Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Một nước Mỹ luôn thay đổi

download
Tác giả: Hoàng Anh Tuấn
Quay trở lại nước Mỹ khi Mùa thu lá vàng 2014 vừa kết thúc. Tiết trời đầu đông chuyển sang se lạnh, cây cối đã trút hết các cành lá cũ và vươn “chân, tay” khẳng khiu, nhưng đầy thách thức lên trời để chuẩn bị “nghênh đón” một mùa đông lạnh giá phía trước. Chứng kiến cảnh cực đẹp của thiên nhiên khi cây lá khoe sắc với đủ “bộ cánh” rực rỡ và lộng lẫy nhất, rồi lại chứng kiến cũng chính những cây hoa ấy với sắc màu “thảm hại nhất” trong thời gian ngắn ngủi chưa đến 2 tuần khiến không nhiều người tránh khỏi cảm giác chạnh lòng và bùi ngùi tiếc nuối. Nó cũng tựa như cảm giác ngắm các hoa hậu vừa đăng quang, rạng ngời với vương miện, cánh áo, rồi lại chứng kiến chính họ ở ngoài đường với khuôn mặt “mộc” và khoác bộ đồ nhầu nhĩ trên người.
Tuy nhiên, tiết trời chính trị Mỹ thì luôn luôn nóng, bất kể tiết trời ra sao.
Mặc dù cuộc bầu cử giữa kỳ Mỹ vừa mới kết thúc và kết quả đã ngã ngũ, nhưng sự kết thúc của sự việc này lại là điểm khởi đầu của một sự việc khác. Nước Mỹ đã nhanh chóng gác lại cuộc bầu cử giữa kỳ vừa qua sang một bên và đang “hăm hở” hướng đến cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội năm 2016. Đảng Dân chủ coi đây là cơ hội “phục thù” cho thất bại vừa qua, còn Đảng Cộng hòa lại coi đây là động lực để “nắm nốt” ghế hành pháp đầy quyền lực.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2008, ứng cử viên Tổng thống khi đó là Barack Obama tranh cử với khẩu hiệu “THE CHANGE WE NEED” (sự thay đổi mà người Mỹ cần) và đã nhận được sự thu hút và ủng hộ rất lớn của cử tri Mỹ. Khẩu hiệu tranh cử của ông Obama đã đánh trung tâm lý cần thay đổi của người Mỹ, khi đó cảm thấy “quá mệt mỏi” cả về tinh thần, sức người, lẫn tiền bạc bạc sau 8 năm cầm quyền của ông Bush với 3 cuộc chiến mà nước Mỹ “đằng đẵng” theo đuổi và chưa biết khi nào mới chấm dứt. Đó là: (i) Cuộc chiến chống khủng bố; (ii) Cuộc chiến Iraq; và (iii) Cuộc chiến Afghanistan.
Quả nhiên, ông Obama đã thắng cử vang dội trong cuộc bầu cử tháng 11/2008, chủ yếu nhờ vào khẩu hiệu và cách thức tranh cử sử dụng internet và mạng xã hội (social media) ở quy mô và mức độ chuyên nghiệp mà chưa một ứng cử viên Tổng thống nào trước đó làm được. Tất nhiên, các yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng (nhưng không quyết định) như màu da và cách thức thực hiện Giấc mơ Mỹ (American Dream) của một người Mỹ “điển hình” như ông Obama. Sự “điển hình” này – như cách nói của người Việt mình là “tay không bắt giặc” – là sự đi lên “tột đỉnh” quyền lực từ tầng lớp thấp nhất của xã hội Mỹ. Ông Obama không chỉ là con của người da màu, mà lại là “con rơi”, không “cha thân, chú thích”, không chút vốn liếng tài chính và chính trị “lận lưng”.
Tuy nhiên, chỉ sau 6 năm cầm quyền “THE CHANGE WE NEED” đã rẽ sang ngả khác. Người cần thay đổi vẫn là các cử tri Mỹ. Nhưng “đối tượng” cần thay đổi lại là các chính sách của ông Obama và các đồng nghiệp Đảng Dân chủ của ông tại Hạ viện và Thượng viện Mỹ. Thậm chí trong các cuộc vận động tranh cử trước cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ ngày 4/11/2014, nhiều ứng cử viên Hạ nghị sĩ hoặc Thượng nghị sĩ của Đảng Dân chủ thậm chí còn “không dám” công khai thừa nhận đã bỏ phiếu cho ông Obama trong cả hai cuộc bầu cử Tổng thống trước đó, nếu như họ không muốn thất cử. Đó chính là SỰ THAY ĐỔI của nước Mỹ, phản ánh bản chất hệ thống chính trị Mỹ. Hệ thống đó được thiết kế để tạo ra các thay đổi liên tục phù hợp với mong muốn của cử tri Mỹ, của một nước Mỹ và một thế giới đang thay đổi từng ngày, từng giờ.
Bản chất của thay đổi đó là gì?
  • Một là, nếu Tổng thống và chính quyền không thay đổi kịp thì Quốc hội sẽ “giúp” Tổng thống thay đổi thông qua việc “điều chỉnh” túi tiền quốc gia là ngân sách (Power Of The Purse) và thông qua các dự luật.
  • Hai là, nếu các nghị sĩ Quốc hội (cấp bang là liên bang) và các chính quyền cấp bang không tìm cách thay đổi, thì người dân sẽ “giúp” bằng cách “đẩy” các vị này ra khỏi các vị trí đầy quyền lực và thay bằng những người khác phù hợp thông qua “sức mạnh” của lá phiếu.
  • Ba là, đến lượt mình, cả quốc hội và chính quyền đều phải tìm cách thay đổi, cạnh tranh nhau bằng chất lượng chính sách, các sáng kiến lập pháp và cách thức thực hiện để giành quyền “phục vụ” cử tri và người dân. Nhưng trong quá trình đó họ cũng buộc người dân, xã hội và doanh nghiệp phải cuốn theo guồng máy thay đổi đó để cạnh tranh, phát triển và tồn tại.
Cứ như vậy, sự tương tác giữa các “tác nhân” tạo nên tính năng động khiến tất cả đều vượt qua được “sức ỳ” (sức ỳ của bộ máy, sức ỳ cá nhân) và nỗi “sợ hãi” phải thay đổi. Ở góc độ nào đó, động lực buộc nước Mỹ phải thay đổi lớn tựa như những bánh xe khổng lồ, sẵn sàng “nghiến nát” bất kỳ các vật cản nào để đưa cỗ máy (nước Mỹ) “lừ lừ” lao về phía trước…
Thực ra nguồn gốc của động lực khiến nước Mỹ luôn và buộc phải thay đổi nằm ngay trong cấu trúc của hệ thống chính quyền mà 56 người sáng lập đầu tiên (Founding Fathers) đã đưa vào trong bản hiến pháp, hay “luật của mọi bộ luật” của nước Mỹ. Trong đó, có 3 điểm đáng chú ý là:
  • Một là, tạo sự cân bằng và kiềm chế (check and balance) giữa các nhánh quyền lực.
  • Hai là, tạo sự cạnh tranh và cọ xát liên tục giữa các cơ quan quyền lực, như: (i) trong nội bộ từng đảng chính trị, (ii) giữa các đảng phái chính trị với nhau; và (iii) giữa chính quyền và quốc hội. Trong các tiến trình này, người dân, mà cụ thể là các cử tri đóng vai trò “quan tòa”.
  • Ba là, tạo ra thay đổi liên tục, nhưng vẫn giữ được sự ổn định, cân bằng của hệ thống.
Ở đây, nhân tố vừa giúp tạo thay đổi đồng thời giữ sự ổn định chính là Quốc Hội Mỹ. Theo luật Mỹ, các hạ nghị sĩ liên bang có nhiệm kỳ 2 năm. 100% các nghị sĩ khi đã đắc cử đều muốn được tái cử và kéo dài nhiệm kỳ của mình. Chính do nhiệm kỳ ngắn ngủi như vậy nên hệ thống này buộc các nghị sĩ vừa đắc cử phải nghĩ ngay đến vận động tranh cử cho nhiệm kỳ kế tiếp nên tuần nào họ cũng phải dành 2-3 ngày bay từ Washington DC về địa phương để tiếp xúc cử tri. Tuy quy định tất cả các hạ nghị sĩ phải ứng cử lại sau nhiệp kỳ 2 năm, nhưng lịch sử bầu cử Mỹ cho thấy con số các hạ nghị sĩ bị “loại” sau mỗi kỳ bầu cử khá “khiêm tốn”, chừng 20-30% trong tổng số 435 Hạ nghị sĩ. Tuy nhiên, chừng đó cũng đủ làm cho họ phải “lạnh gáy”, luôn phải gần để cử tri “nhớ” đến mình trong lần bầu cử kế tiếp.
Tôi còn nhớ trong một cuộc nói chuyện trước đây với một Trợ lý của Hạ nghị sĩ Tom Lantos (khi đó là Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện Mỹ, đến từ bang California), ông ta hỏi tôi: Giả sử trong phòng làm việc của HNS Lantos có 2 cuộc điện thoại đến cùng 1 lúc và ông Lantos biết 1 cuộc đến từ 1 cử tri thuộc khu vực bỏ phiếu của ông ta tại Bang California và 1 cuộc của Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc thì ông ta sẽ nói chuyện với ai trước? Tôi chợt nghị “Dễ ợt, vậy mà cũng hỏi”. Tuy nhiên, chưa kịp trả lời thì ông ta đã nói luôn là ông Lantos sẽ nói chuyện với công dân California trước, vì “ông ta bầu cho ông Lantos!” Như vậy, tuy có thay đổi, nhưng với 70-80% số lượng HNS vẫn còn “bám trụ” được qua mỗi kỳ bầu cử giúp cho hoạt động của Hạ viện vừa có thay đổi, nhưng cũng vừa không có biến động lớn.
ĐIều này cũng tương tự đối với thượng viện. Nếu như các HNS bị xem là những người theo chủ nghĩa “dân túy”, luôn buộc phải chiều lòng cử tri do nhiệm kỳ ngắn (2 năm) thì cấu trúc Thượng viện, nơi có tiếng nói quyết định trong hầu hết các vấn đề từ an ninh nội địa, quốc phòng, đối ngoại, ngân sách… với nhiệm kỳ 6 năm lại giúp các thượng nghị sĩ “nghĩ xa”, “nghĩ rộng” hơn mà không sợ bị cử tri “trừng phạt”. Điều này là do các chính sách dài hạn thì phải có thời gian dài hơn mới kiểm nghiệm được tầm nhìn và hiệu quả.
Ngay trong thượng viện, không phải toàn bộ 100 thượng nghị sĩ phải “sát hạch” cùng lúc, mà cứ 2 năm một lần chỉ có 1/3 phải tranh cử lại. Điều này có nghĩa, qua mỗi kỳ bầu cử quốc hội 2 năm một lần vẫn có ít nhất 2/3 thượng nghị sĩ cũ “tại vị”. Tuy nhiên, trên thực tế thì con số này lớn hơn nhiều vì trong số khoảng 33 hoặc 34 thượng nghị sĩ Mỹ ra ứng cử lại thì con số “tái cử” thường quá nửa, và điều này có nghĩa 80-90% các thượng nghị sĩ Mỹ vẫn “tại vị” qua mỗi kỳ bầu cử.
Như vậy, thay đổi là điều cần có và thường xuyên diễn ra, nhưng ổn định vẫn là mấu chốt đối với hệ thống chính trị Hoa Kỳ.
TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những phân tích đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.

Mao Trạch Đông trong mắt người Trung Quốc hiện nay

Chairman_Mao
Tác giả: Lí Lị & Chương Lập Phàm | Biên dịch: Nguyên Hải
Ngày 26 tháng 12 năm 2013 là ngày kỷ niệm lần thứ 120 sinh nhật Mao Trạch Đông. Trong hơn một năm nhậm chức vừa qua, đương kim Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Tập Cận Bình đã tiến hành chỉnh sửa tác phong của Đảng, đẩy mạnh phê bình, tự phê bình, nhấn mạnh “Nhất định không được bỏ chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông; bỏ thì sẽ mất gốc v.v…”; trong công tác lãnh đạo của ông thường xuyên xuất hiện các yếu tố Mao. Dư luận có những lời bình khác nhau về ý đồ và thực chất của việc đó.
Sự sùng bái cá nhân và thần thánh hóa Mao Trạch Đông của người Trung Quốc lên tới đỉnh điểm vào thời Đại cách mạng Văn hóa; từ khi tiến hành cải cách mở cửa đã dần dần bị xóa bỏ.
Thế nhưng mấy năm gần đây Mao Trạch Đông lại lần nữa trở thành một loại dấu hiệu của yêu cầu chính trị, Mao được đề cao và ca tụng; cuộc tranh cãi nội bộ Trung Quốc về công tội, phải trái của Mao Trạch Đông ngày càng kịch liệt. Trong cuộc luận chiến đó, các nhân sĩ phái tự do đứng một bên, phái tả và cái gọi là “nhân sĩ phái Mao” đứng ở một bên khác, hai bên có quan điểm đối đầu nhau.
Những người ủng hộ Mao nói ông đem lại sự ổn định và thống nhất cho Trung Quốc ngày nay, thời đại Mao Trạch Đông tiêu biểu cho “công bằng”, “thanh liêm”. Những người phản đối ông nhấn mạnh Mao Trạch Đông đem lại tai họa lớn và đau thương lớn cho xã hội, nhân dân và nhà nước Trung Quốc.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 120 ngày sinh Mao Trạch Đông, mạng BBC tiếng Trung đã phỏng vấn hai học giả đại diện cho hai loại quan điểm hoàn toàn khác nhau trong nước Trung Quốc. Đó là sử gia hiện đại Chương Lập Phàm [Zhang Lifan 章立凡] và Hàn Đức Cường [Han Deqiang 韩德强] Giáo sư Đại học Hàng không vũ trụ Bắc Kinh, nhà sáng lập trang mạng “Miền quê hư ảo” [Wu you zhi xiang - Ô hữu chi hương]. BBC đăng hai bài phỏng vấn này vào hai ngày. Hôm nay đăng bài phỏng vấn Chương Lập Phàm.
Chương Lập Phàm là nhà sử học Trung Quốc, con trai cụ Chương Nãi Khí, đồng sáng lập Hội Xây dựng nước Trung Quốc dân chủ (Trung Quốc dân chủ kiến quốc hội).[1]
Tháng 6/2013, Chương Lập Phàm phát động cuộc bỏ phiếu về Mao Trạch Đông trên mạng Trung Quốc. Cuộc bỏ phiếu này kéo dài được 4 tháng thì bị cấm. Bỏ phiếu theo một trong hai lựa chọn: một là “Nếu phủ định Mao Trạch Đông thì Trung Quốc sẽ thiên hạ đại loạn” và một là “Nếu phủ định Mao Trạch Đông thì tương lai của Trung Quốc sẽ tốt đẹp hơn”. Kết quả: trong số hơn 18.000 người tham gia bỏ phiếu, 20% bỏ phiếu cho lựa chọn thứ nhất, 80% bỏ phiếu cho lựa chọn thứ hai.

Chương Lập Phàm
Chương Lập Phàm cho rằng Mao Trạch Đông đã làm đứt quãng tiến trình Trung Quốc đi lên nền hiến chính dân chủ, đưa Trung Quốc vào ngõ cụt đấu tranh giai cấp, chuyên chính một đảng. Trong cuộc phỏng vấn, trước tiên Chương Lập Phàm nói về việc vì sao sự đánh giá Mao Trạch Đông của Trung Quốc hiện nay lại xuất hiện quan điểm đó.
Ý kiến của hai bên đối lập xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Quan điểm của cái gọi là “những người ủng hộ Mao” không có nghĩa là họ khẳng định chế độ. Trong số họ có khá nhiều người thực ra là bị tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc gạt ra rìa, là người chịu thiệt trong quá trình phát triển kinh tế. Những người đó không có hệ tham chiếu nào khác, cho nên họ cho rằng muốn bình đẳng thì chỉ có trở về thời đại Mao. Trên thực tế, họ không tán thành thể chế hiện nay, chỉ có điều chẳng qua phương pháp giải thích của họ khác nhau. Thông thường chủ nghĩa dân túy hay tìm được thị trường trong đám người bị gạt ra rìa. Nhưng họ là đám người rất đáng thương, bị bán đi làm nô lệ mà còn đếm tiền giúp kẻ bán.[2]
Nội dung phỏng vấn
Tầng lớp lãnh đạo ĐCSTQ một mặt nói không thể phủ định 30 năm trước cải cách mở cửa, nhưng mặt khác họ lại hạn chế việc công khai ca ngợi Mao Trạch Đông. Nên hiểu cách làm ấy của ĐCSTQ như thế nào?
Trên vấn đề này, họ ở vào trạng thái vô cùng mắc míu nan giải. Một mặt, trên thực tế Mao Trạch Đông là một tài sản âm[3] của ĐCSTQ. Nhưng họ lại không thể quẳng cái tài sản mất giá ấy đi. Bởi lẽ Mao Trạch Đông dẫn đầu ĐCSTQ xây dựng nên cái chính quyền này. Nếu phủ định Mao thì họ e ngại tính hợp pháp trong sự cai trị của họ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong tình hình đó họ không dám từ bỏ Mao.
Rõ ràng Mao Trạch Đông là nhân vật lịch sử có ảnh hưởng to lớn, có thể nói là quyết định đối với Trung Quốc. Ông đánh giá ra sao về công và tội của Mao? Trước đây ĐCSTQ đánh giá Mao 3 phần tội, 7 phần công. Sau này lại có sách nói nên đảo lại là 3 phần công, 7 phần tội.
Tôi cho rằng tội ác của Mao Trạch Đông là ở chỗ ông ta cắt đứt tiến trình Trung Quốc đi lên nền hiến chính dân chủ. Ông ấy dẫn Trung Quốc đi vào ngõ cụt đấu tranh giai cấp, chuyên chính một đảng.
Tất cả mọi cam kết về dân chủ và hiến chính của ĐCSTQ trước khi giành được chính quyền đều bị Mao vứt bỏ. Đó là mặt chính trị. Về mặt kinh tế, Mao Trạch Đông vốn hứa hẹn sẽ phát triển kinh tế tư bản tự do, nhưng 4 năm sau khi xây dựng chính quyền, ông ta đề ra đường lối chung của thời kỳ quá độ, lật đổ các hứa hẹn về kinh tế. Sau đó, Mao Trạch Đông làm cuộc cách mạng ruộng đất, dùng biện pháp giàu nghèo như nhau để giành được sự ủng hộ của nông dân, giành được chính quyền. Nhưng người bị thiệt hại cuối cùng lại vẫn là nông dân. Mao dùng phương thức hợp tác hóa nông nghiệp thu mất số ruộng đất [đã chia cho nông dân] ấy. Cho nên kết quả cuối cùng là qua cải tạo các nhà tư bản và hợp tác hóa nông nghiệp, ĐCSTQ trở thành địa chủ lớn nhất và nhà tư bản lớn nhất. Tình hình đó được duy trì liên tục cho tới nay.
Tai họa kinh tế gây ra bởi các điều nói trên là nạn đói lớn do phong trào Đại Nhảy vọt gây nên. Tai họa về chính trị là từ phong trào chống phái hữu cho đến Cách mạng Văn hóa, đã lôi kéo toàn bộ người Trung Quốc vào một thảm họa chưa từng có trong lịch sử.
Ông nói Mao Trạch Đông kéo Trung Quốc vào thảm họa, nhưng với tư cách là nhà khai quốc công thần, phải chăng ông ấy cũng có công lao đối với Trung Quốc?
Tôi nghĩ ông ấy chẳng có công lao gì. Đối với ĐCSTQ thì Mao Trạch Đông có công lao, nhưng đối với nhân dân thì tôi nghĩ không ra việc ông ấy có công lao gì. Các ghi chép tôi từng đọc đều nói ông ấy đem lại tai họa.
Có một cách nói cho rằng các tai họa Đại Nhảy vọt, Cách mạng Văn hóa không phải là ý nguyện chủ quan của Mao Trạch Đông mà là sai lầm của ông ấy trong quá trình thăm dò tìm con đường cho Trung Quốc, không thể nói đó là tội.
Cách nói ấy không đứng vững được. Mao Trạch Đông là người mê say quyền lực nhất, thích chơi trò quyền lực nhất; đồng thời ông ấy cũng là người ích kỷ nhất. Để giữ được quyền lực và địa vị của mình, Mao không ngần ngại lôi kéo dân chúng cả nước vào thảm họa và biển máu như Đại cách mạng Văn hóa. Bởi thế Mao Trạch Đông cũng là người tàn nhẫn nhất.
Từ góc độ của một nhà sử học, đem so sánh Mao Trạch Đông với các nhà quân chủ những triều đại trước, ông có thể rút ra kết luận gì?
Thực ra Mao Trạch Đông không có gì khác với những nhà quân chủ các triều đại trước, thậm chí còn không bằng một số khai quốc quân chủ trong lịch sử Trung Quốc. Nói chung các nhà quân chủ khai quốc, cái vương triều họ xây dựng chỉ cần nuôi sống gia đình và chính quyền của nhà quân chủ, nhưng vương triều Mao Trạch Đông xây dựng là một chế độ quân chủ tập thể….
Ngoài ra, theo tôi thì những nhà quân chủ các triều đại trước đây nói chung không có sự trả thù quá mức đối với những người từng được triều đại cũ sử dụng, nói chung là dùng lại họ. Nhưng Mao Trạch Đông sau khi lên nắm quyền, riêng phong trào trấn áp phản cách mạng một lúc đã giết 7-80 vạn người. Khi trả thù triều đại trước hoặc kẻ địch chính trị, Mao Trạch Đông không nương tay mà vô cùng đẫm máu. Lại nói, qua việc tạo phản trong Cách mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông triệt để lật đổ văn hóa và đạo đức truyền thống của Trung Quốc. Ông ta sử dụng các tế bào của sự đảng hóa để hoàn toàn thay đổi hết mọi tế bào của xã hội gia tộc và tôn giáo vốn có của Trung Quốc. Xã hội Trung Quốc xảy ra sự thay đổi lớn thê thảm hết mức này đều có mối quan hệ cực lớn với sự thống trị của Mao Trạch Đông. Điểm này cho tới ngày nay, tuy rằng sau khi Mao Trạch Đông tạ thế, chúng ta đã ra khỏi cái vòng trói buộc của nền kinh tế kế hoạch, nhưng chúng ta vẫn còn chưa ra khỏi vòng trói buộc của chủ nghĩa Stalin.
Theo cách nói của ông, việc Mao Trạch Đông nắm chính quyền đã đẩy người Trung Quốc vào tai họa. Nhưng tục ngữ nói Người đắc nhân tâm thì mới có thể lấy được thiên hạ!      
Lừa đảo cũng có thể đạt được cùng mục đích ấy! Mao Trạch Đông dùng một loạt thủ đoạn tự do dân chủ để giành được sự ủng hộ của thanh niên và giới trí thức, sau đó ông ta lại dùng lời hứa cho nông dân ruộng đất để giành được sự ủng hộ của nông dân. Mao Trạch Đông còn nói giai cấp vô sản phải được làm lãnh đạo nhà nước, nhờ thế ông giành được sự ủng hộ của công nhân. Thế nhưng điều chúng ta cần nhìn thấy là biểu hiện của Mao Trạch Đông sau khi ông ta giành được chính quyền. Thực ra các tầng lớp ấy đều bị Mao Trạch Đông lợi dụng. Họ không hề được hưởng những điều tốt đẹp mà Mao Trạch Đông từng hứa hẹn.
Rốt cuộc Mao Trạch Đông để lại một di sản gì cho các nhà nắm chính quyền hiện nay, nếu nói Mao có một di sản nào đấy?
Di sản đích thực là cái chính quyền Mao Trạch Đông xây dựng nên. Cho nên điều mà các nhà nắm chính quyền hiện nay đang theo đuổi, về căn bản không phải là chính nghĩa gì đó của lịch sử, mục đích của họ là giữ lấy cái chính quyền này. Để giữ được chính quyền, nhà cầm quyền tất phải giữ lấy Mao Trạch Đông. Thế nhưng muốn giữ được Mao Trạch Đông thì họ không thể thanh toán các tội ác lịch sử kia của Mao. Kết quả là, các tệ nạn của hệ thống thể chế do Mao Trạch Đông xây dựng nên sẽ tồn tại y như cũ trong cái chính quyền này. Mao Trạch Đông là lời nguyền ma quỷ làm cho chủ nghĩa cộng sản không có cách nào tự giải thoát.
Nếu khử bỏ cái lời nguyền ma quỷ đó và phủ định Mao Trạch Đông thì Trung Quốc sẽ xuất hiện tình hình như thế nào, liệu có thể xuất hiện thiên hạ đại loạn chăng?
Nhà cầm quyền hiện nay của Trung Quốc đang lo sẽ như vậy. Họ cho rằng Khơ-rút-xốp phủ định Stalin gây ra trận động đất trong thế giới cộng sản. Kết quả bức thư ngỏ của Gooc-ba-chốp là làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô mất chính quyền. ĐCSTQ chỉ hấp thu bài học lịch sử ấy từ mặt tiêu cực; trên thực tế họ chỉ quan tâm đến cái tư lợi của đảng này chứ không phải là lợi ích chung của quốc gia và dân tộc.
Nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã mấy lần nhấn mạnh không thể lấy 30 năm sau cải cách mở cửa để phủ định 30 năm trước dưới thời Mao Trạch Đông nắm chính quyền, nhưng đồng thời [Tập Cận Bình vẫn] đi con đường kinh tế của Đặng Tiểu Bình, và cũng có lúc hạn chế tiếng nói ca ngợi Mao Trạch Đông của dân chúng Trung Quốc. Có thể giải thích cách làm ấy như thế nào?
Tôi cho rằng “Thế hệ Đỏ thứ hai”[4] là những người trưởng thành dưới sự giáo dục của thời đại Mao Trạch Đông. Vì thế Mao Trạch Đông có ảnh hưởng lớn với họ. Có lẽ trong lòng họ đều vẫn còn một Mao Trạch Đông. Ngoài ra, sự hấp dẫn to lớn mê hồn của quyền lực là thứ rất khó ngăn chặn. Trong tình hình đó, tuy bản thân họ hoặc các thành viên gia đình đều từng là người bị Mao Trạch Đông làm hại, nhưng họ vẫn tôn Mao Trạch Đông làm thần thánh. Điều đó tạo nên một sự hạn chế lịch sử ở họ, khiến họ chỉ đứng trên góc độ ĐCSTQ mà không thể đứng trên góc độ lợi ích của toàn dân và quốc gia để nhìn nhận Mao Trạch Đông. Còn nói về chuyện nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay có đàn áp những nhân sĩ được gọi là “ủng hộ Mao” hoặc “Phái tả theo Mao” thì đó chỉ là một kiểu thuật cân bằng. Họ biết rằng nếu cao giọng tưởng nhớ Mao Trạch Đông thì sẽ vô cùng mất lòng người, vì thế bèn chỉ có cách dùng biện pháp trát bùn lỏng,[5] một mặt không cho nói về tội ác của Mao Trạch Đông, mặt khác cũng không mong muốn những kẻ cao giọng tưởng nhớ Mao Trạch Đông có thể trở thành một thế lực. Bởi vì như vậy cũng là sự đe dọa chính quyền.
Ông có cho rằng cuộc tranh luận về đánh giá công tội của Mao Trạch Đông sau đây sẽ càng kịch liệt hơn hay không?
Bởi lẽ rất nhiều vấn đề của Mao Trạch Đông đều còn chưa nói rõ; [nếu] không có suy nghĩ lại [phản tư] thì các tài sản âm ấy trong di sản của Mao Trạch Đông sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ phát sinh tác dụng trong cái thể chế này. Cuộc tranh luận đó sẽ tiếp tục.
Bản gốc tiếng Trung: BBC Trung Văn (18/12/2013)
—————-
[1] Trung Quốc Dân chủ Kiến quốc hội là một đảng phái dân chủ gồm các nhà trí thức và nhà kinh tế, tham gia chính quyền trong chế độ đa đảng và hiệp thương chính trị của ĐCSTQ; thành lập tháng 12/1945, hiện có hơn 110.000 đảng viên (ND).
[2] Ý nói người thật thà nhưng dốt nát, bị người mình tín nhiệm lừa dối lợi dụng mà không biết (ND).
[3] Tài sản âm: nguyên văn phụ tư sản (负资产), tạm hiểu là tài sản có giá trị thấp hơn giá trị khoản vay nợ dùng để mua nó (ND).
[4] Thế hệ sau của các khai quốc công thần; ở đây ý nói Tập Cận Bình (ND).
[5] Ý nói sự dàn xếp, dung hòa một cách vô nguyên tắc (ND)

Bài học từ Hải chiến Hoàng Sa 1974


Tác giả: Ngô Minh Trí & Koh S.L. Collin | Biên dịch: Nguyễn Thị Nhung

Đã bốn mươi năm trôi qua, nhưng đến hôm nay những bài học từ trận hải chiến Hoàng Sa vẫn còn nguyên giá trị cho quá trình hiện đại hóa hải quân của Việt Nam

Vào ngày 16/01/1974, Lực lượng Hải quân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) phát hiện nhóm lính thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) có mặt trên nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group) ở phía tây quần đảo Hoàng Sa (lúc bấy giờ thuộc sở hữu của chính quyền Nam Việt Nam). Lúc này Nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) ở phía đông Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc, còn Nam Việt Nam nắm giữ Nhóm đảo Lưỡi Liềm. Dù vào thời điểm đó Mỹ đã cắt giảm hỗ trợ quân sự dành cho chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973, dẫn đến việc Nam Việt Nam cũng cho rút dần các lực lượng đồn trú trên quần đảo, nhưng đây thực sự là một diễn biến bất ngờ do Trung Quốc chưa bao giờ tiến hành bất kỳ hành động đơn phương nào để phá vỡ nguyên trạng.

Hai ngày tiếp theo, lực lượng hải quân hai bên đã có các vụ va chạm ở cự ly gần, và sau đó đấu pháo nổ ra khi quân Nam Việt Nam cố gắng giành lại Đảo Quang Hòa (Duncan Island). Cuộc đụng độ tiếp tục leo thang, trong đó Trung Quốc nắm thế áp đảo với lực lượng tăng viện được cử đến khu vực giao tranh, bao gồm cả yểm trợ không quân triển khai từ đảo Hải Nam gần đó và các tàu tuần tra tên lửa lớp Hải Nam. Trước tình hình bất lợi là Mỹ đã cắt giảm hỗ trợ hải quân và Hạm đội 7 của Hải quân Hoa Kỳ đang rút dần sự hiện diện trên Biển Đông theo hiệp định hòa bình năm 1973, Hải quân VNCH đã bị đánh bại thảm hại. Bắc Kinh sau đó đã nhanh chóng tận dụng chiến thắng này để cho đổ bộ lực lượng quy mô lớn và hoàn tất việc kiểm soát quần đảo Hoàng Sa.

Hải chiến Hoàng Sa từ đó đã đi vào lịch sử với ý nghĩa là trận đụng độ hải quân đầu tiên giữa Việt Nam và Trung Quốc trong cuộc tranh giành quyền kiểm soát các đảo trên Biển Đông. Trận giao tranh trên biển tái diễn giữa hai nước tại khu vực gần quần đảo Trường Sa vào năm 1988 là lần thứ hai và đến nay cũng là lần cuối cùng. Kể từ đó, căng thẳng đã lắng dịu. Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc trao đổi cấp đảng lãnh đạo và giữa quân đội hai nước (bao gồm cả sự kiện đoàn đại biểu Hạm đội Nam Hải của Hải quân PLA đến thăm một căn cứ hải quân của Việt Nam theo lời mời). Bắc Kinh và Hà Nội gần đây cũng đã bắt đầu thực hiện những cuộc tham vấn song phương về vấn đề hợp tác phát triển nguồn tài nguyên biển tại Biển Đông.

Tuy nhiên, từ trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, chúng ta vẫn có thể rút ra những bài học kinh nghiệm hữu ích và có giá trị lâu dài cho Hà Nội cũng như công cuộc hiện đại hóa lực lượng hải quân mà Việt Nam đang thực hiện, đặc biệt là trước những diễn biến địa chính trị hiện nay.

Bài học lịch sử thứ nhất: Ngoại giao là giải pháp đầu tiên… nhưng không phải là duy nhất

Không có bất cứ hiệp định khu vực và quốc tế nào có thể tạo thành lá chắn tuyệt đối trước các hành động đơn phương, dù là sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Bản Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) ký kết năm 2002 giữa Trung Quốc và các nước có tranh chấp tại Đông Nam Á là một bước ngoặt lớn nhưng lại không hoàn toàn hiệu quả. Trên thực tế, các hành vi đơn phương đe dọa sử dụng hay thực sự sử dụng vũ lực với mục đích lật đổ nguyên trạng hiện nay trên Biển Đông vẫn tiếp tục diễn ra như một xu thế áp đảo. Đoạn video hiện trường do đài CCTV Trung Quốc công bố vào tháng 1/2014 vừa qua đã quay lại một cuộc đụng độ giữa các tàu chấp pháp của Việt Nam và Trung Quốc từ năm 2007 ở vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa. Gần đây hơn, Biển Đông liên tục chứng kiến các vụ căng thẳng, bao gồm hành động quấy nhiễu tàu thăm dò địa chấn phía Việt Nam của Trung Quốc, vụ đối đầu Trung Quốc – Philippines tại Bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham vào tháng 4/2012, và tiếp đó là hành vi khoa trương lực lượng của các tàu tuần tra và khu trục hải quân Trung Quốc tại Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) mà Philippines đang nắm quyền kiểm soát. Những tình tiết này chứa nhiều điểm tương đồng đến kỳ lạ với kịch bản đụng độ hải quân trước kia từng dẫn đến trận hải chiến dữ dội năm 1974

Trong khi các bên tranh chấp ở Biển Đông đã ngồi lại tham dự vào những cuộc tham vấn về Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC), Bắc Kinh từ tuyên bố đơn phương trước đó về áp đặt Vùng nhận dạng phòng không (air defense identification zone – ADIZ) trên biển Hoa Đông vào tháng 12/2013 đã lên tiếng khẳng định mình có đủ những quyền không thể tranh cãi cho việc thiết lập các vùng ADIZ lên những khu vực khác nếu muốn. Một Vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông một khi được thiết lập chắc chắn sẽ củng cố lợi thế cho Bắc Kinh tại các vùng biển tranh chấp ở đây, bởi nó hỗ trợ cho các lệnh cấm đánh bắt mà nước này đơn phương áp đặt hàng năm, tăng cường quyền thi hành luật biển mở rộng trước đó cho chính quyền đảo Hải Nam cũng như luật ngư nghiệp được thông qua mới đây, theo đó yêu cầu tàu bè đánh bắt cá của nước khác phải có sự cho phép của Bắc Kinh mới được hoạt động trên phần lớn Biển Đông. Những diễn biến trên nếu tiếp tục phát triển sẽ chỉ đẩy cao nguy cơ bùng nổ xung đột nóng trên Biển Đông, dù là vô tình hay có suy tính trước.

Bài học lịch sử số 2: Không phải lúc nào các cường quốc ngoài khu vực cũng ở kề bên, và không phải lúc nào họ cũng giúp đỡ

Hiện nay các cường quốc ngoài khu vực ngày càng có nhiều lợi ích ràng buộc tại Biển Đông. Ngoài chính sách tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, Nhật Bản dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe thời gian qua cũng tích cực đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao của mình ở Đông Nam Á, một trong những mục đích của chính sách này là nâng cao lập trường lãnh hải của Tokyo trên biển Hoa Đông. Việt Nam chính là một trong những nước được hưởng lợi nhiều nhất từ chiến lược này. Nhân dịp Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 4 tổ chức tại Washington vào cuối tháng 10/2013, hai bên đã đi đến ký kết một thỏa thuận tăng cường hợp tác an ninh hàng hải. Cũng trong tháng này, có nguồn tin cho hay Tokyo đã rất nhiệt tình với việc cung cấp các tàu tuần tra cho Việt Nam trong một phần của kế hoạch đẩy nhanh quá trình xây dựng tiềm lực an ninh hàng hải của quốc gia Đông Nam Á này. Đáng chú ý không kém, Hà Nội cũng đang có mối liên kết thân tình với New Delhi, trước đó họ đã chào đón nhiều chuyến viếng thăm cảng thường xuyên của Hải quân Ấn Độ trong một thập kỷ qua.

Tuy vậy, không có cường quốc ngoài khu vực nào thể hiện rõ thái độ đứng về một bên cụ thể trong các tranh chấp Biển Đông, mà chủ yếu chỉ hướng tập trung vào duy nhất tự do hàng hải. Điều này đồng nghĩa với việc ngay cả trong trường hợp các tuyến đường giao thương hàng hải huyết mạch bị bóng đen xung đột vũ trang trên Biển Đông đe dọa, và Washington hay Tokyo có nguyên nhân chính đáng để can dự vào đây, thì khả năng họ hay bất kỳ thế lực ngoài khu vực nào sẽ giang tay hỗ trợ cho các bên tranh chấp vẫn không thể đoán định. Ví dụ như nếu Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại châu Á – Thái Bình Dương (U.S. Pacific Command) có thể phát hiện những ám hiệu về hoạt động quân sự bất thường phía Trung Quốc trên Biển Đông, siêu cường này có thể không phản ứng kịp thời. Trong quá trình triển khai một phần chiến lược tái cân bằng, Hạm đội Hải quân Số 7 của Hoa Kỳ đã tăng cường hoạt động tuần tra biển trong khu vực này: theo công bố, tàu chiến đấu ven biển mới mang tên U.S.S Freedom đang thực hiện những nhiệm vụ vượt mức công tác huấn luyện thông thường trong khu vực, trong khi có thông tin cho biết tuần tra biển trên không cũng đã được Hải quân Hoa Kỳ đẩy mạnh kể từ tháng 7/2012.

Tuy nhiên, trong thời gian diễn ra giao tranh năm 1974, Sài Gòn từng tìm kiếm hỗ trợ từ Hạm đội Số 7 của Mỹ, nhưng lực lượng này đã tuân theo mệnh lệnh không can dự vào tranh chấp, và kết quả là Hải quân Nam Việt Nam hoàn toàn đơn độc khi chiến đấu tại quần đảo Hoàng Sa. Ngày nay Washington cũng có lý do để áp dụng quan điểm tương tự, ngay cả nếu một cuộc giao tranh hải quân khác thực sự tái bùng nổ giữa Trung Quốc và Việt Nam, đặc biệt là khi ở các tình huống đối đầu cục bộ, tranh chấp không hẳn sẽ gây ảnh hưởng đến tự do hàng hải của các bên khác.

Hơn nữa, Hạm đội Nam Hải của Hải quân PLA hiện tại và trong tương lai không còn là một lực lượng yếu kém, chỉ bám sát ven biển và vận hành những trang thiết bị tấn công và tuần tra cỡ nhỏ thời Liên Xô cũ như trước nữa. Sau một thời gian tích lũy đầu tư nâng cấp về năng lực triển khai lực lượng, bao gồm cả khả năng tiến công đổ bộ, Hải quân PLA ngày nay đã sở hữu nền tảng vững chắc hơn so với thời kỳ năm 1974, đồng thời đủ sức triển khai lực lượng trên quy mô lớn trong một khoảng thời gian dài liên tục, ở những khu vực xa bờ hơn để phục vụ cho mục tiêu khẳng định chủ quyền, và sức mạnh chiến đấu tổng quát của lực lượng này cũng hứa hẹn sẽ hùng mạnh hơn rất nhiều một khi được “cởi trói” ra Biển Đông.

Bài học lịch sử số 3: Cần phải sở hữu ít nhất một lực lượng kiểm soát biển hữu hạn

Chắc chắn Việt Nam sẽ không thể đuổi kịp năng lực hải quân của PLA trên Biển Đông về quy mô và số lượng. Như các phát biểu chính sách Hà Nội, một cuộc chạy đua vũ trang với Trung Quốc không chỉ là một ý định bất khả thi từ trứng nước, mà còn được đánh giá là chứa đựng nguy cơ tiềm ẩn đối với công cuộc Đổi mới mà Việt Nam đang tiến hành. Quá trình hiện đại hóa hải quân của Việt Nam thời hậu Chiến Tranh Lạnh đã được xác định là nhằm lấp đầy những thiếu sót năng lực sau hàng thập kỷ bị bỏ bê.

Trong những năm gần đây, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể khi sở hữu dàn máy móc mới thay thế cho những phương tiện lạc hậu từ thời Liên Xô. Tuy nhiên, những trang thiết bị mới, chủ yếu là do Nga cung cấp như tàu khu trục nhẹ Gepard-3.9, tàu ngầm lớp Kilo, máy bay đa chức năng Su-30MK2V Flanker được trang bị để tấn công trên biển và hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển Yakhont/Bastion, các tàu hộ thống lớp SIGMA của Hà Lan cũng như những tàu tấn công và tuần duyên sản xuất trong nước,… tất cả để cho thấy một quá trình hiện đại hóa lực lượng chủ yếu nhằm vào mục tiêu ngăn chặn mọi thế lực thù địch tiếp cận với vùng tranh chấp. Dù vậy, những thiết bị này không chứng tỏ năng lực đảm bảo khả năng tiếp cận của chính Việt Nam.

Tuy nhiên, trận Hải chiến Hoàng Sa vào năm 1974 đã nhấn mạnh cho Việt Nam ngày nay một bài học: ngăn chặn kẻ thù chỉ bằng cách phong tỏa các thực thể đảo đá trên Biển Đông là chưa đủa, mà quan trọng hơn còn phải đảm bảo khả năng tiếp cận của chính mình tới những đơn vị đồn trú có vị trí dễ bị tấn công và nhạy cảm trên Biển Đông. Chỉ có cuộc chuyển đổi từ năng lực ngăn chặn sang kiểm soát trên biển mới hy vọng có thể đạt được điều này. Trong bối cảnh khu vực dọc biên giới trên bộ với các nước láng giềng vẫn được duy trì trong hòa bình, Việt Nam nên tân dụng cơ hội để tập trung vào năng lực chiến đấu trên biển bằng không lực.

Với một Việt Nam luôn đi theo hướng duy trì nguyên trạng (cũng giống như chính sách mà chính quyền Sài Gòn năm 1974 theo đuổi) và trong bối cảnh hải chiến trên Biển Đông có nguy cơ tái diễn, lực lượng quần đảo Việt Nam càng có thêm lý do để giành lại các thực thể trên biển đã bị chiếm cứ, hoặc ít nhất là củng cố những căn cứ mà họ đang đồn trú trước mối đe dọa bị tấn công vũ trang. Theo kịch bản này, tình thế khó khăn của quốc phòng Việt Nam có lẽ cũng không khác so với của Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Trong chiến lược quốc phòng mới công bố gần đây, Tokyo đã vạch rõ tính cấp thiết của chính sách phòng ngự cơ động hợp nhất và mạnh bạo , để chủ động dự trù cho tương lai Lực lượng Tự vệ nước này cần tái chiếm các đảo thuộc biển Hoa Đông trong thời gian xảy ra chiến sự căng thẳng. Tất nhiên Việt Nam không thể hy vọng tập trung được trang thiết bị ngang với sức mạnh của Nhật Bản do còn nhiều hạn chế về kinh tế. Để xây dựng được quân lực kiểm soát biển tốt, ít nhất là ở mức hữu hạn, Hà Nội nên tập trung vào việc cải thiện khả năng báo hiệu sớm (early warning) và hải vận đổ bộ (amphibious sealift) trên phạm vi rộng.

Nhiệm vụ cảnh báo sớm của Việt Nam hiện tại đang được trao cho một mạng lưới giám sát điện tử cố định lắp đặt dọc bờ biển Việt Nam và trên những thực thể ở Biển Đông thuộc sở hữu của nước này, và chỉ những năm gần đây máy bay tuần dương mới được tăng cường bổ sung cho lực lượng hải quân và cảnh sát biển Việt Nam. Những máy bay này có nhiệm vụ chủ yếu là do thám trên bề mặt biển, nhưng lại chịu hạn chế về thời gian hoạt động cũng như thiếu khả năng chiến đấu chống tàu ngầm phù hợp, đặc biệt là trong bối cảnh thách thức trong lòng biển của PLA càng tăng cao. Một lực lượng không quân tuần dương với khả năng hoạt động kéo dài và được lắp đặt cảm biến tầm xa chính là phương tiện thích hợp cho thời điểm hiện tại, và có lẽ sẽ bám trụ tốt hơn những thiết bị lắp đặt cố định.

Thủy quân lục chiến của Việt Nam – lực lượng chuyên trách tiến công đổ bộ, sau nhiều lần cải tổ trong những thập niên qua đã trở nên gọn nhẹ nhưng cũng tinh nhuệ hơn, sở hữu trang thiết bị tiên tiến hơn. Mặc dù vậy, lực lượng này vẫn còn yếu về mặt chuyển quân, trong khi các tàu đổ bộ thời Liên Xô và tàu cổ của Mỹ đã quá cũ và gần như không thể hoạt động. Các công ty đóng tàu hải quân non kém của Hà Nội đến nay đã cho xuất xưởng một vài phương tiện vận chuyển tấn công mới, có vẻ như để lấp đầy lỗ hổng này. Tuy nhiên, Thủy quân lục chiến của Việt Nam cần phải bổ sung thêm một số lượng tàu lớn hơn thế nếu muốn triển khai các lực lượng vững mạnh hơn, hoạt động với tốc độ cao hơn để có thể củng cố những căn cứ đóng quân trên Biển Đông hoặc tái chiếm chúng từ đối thủ.

Những suy nghĩ cuối cùng

Hải chiến Hoàng Sa đã qua đi bốn mươi năm. Tuy vậy, dù Biển Đông đến nay tương đối tĩnh lặng, đây vẫn là bài học nhắc nhở Hà Nội tiếp tục thận trọng qua việc duy trì nhịp độ đẩy nhanh hiện đại hóa hải quân. Trong khi ngoại giao vẫn đang là phương sách được ưa chuộng và các cường quốc ngoài khu vực ngày càng phụ thuộc mạnh mẽ vào khu vực, sức mạnh quân sự tương xứng theo chính sách phòng vệ tự lực vẫn còn rất cần thiết, nhất là khi khu vực tiếp tục còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Để duy trì nguyên trạng trên Biển Đông, so với quân lực VNCH, lực lượng Không quân và Hải quân của Việt Nam hiện tại và trong tương lai đang và sẽ phải đối mặt với một thách thức còn lớn hơn gấp nhiều lần.

Nguồn: The Diplomat

Huyền thoại vĩ đại: Thế chiến I không phải là do tình cờ

37_days_2845063b
Tác giả: Zachary Keck | Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng
Thế chiến I không phải là cuộc chiến tình cờ, mà là kết quả của chính sách nhà nước có chủ đích của Đế quốc Đức.
Tháng Tám này đánh dấu kỷ niệm 100 năm ngày bùng nổ Thế chiến I. Không có gì đáng ngạc nhiên khi điều này mang đến đủ các loại câu chuyện cũng như các bài xã luận về sự kiện thảm khốc vốn đã cướp đi sinh mạng 16 triệu người và làm bị thương 21 triệu người này.
Cho đến ngày nay, hầu hết các nhà quan sát đều tiếp tục cho rằng Thế chiến I là một cuộc chiến tình cờ: không nước nào, đặc biệt là những nước có liên quan muốn có chiến tranh, nhưng cuộc chiến vẫn xảy ra. Một số cho rằng các chương trình vũ trang lớn cùng với các học thuyết quân sự mang tính tấn công của các nước châu Âu trong giai đoạn tiền chiến đã khiến Thế chiến I trở nên không thể tránh được. Một số khác cho rằng chính việc dân chúng mang trong mình chủ nghĩa dân tộc cực đoan là nguyên nhân của cuộc chiến. Một số khác tiếp tục đổ lỗi cho những khối liên minh chặt chẽ mà các nước châu Âu đã hình thành nên trong những năm trước Thế chiến I, dẫn đến tình cảnh mà việc Thái tử Franz Ferdinand bị ám sát bởi một kẻ vô chính phủ cũng có thể nhấn chìm cả lục địa trong một cuộc chiến đẫm máu. Cũng có một số đổ lỗi cho tình thế xung đột lợi ích không thể điều hòa giữa nước Đức đang lên và nước Anh đang suy yếu. Bất chấp những lời giải thích cụ thể được viện dẫn, hầu hết đều có vẻ đồng ý rằng cuộc chiến này chỉ là một tai nạn.
Đáng ngại hơn, những năm gần đây có thể thấy nhiều cá nhân bắt đầu có những so sánh giữa châu Âu đầu thế kỷ 20 với châu Á – Thái Bình Dương hiện nay. Có lẽ đáng nhớ nhất là tại Diễn đàn Kinh tế thế giới hồi đầu năm nay, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã đưa ra một sự so sánh rằng sự đối đầu Trung – Nhật hiện nay tương đồng đáng kể với sự đối đầu Anh – Đức giai đoạn trước Thế chiến I. Trong dịp này, ông Abe đã cố gắng miêu tả việc Trung Quốc gây hấn và tăng cường quân sự là đẩy khu vực tới chiến tranh.
Những người khác cũng so sánh cuộc đối đầu Mỹ – Trung mới chớm hiện nay với cuộc đối đầu Anh – Đức không may mắn một thế kỷ trước. Ví dụ như trong tờ Boston Globe tuần này, chuyên gia ở College Station, Christopher Layne lập luận rằng nguyên nhân của Thế chiến I là do Anh từ chối thay đổi nguyên trạng lúc bấy giờ bất chấp sự trỗi dậy của Đức. Từ ví dụ này, Layne cảnh báo rằng Mỹ và Trung Quốc đang đi tới một cuộc chiến tranh, và chỉ Mỹ mới có thể ngăn chặn được điều này bằng việc “tiến hành một chính sách điều chỉnh chiến lược ở Đông Á” để dung nạp quyền lực và ảnh hưởng đang ngày một tăng của Trung Quốc.
Trong cả hai trường hợp, mục đích của việc so sánh là chỉ ra rằng nếu không có hành động mạnh mẽ nào được thực hiện, châu Á có thể sẽ vấp vào một cuộc chiến lớn không ai mong muốn, giống như châu Âu đã từng cách đây một thế kỷ.
May mắn thay, như triết gia Rob Farley từng lưu ý, “các cuộc chiến vô ý thường hiếm khi xảy ra” mà thay vào đó thường là kết quả của chính sách nhà nước có chủ đích. Và trong vấn đề này, Thế chiến I không phải là ngoại lệ, ít nhất là theo Dale C. Copeland.
Trong cuốn sách kinh điển của ông, Origins of Major Wars (Nguồn gốc của các cuộc đại chiến – ND), Copeland đưa ra một lý thuyết mà ông gọi là “lý thuyết về những sự khác biệt mang tính động lực” để giải thích nguyên nhân xung đột giữa các cường quốc. Nói một cách đơn giản, lý thuyết về những sự khác biệt mang tính động lực lập luận rằng các quốc gia đang suy yếu phát động chiến tranh khi họ rõ ràng vẫn đang giữ ưu thế quân sự rõ rệt nhưng tin rằng mình đang đi sâu vào con đường suy yếu không thể đảo ngược so với cường quốc đang lên.
Trong tình hình như vậy, những nhà lãnh đạo của các nước đang suy yếu sẽ xem chiến tranh là giải pháp duy nhất để ngăn các nước đang lên khỏi việc vượt mặt họ và trở thành quốc gia quyền lực nhất trong hệ thống, do đó trở thành mối đe dọa an ninh lớn. Lý thuyết về những sự khác biệt mang tính động lực thừa nhận rằng những lãnh đạo này có xu hướng phát động chiến tranh lớn hơn cả khi họ tin rằng họ đã tối đa hóa được sức mạnh tương đối của mình – tức là khi họ tin rằng sức mạnh quân sự tương đối của họ đã đạt đỉnh và trì hoãn chiến tranh chỉ khiến các quốc gia đang lên phát triển mạnh thêm.
Copeland kiểm tra lý thuyết này thông qua một số tình huống nghiên cứu xuất sắc mà tiêu biểu là Thế chiến I. Trong chương đầu tiên về Thế chiến I, Copeland đã chứng minh sự không phù hợp của tất cả các lý thuyết về nguyên nhân của Thế chiến I cũng như bao quát lại các cuộc khủng hoảng ở khu vực Ban-căng và châu Phi trong những năm trước chiến tranh. Trong chương sau đó, ông lần theo việc đưa ra các quyết định của Đức – đặc biệt là của Thủ tướng Theobald von Bethmann-Hollweg – từ cuộc khủng hoảng tháng Bảy đến khi bùng nổ Thế chiến I.
Trong tình huống nghiên cứu này, Copeland thuyết phục rằng quá trình dịch chuyển quyền lực giữa Đức và Nga – chứ không phải giữ Đức và Anh – là nguyên nhân thực sự của cuộc chiến. Cụ thể, ông chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo Đức từ lâu đã lo ngại đất đai, tài nguyên và dân số lớn hơn của Nga là mối đe dọa lâu dài cho sự tồn vong của nước Đức. Các nhà lãnh đạo Đức đánh giá mối nguy này sẽ thành hiện thực một khi Nga hoàn thành cuộc đại cách mạng công nghiệp và tăng cường quân sự vốn đã được Nga bắt đầu thực hiện nhiều năm trước khi Thế chiến I bùng nổ.
Do đó Đức cũng bắt đầu tăng cường quân sự (đặc biệt là đa dạng hóa lực lượng hải quân) với hi vọng nâng tối đa sức mạnh để chuẩn bị cho cuộc chiến mà các nhà lãnh đạo Đức ngày càng nhận ra là không thể tránh được. Trước khi sự tăng cường này hoàn thành, từ 1912 đến 1913 Béc-lin đã ngăn chặn thành công bốn cuộc khủng hoảng lớn ở khu vực Ban-căng để chúng không leo thang thành các cuộc chiến lớn, chủ yếu bằng cách kiềm chế nước đồng minh Áo để Áo không kích động Nga lâm chiến. Vì vậy, Copeland nói về một “chủ đề chung” của các cuộc khủng hoảng Ban-căng 1912-1913, đó là “khi Nga ít có khả năng sẽ can thiệp, Béc-lin cho phép Áo hành động cứng rắn; nhưng bất cứ khi nào Nga tỏ vẻ chắc chắn…sẽ phản đối hành động của Áo, Béc-lin sẽ ngừng hỗ trợ và tham mưu cho Viên duy trì ‘thái độ chờ đợi.’”
Các nhà lãnh đạo Đức cũng bắt đầu “giáo dục” cho công chúng về những lợi ích quốc gia của Đức để khi cuộc chiến bùng nổ, họ sẽ có động lực chiến đấu. Như Copeland giải thích, “Thay vì các nhà lãnh đạo hưởng ứng theo cảm xúc phẫn nộ của công chúng, họ cố ý tạo nên những cảm xúc mãnh liệt đó nhằm giúp họ chiến đấu hiệu quả hơn trong chiến tranh.”
Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng tháng Bảy năm 1914 khi Thái tử Franz Ferdinand bị sát hại, Copeland lưu ý rằng Béc-lin đã thay đổi lập trường mạnh mẽ như thế nào. Lúc đó các nhà lãnh đạo Đức mà đứng đầu là thủ tướng quyết định rằng ở thời điểm này chiến tranh sẽ thuận lợi nhất đối với nước Đức. Một phần do hoàn cảnh lúc bấy giờ: Đức có khả năng đổ cho Nga là kẻ gây hấn trước. Điều này là cần thiết để đảm bảo những người Đức – đặc biệt là Đảng Dân chủ Xã hội Đức – trở lại cuộc chiến. Việc tuyên bố Nga là kẻ gây hấn trước cũng sẽ buộc Áo phải tham gia cuộc chiến, và có thể làm giảm sự hỗ trợ của Anh dành cho Pháp và Nga, ít nhất ở thời điểm ban đầu. Tuy nhiên, Copeland đã mạnh mẽ phản bác lại quan điểm của một số sử gia cho rằng các nhà lãnh đạo Đức tin rằng Anh sẽ giữ thái độ trung lập trong cuộc chiến. Dù có vẻ rất mong đợi một kết quả như vậy nhưng họ nhận ra rằng điều này là hoàn toàn khó xảy ra.
Nhưng lý do chính khiến các nhà lãnh đạo Đức ưu tiên chiến tranh năm 1914 là niềm tin vào việc sức mạnh Đức đang ở đỉnh cao. Béc-lin đã hoạch định việc tăng cường sức mạnh quân sự nhiều năm trước cuộc chiến. Quan trọng hơn, “các nhà lãnh đạo Đức tin rằng cuộc chiến tranh ở châu Âu hay chiến tranh thế giới phải được tiến hành trong năm 1914, do đến năm 1917 khi Nga hoàn thành cải cách quân sự và các tuyến đường sắt chiến lược, thì lúc đó Đức không thể nào đương đầu nổi với lực lượng quân sự tổng hợp của Nga, Pháp và Anh.”
Kết quả là các nhà lãnh đạo Đức đã lợi dụng điêu luyện hậu quả của cuộc khủng hoảng tháng Bảy nhằm đảm bảo cho một cuộc chiến tranh ở châu Âu mà trong đó Nga xuất hiện như một kẻ đi xâm lược bởi Nga đã thông báo huy động lực lượng quân đội. Do đó, Copeland lập luận “Đức tích cực theo đuổi chiến tranh hồi tháng Bảy năm 1914 và đến cuối tháng Bảy các nhà lãnh đạo Đức muốn một cuộc chiến tranh thế giới hơn là một hòa ước, thậm chí cả khi hòa ước đó đem lại cho Áo hầu hết những gì họ muốn. Do đó Béc-lin đã tiến hành mọi bước đi cần thiết để ngăn cản bất cứ giải pháp thương lượng nào, cùng lúc đảm bảo Nga sẽ bị đổ lỗi cho cuộc chiến.” Ngắn gọn hơn, Copeland viết: “được lựa chọn giữa một cuộc chiến tranh thế giới và một hòa ước, Đức đã ưu tiên giải pháp đầu tiên và không làm gì để thực hiện giải pháp thứ hai.” Trên thực tế, họ chủ động phá hoại giải pháp thứ hai bằng cách tuyên bố chiến tranh để tránh một “sự chấp nhận vào phút cuối của Nga đối với các yêu cầu của Áo.”
Việc Thế chiến I không phải là tai nạn, mà là kết quả của chính sách nhà nước có chủ đích của Đức là tin tốt cho những ai tin rằng châu Á hiện nay tương tự như châu Âu 100 năm trước. Do vậy, miễn là không quốc gia nào nhìn nhận chiến tranh là có lợi cho mình thì chiến tranh sẽ khó bùng nổ ngay cả khi những cuộc khủng hoảng như vụ ám sát thái tử trở thành hiện thực, một điều gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Hơn nữa, theo lý thuyết về những sự khác biệt mang tính động lực, hoặc Mỹ hoặc Nhật Bản sẽ trở thành kẻ đi xâm lược trong cuộc chiến. Như vậy, bài học của Thế chiến I là trừ khi Mỹ hay Nhật cho rằng chiến tranh là lợi ích trên hết của họ, châu Á sẽ vẫn hòa bình.
Đáng chú ý là chúng ta nhận thấy lý thuyết về những sự khác biệt mang tính động lực đang diễn ra trên thực tế, ngoại trừ việc chiến tranh chưa bùng nổ. Đáng chú ý nhất, Nhật Bản quốc hữu hóa Quần đảo Senkaku một phần là do họ nhận thấy khả năng bảo vệ quần đảo này của họ đang mất dần cùng với quá trình tăng cường quân sự của Trung Quốc. Nhiều nhà lãnh đạo quân sự Nhật Bản tôi có dịp nói chuyện trong hai năm gần đây đều bày tỏ thái độ tự tin rằng Tokyo có thể bảo vệ những quần đảo khỏi sự xâm lược của Trung Quốc ở thời điểm hiện tại. Nhưng tất cả đều chắc chắn rằng điều này có thể không còn đúng trong năm năm hay mười năm tới. Trong bối cảnh này, việc Nhật Bản quốc hữu hóa quần đảo hiện nay là hợp lý để ngăn cản việc chúng sẽ rơi vào tay Trung Quốc sau này. Tuy thế, ngay cả việc này cũng được thực hiện để nhằm ngăn chặn chứ không kích động một cuộc chiến tranh khu vực.
Zachary Keck là biên tập viên của tạp chí The Diplomat.
Bản gốc tiếng Anh: The Diplomat

Thế kỉ Trung Quốc?

ST-Seah Kwang Peng -LKY & Schmidt
Phạm Thị Hoài lược dịch
Cuộc trò chuyện kéo dài ba ngày mới đây giữa hai chính khách kì cựu, một ở phương Đông và một ở phương Tây: cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu và cựu Thủ tướng Đức Helmut Schmidt (Đảng Dân chủ Xã hội) có thể cung cấp cho người đọc Việt Nam một số góc nhìn tham khảo về những đề tài lớn, đặc biệt về sự dịch chuyển quyền lực, sự phân cực trên thế giới và vai trò của Trung Quốc trong thế kỉ này.
Người dịch
__________________
Helmut Schmidt: Lần đầu tiên đến Bắc Kinh tôi được Hoàng đế Trung Hoa tiếp – hồi đó ngài là Mao Trạch Đông.
Lý Quang Diệu: (cười)
Helmut Schmidt: Mao là một tay tàn bạo.
Lý Quang Diệu: Ông ta là một nhà lãnh đạo chiến tranh du kích lỗi lạc đã giải phóng Trung Quốc. Nhưng ông ta cũng tàn phá Trung Quốc bằng Cách mạng Văn hóa. 18 triệu người chết đói vì phải đem hết dao và muổng ra để luyện gang. Ông ta thật điên rồ. Tưởng giải phóng Trung Quốc xong rồi thì thay đổi thế giới có khó gì.
Helmut Schmidt: Ông ta cho rằng: Cần gì giai cấp vô sản công nghiệp, dùng vô sản nông thôn cũng được.
Lý Quang Diệu: Đúng vậy.
Helmut Schmidt: Nhưng người nông thôn thường không sẵn tinh thần cách mạng.
Lý Quang Diệu: Điều đó tôi không chắc. Ở thời buổi của iPhone, internet và truyền hình toàn quốc bây giờ, người ta rất bất mãn vì thấy nhà mình thì tồi tàn, còn những thành phố duyên hải lại thịnh vượng.
Helmut Schmidt: Thời ông, ai là nhà lãnh đạo chính trị vĩ đại nhất?
Lý Quang Diệu: Đặng Tiểu Bình.
Helmut Schmidt: Tôi đồng ý. Đặng Tiểu Bình là nhà lãnh đạo chính trị vĩ đại nhất trong tất cả những người tôi từng gặp.
Lý Quang Diệu: Người có một mét rưỡi, nhưng tầm vóc chính trị thì khổng lồ.
Helmut Schmidt: Năm 1983 tôi có một buổi trò chuyện với ông ấy. Hai chúng tôi và một người phiên dịch, khi đó chúng tôi đã quen nhau gần mười năm, nên nói chuyện khá cởi mở và thành thật. Tôi giễu cợt rằng nhìn kĩ vào thực tế thì những người cầm quyền ở Bắc Kinh không được trung thực lắm; họ tuyên bố mình là cộng sản, nhưng thực ra thì họ theo Khổng giáo. Đặng có vẻ hơi sốc một chút, mất vài giây, nhưng sau đó thì ông ấy đáp lại bằng vỏn vẹn ba từ. Ba từ đó là: “Thì đã sao?” (Lý Quang Diệu cười.) Tôi công nhận Đặng là một người vĩ đại.
Lý Quang Diệu: Ông ấy có tinh thần cầu thị. Ông ấy đến thăm Singapore, thấy một hòn đảo nhỏ bé không có tài nguyên gì nhưng thịnh vượng, đầy của cải, mọi người đi mua sắm, trong túi rủng rỉnh tiền. Ông ấy quan sát, đặt những câu hỏi chính xác và đi đến kết luận rằng chính sách đầu tư cởi mở của chúng tôi đã đem lại công nghệ và những thị trường mới. Trở về Trung Quốc, ông ấy lập ra sáu đặc khu kinh tế theo mô hình Singapore. Ông ấy thành công và mở cửa Trung Quốc dần dần. Điều đó đã cứu Trung Quốc.
Helmut Schmidt: Thế kỉ 20 được gọi là thế kỉ Hoa Kì. Thế kỉ 21 liệu có là thế kỉ Trung Quốc không?
Lý Quang Diệu: Về tổng sản phẩm nội địa thì đúng. Đến năm 2035, GDP của Trung Quốc sẽ lớn hơn của Hoa Kì. Còn về Quyền lực Mềm (Soft Power), về sức hấp dẫn đối với kẻ khác thì tôi không chắc lắm, vì Hoa ngữ là một trở ngại cho bất kì ai muốn hội nhập với Trung Quốc.
Tuần báo Zeit: Người ta đang nói nhiều đến sự “dịch chuyển toàn cầu”, từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Có phải Đại Tây Dương đã thuộc về quá khứ và Thái Bình Dương là tương lai không?
Lý Quang Diệu: Không, theo tôi không nên đánh giá như vậy. Tôi tin rằng từ góc nhìn của đa số người Mỹ hiện nay, châu Âu là một đồng minh khá chắc chắn. Vấn đề của Mỹ sẽ là Trung Quốc. Vậy sự dịch chuyển đó có nghĩa gì? Có nghĩa là Mỹ phải tập trung đầu tư kinh tế và các hoạt động quân sự vào khu vực Thái Bình Dương. Nhưng không có nghĩa là dịch chuyển quyền lực trên thế giới. Mà có nghĩa là Mỹ hướng tiêu điểm vào một sự đe dọa mới cho vị trí bá quyền của mình.
Helmut Schmidt: Đúng, nhưng vị trí bá quyền của Mỹ sẽ không còn áp đảo như ở cuối thế kỉ 19 và trong suốt thế kỉ 20 nữa, nó sẽ dần dần yếu đi, Trung Quốc sẽ dần dần mạnh lên và Nga thì càng ngày càng không thay đổi. (Lý Quang Diệu cười.)
Lý Quang Diệu: Tôi đồng ý với điểm cuối. Đúng, Trung Quốc sẽ mạnh lên, nhưng sẽ không thể bá quyền tới mức kiểm soát được Thái Bình Dương.
Helmut Schmidt: Không, sẽ rất lâu. Phải mất hơn một thế kỉ.
Lý Quang Diệu: Điều đó không thể xảy ra.
Helmut Schmidt: Tôi không chắc là điều đó có thể xảy ra không, nhưng trong thế kỉ 21 này thì không thể.
Tuần báo Zeit: Một trong những thành công to lớn nhất của châu Âu là giờ đây nó đã trở thành một châu lục hòa bình. Có thể nói rằng châu Âu đã biết học từ lịch sử. Còn châu Á thì sao? Giữa Trung Quốc và Nhật Bản vẫn còn nhiều căng thẳng. Rồi còn đủ thứ lò bạo loạn khác: Triều Tiên, Đài Loan, Kashmir.
Lý Quang Diệu: Ở châu Á có những quyền lợi quốc gia riêng biệt đang xung đột nhau. Có hai động lực chính thúc đẩy. Thứ nhất là nền kinh tế Trung Quốc có một quy mô nuốt chửng các nền kinh tế của Nhật, Hàn Quốc và những nước châu Á khác. Thứ hai là sự tự tin mỗi ngày một lớn của Trung Quốc. Càng giầu và mạnh lên thì người Trung Quốc càng tự tin. Vì thế các nước châu Á khác muốn Mỹ hiện diện ở đây để giữ thế thăng bằng.
Helmut Schmidt: Theo tôi biết thì vào khoảng năm 1500 nền văn minh Trung Quốc, gồm cả các ngành khoa học của nó, vượt xa nền kĩ thuật châu Âu ở thời điểm ấy. Sau đó châu Âu dần dần phát triển một thứ gọi là dân chủ, cái mà người Mỹ gọi là chủ nghĩa tư bản, cái mà người Mỹ ngày nay gọi là responsibility to protect, “trách nhiệm bảo hộ”, mà theo họ là việc bảo hộ nhân quyền ở các quốc gia khác. Tôi có cảm giác châu Âu coi ba yếu tố đó là những thứ có thể áp dụng ở mọi nơi. Và tất nhiên là người Trung Quốc, người Singapore và một loạt các dân tộc khác, thí dụ ở thế giới Ả-rập, không tán thành như vậy. Công nghiệp hóa thì họ sẵn lòng tiếp nhận, nhưng dân chủ thì không, và họ không sẵn lòng tiếp nhận nhân quyền.
Lý Quang Diệu: Người Nhật, người Trung Quốc và cả người Hàn Quốc không cho rằng nhiệm vụ của họ là bảo người khác phải thay đổi điều gì để cai quản đất nước tốt hơn. Họ bảo, đó là chuyện của bạn. Tôi làm ăn với bạn trên nền tảng trung lập. Tôi không tìm cách thay đổi bạn. Phương Tây có khuynh hướng truyền đạo, các vị cho rằng hệ thống của các vị có giá trị toàn cầu: dân chủ và nhân quyền. Ở Ấn Độ, vì một lí do lạ lùng nào đó, dân chủ đã cắm rễ nhưng nhân quyền thì không, những vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất diễn ra ở Ấn Độ. Ở Trung Quốc, ý tưởng về nhân quyền vừa mới được nhen nhóm, trong khi ý tưởng về nhà nước đứng trên tất cả và bất khả xâm phạm thì vẫn còn rất mạnh.
Helmut Schmidt: Hệ thống Khổng giáo mà theo tôi vẫn còn tồn tại có một ưu thế lớn, vì nó hầu như không bao hàm những khía cạnh tôn giáo.
Lý Quang Diệu: Đúng thế. Cho nên ở Trung Quốc người ta cũng không đánh nhau vì những vấn đề tôn giáo.
Helmut Schmidt: Đó là một ưu thế lớn. Lòng hăng say truyền đạo của người Mỹ theo Thiên Chúa giáo – không biết cơ sở của nó là ở chỗ nào trong Kinh thánh, có lẽ cũng nên tìm hiểu. Thực ra nó không bám rễ sâu lắm trong đó.
Lý Quang Diệu: Nhưng đặc điểm văn hóa của dân Mỹ và các nhà lãnh đạo họ là muốn giáo dục chính phủ các nước khác. Theo tôi phương Tây có cái nhu cầu tự cho rằng mình đã giác ngộ và muốn người khác cũng giác ngộ như mình. Nhưng cũng có thể nhìn nhận động cơ đó theo hướng tích cực – rằng phương Tây muốn thay đổi thế giới, biến nó thành một thế giới tốt đẹp hơn.
Helmut Schmidt: Đúng.
Lý Quang Diệu: Mặt khác cũng có thể coi đó là thái độ ngạo mạn, các vị cho hệ thống của mình là ưu việt, và các vị muốn ép chúng tôi phải tiếp nhận.
Tuần báo Zeit: Những quyền con người nào thì có giá trị phổ cập và những quyền nào thì không?
Lý Quang Diệu: Quyền được sống theo ý mình của mỗi cá nhân; quyền an toàn cho chính mình và gia đình mình của mỗi cá nhân; quyền có việc làm, được đào tạo và chăm sóc y tế của mỗi cá nhân và con cái được học hành – tôi nghĩ rằng những quyền đó người Trung Quốc sẽ chấp nhận. Nhưng đòi được có một phiên tòa xét xử trước khi bị kết án hoặc tống giam, quyền đó không có trong hình dung của họ. Họ quyết định kẻ nào là mối nguy cho xã hội rồi tống vào tù.
Zeit: Còn các quyền tự do hội họp, tự do chính kiến và tự do tôn giáo?
Lý Quang Diệu: Trung Quốc rất hạn chế quyền tự do hội họp.
Tuần báo Zeit: Vậy phương Tây có nên bảo vệ quyền đó không?
Lý Quang Diệu: Phương Tây có thể can thiệp bằng cách nào nhỉ?!
Tuần báo Zeit: Chính dân Trung Quốc đã đòi những quyền này. Năm 1989, những người biểu tình đã dựng một bản sao bức tượng “Nữ hoàng Tự do” ở Quảng trường Thiên An Môn.
Lý Quang Diệu: Vâng, nhưng họ là những chàng trai trẻ rất lãng mạn, và cuối cùng thì họ bị cắt đầu hoặc bắn sang Mỹ. Và dân chúng chỉ coi đó là một sự kiện nhất thời.
Helmut Schmidt: Dù đã già, cá nhân tôi vẫn sẵn sàng tự tay chống lại những kẻ tước đoạt quyền của mỗi con người, không chỉ riêng quyền được sống mà tất cả các quyền. Nhưng tôi dứt khoát không can thiệp vào một quốc gia khác để bảo vệ quyền con người ở đó. Phải nói là tôi rất sợ cái khái niệm “trách nhiệm bảo hộ”.
Lý Quang Diệu: Như ở Lybia – ném bom diệt được một nhà độc tài thì cuối cùng lại sinh ra nhiều vị chỉ huy quân đội cỡ nhỏ mà mỗi vị đều sẽ thành một nhà độc tài.
Tuần báo Zeit: Không có trường hợp nào mà ông thấy “trách nhiệm bảo hộ” là phản ứng chính đáng hay sao? Như trường hợp Khmer Đỏ ở Campuchia, hay trường hợp diệt chủng ở Ruanda?
Lý Quang Diệu: Tôi tin rằng ngày nay trên bình diện quốc tế, diệt chủng là không thể chấp nhận. Nếu giết người vì lí do chủng tộc hoặc nếu một chủng tộc bị đem ra trừng phạt thì can thiệp là chính đáng. Đặc biệt trong trường hợp một nước lớn trừng phạt một nước nhỏ. Nếu không thì thế giới này sẽ thành vô luật pháp.
Helmut Schmidt: Nhưng cái “trách nhiệm bảo hộ” ấy có nguy cơ phình ra vô hạn. Có lẽ chúng ta có lí do chính đáng để bảo vệ người dân ở Ruanda. Nhưng điều đó quá phức tạp, nên chúng ta đã không làm. Có thể là chúng ta có bổn phận đạo đức phải hành động, cũng như đối với người dân ở Chechnya. Nhưng chúng ta đã không làm. Có thể trong trường hợp vụ thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn, chúng ta có bổn phận hành động. Nhưng chúng ta đã không làm. Chúng ta chỉ tuân theo cái bổn phận đó trong các trường hợp dễ thực hiện hoặc nếu được lợi thế tuyên truyền.
Lý Quang Diệu: Trong thực tế, phải khả thi thì mới hành động được. Không thể can thiệp vào vụ Thiên An Môn, vì như thế là gây hấn với một thế lực cực lớn. Còn Ruanda – tôi tin rằng Mỹ ân hận là đã không can thiệp.
Helmut Schmidt: Ông có ân hận là chúng ta đã không can thiệp không? (Im lặng khá lâu)
Lý Quang Diệu: Nếu ông muốn biết tôi có đồng ý gửi quân đi để ngăn hai phe xung đột không thì tôi xin nói là không. Còn nếu ông muốn biết rằng theo tôi, việc người Mỹ không can thiệp có sai không thì tôi xin trả lời rằng có, việc đó là sai.
Helmut Schmidt: Tôi tin rằng ông ý thức rõ tính đạo đức nước đôi trong câu trả lời vừa rồi.
Lý Quang Diệu: Vâng, tôi ý thức rõ.
Tuần báo Zeit: Phương Tây đã chế ngự thế giới suốt 500 năm. Giai đoạn lịch sử đó đang kết thúc. Thời đại nào sẽ bắt đầu? Thế kỉ Thái Bình Dương?
Lý Quang Diệu: Tôi không chia sẻ cách nhìn nhận thế kỉ này là Thế kỉ Thái Bình Dương. Tôi tin rằng đó sẽ là một thế kỉ mà Trung Quốc và Mỹ sẽ vượt qua Thái Bình Dương mà cạnh tranh. Nếu châu Âu đủ khả năng liên kết thì thế giới sẽ gồm ba cực. Và thêm Nga – nếu họ hồi phục – đó sẽ là một thế giới bốn cực. Trọng điểm của thế giới đã chuyển từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Đúng như vậy. Đừng nên quên rằng 300 năm trước, GDP của Trung Quốc đã chiếm gần 50 % của toàn thế giới và hiện nay đang dần dần tiến đến mức đó, chỉ trừ trường hợp nội bộ Trung Quốc có biến động gì đó.
Tuần báo Zeit: Có nghĩa là Trung Quốc không trỗi dậy, mà Trung Quốc hồi sinh?
Lý Quang Diệu: Gọi thế nào thì tùy, đó là một Trung Quốc mạnh hơn, với một tiếng nói vang to hơn trên nhiều diễn đàn quốc tế khác nhau và một sức mạnh quân sự to lớn hơn để không cho kẻ nào tiến gần đến biên giới quốc gia.
Helmut Schmidt: Tôi có cảm tưởng rằng cái khái niệm dịch chuyển trung tâm quyền lực từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương này có xuất xứ từ Mỹ, và hình như nó được dùng để biện minh cho sự dịch chuyển của những mũi tiến và cứ điểm của hải quân và không quân Hoa Kì. Hiện nay Mỹ có một cứ điểm không quân ở Úc, một hạm đội thường trực có thể kiểm soát từ Vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương, Biển Hoa Đông, Biển Đông đến các vùng duyên hải Canada. Theo tôi thì người Mỹ đang cường điệu. Còn châu Âu, nếu không có cuộc khủng hoảng tài chính khiếp đảm năm 2008 thì tôi vẫn đang lặp lại câu quảng cáo rằng chúng ta đang tiến tới một thế giới ba cực, gồm Trung Quốc, Hoa Kì và châu Âu.
Nguồn: Lược dịch từ nguyên bản tiếng Đức “Wie chinesisch wird die Welt?”, Matthias Nass thực hiện, Die Zeit số 57, ra ngày 06-9-2012

Nguyễn Ái Quốc trở thành Hồ Chí Minh

TỪ NGUYỄN TẤT THÀNH ĐẾN HỒ CHÍ MINH
(Sự hình thành một chọn lựa)
 

 
Chương 5
Nguyễn Ái Quốc trở thành Hồ Chí Minh

 

Tình hình mới

1. Mùa thu 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Moskva để trở lại Trung Quốc.

Thế giới đang bị chủ nghĩa phát xít hăm doạ, chiến tranh sắp xảy ra. QTCS đã từ bỏ chủ trương khuynh tả. Liên Xô lập lại quan hệ ngoại giao với chính phủ Quốc dân Đảng, phục hồi đường lối mặt trận thống nhất đã tan rã hồi 1927. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có thể ra hoạt động công khai: tháng 9-1937, Hồng quân, với Bát lộ quân và Tân tứ quân, đã được tổ chức lại dưới sự chỉ huy của Hội đồng quân sự của Quốc dân Đảng. Hai trường huấn luyện du kích do sự hợp tác của hai bên cũng được mở ra ở miền Nam.

Như 1925, Nguyễn Ái Quốc theo phái đoàn viện trợ của Liên Xô sang Trung Quốc, nhưng lần này với nhiệm vụ được quy định rõ rệt về Việt Nam: lôi cuốn Đảng Cộng sản Đông Dương vào mặt trận chống phát xít, tạm gác lại những yêu sách về đấu tranh giai cấp, liên hiệp hành động với tất cả những thế lực có thể liên hiệp được, kể cả những ngưởi Pháp "tiến bộ" ở Việt nam… [1] Do mất liên lạc với phong trào khá lâu, Nguyễn đã phải nhờ Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ nương náu tại Bát lộ quân (do Diệp Kiếm Anh chỉ huy) chờ cơ hội [2].

Sau một thời gian tìm kiếm, đến cuối 1939, Nguyễn cũng đã gặp được cơ sở hải ngoại của Đảng CSĐD (do Phùng Chí Kiên phụ trách) cùng với một số cán bộ trong nước mới sang (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Cao Hồng Lĩnh…) [3].

2. Nội tình Đảng vào lúc ấy cũng có những chuyển biến quan trọng. Xu hướng "tả khuynh" do Hà Huy Tập chủ xướng từ Đại hội Macao 1935 đã được uốn nắn lại sau khi những người tham dự Đại hội 7 QTCS 1935 (Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Nọn, Nguyễn Thị Minh Khai) trở về. Đến tháng 3-1938 thì đường lối mới đã hoàn toàn rõ ràng khi Nguyễn Văn Cừ lên thay Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư. Chính phủ Léon Blum của Mặt trận Bình dân năm 1936 lên cầm quyền bên Pháp đã tạo ra cho phong trào chống thực dân ở Đông Dương những phương thức hoạt động mới: cùng với các xu hướng dân tộc (Nguyễn An Ninh…), Trotskít (Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu…), Đảng CSĐD cũng đã xuất hiện trong những cuộc tranh đấu công khai báo chí, nghị trường…

Nhưng khi Chiến tranh Thế giới nổ ra, tất cả những hoạt động cộng sản (dù Đệ tam hay Đệ tứ) đều bị cấm. Đảng CSĐD bắt đầu gặp khó khăn khi hàng loạt cán bộ bị bắt, thiếu thốn tài chính, trong khi đó sự liên lạc giữa miền Nam với miền Bắc, giữa Việt Nam và Trung Quốc gặp trở ngại.

Trước tình thế ấy, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 đã nổ ra. Do chuẩn bị không chu đáo, lãnh đạo không chặt chẽ, bị nội gián nên kết quả rất tai hại. Cuộc nổi dậy bị dìm trong bể máu, hầu hết các cán bộ quan trọng của Đảng đều bị bắt và sát hại: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…, hoặc bị đi tù: Lê Duẩn, Lê Hồng Phong (chết ở Côn Đảo năm 1942), Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo…

3. Nguyễn Ái Quốc đã nối lại phong trào cộng sản Việt Nam trong hoàn cảnh đó. Nhiều thuận lợi (nhất là sau khi Pháp đầu hàng Đức tháng 6-1940) nhưng rất yếu kém về thực lực. Báo cáo của Nguyễn gửi QTCS cho biết là tám, chín phần mười số cán bộ cũ đã bị bắt, còn số mới thì còn thiếu kinh nghiệm, lại thiếu người đủ "uy tín và danh vọng" để lãnh đạo [4]. Trong tình cảnh đảng viên và quần chúng như rắn không đầu đó, Nguyễn cho rằng không thể từ trong đánh ra mà phải tạo một căn cứ địa ở ngoài để đánh vào. Để thực hiện chiến lược này, Nguyễn đề nghị QTCS sản giúp đỡ mấy điều cần thiết sau đây: Tự do hành động ở biên giới, một ít súng đạn, một ít kinh phí, vài vị cố vấn [5]. Báo cáo trên đây cho thấy định hướng của Nguyễn: tự mình đứng ra đảm nhiệm vai trò lĩnh tụ có "uy tín và danh vọng" nói trên, một người có khả năng vừa tập hợp lực lượng bên trong lại vừa vận động được sự chi viện của bên ngoài.


Phương thức hoạt động mới

1. Như hồi 1925, từ căn cứ địa Trung Quốc, tập hợp và củng cố lại đội ngũ những hạt nhân lãnh đạo là việc mà Nguyễn khởi đầu. Nhưng khác với thời Quảng Châu trước đây, lần này công việc lại diễn ra ở Vân Nam là vùng kiểm soát của Quốc dân Đảng nên phải tìm cách che giấu tung tích cộng sản của mình. Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (về sau này gọi tắt là Việt Minh) đã được sử dụng trong tình thế đó. Đây là một tổ chức chính trị có sẵn từ năm 1936 (do Hồ Học Lãm một nhà yêu nước Việt Nam có chân trong Quốc dân Đảng Trung Quốc lập ra ở Nam Kinh) nay được tranh thủ để hoạt động lại cùng với một tổ chức bình phong khác mới lập ra như Trung Việt Văn hoá Công tác Đồng chí Hội, Việt Nam Dân tộc Giải phóng Đồng chí Hội. Tất cả đều là kết quả của những thủ thuật vận động theo kiểu "mặt trận" do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo: không những hợp tác với những người Việt Nam hoạt động trong hàng ngũ Quốc dân Đảng Trung Quốc như Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Dương Kế Vinh… mà còn phải lợi dụng chính những cán bộ Quốc dân Đảng Trung Quốc như Trương Phát Khuê, Lý Tế Thâm… để dễ bề hoạt động.

2. Kết quả: Nguyễn và các đồng chí của mình đã tiếp cận được biên giới Việt Nam, liên hệ được với phong trào trong nước (Hoàng Văn Thụ, uỷ viên Trung ương, Bí thư xứ uỷ Bắc kỳ), sau đó tổ chức Hội nghị toàn thể lần thứ 8 của ĐCSĐD vào tháng 5-1941, mở đầu cho một giai đoạn đấu tranh mới. Thuận lợi đã đến với Nguyễn một cách tự nhiên: do những người biết rõ về Nguyễn đều đã chết hoặc đi tù nên trong hội nghị này Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ không hề bị hạch hỏi về danh nghĩa như những năm 1930, 1935 nữa. Ngược lại, ẩn hiện trong màn sương quá khứ kỳ bí, cái giai đoạn gọi là "đau buồn" và "biệt tích" ở Liên Xô lại có tác dụng làm tăng thêm tiếng tăm của Nguyễn. Có lẽ để khẳng định thêm uy lực của một nhà cách mạng đã trở thành trưởng thượng, Nguyễn đã làm cho mình già hơn đi, bằng cách để râu dài khi bước vào tuổi 50.

Sau Hội nghị 8, ngày 6- 6-1941, Nguyễn đã có ý định xuất hiện trước công chúng bằng hình ảnh nhà cách mạng cộng sản lão thành đó: dùng chính tên Nguyễn Ái Quốc "kính cáo đồng bào" cả nước, hứa sẽ "đem hết tâm lực" cùng đồng bào mưu giành tự do độc lập, "dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề" [6]. Nhưng có lẽ nhận thấy thời cơ chưa cho phép, tên "Nguyễn Ái Quốc" đã không được công khai sử dụng tiếp: toàn bộ những bài viết của Nguyễn đăng trên 30 số báo Việt Nam độc lập từ tháng 8-1941 đến tháng 8-1942 đều không ký tên (cũng không có bút danh) [7].

3. Một tên khác đã được thay thế và tên ấy về sau đã trở nên lừng lẫy mà ai cũng biết, đó là "Hồ Chí Minh". Nhưng do suốt thời gian từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, khi bí mật ra sang Trung Quốc cầu viện, Nguyễn bị Quốc dân Đảng bắt giam, nên phải đợi đến cuối 1944 mới xuất hiện – trong "Thư gửi quốc dân đồng bào" tiên đoán "cơ hội giải phóng cho dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa", do đó cần khẩn trương chuẩn bị [8] – để từ đó được sử dụng chính thức cho đến cuối đời.

Nhiều người đã bàn luận về ý nghĩa của cái tên đã trở thành lịch sử đó. Thật sự thì chẳng qua đó cũng chỉ là một cái tên trong vô số những cái tên (không kể bút danh) mà Nguyễn đã dùng trong cuộc đời hoạt động. Hồi mới từ Liên Xô sang Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã lấy bí danh là Hồ Quang [9] để làm việc trong Đệ Bát lộ quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hồ Quang là một tên Trung Hoa, vì bấy giờ Nguyễn giả danh làm người Trung Hoa; bí danh này vẫn được dùng khi Nguyễn móc nối lại được với các đồng chí Việt Nam của mình ở Vân Nam. Nhưng cũng trong thời kỳ ấy, trên đường về biên giới Việt-Trung, Nguyễn đã mang theo trong người 3 tờ giấy đi đường (do Quốc dân Đảng cấp) đề năm 1940, tất cả đều mang tên Hồ Chí Minh [10]. Cái tên này, thật sự cũng chẳng khác gì cái tên Hồ Quang trước đây bao nhiêu – đó chỉ là một trong nhiều cái tên giả có nguồn gốc Trung Hoa.

Đem cái tên ấy ra sử dụng một cách công khai tuy có hơi bất tiện (vì hoàn toàn xa lạ với công chúng), nhưng phải chấp nhận vì lý do chính trị – chưa đến lúc bộc lộ mình là cộng sản. Một người cộng sản mà giữ vai trò lãnh đạo cả một phong trào dân tộc lúc bấy giờ sẽ bị cô lập và phản tác dụng. Liên Xô đang bị Đức xâm chiếm, cách mạng Trung Quốc chưa thành công, cuộc chiến đấu giành độc lập của Việt Nam (dù chống Nhật hay sau này chiến tranh với Pháp) cần được phe Đồng minh (nhất là Mỹ) ủng hộ. Đưa chuyện chống tư bản, chuyên chính vô sản ra là vô cùng tai hại. Nguyễn Ái Quốc hẳn nhớ rất rõ bài học Đại hội 6 của QTCS năm 1928 và Đại hội Macao của Việt Nam năm 1935 mà bản thân Nguyễn đã là nạn nhân [11]. "Hồ Chí Minh" vì thế đã trở thành biểu tượng của một sự tính toán sách lược.


Tính chất hai mặt của một vai trò

1. Mọi người đều biết, dưới cái tên "Hồ Chí Minh", Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện sách lược ấy như thế nào sau cách mạng 1945.
  • Bằng nhiều cách, không ngớt kết án thực dân đã tung ra luận điệu Hồ Chí Minh là cộng sản [12]. Luôn thanh minh rằng Hồ Chí Minh chỉ là người yêu nước thuần tuý.
  • Chính phủ Hồ Chí Minh bao gồm nhiều đảng phái: Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, Quốc dân Đảng. Trong các đảng tham gia chính phủ, không có tên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng này đã được Hồ Chí Minh báo với tướng Trần Tu Hoà, đại diện Tưởng Giới Thạch, là đã "tự động giải tán" [13].
  • Đặc biệt đối với Quốc dân Đảng (với những lãnh tụ như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh…) nương theo đoàn quân của Lư Hán sang Đông Dương để chia quyền, đã thực hiện một chính sách nhân nhượng hết sức đặc biệt (thân thiện mời hợp tác [14], vào chính phủ liên hiệp [15], không cần bầu cử vẫn được nhường cho 70 ghế trong Quốc hội [16] ).
  • Đối ngoại: coi Mỹ là bạn [17], Anh trung lập, riêng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch là rất hữu hảo! Ngôi sao trong quốc kỳ Việt Nam đã được Hồ Chí Minh giải thích như sau:

    "Trung Quốc là một nước to lấy mặt trời làm tiêu biểu. Việt Nam là một nước nhỏ lại có quan hệ mật thiết với Trung Quốc, đã mấy ngàn năm cho nên lấy ngôi sao làm tiêu biểu" (!) [18]

2. Ai cũng đều biết thực chất của cái sách lược trên đây là gì khi được "vận dụng" bởi một nhân vật từng coi Lenin là thần tượng: đó là sách lược của những bước thụt lùi tạm thời, những nhân nhượng có tính toán. Hãy lấy vài thí dụ để xem xét:

– Việc "giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương": Như sau này Hồ Chí Minh cho biết thực chất của việc tự giải tán ấy chỉ là sự rút vào bí mật thôi, và đó là sự rút lui cần thiết, vì biết đứng trước tình hình gay go vào lúc bấy giờ

"Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất.

Lúc đó Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những phương pháp – dù là những phương pháp đau đớn – để cứu vãn tình thế" [19].

Một điều quan trọng khác: trong khi Đảng rút vào bí mật, thì để thực hiện "đa đảng", Đảng đã "giúp đỡ" Đảng Dân chủ rồi Đảng Xã hội ra đời [20], để cùng với "Việt Nam Đồng minh Hội" đóng vai trò công khai trong chính phủ lâm thời.

– Sự nhân nhượng đối với phe Quốc dân Đảng Việt Nam là điều bó buộc vì lẽ những người này đang có sau lưng họ đoàn quân Lư Hán của Tưởng Giới Thạch sang "giải giới" Nhật đã đầu hàng. Nhưng để đối phó, Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định 6-3 và Tạm ước 14-9-1946, thoả hiệp với Pháp để đẩy quân Lư Hán đi. Bị chỉ trích là "hữu khuynh", Hồ Chí Minh đã dẫn Lenin:

"Lênin có nói rằng: Nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải thoả hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thoả hiệp" [21].

3. "Hồ Chí Minh" như vậy chỉ là một thứ "vai trò" của một tình thế nhất định. Khi kịch bản thay đổi thì vai trò ấy cũng phải thay đổi. Điều này đã xảy ra vào năm 1949, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền. Sau chuyến đi bí mật sang Trung Quốc và Liên Xô, đầu năm 1950, về nước, Hồ Chí Minh đã công khai đứng tên ra lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng 8 và ngày độc lập:

"Về phía ta, mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn nhất thế giới – Liên Xô và Trung Quốc dân chủ, và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong đại gia đình dân chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800 triệu nhân dân chống đế quốc" [22].

Những bài viết, bài nói ca ngợi Stalin [23], ca ngợi Mao Chủ Tịch [24] đã thấy xuất hiện; các chính sách giảm tô [25], cải cách ruộng đất, chỉnh huấn [26], chỉnh Đảng… đã theo những cố vấn, những thùng hàng viện trợ của Trung Quốc tràn sang những vùng kháng chiến – tất cả đều đựợc Hồ Chí Minh chính thức cổ vũ, đôn đốc, trên báo chí trong các hội nghị quần chúng, Quốc hội, Đảng.

"Hồ Chí Minh" bây giờ không cần phải giấu giếm lai lịch "Nguyễn Ái Quốc" của mình nữa. Nhưng do tên "Hồ Chí Minh" đã trước bạ chính thức là Chủ tịch một đất nước vừa thực hiện xong cuộc Cách mạng tháng Tám và đang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân, mọi việc đang đi theo cái đà của sự thuận lợi, cho nên không cần thay đổi lại tên họ.

Trong Đảng nếu Nguyễn Ái Quốc với Hồ Chí Minh đã là một, thì bây giờ điều này cần phải phổ biến rộng ra cho đồng bào và thế giới biết, lấy những năm bôn ba của Nguyễn Ái Quốc để khẳng định vai trò lĩnh tụ tuyệt đối của Hồ Chí Minh, không phải với phong trào cộng sản Việt Nam mà còn là của toàn bộ dân tộc Việt Nam nữa.


Sự thành công của Hồ Chí Minh

1. So với giai đoạn hoạt động ở nước ngoài của "Nguyễn Ái Quốc" (1920-1940) thì giai đoạn trở về của "Hồ Chí Minh" (từ 1940 về sau) có vẻ suôn sẻ hơn: chính là trong những năm tháng này, Hồ Chí Minh đã khẳng định được uy tín cao nhất của một lĩnh tụ Đảng, củng cố lại lực lượng, cuối cùng hoàn tất được mục đích về quyền lực – thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, sau đó kháng chiến đuổi thực dân Pháp khỏi Đông Dương, thiết lập được chế độ cộng sản ở Việt Nam.

Những thành công ấy có thể giải thích được bằng nhiều nguyên nhân cụ thể, lịch sử, khách quan lẫn chủ quan (chẳng hạn: sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc nói chung, sự ngoan cố và hẹp hòi của thực dân Pháp, sự ủng hộ của Liên Xô đối với phong trào đấu tranh của những nước thuộc điạ và phụ thuộc, chỗ dựa trực tiếp từ phong trào cộng sản Trung Quốc, sự yếu kém của những lực lượng chống thực dân theo xu hướng không cộng sản ở Việt Nam so với ĐCSĐD v.v…) nhưng tất cả đều những nguyên nhân thực tế ấy đã được những nhà sùng bái Hồ Chí Minh pha loãng ra hoặc cố ý đẩy vào hàng tuỳ phụ với mục đích mang tính chất ý thức hệ không giấu giếm: đưa lên hàng đầu vai trò của Hồ Chí Minh, coi đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo nên thắng lợi. Từ một nhân vật của lịch sử, Hồ Chí Minh đã bị giản lược vào một biểu tượng, một vai trò, cuối cùng được nâng lên thành một huyền thoại [27].

2. Thật sự thì cuộc đời hoạt động thực tế của Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhưng qua những tài liệu đã tìm được, người ta thấy, tuy nghị lực mãnh liệt, bản lĩnh xoay sở tài tình, ông vẫn là một con người bình thường với những "hệ luỵ nhân sinh" bình thường.

Tuyên truyền thường nói ông đã hy sinh đời riêng để phục vụ cách mạng, nhưng thực sự ông đã có vợ, ít nhất thì cũng là hai người: một người Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh và một người Việt Nam là Nguyễn Thị Minh Khai. Quan hệ của ông với Nguyễn Thị Minh Khai đã được phát hiện trong Hồ sơ QTCS, do chính Nguyễn Thị Minh Khai khai trong lý lịch dự Đại hội 7 QTCS năm 1935 tại Moskva và đã được Tổng Bí thư ĐCSĐD của Đại hội Macao bấy giờ xác nhận, chi tiết này mới được Sophie Quinn-Judge công bố trong luận án của bà [28], một số tác giả khác cũng đã nói đến, nhưng chưa thấy có công trình nghiên cứu nào nói rõ hơn. Còn chuyện tình của ông với Tăng Tuyết Minh thì do nhà sử học Hoàng Tranh người Trung Quốc viết hẳn thành một bài báo đăng trên một tạp chí Trung Quốc [29]. Cũng có nhiều mối quan hệ của ông Hồ với nhiều người đàn bà khác nữa, nhưng phần nhiều đó chỉ là những tin đồn, chưa có bằng cớ để khẳng định hay phủ định.

Về mặt cách mạng thì những người sùng bái ông Hồ thường hình dung cuộc đời của ông như một ý hướng thống nhất từ trẻ cho đến già; uy tín cách mạng của ông lúc nào cũng sáng ngời từ lúc bôn ba hải ngoại cho đến khi trở về thành công. Nhưng chúng ta đã biết, sự thật không phải như vậy. Những ngày bỏ nước ra đi trong suốt một thời gian dài của ông không có gì thật quan trọng để tác động trực tiếp vào tình hình đất nước: chỉ là những dò dẫm tìm đường theo hướng ra ngoài "cầu ngoại viện" không khác gì những người yêu nước đầu thế kỷ 20.

Thời gian ông tìm gặp chủ nghĩa Lenin rồi sang Nga trở thành cán bộ của QTCS, thực sự vai trò của ông không có gì là quan trọng lắm. Lệ thuộc hoàn toàn vào đường lối của QTCS lúc bấy giờ không chú ý đến Việt Nam; muốn hoạt động được, luôn luôn phải chạy vạy xin xỏ nhiều chuyện (tiền bạc, chỉ thị…), nhưng khi gặp những sai lầm về đường lối – đặc biệt sau Hội nghị hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 tại Hồng Kông – ông không tránh khỏi bị ĐCSĐD gạt ra ngoài, bị QTCS khiển trách và ngưng công tác trong một thời gian khá dài để được đào tạo lại [30].

3. Sùng bái cá nhân không phải là sản phẩm riêng biệt của những người cộng sản Đệ Tam. Nhưng trong trường hợp ông Hồ thì không thể không nghĩ đến cái gương của những "lĩnh tụ vĩ đại" như Stalin và Mao Trạch Đông mà ông khâm phục và coi việc sùng bái đó như một điều tự nhiên. Chẳng qua cũng chỉ để thống nhất lòng người có lợi cho sự nghiệp chung thôi. Dù vậy cũng không nên noi gương các đàn anh một cách quá lộ liễu, cho nên trong thực hiện phải châm chước đi và làm sao cho có vẻ… Việt Nam một chút – thay vì la hét những thứ "thiên tài" hoặc "cầm lái vĩ đại" rồi đánh giết lung tung thì chọn "vai trò" một ông lão bình dân, giản dị trong các làng xã truyền thống. Là "Bác" của các cháu thiếu nhi [31], và cũng là "Cha già" [32] của đại gia đình dân tộc. Luôn kêu gọi tiết kiệm và kết đoàn.

Tuy vậy cũng cần chú ý điều sau đây: người đi đầu và để khá nhiều công sức để tạo ra hình ảnh ấy lại không phải ai khác mà chính là… Hồ Chí Minh! Trong kho trước tác của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy khá nhiều bài nói, bài viết của chính ông, khi ký trực tiếp, khi dưới những bút danh khác nhau [33], ca ngợi bản thân. Phần nhiều đều được che giấu dưới nhận xét của những người làm báo, người dân bình thường, hồn nhiên ca ngợi những đức tính của vị " lĩnh tụ kính yêu", khuyên nên đọc những tác phẩm của Hồ Chí Minh và khi có dịp nào đó thì thét lên khẩu hiệu "Hồ Chí Minh muôn năm" rất… vô tư! Như thể việc ca ngợi Hồ Chí Minh đã là chuyện thường ngày, đương nhiên như hơi thở của cuộc sống rồi!

Những ai có biết chút ít về cái gọi là "phong cách Hồ Chí Minh" đều hiểu lý do. Đó là một thói quen ông thường sử dụng trong tuyên truyền, không khác gì việc ông từng mượn Khổng Mạnh [34] hoặc làm vè bình dân để nói chuyện chính trị vô sản. Sự "nôm na", "giản dị" ở đây đã tạo ra được cái tác dụng thật "vĩ đại" của nó: làm cho hình ảnh vị "cha già" hiền lành của dân tộc đồng hoá được với hình ảnh của một lĩnh tụ cộng sản trí tuệ tuyệt vời. Nó làm cho chủ nghĩa cộng sản xa lạ và gay gắt (đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản…) có thể đến với nhân dân một cách nhẹ nhàng hơn. Những lời phán của một người mà khi còn sống đã được đưa lên bàn thờ [35] dù sao vẫn có tính chất thiêng liêng!

Nhưng cũng từ đó, khuếch tán bởi bộ máy truyên truyền cách mạng, những sự tâng bốc quá đáng đã xảy ra. So với những anh hùng của đất nước trong thời hiện đại, ông được miêu tả như là vượt lên tất cả, về tài trí lẫn đức độ: không phải chỉ là con người đẹp nhất của dân tộc mà còn là kết tinh của những giá trị văn hoá của thời đại và nhân loại. Đất nước không có ông sẽ chìm mãi trong nô lệ, dân tộc sẽ mãi mãi nghèo hèn, không ngóc đầu lên được. Nhờ có "Người", nhân dân ta mới được cứu độ vì thế phải biết ghi nhớ "công ơn trời biển của Người" cho đến "muôn đời con cháu mai sau"! Giở bất cứ "tác phẩm" nào viết về Hồ Chí Minh được bày bán tại các hàng sách ở Việt Nam, chúng ta đều có thể tìm ra ít nhiều những lời ca ngợi tương tự, không cần dẫn chứng.

Tuy vậy, có một điều cũng nên ghi nhận thêm: mặc dù được tiếng là "khiêm tốn" [36], hồi còn sống, ông đã không hề làm gì để hạn chế bớt những quá đáng ấy. Trong khi đó thì thái độ úp mở, giấu mặt, khi cần thiết lại cố tình che giấu [37] của ông, ngược lại, đã có tác dụng làm cho những thứ tuyên truyền huyễn hoặc đó có lý do để phát triển ngày càng ồn ào.


Tư tưởng của Hồ Chí Minh

Hiện tượng ấy cũng là tất yếu: con người Hồ Chí Minh sở dĩ được thần thánh hoá như vậy chỉ cốt để thần thánh hoá cái phần chính yếu của ông, cái mà những nhà sùng bái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Và đó là thủ thuật quan trọng để vĩnh viễn hoá sự tồn tại của Hồ Chí Minh đối với lịch sử đất nước: trong khi con người Hồ Chí Minh chỉ là một tượng đài và xác ướp thì tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong đời sống của nhân dân. Nhưng tìm hiểu đến tận nguồn cội câu chuyện rắc rối này chúng ta không thể tin vào sự sùng bái dễ dãi đó.

1. Chúng ta hãy đọc lại đoạn Hồ Chí Minh nói về thần tượng của mình là Lenin và chủ nghĩa Lenin:

"Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [38].

Mọi việc đã quá rõ ràng: chủ nghĩa Lenin là điểm đến trong cuộc hành trình tinh thần của Hồ Chí Minh, còn giải phóng dân tộc, yêu nước chỉ là đường đi. Đúng hơn: một chặng đường – cái trung gian cần thiết phải qua nhưng không phải là cái vĩnh viễn. Và điều kiện do ông đưa ra để thực hiện cũng rất rõ ràng: toàn bộ giai đoạn đấu tranh giành độc lập phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải được "phe xã hội chủ nghĩa" giúp đỡ. Hai câu của ông sau đây: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn" đã diễn tả rõ thêm điều kiện nói trên: chủ nghĩa xã hội vừa là biện pháp lại vừa là mục đích của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc [39].

Hồ Chí Minh đã nhận thức được điều này lúc mới sang Nga năm 1924. Trong một bài viết bằng tiếng Pháp (không đề tên nhưng được xem là của ông), ông nêu câu hỏi: tại sao Moskva lại phát động "chủ nghĩa dân tộc bản xứ" nhân danh QTCS? Câu trả lời của ông là: tuy nghịch lý táo bạo nhưng đó là một chính sách hiện thực tuyệt vời. Lý do: "chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước", động lực này nếu những người cộng sản biết khai thác thì sẽ hoàn toàn có lợi cho việc thực hiện mục đích cách mạng của mình.

"Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Trong khi chờ đợi, chủ nghĩa dân tộc sẽ quấy rối chủ nghĩa đế quốc Pháp và bằng việc làm này, Quốc tế Cộng sản sẽ được lợi trực tiếp" [40].

Lập luận ở đây khá rạch ròi: không cần giấu giếm cái ý định của QTCS muốn khai thác phong trào tranh đấu của những nước thuộc địa để "quấy rối" chủ nghĩa đế quốc. Và đó cũng chính là lập luận của Lenin: vấn đề những nước phụ thuộc và thuộc địa không thể tự thân tồn tại mà phải phục vụ cho lợi ích của cách mạng vô sản thế giới [41].

Về mặt khái niệm, các chữ dùng khá chính xác: "chủ nghĩa dân tộc" (là một ý thức hệ) ở đây có vẻ thích hợp hơn mấy chữ "chủ nghĩa yêu nước" (là một tình cảm). Chúng gợi cho ta nhận xét sau đây: về mặt tình cảm, những người sùng bái Hồ Chí Minh có thể yên tâm gọi ông là người "yêu nước-cộng sản" (hay người "cộng sản-yêu nước" cũng được), nhưng về mặt ý thức hệ thì quá trình tư tưởng của ông đã chứng minh rằng Hồ Chí Minh chỉ có thể là người theo chủ nghĩa cộng sản chứ không thể vừa theo chủ nghĩa dân tộc vừa theo chủ nghĩa cộng sản được. Rõ ràng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và cộng sản đã được Hồ Chí Minh giải quyết theo cách mà Lenin, người sáng lập ra Quốc tế Ba đã giải quyết rồi [42].

2. Vấn đề thật quan trọng với Hồ Chí Minh: nhờ "vận dụng" lại thứ lý luận mác-xít mà Lenin đã "vận dụng" vào các nước chậm phát triển trên đây mà ông đã thành công trong chặng đường đầu tranh đấu để sau này có thể tiến lên hoàn thành mục đích tối hậu của ông: Đảng Cộng sản đã giành được quyền lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện được mục tiêu quan trọng là giải phóng nhân dân thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa thực dân. Có thể hình dung một cách tổng quát chiến lược tranh đấu đó như sau:
  • Tiên quyết phải có một Đảng Cộng sản bao gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật sắt, thề nguyện suốt đời xả thân cho lý tưởng cộng sản để lãnh đạo toàn bộ quá trình cách mạng. Hầu hết những hạt nhân lãnh đạo đều được tuyển mộ trong hàng ngũ tiểu trí thức thành thị.
  • Lập mặt trận thống nhất, tuỳ theo giai đoạn, liên hiệp với tất cả những thành phần xã hội có thể liên hiệp được, để cô lập triệt để đối tượng cần đánh đổ (địa chủ hay tư bản, đế quốc này hay đế quốc khác…). Nhưng bên dưới, phải đặc biệt tranh thủ nông dân, coi bần và trung nông là chủ lực của cách mạng, dựa vào đó huy động tài chính, tạo cơ sở che giấu cán bộ, vận động dân công, bổ sung lính…
  • Không nên bám vào một phương thức nào mà phải tuỳ theo sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa "ta" và "địch" mà đề ra phương pháp đấu tranh cho thích hợp: tiến hay thoái, hợp tác hay chống đối, thoả hiệp hay tấn công, làm chiến tranh hay kêu gọi hoà bình, công khai hay bí mật… Và đó là ý nghĩa của câu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà ông Hồ rất thích nói đến.
So với những đảng phái gọi là "quốc gia" chỉ biết trông cậy vào sự hỗ trợ bên ngoài hoặc chỉ huy động trí thức thành thị và dựa vào một phương pháp tranh đấu nhất định… rõ rệt chiến lược trên đây của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra hơn hẳn [43].

3. Người ta không lấy làm lạ khi trả lời phỏng vấn hoặc viết cho các báo nước ngoài, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc lại những lời lẽ rất "tâm đắc" sau đây:

"Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái cẩm nang đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái cẩm nang thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản" [44].

Trong văn bản này, ông dùng mấy chữ "chủ nghĩa Lênin", chỗ khác ông dùng "chủ nghĩa Mác-Lênin", nhưng ở đâu ông cũng cho rằng nhờ cái "cẩm nang" đó, Đảng Cộng sản sẽ đạt được mục đích cuối cùng sau những chiến thắng dọn đường. Cái mục đích cuối cùng ấy có đạt được hay không thì chúng ta còn phải chờ xem, nhưng xét những cái đã qua, khẳng định nói trên của ông không phải là không hiện thực – như chúng ta đã biết. Nhưng để tránh bị đẩy vào cái bẫy "khái quát hoá" thì cần xác định rõ tính chất cụ thể của chiến lược ấy: đó không phải là học thuyết toàn diện của Marx và Lenin về chủ nghĩa xã hội. Riêng đối với Lenin thì đó cũng chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong lý luận về cách mạng của ông: đó là sách lược "lợi dụng" phong trào dân tộc ở những thuộc địa để chống đế quốc. Chiến lược ấy cũng không mang lại kết quả mong đợi: nhiều Đảng Cộng sản ở những thuộc địa vẫn được trang bị cho cái "cẩm nang" ấy, nhưng đã không đi đến đâu (chúng ta hãy nhớ lại trường hợp N. Roy của Ấn Độ). Cái "cẩm nang" mệnh danh là "chủ nghĩa Mác-Lênin" đó, vì vậy, đã không hề có giá trị vạn năng.

4. Ngay bản thân cái khái niệm "Mác-Lênin" mà ông sử dụng rất tự nhiên cũng không có sự nghiêm ngặt về nội dung tư tưởng của những người có liên quan với cái học thuyết mà ông nói đến. Không hoàn toàn là Marx: ông không cần biết đến điều kiện tiên quyết của Marx để làm cho chủ nghĩa xã hội gọi được là "mác-xít" là sự phát triển tột độ của chủ nghĩa tư bản tổng thể. Cũng không đúng hoàn toàn về Lenin: ông không cần biết đến điều kiện mà Lenin đặt ra để cho cuộc cách mạng 1917 gọi được "xã hội chủ nghĩa mác-xít" là phải có sự hỗ trợ của cuộc cách mạng vô sản đích thực đã thành công ở phương Tây. Còn cái học thuyết gọi chung là "Mác-Lênin" mà ông và guồng máy tuyên truyền của ông ra sức phổ biến vào Việt Nam cũng chỉ là một thứ lý luận mác-xít đã bị dung tục hoá và tầm thường hoá hết mực: coi những kết luận của Marx về sự giẫy chết tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự sinh thành tất yếu của "cõi đời mới" do giai cấp vô sản lãnh đạo, sự cần thiết của "chuyên chính vô sản" trong quá trình tiến lên chủ nghĩa cộng sản v.v… là những cái đương nhiên đã là chân lý, chính nghĩa, tất yếu chỉ cần noi gương Lenin vận dụng một cách "sáng tạo" vào những hoàn cảnh cụ thể là đủ, nhất định thành công.

Có thể do bản chất của ông thiên về những cái thiết thực, không ưa nghiền ngẫm về những cái trừu tượng, xa vời và cũng có thể do nhu cầu thực tế của cuộc đấu tranh bí mật, lâu dài, trong khi thuộc nằm lòng bài bản của Lenin về việc sử dụng "mặt trận thống nhất" và những kỹ thuật tổ chức lập Đảng, vận động quần chúng để cướp chính quyền, ông không quan tâm đào sâu đến tận cùng cơ sở lý luận của cái cùng đích mà ông nguyện dấn thân cho nó, từ nguồn gốc đến những biến thái phức tạp về sau. Ông rất hay nói đến lý tưởng và đạo đức: trong những bài viết của ông, khái niệm "chủ nghĩa xã hội" lúc nào cũng hiện ra như một cái gì đó rất giống với cái thế giới đại đồng châu Á thời cổ, tràn ngập thái bình và an lạc, chứ không phải là "hiện thực" hoặc "khoa học" theo cách mà những nhà mác-xít hay nói… Thiên hướng cảm tính, dựa nhiều vào lòng tin và nhu cầu thực dụng khi đến với cái "cõi đời mới" do Lenin gợi ra từ những ngày đầu vẫn còn ghi dấu thật đậm trong những bài gọi là "lý luận" của Hồ Chí Minh về sau này [45].

5. Nhưng chúng ta đều biết: thứ chủ nghĩa xã hội "cảm tính" ấy ở Hồ Chí Minh đã không dừng lại. Cùng với thời gian, việc nghiên cứu, tìm hiểu thêm đã làm cho cái cái lý tưởng mơ hồ ấy trở nên cụ thể hơn, nhờ tiếp xúc nhiều hơn với sách vở "Mác-Lênin" và cuộc sống "xã hội chủ nghĩa" trong thực tế mà Liên Xô bấy giờ đang là một hình mẫu. Trong cái hình mẫu ấy, "chủ nghĩa Mác-Lênin" vẫn còn được nhân danh để thuyết giảng, nhưng đã không còn sự tính toán quanh co của Lenin về "bước thụt lùi" kiểu NEP, ở đó cũng không có những ưu tư của Lenin về tình hình quan liêu, bất lực, suy thoái trầm trọng của bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản do Đảng lãnh đạo. Mọi thứ đều phơi phới đi về tương lai rạng rỡ dưới sự lãnh đạo của "lĩnh tụ thiên tài"!

Tất cả đều phải quy về nhiệm vụ trung tâm là đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá. Công nghiệp nặng là then chốt. Để có tích luỹ phục vụ chương trình công nghiệp hoá ấy thì cũng phải nhanh chóng hợp tác hoá nông nghiệp. Để đáp ứng những nhu cầu chuyển đổi nhanh chóng đó, phải sử dụng không nương tay bộ máy bạo lực chuyên chính của Đảng để dập tắt tất cả những xu hướng bất đồng trong Đảng và xã hội. Phải triệt tiêu tất cả bọn trốts-kít phản động và bọn hữu khuynh mưu toan phục hồi chủ nghĩa tư bản. Tẩy não. Trại tập trung. Chủ nghĩa tập thể, v.v. và v.v… Cái mô hình gọi là "xã hội chủ nghĩa" ấy không phải cái gì khác hơn là mô hình toàn trị stalinít, mô hình này không lạ gì với Hồ Chí Minh trong những năm ông bị giữ lại ở Liên Xô để học tập [46].

Nhưng sự việc không phải chỉ như vậy: trong quá trình "vận dụng" để thực hành, cái mô hình stalinít kiểu Liên Xô ấy còn được bổ sung cho phong phú hơn bằng một thứ chủ nghĩa Stalin khác không kém phần ác liệt đến từ Trung Quốc: đó là mô hình của Mao Trạch Đông về vai trò của bần cố nông trong đấu tranh đánh đổ chế độ chế độ phong kiến, thực hành cải cách ruộng đất. Phóng tay phát động quần chúng. Đấu tố. Tam cùng. Chỉnh huấn, v.v và v.v…

Nội dung của cái gọi là "chủ nghĩa Mác-Lênin" trên đây đều đã du nhập vào Việt Nam ngay trong những ngày cách mạng giải phóng dân tộc chưa thành công: ngay trong chiến tranh, "chủ nghĩa xã hội" đó đã được đem ra thực hiện rồi! Vì thế người ta có thể hình dung ra rất dễ dàng tính chất của thứ "xã hội chủ nghĩa" mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem ra áp dụng ở miền Bắc đất nước như thế nào sau khi đã đánh đuổi xong thực dân Pháp: một mô hình stalinít toàn trị trong đó tất cả đời sống xã hội đã bị Nhà nước hoá một cách khắc nghiệt, chẳng dính dấp gì đến cái lý tưởng mà Hồ Chí Minh đã ấp ủ từ những ngày đầu ông đến với Lenin! Cái "cẩm nang" của ông không còn tạo ra những chuyện "thần kỳ" nữa: đất nước thiếu tất cả mọi thứ căn bản cần thiết cho cuộc sống, ngoại trừ những lời lẽ ồn ào về "tương lai rạng rỡ" phát ra từ những Nghị quyết của Đảng.


“Tư tưởng Hồ Chí Minh”?

Có thể có một thực tại lý luận gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" hay không? Nếu xem đó như một hệ thống những luận điểm có ý nghĩa canh tân hoặc phát triển học thuyết "Mác-Lênin" thì khái niệm ấy quá khiên cưỡng: những gì liên hệ đến nội dung của khái niệm "chủ nghĩa xã hội" mà Hồ Chí Minh đã đem về cho Việt Nam đều đã có sẵn nơi các bực thầy cộng sản Đệ Tam, như chúng ta đã biết. Nơi Lenin: về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Nơi Stalin: về mô hình xây dựng chế độ toàn trị công nghiệp hoá. Nơi Mao Trạch Đông: về vai trò của bần cố nông trong cải cách ruộng đất và thanh lọc Đảng.

Những cái được Hồ Chí Minh tiếp nhận ấy đều nẩy sinh từ quá trình giành quyền lực từ tay thực dân về cho Đảng Cộng sản: vấn đề chống chủ nghĩa thực dân ở đây đã cũng là vấn đề quyền lực của Đảng. Hai vấn đề khác nhau về bản chất, trong sự biện luận của những nhà lý luận cộng sản Đệ Tam Việt Nam, đã bị đồng nhất hoá. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã gắn chặt với những nhu cầu bức xúc và trực tiếp của cuộc đấu tranh mang tính chất hai mặt ấy: tìm kiếm chỗ dựa bên ngoài, tạo tính chính đáng để bảo vệ sự nhất trí cho tổ chức và củng cố uy tín cho bản thân v.v… Có thể gọi đó những tư tưởng thực hành. Thiên hướng trỗi bật trong tính cách của Hồ Chí Minh là sự thực hành, cho nên tư tưởng của ông đã nghiêng hẳn về những cái thiết thực, cụ thể. Nếu "tư tưởng" như vậy được xem là đồng nghĩa với "ý thức hệ" thì Hồ Chí Minh chính là một nhà ý thức hệ, một người chọn lựa một ý thức hệ có sẵn để hành động.

Tính chất đặc biệt trong vấn đề tư tưởng của Hồ Chí Minh do đó chính là cái cách thức diễn giải, truyền bá những gì mà ông đã tiếp thu được để phục vụ cho các mục tiêu thiết thực ấy. Nôm na, giản dị, dựa vào truyền thống phương Đông, Khổng Mạnh, dân tộc, làm vè, diễn tuồng, viết văn vần, viết báo… chủ yếu nhắm vào đám đông quần chúng để "giáo dục", "vận động" họ – đó mới chính là phong cách độc đáo của Hồ Chí Minh.

Không thực sự chú ý đến tính chất hiện thực đó trong những phát biểu của Hồ Chí Minh về mặt lý luận, rồi tạo ra khái niệm "tư tưởng Hồ Chí Minh" huyễn hoặc, từ đó xưng tụng Hồ Chí Minh là "nhà tư tưởng vĩ đại", "nhà lý luận thiên tài" [47], những người sùng bái đã làm tổn hại uy tín ông nhiều hơn là nâng ông lên cao.


Mấy luận cương về Hồ Chí Minh

1. Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước. Ông đã hoàn thành mong mỏi của mọi người Việt Nam qua các thời đại: đánh đuổi các lực lượng ngoại xâm. Từ tình cảm yêu nước ông đã đến với chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam. Dựa vào cộng sản Đệ Tam, vận dụng những phương pháp tổ chức của Lenin, ông đã giành lại được chủ quyền cho dân tộc và quyền lực cho Đảng Cộng sản để xây dựng nên một nước Việt Nam mới.

2. Đem chủ nghĩa cộng sản ra áp dụng, ông hy vọng sẽ xây dựng cho đất nước một thể chế chính trị mang lại hạnh phúc vĩnh viễn cho nhân dân: một mô hình phát triển hiện đại dựa trên sự bình đẳng và tự do cho mọi người. Thực tế đã chứng minh đó chỉ là mộng tưởng hão huyền. Thứ "chủ nghĩa cộng sản" mà ông đem ra thực hiện chỉ có tác dụng duy nhất là duy trì chế độ toàn trị stalinít. Thực chất của "chủ nghĩa Mác-Lênin" mà Hồ Chí Minh tiếp nhận chỉ là chủ nghĩa Stalin.

3. Đã có nhiều lực lượng yêu nước chống chủ nghĩa thực dân đồng thời với Hồ Chí Minh, nhưng tại sao chỉ có Hồ Chí Minh thành công? Trả lời câu hỏi này, những người không chấp nhận sự chọn lựa của Hồ Chí Minh không thể không chiêm nghiệm lại những thất bại của mình. Một cái nhìn thực tế về mối quan hệ giữa phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản trong thế kỷ 20 là rất cần thiết cho những ai thật sự muốn học ở lịch sử những điều bổ ích. Những bài học ấy không thể xuất hiện trên mảnh đất tinh thần chứa đầy thành kiến và hận thù.

4. Những người cộng sản cũng không thể căn cứ vào việc đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để áp đặt mãi mãi học thuyết "Mác-Lênin" của Hồ Chí Minh lên đời sống dân tộc. Học thuyết ấy không bắt nguồn từ những suy tưởng nghiêm chỉnh của trí tuệ. Đó chỉ là kết quả của những nhu cầu chính trị thực dụng nhất thời, "vận dụng" vào xây dựng đã tỏ ra không tưởng, cuối cùng trở thành công cụ thống trị.

5. Không thể nhìn qua sự chọn lựa của Hồ Chí Minh một cái thiện tuyệt đối hoặc một cái ác tuyệt đối, như các nhà ý thức hệ đối nghịch nhau đã làm. Sự chọn lựa của Hồ Chí Minh là một hành vi lịch sử, đã bị những điều kiện của thời đại ông quy định: một thế kỷ đầy đổ vỡ, tràn ngập hy vọng và cũng quá nhiều ảo tưởng. Ông đã đem về cho những người cùng thời với ông nhiều tự hào nhưng cũng nhiều thất vọng.

6. Đưa ông lên thiên đàng hay đẩy ông xuống địa ngục đều không xứng với chỗ đứng của một nhân vật trần gian như ông. Hướng về một tương lai mới, tốt nhất là hãy kính trọng ông như một anh hùng đã thuộc về quá khứ: chỉ có cách đó chúng ta mới có thể nhận ra được những ý nghĩa tích cực trong cuộc đời tranh đấu của ông.

Sài Gòn 1. 11. 2002

© 2007 talawas


 

[1] RC, 495, 10a, 140, p. 106 ; Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 218. Khác với hồi năm 1927, lần này Nguyễn Ái Quốc đã ghi ra nội dung của chỉ thị sẽ đem truyền đạt và gửi lại QTCS để được kiểm tra. Sau đây là đại ý nội dung của chỉ thị được Nguyễn nhớ lại để báo cáo lại với QTCS:
1.   Khẩu hiệu không cao, cốt để có thể hoạt động hợp pháp
2.   Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi
3.   Tư sản dân tộc: lôi kéo vào Mặt trận
4.   Trôtskít: tay sai phát xít, phải tiêu diệt về mặt chính trị.
5.   Liên hệ với Mặt trận bình dân Pháp
6.   Đảng phải trung thành, hoạt động, chân thực nhất để tranh thủ Mặt trận
7.   Củng cố Đảng: chống bè phái, nâng cao lý luận, quan hệ với đảng Pháp.
8.   Kiểm soát báo chí của Đảng để tránh khuyết điểm về kỹ thuật và chính trị.
(“Báo cáo gửi Ban chấp hành QTCS” tháng 7-1939, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 138-139).
[2] Tình trạng tìm kiếm này đã được Nguyễn báo cáo với CSQT như sau: “Trong khi chờ đợi, để khỏi phí thời gian tôi đến làm việc phiên dịch các tin tức thế giới (nghe đài thu thanh) ở Bát lộ quân, làm bí thư chi bộ, chủ nhiệm câu lạc bộ và hiện nay, uỷ viên uỷ ban câu lạc bộ. Đồng thời tôi đã viết một cuốn sách nói về Khu vực đặc biệt và một số bài báo phản ánh những biến cố chính trị và quân sự, sự tàn ác của bọn Nhật bản, tinh thần anh dũng của các chiến sĩ Trung Quốc, cuộc đấu tranh chống bọn tờrốtxkít… để tuyên truyền quốc tế.
Từ ngày 12-2-1939, số lớn những bài đó đã được đăng trên tờ Notre Voix, tuần báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản tại Hà Nội. Trên các bài đó tôi đều ghi Quế Lâm và ký tên Lin, hy vọng rằng các đồng chí có trách nhiệm có thể đoán được ai là tác giả và hiện người đó ở đâu. Nhưng hy vọng này không đạt được” (“Báo cáo gửi Ban chấp hành QTCS” tháng 7-1939, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 140-141).
[3] Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb Nghệ An &Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, tr. 227.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 171.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, T3, tr. 174.
[6] Nguyễn Ái Quốc: “Kính cáo đồng bào”, ngày 6-6-1941, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, tr. 198.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, Chú thích 24, tr. 625.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, tr. 505-506.
[9] Thanh Đạm: Sđd, tr. 215.
[10] 1) Thành viên của Hiệp hội những phóng viên Trung Hoa trẻ, 2) Thông tín viên đặc biệt của Hãng tin quốc tế, 3) Giấy phép đi lại cho cán bộ của Đệ tứ chiến khu (Báo cáo của Trương Phát Khuê, Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 242).
[11] Về sau Nguyễn đã có dịp chỉ trích đường lối tả khuynh đó như sau: “… chính sách Đại hội Macao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ (như định chia ruộng đất cho công nhân nông nghiệp, chưa nhận rõ nhiệm vụ chống phát xít và nguy cơ chiến tranh phát xít”. (“Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng”, 11-2-1951. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 155 ).
[12] Trả lời một nhà báo nước ngoài 22-6-1947: “Hỏi: Vì sao có người tin rằng Chính phủ Việt Nam là Chính phủ cộng sản? - Trả lời: Tuyên truyền của thực dân phản động Pháp nhất là Đo đốc Đác-giăng-liơ, đã lần lượt đặt cho chúng tôi là cộng sản, phát xít, đế quốc, thân Nhật, bài ngoại, v.v… Điều đó không có gì đáng lạ, vì họ không ưa chúng tôi, song tôi chắc rằng nhân sĩ thế giới không ai tin họ; một là vì Chính phủ Việt Nam gồm đủ các đảng phái và các nhân sĩ không đảng phái, hai là chính sách Việt Nam rất rõ rệt: cốt làm cho nước Việt Nam thống nhất và độc lập, làm cho dân được tự do và khỏi khổ khỏi chết”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 155)
[13] Tướng Trần Tu Hoà thay mặt Bộ tư lệnh Tưởng Giới Thạch, muốn đứng ra điều đình giữa các đảng phái để lập chính phủ liên hiệp lâm thời. Hồ Chí Minh trả lời 19-12-1945 :“Việt Nam Độc lập Đồng minh không phải là một đảng mà là một mặt trận đoàn kết toàn dân, bao gồm các đảng phái (đảng dân chủ, phái xã hội), các phần tử Quốc dân Đảng, Đảng Cộng sản (đã tự động giải tán) và các đoàn thể yêu nước không đảng phái như Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phật giáo Cứu quốc, Hội Cơ đốc giáo Cứu quốc v.v…” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 117).
[14] Thư gửi Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh mời tham gia Tổng tuyển cử, báo Việt Nam số 19, 6-12-1945 (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 112-113).
[15] Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch: Nguyễn Hải Thần; Cố vấn: Vĩnh Thuỵ; Ngoại giao: Nguyễn Tường Tam; Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng; Kinh tế: Chu Bá Phượng; Tài Chính: Lê Văn Hiến; Quốc Phòng: Phan Anh; Xã hội, Y tế, Lao động: Trương Đình Tri; Giáo dục: Đặng Thai Mai; Tư pháp: Vũ Đình Hoè; Giao thông: Trần Đăng Khoa; Canh Nông: Bồ Xuân Luật; Kháng chiến uỷ viên, chủ tịch: Võ Nguyên Giáp, Phó: Vũ Hồng Khanh (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 193-194).
[16] “Trả lời các báo”, Cứu quốc 28-12-1945: Hỏi: Tại sao có 70 đặc cách trong Quốc hội? - Trả lời: Vì anh em Quốc dân Đảng không ra ứng cử. - Hỏi: Sao lại trái nguyên tắc dân chủ vậy? - Trả lời: Muốn khi đi tới dân chủ nhiều khi phải làm trái lại. Thí dụ: muốn đi tới hoà bình có khi phải chiến tranh. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 125).
[17] “Tại Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam vẫn còn lưu giữ báo Việt Nam độc lập, cơ quan Việt Minh Cao Bắc Lạng, do Bác Hồ sáng lập và điều hành. Trong tờ báo này có một số bài viết và tin tức về hoạt động hợp tác Việt-Mỹ trên chiến khu, có bài báo Bác Hồ ca ngợi Tổng thống Mỹ Roosevelt là người anh hùng khi nghe tin ông qua đời vào lúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II sắp kết thúc. Nhưng trong tờ báo này có một phụ bản rất độc đáo. Đó là một tranh vẽ gồm 8 bức hình hướng dẫn nhân dân cách cứu phi công Mỹ. Phía trên những bức tranh ấy có vẽ hai lá cờ: sao vạch của Hoa Kỳ và cờ đỏ Sao Vàng là cờ của Việt Minh. Ở giữa hai lá cờ lại có một vần thơ: "Bộ đội Mỹ là bạn ta - Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh". Bức tranh và câu thơ này đến nay vẫn được coi là do Bác vẽ”. (Phan Thế Hải, VietNamNet 11-8-2004).
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 169-170.
[19] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 161.
[20] Đảng Dân chủ: Thành lập 30-6-1944. Giải tán: 20-10-1988. Đảng Xã hội: Thành lập 22-7-1946. Giải tán: 15-10-1988.
[21] Lenin toàn tập, Tập 41, Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 24.
[22] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 81-82
[23] Báo cáo trước hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II, ngày 25-1-1953 về Đại hội 19 cuả Đảng CS Liên Xô (10-1952), ca ngợi cuốn sách của Stalin Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô: “Quyển sách ấy dạy chúng ta xem xét thêm sáng suốt tương lai của thế giới và làm cho chúng ta càng chắc chắn về tiền đồ nhất định thắng lợi của chúng ta. Cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải nghiên cứu những tài liệu của Đại hội thứ XIX, nhất là quyển sách của đồng chí Xtalin và phải biết áp dụng vào hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc của chúng ta” (Hồ Chí Minh toàn tập Tập 7, tr. 10).
[24] Tóm tắt nội dung Thực tiễn luận của Mao Trạch Đông, Nhân dân 19-7-1951 (Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6, tr. 247).
[25] Bài nói tại Hội nghị Nông vận và Dân vận toàn quốc (5-2-1953): “Từ năm 1949 đã có sắc lệnh giảm tô, đến nay đã 4 năm và vẫn chưa thực hiện triệt để. Xem đó thì biết rằng giảm tô không phải là vấn đề giản đơn, nó là một bộ phận của giai cấp đấu tranh, giai cấp nông dân đấu tranh với giai cấp địa chủ. Đây cũng là một chiến dịch nhưng chiến dịch này to và rộng hơn chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc vì nó mở ra khắp cả nước. Nó càng khó hơn đánh giặc, vì đánh giặc thì đưa vũ khí ra mà đánh, trong chiến dịch này nông dân không đưa súng đạn ra đánh với địch, nhưng phải dùng một thứ vũ khí mạnh hơn, tức là lực lượng tổ chức và lực lượng đoàn kết của hàng triệu nông dân. Đảng và Chánh phủ là Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu của cuộc đấu tranh này” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr.26).
[26] Bài nói chuyện ở lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức (15-7 đến 26-9-1953): “Nghe nói các ngành, các cá nhân ôn lại, xét lại những việc làm mình làm trong thời Pháp thuộc, thấy thằng Pháp xấu xa và làm nhục mình.
Đặc biệt anh em thấy nó đối đãi, giáo dục mình là nhục nhã hơn. Những thấy thế vẫn chưa triệt để. Thấy nhục là một bước, phải tiến lên bước nữa: thấy tội của mình. Vì Pháp nhồi sọ, mua chuộc mình nên đã đối đãi với nhân dân như thế nào, điều ấy anh em chị em chưa nghĩ tới. Thấy mình nhục đã đành, còn phải thấy tội nữa.
Xin lỗi cụ Bùi (có tiếng cụ Bùi: “Không dám xin cụ cứ nói”) ví dụ: thời trước cụ làm thầy giáo thì không có gì là tham ô, lãng phí của nhân dân, vì dạy bao nhiêu giờ lĩnh bấy nhiêu tiền. Nay xét lại, lúc đó dạy thì dạy gì, đào tạo người thì đào tạo cho ai? Vì “tôn sư trọng đạo”, cụ ở địa vị ông thầy, nên được lớp trí thức trọng cụ, dân cũng trọng cụ. Nhưng ông thầy lúc ấy nói gì? Nói chống Tây thì nó đá đít. Dù muốn hay không, cũng phải nói đế quốc, phong kiến là tốt. Như thế là có thể có tội với nhân dân rồi. Tôi nghe đây có 4 đời là học trò cụ. Như thế là tứ đại nô lệ.
Tóm lại, các ngành thấy Tây đối đãi với mình là nhục, nhưng phải tiến lên bước nữa xét tội của mình đối với nhân dân. Để đi đến đâu? Đi đến càng căm thù đế quốc phong kiến”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 108-109).
[27] Xem Lữ Phương: “Huyền thoại Hồ Chí Minh”, Thư Nhà tháng 5-2001
[28] Thư ngày 31-3-1935 của Hà Huy Tập gửi QTCS đã nhắc đến Nguyễn Thị Minh Khai như là “vợ của Nguyễn Ái Quốc”. Còn Minh Khai (bí danh là Fan Lan) đã khai trong lý lịch dự Đại hội là “đã kết hôn” và tên chồng là “Lin” (bí danh của Nguyễn Ái Quốc). Nhưng trong lý lịch của mình, không thấy Nguyễn khai là đã có vợ (RC, 495, 201, 35; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 201).
[29] Về mối tình giữa Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh, đã nói qua trong chú thích số 29, chương III “Từ Nga sang Trung Quốc”. Nay nói thêm một chút về đoạn kết của cuộc tình ấy. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình và tiểu sử Hồ Chí Minh đăng trên Nhân dân nhật báo, bà Tăng Tuyết Minh đã báo cáo với tổ chức và gửi mấy bức thư cho ông Hồ nhờ Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh (bấy giờ là Hoàng Văn Hoan) chuyển. Nhưng không có trả lời. Một cán bộ đã đến gặp bà, đưa bằng cớ xác nhận Hồ Chí Minh đúng là chồng bà, ngày trước mang tên Lý Thuỵ, nhưng lại giải thích tại sao “không tiện liên lạc“ và mong bà “lượng thứ”, “yên tâm công tác”. Vẫn theo Hoàng Tranh, năm 1960, Hồ Chí Minh đã nhờ lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu tìm tung tích Tăng Tuyết Minh nhưng cũng không thấy kết quả gì. Được biết bà Tăng Tuyết Minh làm nghề hộ sinh, gia đình theo đạo Công giáo từ đời ông nội, bà “thường xuyên đi lễ” và có thói quen “ăn uống đạm bạc, không dùng thịt cá”, “luôn luôn vui vẻ giúp người”. (Hoàng Tranh: “Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung hoành số tháng 11-2001, xuất bản tại Nam Ninh. Bản dịch tiếng Việt: Minh Thắng, đăng trên tạp chí Diễn Đàn (xuất bản tại Pháp), số 121 tháng 9-2002).
[30] Đã nói rõ trong chương IV: “Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”.
[31] Trong những thư đầu gửi thiếu nhi, Hồ Chí Minh xưng là “Già Hồ”: “Trung thu này, Già Hồ không có gì gửi tặng các em. Chỉ gửi tặng các em một trăm cái hôn thân ái” (“Tết Trung thu với nền độc lập”, Cứu quốc 17-9-1945). Sau đó khoảng một năm mới xưng là “Bác Hồ”.
[32] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch (1948). Thường được coi là cuốn tiểu sử do Hồ Chí Minh ký tên khác để viết về mình. Sau này, có thông tin cho biết cuốn này do thư ký riêng của ông là Vũ Kỳ viết. (Vấn đề này đã đề cập trong Chương 1: “Cuộc ra đi của Nguyễn Tất Thành”).
[33] Thí dụ:
– Tân Sinh: Việt Bắc anh dũng, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, 1948: “Ngay lúc bắt đầu kháng chiến, Hồ Chủ tịch ra lệnh: Trường kỳ kháng chiến… Ngay trước khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, Hồ Chủ tịch đã đoán trước: Địch sẽ cố chiếm lấy mấy thành thị và mấy đường giao thông. Bộ đội chúng càng rải rác. Lực lượng chúng càng mỏng manh, ta càng dễ tiêu diệt chúng.
Ngay lúc đầu Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy đã định dùng chiến thuật du kích để tiêu diệt địch.
Càng ngày chíng ta càng thấy những ý định trên là sáng suốt, nhất là trong cuộc địch tấn công vào Việt Bắc, chúng ta càng thấy rõ như thế” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 341)
– Trần Lực: “Giấc ngủ mười năm”, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Việt Bắc, 1949. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 605-623). Trong truyện ngắn này, có khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
– ZIN: “Chúng tôi vững tin vào thắng lợi cuối cùng của mình”, tuần báo Vì một nền hoà bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân, bản tiếng Pháp 21-8-1953: “Việc học tập những vấn đề trên được thực hiện trên cơ sở những tác phẩm của Mác, Angghen, Lênin, Xtalin và báo cáo của đồng chí Malencốp tại Đại hội 19 Đảng CSLXô, những tác phẩm của đồng chí Mao Trạch Đông, những bài viết của đồng chí Hồ Chí Minh, những văn kiện của Đảng” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 101).
[34] “Các chế độ quân chủ sùng kính Khổng Tử không chỉ vì ông không cách mạng mà vì ông đã tuyên truyền cật lực cho các chế độ ấy. Nếu Khổng Tử sống đến ngày nay và nếu ông ấy cứ bám mãi lấy những quan điểm ấy, ông ấy sẽ là phản cách mạng. Có thể ông siêu nhân ấy sẽ nhân nhượng hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành môn đệ của Lênin… Đối với người Việt Nam chúng ta, chúng ta hãy bồi dưỡng trí tuệ mình bằng cách đọc tác phẩm của Khổng Tử, và cách mạng hoá mình bằng cách đọc tác phẩm của Lênin” (Xem Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese Communism, 1925-1945, Sđd, tr. 80).
[35] Hãy nhớ lại đoạn văn sau đây trong sách của Trần Dân Tiên: “Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không?” – “Không, tôi rất tiếc là tôi không biết.” – “Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?” – “Còn gì bằng nữa!” – “Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa!” Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến”. ( Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 19).
Stalin cũng đã được bộ máy tuyên truyền cộng sản Đệ Tam nhiều nơi xưng tụng là “le génial petit père des peuples” – “người cha già nhỏ thiên tài của các dân tộc”! Quyền sinh sát của Stalin ghê gớm nhưng vẫn chưa được đưa lên bàn thờ.
[36] Tôi được nghe kể một câu giai thoại nhỏ về tính khiêm tốn của Hồ Chí Minh: khi nghe người ta hô “Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông bèn giễu lại: “Hồ Chí Minh muốn nằm!”. Nghe có vẻ vui, nhưng cũng có vẻ “kịch”! Tính chất “kịch” trong ứng xử của Hồ Chí Minh, nhiều người quanh ông đã nhận ra. Sau đây là câu chuyện do một cán bộ thông tấn thuật lại. Trong đoàn người khá đông tháp tùng theo ông Hồ đi thăm một vùng nông thôn miền Bắc sau 1954, có ai đó đã vô tình đạp lên một vài khóm mạ vừa cấy xong và bỏ đi luôn. Nhưng điều đó lại được ông Hồ chú ý, ông dừng lại và tự mình vun lại khóm mạ cho ngay ngắn. Thuật lại chuyến thăm viếng ấy trong một bài báo, người cán bộ thông tấn đã cố tình không nói gì đến chi tiết khóm mạ bị đạp. Tác giả bài báo đã được tổng biên tập mời đến cho biết chính Bác Hồ đã đọc bản thảo và hỏi tại sao tác giả lại không nói gì đến chi tiết đó! Người cán bộ thông tấn ấy lắc đầu và nói thêm: Ông Cụ rất rành về chuyện viết báo tuyên truyền, muốn qua mặt Cụ một chút mà không được!
[37] Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh) xác nhận đã nói với bà Phan Thị Minh những lời sau đây: “Bác thường không nói chính thức về quá trình hoạt động trước đây cũng như những mối quan hệ của Bác trước đây. Hễ trực tiếp hỏi Bác thường tránh không trả lời. Vì vậy các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Tố Hữu v.v… thường nhắc tôi tìm cách gợi chuyện để Bác nói, trong khi vui chuyện, trong bữa cơm chẳng hạn… Phải cố nhớ để sau này ghi lại, nếu Bác thấy đưa giấy bút ra là thôi không nói nữa. Định bố trí máy ghi âm ghi trộm cũng không làm được” (Phan Thị Minh: “Về quan hệ giữa Phan Chu Trinh và Nguyễn Ái Quốc”, trong Thu Trang: Những hoạt động của Phan Chu Trinh tại Pháp 1911-1925, Sđd, tr. 125)
[38] “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, tr. 128.
[39] Những nhà sùng bái thường dựa vào hai câu nói này đưa ra luận điểm gọi là “kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”, coi đó là sự sáng tạo của “nhà lý luận thiên tài” Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia: “Lời giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập”, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 1, Sđd, tr. X). Nhận định ấy dựa trên giả định về sự đồng hàng của khái niệm “dân tộc” với “chủ nghĩa xã hội”. Như chúng ta đã phân tích, điều đó không phù hợp với “Luận cương” của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và cũng không phù hợp với sự tiếp thu của Hồ Chí Minh đối với luận cương ấy của Lenin.
[40] “Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ”, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 1, tr. 466-467.
[41] Stalin đã diễn đạt quan điểm đó của Lenin như sau: “Lênin đã nhìn thấy trong phong trào giải phóng dân tộc ở những nước bị áp bức tiềm năng cách mạng và đã không ngại sử dụng để chống chủ nghĩa đế quốc. Sở dĩ như vậy là vì về mặt khách quan, phong trào đó có lợi cho cuộc cách mạng vô sản toàn cầu. Có những phong trào không có giai cấp vô sản tham gia, cũng không có những cương lĩnh cộng hoà, nhưng nếu có tác dụng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc thì giai cấp vô sản vẫn ủng hộ. Trái lại cũng có những phong trào, tuy có nguồn gốc vô sản, tự xưng là cách mạng dân chủ, như bọn Đệ Nhị, nhưng khách quan làm lợi cho chủ nghĩa đế quốc thì phải bị tẩy chay. Chỉ ủng hộ những phong trào dân tộc nào làm suy yếu hoặc lật đổ chủ nghĩa đế quốc chứ không phải là duy trì và củng cố nó”. (Staline: Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin (1924). Trong Hélène Carrère: Sđd, tr. 250-253).
Lý luận thì như vậy, nhưng trong thực tế, đối với những người theo chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ là một khái niệm bình phong: nó được sử dụng để các nước lớn lôi cuốn những nước đàn em vào vòng khống chế của mình; trong khi đó thì những nước nhỏ này lại làm ngược lại: lúc thì để mè nheo xin “giúp đỡ” khi thì để chống lại sự o ép của các đàn anh. Bắt nguồn từ học thuyết của Marx, qua phong trào quốc tế Đệ Tam, khái niệm quốc tế vô sản đã biến dạng thành một ý thức hệ phản mác-xít hoàn toàn: thực chất đó chính là chủ nghĩa dân tộc-cộng sản.
[42] Trong lý luận mác-xít, hai khái niệm này (chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản) loại trừ nhau với tư cách là những ý thức hệ. Để tránh phải đối diện trực tiếp với những khó khăn về lý luận, những nhà ý thức hệ cộng sản Việt Nam thường hết sức nhấn mạnh đến mấy chữ “chủ nghĩa yêu nước” để từ đó “kết hợp” với “chủ nghĩa xã hội” với tham vọng tạo ra một thứ ý thức hệ độc đáo cho Việt Nam (“tư tưởng Hồ Chí Minh”). Nhưng có lẽ cảm thấy khái niệm này hơi gượng ép và có vẻ phi tư tưởng (bất cứ cái gì có cái đuôi isme trong tiếng Pháp, dù có nội dung như thế nào, cũng đều được dịch ra là “chủ nghĩa”), những nhà ý thức hệ ấy đã “sáng tạo” một khái niệm mới mà có lẽ trên thế giới chưa ai biết đến: đó là “tư tưởng yêu nước” hoặc “tư duy yêu nước”!
Khái niệm này đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hoá sử dụng hết sức tuỳ tiện, nhưng ồn ào nhất có lẽ là ông Trần Văn Giàu, một người đại diện tiêu biểu cho lý luận giấu mặt về chủ nghĩa dân tộc-cộng sản của Việt Nam: “… chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không phải chỉ là một tình cảm hời hợt, mà là cả một hệ thống tư tưởng rất phong phú, cho đến nay hãy còn nhiều điểm nội dung đang chờ sức khám phá của các nhà sử học và các nhà triết học” (Trần Văn Giàu: Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, Nhà xuất bản văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1983, tr. 14).
[43] Ý “hơn hẳn” này là của George K. Tanham, nhà phân tích chống nổi dậy của nhà nước Mỹ phục vụ cho cuộc chiến tranh với Việt Nam. Xem George K. Tanham: “Nationalism and Revolution”, Asia N. 4, Winter 1966, p. 42.
[44] Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), viết cho tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của V. I. Lênin (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Sđd, tr. 128). Trả lời Charles Fourniau báo L'humanité, nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 100 của Lenin (1969), Hồ Chí Minh đã chép lại rất nhiều ý cùng với chữ “cẩm nang” trong bài viết cũ nói trên. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 469-476).
[45] “Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản” (“Thường thức chính trị”, ký Đ.X, 1953, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 7, tr. 209).
[46] Một phần của cái mô hình ấy, đã được Stalin tổng kết sau này trong cuốn Những vấn đề kinh tế xã hội ở Liên Xô và cuốn sách này đã được Hồ Chí Minh đem ra giới thiệu với Đảng trong môt khoá họp Ban Chấp hành năm 1953, ngay cả khi chưa hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, bằng những lời lẽ hết sức sùng bái và chỉ thị cho Đảng “phải áp dụng vào hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc của chúng ta”. (“Báo cáo trước hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng”, khóa II, ngày 25-1-1953 về Đại hội 19 cuả Đảng CS Liên Xô (10-1952). Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 10.
[47] Lời giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. VIII.