt đầu từ bây giờ, để trong tương lai có thể điều chỉnh những điều quan trọng về đất đai".
Cần sửa Luật Đất đai
Báo SaigonTimes Online trích lời ông Nguyễn Văn Bình nói rằng mô hình kinh tế hộ giúp Việt Nam thoát cảnh đói ăn trở nên khá giả hơn, nay đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Bây giờ nông nghiệp Việt Nam phải chuyển qua sản xuất hàng hóa lớn để tham gia vào thị trường và chuỗi giá trị toàn cầu.
Ông Nguyễn Văn Bình khẳng định là trong thời gian sớm nhất Ban kinh Tế Trung ương cùng các Bộ ngành hữu quan sẽ đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư thông qua hai chủ trương lớn là tích tụ ruộng đất và đẩy mạnh kinh tế hợp tác trong sản xuất nông nghiệp.
Cho phép tích tụ ruộng đất thì cần phải sửa Luật Đất đai, đây là phản ứng tích cực của Giáo sư Võ Tòng Xuân, chuyên gia nông nghiệp nổi tiếng trên báo mạng Một Thế Giới ngày 14/9/2016.
dat3
Cảnh nhân dân ngồi chờ bên ngoài các cơ quan nhà nước
 
Vị Giáo sư gắn bó với đồng bằng sông Cửu Long nói với nhà báo, xin trích nguyên văn :
"Muốn sản xuất lớn phải có diện tích đất đai lớn, nếu hạn điền như hiện nay thì không thể nào làm lớn được. Mà chỉ khi sản xuất lớn mới cơ giới hóa được, mới nâng cao năng suất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Qua đó, nông nghiệp Việt Nam mới có được thương hiệu, mới có được những sản phẩm thống nhất, đặc trưng và thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp, nâng cao đời sống của người nông dân".
Những vấn đề cốt lõi
Nhận định về sự thay đổi quan trọng trong quan niệm đất đai của giới chức cao cấp của Đảng, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa phát biểu :
"Tích tụ ruộng đất ở Việt Nam không giống như các nước Âu Mỹ bởi vì đất đai họ rộng và tài nguyên nó khác. Việt Nam đặt ra vấn đề tích tụ ruộng đất tuy nhiên phải từng bước một.
Từ trước đến nay chưa có chính sách như thế thì bây giờ phải sửa đổi. Tất cả những văn bản pháp quy có liên quan đến ruộng đất, vấn đề sở hữu, vấn đề canh tác rồi là việc chuyển đổi quyền sở hữu đó như thế nào, hay sử dụng như thế nào.
Việt Nam hiện nay chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu đất đai. Thế cho nên phải sửa đổi Hiến pháp cũng như các chính sách, tôi nghĩ tuyên bố là một đàng, còn làm được vấn đề đó lại là một giai đoạn dài và cần sửa đổi hàng loạt chính sách có liên quan đến ruộng đất, cũng như đến sở hữu và sử dụng ruộng đất tiếp theo".
Trên báo chí, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn nhiều lần nhấn mạnh muốn tích tụ được đất đai thì phải giải quyết được 3 vấn đề cốt lõi.
Trao đổi với chúng tôi, ông nhấn mạnh tới điều rất quan trọng để tạo nên một nền nông nghiệp mới có năng suất cao hơn, có hiệu quả cao hơn, hướng vào giá trị gia tăng và phát triển bền vững, là phải thay đổi các điều kiện để tổ chức sản xuất nông nghiệp. Tiến sĩ Đặng Kim Sơn giải thích :
"Thứ nhất phải rút được lao động ra khỏi nông thôn. Phải đưa được đông đảo đội ngũ lao động trong nông nghiệp tham gia vào lao động phi nông nghiệp, nhưng mà trên vị thế rất là sẵn sàng, trên một vị thế rất cân bằng để mà họ có thể tham gia vào thị trường lao động chính thức.
Thứ hai khi đã rút được nhiều lao động ra khỏi nông thôn rồi thì phải tích tụ đất đai lại vào tay những người biết làm ăn, những người có điều kiện làm ăn.
Trên cơ sở đó khi mà trang trại rộng hơn lớn hơn và nông dân có điều kiện để gắn bó với nhau thành các hợp tác xã, thì lúc đó mới có điều kiện để kéo các doanh nghiệp càng nhiều càng tốt từ các lĩnh vực khác đầu tư vào nông nghiệp nông thôn và tạo điều kiện cho ngay bản thân những người làm ăn giỏi ở nông thôn khởi nghiệp, chuyển sang làm ăn kinh doanh phi nông nghiệp.
Có như thế mới tạo ra được thị trường kết nối được sản xuất trong nông nghiệp Việt Nam với thị trường trong nước và thị trường thế giới, mới có thể đưa được nghề mới vào, mới có thể tạo ra nguồn đầu tư mới, nguồn vốn quan trọng mà đủ sức tạo sức bật mới cho nông nghiệp".
Đã mất 20 hơn năm
Với chính sách ruộng đất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay có hơn 14 triệu nông dân với 70 triệu thửa ruộng, diện tích canh tác trung bình toàn quốc chỉ khoảng 1.000 mét vuông đầu người.
Miền Bắc và miền Trung rất ít đất, một gia đình nhiều nhân khẩu có thể có những mảnh ruộng nhỏ bé và không liền kề. Tình hình ở miền Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long có khá hơn, nhưng đại đa số hộ nông dân có diện tích canh tác dưới 1 héc ta tức dưới 10.000 mét vuông.
Khi phát tín hiệu là Đảng sẽ cho phép tích tụ ruộng đất, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình tự bạch rằng, Việt Nam đã chậm trễ hơn 20 năm, khi tiếp tục duy trì mô hình phát triển nông nghiệp trên nền tảng kinh tế hộ.
Theo lời ông Bình, từ những năm 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã tự túc lương thực và còn dư để xuất khẩu hàng triệu tấn mỗi năm.
Sự chậm trễ vừa nêu dẫn tới hậu quả ngày nay là nông dân vẫn nghèo dù không đói và tăng trưởng trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như đã tới ngưỡng, không những không tăng mà đang suy giảm, nhất là khi đối diện thiên tai, biến đổi khí hậu.
Khi nào nông dân chịu bỏ đất ?
Khi vấn đề tích tụ ruộng đất được đặt ra với ưu tiên cao, giới đảng viên bảo thủ e ngại trở lại thời kỳ nông dân không ruộng và chế độ địa chủ thuê tô.
Điều này đã được ông Nguyễn Văn Bình trấn an tại Hội nghị phát triển Nông nghiệp ngày 8/9/2016 vừa qua. Trưởng Ban Kinh tế Trung ương khẳng định phải tích tụ được ruộng đất mà vẫn bảo đảm được quyền lợi của người nông dân.
Trên báo mạng Một Thế Giới, Giáo sư Võ Tòng Xuân nhấn mạnh rằng, Nhà nước cần phải hoàn thiện luật, tích tụ ruộng đất để sản xuất chứ không phải đầu cơ, tích trữ, lạm dụng quyền sở hữu, sử dụng đất. Theo đó, cần phải cấm tích tụ ruộng đất theo kiểu bắt bí, ép buộc để mua rẻ đất, lập dự án treo, phân lô bán nhằm làm giàu bất chính vì lợi ích của một nhóm người nào đó.
Trả lời chúng tôi, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn nhận định :
"Điều lo ngại chính của những nhà hoạch định chính sách là những trường hợp tích tụ đất vào tay người sử dụng đất có hiệu quả. Nhưng trong khi đó lại không tạo được việc làm cho những người đã giao đất đi, không có sinh kế hợp lý cho những người này và có thể làm tăng tỷ lệ thất nghiệp hoặc giảm thu nhập của người nông dân.
Thay vì sản xuất nhỏ bây giờ tập trung sản xuất lớn, nhưng mà những người lao động rút ra khỏi đất đai phải được đào tạo nghề, phải được vay vốn, phải được hướng dẫn kỹ thuật, phải được tạo ra việc làm ở những lãnh vực phi nông nghiệp có thu nhập ổn định.
Làm thế nào mà hai việc ấy diễn ra song song được thì câu chuyện ấy mới là an toàn. Điều lo ngại là điều kiện ràng buộc về tốc độ của quá trình tích tụ đất đai nó bị phụ thuộc rất nhiều nữa là phần của thị trường lao động.
Ở Việt Nam không chỉ thị trường đất đai chưa hoàn chỉnh mà cả thị trường lao động cũng chưa hoàn chỉnh. Đây là hai chân phải đi song song trong quá trình đổi mới chính sách đất đai".
Rõ ràng Việt Nam đã quá chậm và thiếu chuẩn bị trong công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt kinh tế nông nghiệp. Giới chuyên gia cho rằng chặng đường phía trước còn xa để tới được cuộc đổi mới đột phá về tích tụ ruộng đất.
Nhưng theo Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, người dân rất năng động họ đã tự mình tìm ra phương cách riêng để thực hiện việc tập trung đất đai sản xuất lớn, thí dụ như mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Hay sự kiện ở miền Bắc, người dân gom đất lại và cho người có điều kiện làm ăn thuê, người cho thuê nhận được tiền thuê đất hay hoa màu tương đương với lợi tức mà trước kia họ tự canh tác.
Vẫn theo Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, trong khi chờ đợi khung pháp luật hoàn thiện, người nông dân dù chỉ có quyền sử dụng đất, không có quyền sở hữu đất nhưng họ vẫn hành xử với đất và đầu tư vào đất như là những người chủ thực sự.
Nam Nguyên, RFA
Nguồn : 16/09/2016

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

Giã từ GDP "bẩn"

…trước tiên phải công khai minh bạch, sửa đổi các qui chuẩn về bảo vệ môi trường, áp dụng triệt để nguyên tắc trách nhiệm người đứng đầu vốn đã được qui định trong pháp luật.
 
gdp2
Bên ngoài nhà máy thép Formosa, tỉnh Hà Tĩnh hôm 3/12/2015. AFP photo
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc vừa lên tiếng kêu gọi thay đổi tư duy phát triển, không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế bằng mọi giá.
Phát biểu của Thủ tướng
Thảm họa môi trường ven biển miền Trung, có vẻ là giọt nước tràn ly khiến Việt Nam phải nghĩ tới việc chấm dứt hai thập niên phát triển bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài ồ ạt, ưu đãi giảm nhẹ các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được xem là lãnh đạo đầu tiên đã nói thẳng về thực trạng môi trường quá tệ hại của Việt Nam. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác bảo vệ môi trường sáng 24/8/2016 được báo chí đưa tin rộng rãi, Thủ tướng nhìn nhận tình trạng ô nhiễm môi trường bùng phát trên phạm vi cả nước là hậu quả tích tụ của hàng chục năm phát triển nhưng xem nhẹ việc bảo vệ môi trường.
Báo điện tử Dân Trí trích nguyên văn lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng, đã đến lúc buộc phải thay đổi tư duy phát triển, không đánh đổi kinh tế lấy môi trường để gây ảnh hưởng cuộc sống bình yên của người dân. Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam nhấn mạnh, thực trạng môi trường đặt ra những thách thức, bộc lộ sự yếu kém trong quản lý mà chưa có giải pháp cơ bản ở các địa phương cũng như trung ương.
Nhận định về sự thay đổi tích cực trong chính sách phát triển mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa đề cập, Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội nhận định :
"Lời phát biểu ấy rất mạnh mẽ kiên quyết và đúng hướng của sự phát triển kinh tế nói chung. Bởi lẽ như chúng ta biết, các nước phát triển trong thời gian bắt đầu của công nghiệp hóa thì cũng có hiện tượng như kiểu Việt Nam, dù mức độ có thể khác nhau. Vừa rồi Việt Nam có hiện tượng vi phạm đến bảo vệ môi trường rất là lớn, bây giờ người đứng đầu Chính phủ đã có một ý kiên quyết như vậy, chúng tôi cho đó là bước đầu rất tốt. Tuy nhiên để thực thi những lời phát biểu ấy đối với tất cả cán bộ, các cơ quan, các ngành thì cần có sự giám sát thật chặt chẽ, trong đó sự giám sát của người dân là vô cùng quan trọng. Do đó từng bước phải có sự đánh giá rõ ràng...".
Tại Hội nghị trực tuyến 24/8, những tiết lộ về tình trạng phát triển bừa bãi xem nhẹ ô nhiễm môi trường trong mấy chục năm qua làm nhiều ngưởi giật mình. Theo báo điện tử Một Thế Giới, Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Trần Hồng Hà cho biết trên toàn quốc đang hiện diện 283 khu công nghiệp với hơn 550.000 m3 nước thải mỗi ngày đêm ; 615 cụm công nghiệp mà 95% không có hệ thống xử lý nước thải tập trung, toàn bộ các cơ sở sản xuất tự xử lý nước thải hoặc xả thải trực tiếp ra môi trường.
Một loạt số liệu gây kinh ngạc, cũng được Bộ trưởng Trần Hồng Hà tiết lộ, theo đó trên cả nước hiện có 500.000 cơ sở sản xuất thuộc các ngành nghề gây ô nhiễm môi trường và sử dụng công nghệ lạc hậu ; 13.500 cơ sở y tế phát sinh mỗi ngày 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m3 nước thải y tế. Ngoài ra hàng năm ở Việt Nam có thể có tới 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật bị sử dụng sai qui định. Đó là chưa kể tới 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, 630 nghìn tấn chất thải nguy hại. Đồng thời trong số 458 bãi chôn lấp có tới 337 bãi không hợp vệ sinh, cùng hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí Dioxin, furan.
Bức tranh mô tả Việt Nam như bãi rác thải khổng lồ vượt khả năng kiểm soát còn được tô đậm nét hơn, qua mấy thập niên áp dụng cơ chế thu hút đầu tư nước ngoài FDI bằng mọi giá, đánh đổi chi phí cơ hội về môi trường.
Các chuyên gia từng cảnh báo
VIETNAM-CHINA-POLITICS-ECONOMY-RIOT
Người lao động Việt Nam làm việc tại cảng nhà máy thép Formosa, tỉnh Hà Tĩnh hôm 4/12/2015. AFP photo
Báo Dân Trí trích lời Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhìn nhận Việt Nam có xu hướng nới lỏng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường nhằm cạnh tranh với các nước khác. Ông Bộ trưởng nhìn nhận các dự án đầu tư nước ngoài đã gây nên những tác hại rất lớn với môi trường, như vụ thảm họa môi trường do Formosa Hà Tĩnh gây ra ở 4 tỉnh ven biển miền Trung, hay trước đó là các vụ Vedan, Miwon…
Với thực tế khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu cũng như chi phối 70% tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Giới phản biện trong nước, từ chục năm trước đã hoài công cảnh báo thảm kịch phát triển bằng mọi giá mà nhà nước theo đuổi. TS Nguyễn Quang A, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển IDS, một tổ chức độc lập ở Hà Nội đã tự giải thể từng nói với chúng tôi :
"…Các chuyên gia thực sự đã cảnh báo về vấn đề phát triển bền vững, về vấn đề hủy hoại môi trường, về những dự án nhất là dự án công nghiệp nặng. Từ lâu lắm rồi, từ vụ bauxite Tây nguyên…hoặc ở IDS chúng tôi 8-9 năm trước thì anh Trần Vĩnh Nguyên đã đặt ra khái niệm GDP bẩn, việc chỉ chú trọng tăng trưởng mà không chú trọng bảo vệ môi trường thì có thể được một cái trước mắt nhưng mà hại một cái vô cùng lâu dài và sẽ rất tốn kém để sửa lại những lỗi lầm đó…hiện nay rất đáng tiếc những hậu quả đó đã hiển hiện lên rồi…".
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chính thức lên tiếng, đã đến lúc phải thay đổi tư duy phát triển, kiên quyết không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đánh đổi môi trường, ảnh hưởng cuộc sống bình yên của người dân. Điều này có nghĩa tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể bị chậm lại, ảnh hưởng công việc làm của người dân. Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa từ Hà Nội nhận định :
"Bước đầu có thể ảnh hưởng tới phát triển kinh tế nói chung và việc giải quyết công ăn việc làm nói riêng của một bộ phận dân cư. Tuy nhiên nếu sau này chúng ta có những nhận định và những hành vi quyết đoán trong việc phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường thì tôi cho là nó sẽ trở lại bình thường thôi. Chứ còn bây giờ mở ra quá nhiều dự án mà không quan tâm đến bảo vệ môi trường, thì trước mắt tạo ra được công ăn việc làm. Tuy nhiên qua phân tích chúng tôi thấy có lý và đúng thực tế là, nếu sự tăng trưởng ấy không bền vững thì sau này những thu nhập đạt được có khi lại không bù đắp nổi việc ảnh hưởng môi trường…".
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và chính phủ do ông lãnh đạo sẽ có rất nhiều việc phải làm, khi chuyển từ chính sách gọi là GDP "bẩn" phát triển bằng mọi giá sang chính sách GDP "xanh", phát triển bền vững coi trọng việc bảo vệ môi trường. Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa cho rằng trước tiên phải công khai minh bạch, sửa đổi các qui chuẩn về bảo vệ môi trường, áp dụng triệt để nguyên tắc trách nhiệm người đứng đầu vốn đã được qui định trong pháp luật. 
Nam Nguyên, phóng viên RFA
Nguồn : RFA, 25/08/2016

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016

Bài toán nông dân của Trung Quốc

…then chốt vẫn là việc cải cách hệ thống công chi thu, hay tài chính công quyền, và nâng cao phẩm chất của đảng viên cán bộ để dẹp được nạn tham ô tại địa phương.
 
nongdan2
Nhọc nhằn của nông dân Trung Quốc. Ảnh minh họa. Reuters
Từ cả chục năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh đã đề ra mục tiêu thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn với thành thị, san bằng những bất công. Nhưng tình hình vẫn chưa được cải thiện tại nước đông dân nhất địa cầu. Sự phẫn uất của một số nông dân Trung Quốc là bài toán "sinh tử" cho an ninh nước này.
Theo thống kê được Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF công bố vào tháng 4/2016, tổng sản lượng năm 2015 của Trung Quốc lên tới 11.000 tỷ đô la. Với dân số khoảng một 1,35 tỷ người, thu nhập bình quân đầu người tại nước này là khoảng 8.000 đô la/năm. Trung Quốc thuộc nhóm quốc gia có lợi tức trung bình thấp.
Nhưng kinh tế nước này gặp nhiều vấn đề về cơ cấu nên có thể bị rơi vào hiện tượng mà các chuyên gia về phát triển gọi là "cái bẫy của lợi tức trung bình", không trở thành một quốc gia công nghiệp như Bắc Kinh vẫn mong ước.
Một trong các vấn đề được quan tâm, ít ra từ hàng chục năm nay là tình trạng phát triển thiếu cân đối, không công bằng và thiếu phối hợp nên không bền vững. Tình trạng này được phản ánh một cách rõ ràng nhất qua sự khác biệt quá lớn về lợi tức và nhận thức giữa nông thôn và thành thị.
Bài toán an ninh cho chế độ
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa phân tích vấn đề này và chỉ ra bài toán nan giải là chế độ hộ khẩu.
RFI : Thưa anh Nguyễn Xuân Nghĩa, theo IMF trung bình lợi tức một người dân Trung Quốc ở khoảng 8.000 đô la. Nhưng con số chính thức ấy che giấu sự thật đáng ngại là 760 triệu người sống ở thành thị lại có lợi tức cao gấp ba lần lợi tức của 590 triệu người sinh sống ở nông thôn. Vì sao tình hình chưa cải thiện cho dù Bắc Kinh từ những năm 2007 đã nói tới mục tiêu san bằng hố sâu ngăn cách giữa nông thôn và thành thị ?
Nguyễn Xuân Nghĩa : Trung Quốc có một vấn đề từ tiền kiếp, là khác biệt quá lớn về địa dư hình thể giữa các tỉnh duyên hải ở miền Đông và các tỉnh bị khóa trong nội địa, vốn dĩ khô cằn và khó phát triển. Sau ba chục năm cải cách và tăng trưởng mạnh kể từ 1980, Trung Quốc đã công nghiệp hóa và đô thị hóa một phần lãnh thổ, nhưng chưa giải quyết được bài toán dị biệt ấy.
Trung bình thì người dân ở đô thị có thể kiếm ra hơn 14.000 đô la một năm, mà cư dân ở thôn quê thì chỉ kiếm được chưa tới bốn ngàn. Tại các tỉnh bị kẹt trong lục địa, khoảng 400 triệu người ở nông thôn chưa tìm ra được bốn đô la một ngày.
Ngoài khác biệt lợi tức đó, dân cư ở thành thị còn được hưởng phúc lợi xã hội như gia cư, y tế và giáo dục. Dân chúng ở thôn quê thì không. Đấy là bài toán sinh tử cho một quốc gia tự xưng là xã hội chủ nghĩa, thành lập từ nỗ lực đấu tranh của lực lượng nông dân nghèo khốn trong trận nội chiến quốc - cộng 70 năm về trước. Ngày nay, sự bất mãn của lớp người cùng khốn ấy đang là bài toán an ninh cho chế độ.
Nguyên nhân đầu tiên thuộc về ý thức hệ là chế độ khai thác nông nghiệp để nuôi công nghiệp và áp dụng chế độ hộ khẩu để điều tiết lực lượng lao động.
Chế độ ấy có từ mấy ngàn năm mà được Mao Trạch Đông tinh vi hóa để kiểm soát và đoàn ngũ hóa quần chúng. Sau khi Đặng Tiểu Bình cải cách kinh tế từ 1980, chế độ kiểm soát hộ khẩu sử dụng được dân số đông đảo ở thôn quê ra tỉnh kiếm việc với lương thấp. Ít ai chú ý đến sự kiện là chế độ hộ khẩu của Trung Quốc chỉ phân biệt hai thành phần là dân cư trong nông nghiệp và ngoài nông nghiệp.
Sau khi cải cách thì cư dân có hộ khẩu trong nông nghiệp có thể ra tỉnh kiếm việc mà vẫn là kẻ không có hộ khẩu, không có phúc lợi xã hội, gọi là "dân công". Trung Quốc có từ 250 đến 300 triệu dân công xấu số này. Từ cả chục năm nay, Bắc Kinh đã nói đến việc cải cách chế độ hộ khẩu ấy mà chưa tiến hành được.
nongdan3
Thành phố Thượng Hải, biểu tượng thành công của Trung Quốc.@Flickr
Muốn có nhân công rẻ, nhưng lại sợ nông dân ồ ạt đổ về thành phố
RFI : Tầng lớp lãnh đạo mới, lên cầm quyền từ cuối năm 2012, đã chủ trương lấy tiêu thụ nội địa làm lực đẩy thay cho đầu tư và xuất khẩu. Nếu lợi tức cư dân tại nông thôn lại quá thấp như vậy thì làm sao Bắc Kinh có thể chuyển hướng ? Tại sao việc cải cách chế độ hộ khẩu lại chậm thi hành như vậy ?
Nguyễn Xuân Nghĩa : Lãnh đạo Trung Quốc biết rằng về lý thuyết thì cải cách hộ khẩu sẽ giải phóng lực lượng lao động cho thôn dân vào thành thị. Đồng thời cải cách chế độ quản lý đất đai tại nông thôn thì sẽ cho nông dân còn lại có quyền sử dụng đất rộng rãi hơn hầu nâng cao năng suất nông nghiệp. Thế nhưng Bắc Kinh lại rất thận trọng và chỉ cho thử nghiệm ở vài thí điểm, như tại Trùng Khánh từ năm 2007, vào thời Bí thư Bạc Hy Lai, là người đã bị bãi chức và nay đang ngồi tù chung thân.
Nguyên nhân thứ nhất : giải tỏa hộ khẩu có thể dẫn tới làn sóng người từ nông thôn ra tỉnh khiến các tỉnh thành không đủ ngân sách cho nhu cầu gia cư, y tế, giáo dục. Nhiều nơi chỉ muốn có dân công rẻ và sống tạm bợ, chứ không muốn phải lo cho đời sống của thành phần lao động này. Nguyên nhân thứ hai : Bắc Kinh sợ nông dân ào ạt bỏ ruộng đồng, làm sản lượng nông nghiệp sa sút và không đạt yêu cầu an toàn về thực phẩm.
Nguyên nhân thứ ba : việc cải cách chế độ hộ khẩu phải tiến hành đồng bộ với việc cải thiện hệ thống luật lệ về đất đai. Đó là chuyện còn sinh tử hơn cho các chính quyền địa phương, vì bán quyền sử dụng đất là nguồn thu đáng kể cho ngân sách địa phương. Ta không quên là tính trung bình thì nguồn thu của các địa phương chỉ đáp ứng 57% nhu cầu công chi, và tại các tỉnh nghèo ở bên trong thì chỉ được có 10-20% mà thôi.
Nguyên nhân thứ tư, quan trọng nhất, là phải tái cân bằng hệ thống công chi thu trên toàn quốc, vì chính quyền địa phương không đủ ngân sách cho cả nhu cầu xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất lẫn hạ tầng cơ sở xã hội. Ngày nay, tỷ lệ đô thị hóa tại Trung Quốc mới là 56%. Muốn tiến lên trình độ công nghiệp cao hơn, với nhiều đô thị hơn, họ phải giải quyết bài toán hộ khẩu để hấp thụ được một lượng người đông đảo hơn.
Có một sự nới lỏng chừng mực cho nông thôn
RFI : Trong khi chờ đợi đến ngày khắc phục được ngần ấy vấn đề thì Bắc Kinh có thể làm gì trước số phận quá đen tối của người dân tại thôn quê ?
Nguyễn Xuân Nghĩa : Tôi nghĩ đến phương châm "mò chân dưới nước kiếm đường qua sông"của Đặng Tiểu Bình, nhưng theo kiểu "se hâter lentement" như một thành ngữ của Pháp ! Trung Quốc sẽ tích cực khuyến khích các địa phương phát huy sáng tạo để thử nghiệm giải pháp mới và thận trọng theo dõi kết quả, nhất là mức độ an toàn về chính trị, khi sự bất mãn tại nông thôn đang trở thành vấn đề nóng, với nhiều cuộc xô sát giữa nông dân và cảnh sát địa phương.
Một số nơi đã thử áp dụng việc cho phép nông dân chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp và đổi lấy tiền thuê cùng một số lợi tức hàng tháng. Điều đó có nghĩa là nông dân vẫn là chủ đất nhưng nhiều doanh nghiệp về canh nông có thể ra đời và canh tác trên một diện tích lớn hơn. Nhưng then chốt vẫn là việc cải cách hệ thống công chi thu, hay tài chính công quyền, và nâng cao phẩm chất của đảng viên cán bộ để dẹp được nạn tham ô tại địa phương.
Nếu quá chậm thì chế độ mặc nhiên gieo mầm cho một cuộc cách mạng khác của nông dân khi nằm chết trong cái bẫy sập của lợi tức trung bình.
Thanh Hà thực hiện
Nguồn : RFI, 23/08/2016
************************
Thiếu đất canh tác, Trung Quốc cải cách nông nghiệp để nuôi dân (RFI, 23/08/2016)
nongdan4
Người nông dân Trung Quốc tẽ ngô để phơi. Ảnh minh họa.REUTERS
Đối mặt với tình trạng khủng hoảng lương thực ngày càng lớn, Trung Quốc buộc phải cải cách ngành nông nghiệp. Theo nhận định của tuần báo Times (17/08/2016), quyết định này có thể là bước thay đổi lớn nhất kể từ "Bước Đại Nhảy Vọt" do Mao Trạch Đông phát động.
Những hộ nông dân nhỏ, có diện tích đất canh tác trung bình khoảng 0,65 ha, là nguồn đảm bảo lương thực cho toàn Trung Quốc. Thế nhưng, tại đất nước có hơn 1,3 tỉ dân, chiếm gần 1/5 dân số thế giới, hiện chỉ còn khoảng 7% đất canh tác được. Một mặt do đất đai ngày càng trở nên cằn cỗi, chiếm hơn 40% diện tích đất nước. Mặc khác do tình trạng lạm dụng phân hóa học và tăng cường nuôi thả súc vật. Trong khi báo chí Trung Quốc chỉ đề cập hiện tượng các nhà máy thả khí gây ô nhiễm, các chuyên gia cho rằng, so với ngành công nghiệp, ngành nông nghiệp còn gây tác động xấu hơn đến môi trường.
Năm 2015, Trung Quốc sản xuất 600 triệu tấn lương thực, đây là năm thứ 12 có sản lượng tăng liên tiếp. Thế nhưng, trong vòng ba thập kỷ tới, khoảng 300 triệu người Trung Quốc sẽ phải bỏ nghề nông để kiếm việc tại các đô thị lớn vì đất canh tác sẽ bị các cụm đô thị gặm nhấm. Những trung tâm này cũng tiêu thụ ngày càng nhiều thịt, ngũ cốc và sản phẩm từ sữa. Hiện nay, trung bình mỗi năm một người Trung Quốc ăn khoảng 63 kg thịt, nhưng số lượng này sẽ tăng thêm khoảng 30 kg mỗi người cho đến năm 2030.
Chính sách cải cách nông nghiệp lớn nhất kể từ "Bước Đại Nhảy Vọt"
Đối mặt với cuộc khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có những biện pháp bình ổn lương thực quốc gia. Trước tiên, chính quyền tiến hành nhiều vụ thu mua đất nông nghiệp có quy mô lớn ở nước ngoài, trong đó phải kể đến nhà máy sữa lớn nhất nước Úc, tiếp theo là hơn 324.000 ha đất nông nghiệp ở Achentina và nhiều nhà máy trồng và chế biến giá đỗ có trị giá nhiều tỉ đô la tại Brazil.
Còn tại Trung Quốc, một mặt, chính phủ cho lập lại chính sách thuế đánh vào thuốc trừ sâu và phân bón. Mặt khác, nhiều biện pháp khuyến khích và hỗ trợ được áp dụng cho người nông dân. Đối với những loại cây trồng không có lợi cho sinh thái, ít lợi nhuận và có sản lượng dư thừa, như cây ngô, người nông dân sẽ nhận được trợ giúp từ chính phủ để giảm bớt diện tích trồng trọt. Ngược lại, những loại cây có nguồn cầu cao và bền vững như cây đậu (đỗ), thì sẽ được khuyến khích cải thiện.
Đây là một cuộc các mạng có thể có những rủi ro nghiêm trọng đối với tính chính đáng của đảng Cộng Sản Trung Quốc, vì có thể giá lương thực tăng nhanh, trong khi người nông dân lại không có đủ thu nhập. Ông Erlend Ek, một chuyên gia nông nghiệp thuộc phòng nghiên cứu các chính sách của Trung Quốc, nhận định với tạp chí Times : "Có thể sẽ có những bất ổn xã hội lớn nếu họ làm căng ngành công-nông nghiệp. Chưa bao giờ Trung Quốc có bước thay đổi lớn như vậy kể từ Bước Đại Nhảy Vọt trước đây".
Giai đoạn đau thương này, do Mao Trạch Đông khởi xướng vào cuối những năm 1950, là cội nguồn của mọi khó khăn về ổn định lương thực. "Bước Đại Nhảy Vọt" nhằm mục đích hiện đại hoá ngành công nghiệp Trung Quốc với hình thức xoá bỏ sở hữu tư nhân và lập các nhóm lao động chung. Sau khi có hơn 30 triệu người chết, hình thức hợp tác xã bắt buộc đã bị phá sản và mỗi gia đình được giao một thửa đất chừng 0,65 ha để canh tác theo mô hình tự cung tự cấp. Ngoài một vài trang trại lớn, thường là bán quân sự thuộc sở hữu nhà nước, các thửa ruộng đều được chia nhỏ ở Trung Quốc (trong khi một trang trại ở Mỹ có kích thước trung bình là 179 ha).
Tập đoàn Black Soil do ông Tôn Trường (Sun Chang) làm chủ tịch có mục đích hiện đại nông nghiệp Trung Quốc bằng cách gộp các thửa ruộng nhỏ để phục vụ cho sản xuất có quy mô lớn. Ông Tôn Trường nhận định : "Ngành nông nghiệp Trung Quốc vẫn còn là một ngành công nghiệp thủ công. Trung Quốc vẫn còn thua xa Hoa Kỳ, Úc hay Châu Âu vì các trang trại có quy mô nhỏ, thiếu tổ chức và không được quản lý một cách khoa học".
Vì sản xuất không có hiệu quả nên nông phẩm của Trung Quốc đắt hơn gấp hai đến ba lần so với Hoa Kỳ.
Cải cách nông nghiệp theo tiêu chí môi trường và sinh thái
Trung Quốc đặt quyết tâm tự túc lương thực. Tại tỉnh Cam Túc (Ganzu), cỏ linh lăng được trồng với chất lượng cao, có thể được dùng làm vật liệu cách âm thay thế các loại cỏ truyền thông. Ở khu vực giữa tỉnh Tam Túc, nhiều bể nuôi côn trùng được xây dựng để cung cấp thêm protein vào thức ăn cho gia súc. Nhờ đó, hệ miễn dịch của gia súc được tăng cường và giảm nhu cầu sử dụng thuốc kháng sinh. Các nhà khoa học còn nuôi loại ong bắp cày nhỏ xíu, có tên là Trichogramma. Loài tò vò này sống được nhờ trứng của những loài côn trùng kí sinh phá hoại, nhờ vậy sẽ dần loại bỏ được các loại thuốc trừ sâu độc hại.
Nông dân tỉnh Cát Lâm (Jilin) nuôi heo trên một lớp nền dầy chừng 1 mét gồm trấu và mùn cưa có vi khuẩn. Loại hỗn hợp này giúp biến phân heo thành loại phân bón hữu cơ. Điều ngạc nhiên nhất là người ta có thể nuôi cá hồi và cá hồi sông ở vùng sa mạc Gobi cằn cỗi nhờ hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS). Có thể nói, công nghệ này được ông Rustan Lindqvist, một nông dân Thụy Điển, phát minh.
Năm 2012, hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) được thực hiện tại tỉnh Tân Cương (Xinjiang). Thay vì nuôi trồng trên một dòng sông hay một hồ nước, công nghệ RAS sử dụng giếng sâu để cung cấp nước cho các bể nuôi lớn. Cá ở giai đoạn trưởng thành sẽ được kiểm soát trong những điều kiện vô cùng nghiêm ngặt. Thành công của vụ thu hoạch không còn bị phụ thuộc vào điều kiện khí hậu thất thường nữa. Ông Lindqvist, người trở thành kiến trúc sư của công trình này, khẳng định : "Tôi nghĩ là cuối cùng người ta hiểu được tiềm năng của hệ thống RAS. Thật sự là quý vị có thể xây được những bể nuôi ngay giữa hoang mạc".
Ngoài những công nghệ trên, Trung Quốc sẽ tận dụng hệ thống thủy lợi Đại Vận Hà (Karez) dài hơn 5.000 km, một dòng sông nhân tạo có từ cách đây hơn 2.000 năm. Nhờ hệ thống này, lưu vực Thổ Lỗ Phiên (Turpan) rộng lớn, vùng khô nóng nhất của Trung Hoa hiện đại, đã được biến thành thảo nguyên xanh rờn. Tái tạo rừng cũng được tiến hành nhờ Dự án cải tạo rừng đầu nguồn sông Hoàng Hà cao nguyên hoàng thổ. Được Ngân Hàng Thế Giới khởi xướng năm 2004, dự án này đã biến nhiều vùng đất cằn cỗi ở tây bắc Trung Quốc trở thành những vùng đất canh tác được cho khoảng 50 triệu dân trong vùng.
Sau ba năm theo dõi và tư vấn, các nhà khoa học hợp tác với chính quyền địa phương đã chấm dứt tình trạng nuôi thả rông. Việc chăn nuôi đã được quy hoạch theo mô hình chuồng trại, được chia khoang và rào chắn. Tình trạng xói mòn đất cũng được hạn chế nhờ xây các bể chứa nước, mở các khu chăn nuôi trên sườn đồi không quá dốc và trồng cây ăn quả trên những mảnh đất khô cằn nhất trên sườn đồi.
Ngoài ra, quyền sở hữu đất cũng được cấp cho các nhà làm nông địa phương, để đảm bảo việc khôi phục đất. Ông Juergen Voegele, cựu quản lý nhóm dự án của Ngân Hàng Thế Giới, cho biết : "Điều này đã làm biến đổi khung cảnh một vùng đất tương đương với diện tích nước Pháp".
Các biện pháp tương tự hiện đang được tiến hành trên khắp Trung Quốc nhằm tăng diện tích"đất nông nghiệp chất lượng cao". Hiện nay, các trang trại chính rộng khoảng 30,4 triệu ha, nhưng từ nay đến năm 2020, chính phủ muốn tăng số lượng này lên thành 53 triệu đến 67 triệu ha, tương đương với khoảng một nửa tổng diện tích đất canh tác được của đất nước.
Để tăng năng suất, chính phủ cũng đang thảo một đạo luật về hợp đồng đất nông nghiệp. Theo đó, lần đầu tiên người nông dân được phép cho một doanh nghiệp lớn hơn, vững chắc hơn thuê lại đất canh tác của họ. Tập đoàn Black Soil của ông Tôn có hai dự án thí điểm rộng hơn 750 km2 (tương đương với diện tích Singapore) tại tỉnh Hắc Long Giang (Hei Long Jiang) ở phía bắc Trung Quốc và hiện tập đoàn vẫn có tham vọng mở rộng. Ông Tôn Trường kết luận : "Người nông dân trở thành người lao động. Họ không còn phải lo quay vòng vốn, đáp ứng mọi tiêu chuẩn, hạt giống, hóa phẩm, mua trang thiết bị và đầu ra cho nông phẩm. Chỉ cần làm được điều này, bạn đã có thể đảm bảo ổn định lương thực-thực phẩm".
Một người nông dân bày tỏ với tác giả bài báo : "Đa số nông dân địa phương thích kế hoạch này. Nếu như người nông dân có thể được trả 100 nhân dân tệ (khoảng 15 đô la) mỗi ngày, gồm cả bữa trưa và được ở lại trên mảnh đất của mình, tôi nghĩ là họ sẽ đồng ý".
Thu Hằng