Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014
Các mục đích cơ bản của việc đầu tư
20:43
Hoàng Phong Nhã
No comments
muốn tỷ suất sinh lợi thật cao, nhưng cũng không ít cá
nhân tìm kiếm cho mình sự an toàn. Liệu có sự đánh đổi giữa những mục
đích nêu trên không? Và nếu câu trả lời là “Có” thì ta phải đầu tư như
thế nào để phù hợp với mục đích mà mình muốn đạt được? Chúng ta hãy cùng
nhau tìm hiểu.
Những
lựa chọn cho việc đầu tư tiền tiết kiệm của chúng ta đang dần dần tăng
lên, và các phương tiện đầu tư đơn giản có thể được dễ dàng được phân
loại dựa trên ba đặc điểm cơ bản: sự an toàn, thu nhập và tăng trưởng,
tương ứng với các mục đích khác nhau của nhà đầu tư. Tuy nhà đầu tư vẫn
có khả năng đạt được nhiều hơn một trong những mục đích trên, nhưng để
một mục đích thành công thì ta phải chấp nhận đánh đổi với các mục đích
khác. Hãy kiểm tra ba mục đích kể trên, những phương pháp đầu tư giúp ta
đạt được chúng và những cách nhà đầu tư có thể kết hợp chúng để đưa ra
chiến lược giao dịch.
Nguồn: Internet
Phochungkhoan.vn
Sự an toàn (Safety)
Có
lẽ sự thật là không có phương pháp đầu tư nào an toàn tuyệt đối cả.
Chúng ta có thể đưa quỹ đầu tư của mình tiến gần tới mức an toàn cuối
cùng (ultimate safety) qua việc mua các loại chứng khoán do chính phủ
phát hành trong một hệ thống kinh tế ổn định, hoặc qua việc mua các trái
phiếu doanh nghiệp chất lượng cao nhất, được phát hành bởi những doanh
nghiệp hàng đầu trong nền kinh tế. Những chứng khoán như vậy được cho là
phương tiện tốt nhất để đảm bảo an toàn khi vẫn đem đến cho ta một tỷ
lệ lợi tức nhất định.
Các
khoản đầu tư an toàn nhất thường xuất hiện trong thị trường tiền tệ,
nơi mà có cả các chứng khoán như trái phiếu kho bạc (Treasury bills),
chứng chỉ tiền gửi (certificates of deposit), thương phiếu hoặc kỳ phiếu
ngân hàng (bankers' acceptance slips); hoặc trong thị trường có thu
nhập cố định dưới dạng trái phiếu địa phương (municipal bonds) và các
loại trái phiếu chính phủ khác (government bonds). Các chứng khoán được
liệt kê ở trên được sắp xếp theo thứ tự rủi ro và lợi tức tiềm năng tăng
dần. Để bù đắp cho mức rủi ro cao hơn, lợi tức trái phiếu doanh nghiệp
sẽ cao hơn so với trái phiếu kho bạc (T-bills).
Nguồn: Internet
Phochungkhoan.vn
Thu nhập (Income)
Các
khoản đầu tư an toàn nhất cũng là các khoản thường có tỷ suất lợi nhuận
hoặc lợi tức thấp nhất. Nhà đầu tư chắc chắn phải hy sinh mức độ an
toàn nếu họ muốn tăng lợi tức. Đây là quan hệ ngược chiều giữa sự an
toàn và lợi tức: khi lợi tức tăng lên, sự an toàn nhìn chung có xu hướng
giảm và ngược lại.
Để
gia tăng tỷ lệ lợi nhuận của việc đầu tư và chấp nhận mức rủi ro cao
hơn so với các công cụ trên thị trường tiền tệ hoặc trái phiếu chính
phủ, các nhà đầu tư có thể chọn mua trái phiếu doanh nghiệp hoặc cổ
phiếu ưu đãi với mức xếp hạng đầu tư thấp hơn. Trái phiếu được xếp hạng A
hoặc AA thì rủi ro hơn, nhưng có thể cho ta mức lợi nhuận hấp dẫn hơn
trái phiếu AAA. Đơn giản, trái phiếu xếp hạng BBB có thể được cho là
mang rủi ro trung bình nhưng đem lại thu nhập tiềm năng ít hơn so với
trái phiếu rác (junk bonds), loại trái phiếu mang lại lợi tức tiềm năng
cao nhất, nhưng rủi ro cũng cao nhất. Trái phiếu rác (junk bonds) có khả
năng vỡ nợ cao nhất.
Hầu
hết các nhà đầu tư, thậm chí với những người có đầu óc bảo thủ nhất,
muốn một mức sinh lời nhất định trong danh mục của họ, thậm chí nếu việc
đó chỉ để chống lại lạm phát của nền kinh tế. Nhưng tối đa hoá lợi
nhuận có thể là nguyên tắc bao quát cho một danh mục đầu tư, đặc biệt
với các cá nhân nào đòi hỏi một mức lợi nhuận cố định mỗi tháng từ danh
mục của mình. Một người nghỉ hưu yêu cầu một lượng tiền nhất định mỗi
tháng có thể làm được điều đó nhờ nắm giữ hợp lý các tài sản an toàn, mà
chính chúng cung cấp lượng tiền nhiều hơn các tài sản sinh tiền khác
(income-generating assets), như lương hưu chẳng hạn.
Nguồn: Internet
Phochungkhoan.vn
Tăng trưởng vốn (Growth of Capital)
Thảo
luận này do đó coi sự an toàn và lợi tức là các mục đích đầu tư, và đã
không xem xét tiềm năng cung cấp một khoản lợi nhuận nhờ gia tăng giá
trị của các tài sản khác, thường được gọi là “lời vốn” (capital gain).
Việc lời vốn hoàn toàn khác so với lợi tức ở chỗ nó chỉ được nhìn nhận
khi ta bán chứng khoán ở mức giá cao hơn mức giá ta mua trước đó. Nếu
bán ở một mức giá thấp hơn thì bị xem là lỗ vốn. Do đó các nhà đầu tư
tìm kiếm khoản lời vốn thường không phải là người cần lợi nhuận cố định
và liên tục từ danh mục đầu tư của họ, nhưng là những người tìm kiếm khả
năng tăng trưởng dài hạn.
Tăng
trưởng vốn thường liên quan mật thiết nhất với hình thức mua cổ phiếu
phổ thông, đặc biệt là các chứng khoán tăng trưởng, cho mức lợi tức thấp
nhưng lại rất có khả năng sẽ gia tăng giá trị. Vì lý do này, cổ phiếu
phổ thông nhìn chung nằm trong những khoản đầu tư mang tính đầu cơ cao
nhất vì lợi nhuận của chúng phụ thuộc vào diễn biến khó lường trong
tương lai. Các cổ phiếu Blue-chips (Blue-chip stocks), ngược lại, có
tiềm năng tốt nhất so với tất cả các loại nhờ độ an toàn hợp lý, thu
nhập vừa phải, và có tiềm năng tăng trưởng vốn nhờ doanh thu công ty
tăng trong dài hạn và lợi nhuận khi công ty trưởng thành. Cổ phiếu phổ
thông hiếm có khả năng cung cấp mức an toàn gần như tuyệt đối và mức sản
sinh thu nhập như trái phiếu chính phủ.
Cũng
quan trọng khi biết rằng khoản lời vốn đem lại lợi thế về thuế tiềm
năng nhờ mức thuế suất thấp theo hầu hết các quy định của phát luật.
Các
quỹ được tạo lập qua chào bán cổ phần phổ thông, chẳng hạn, thường
hướng về kế hoạch phát triển các công ty nhỏ, một quy trình cực kỳ quan
trọng đối với tăng trưởng kinh tế tổng thể. Nhằm khuyến khích đầu tư vào
các khu vực này, chính phủ chọn cách đánh thuế vào phần lời vốn thấp
hơn so với thuế thu nhập. Những hệ thống như vậy khuyến khích kinh doanh
và thành lập doanh nghiệp mới để giúp nền kinh tế tăng trưởng.
Mục đích thứ cấp (Secondary Objectives)
Tối thiểu hoá thuế (Tax Minimization)
Một
nhà đầu tư có thể theo đuổi các phương pháp đầu tư nhất định nhằm tối
thiểu hoá mức thuế như là một phần trong chiến lược giao dịch của anh
ta. Một người điều hành được trả lương cao chẳng hạn có thể muốn tìm các
khoản đầu tư có thuế suất ưu đãi để làm giảm gánh nặng thuế thu nhập.
Sử dụng kế hoạch IRA hoặc một kế hoạch nghỉ hưu tránh thuế khác, như 401
(k), có thể hiệu quả cho chiến lược tối thiểu hoá thuế.
Khả năng tiêu thụ (Marketability)/ Tính thanh khoản (Liquidity)
Nhiều
phương pháp đầu tư mà chúng ta đã thảo luận có tính lỏng (hay tính
lỏng) khá thấp, nghĩa là chúng không thể được bán ngay hay dễ dàng
chuyển thành tiền mặt. Đạt được tính thanh khoản, dù sao cũng đòi hỏi sự
hy sinh lợi nhuận hoặc lời vốn ở mức độ nào đó.
Cổ
phiếu phổ thông thường được xem là có tính lỏng cao nhất trong các công
cụ đầu tư, vì nó thường được bán trong một, hai ngày. Các trái phiếu
cũng có thể khá dễ bán, nhưng vài loại thì có tính lỏng cực thấp, hoặc
không giao dịch được, chúng sở hữu một trạng thái cố định. Tương tự như
vậy, các công cụ trên thị trường tiền tệ có thể chỉ được hoàn lại tại
ngày nhất định mà kỳ hạn cố định kết thúc. Nếu một nhà đầu tư tìm kiếm
tính thanh khoản, thì anh ta không nên đưa vào danh mục của mình những
tài sản trên thị trường tiền tệ và các loại trái phiếu không thể giao
dịch.
Điểm mấu chốt (The Bottom Line)
Như
chúng ta đã xem xét ở trên, luôn có sự đánh đổi giữa các mục đích. Nếu
một nhà đầu tư mong muốn tăng trưởng chẳng hạn, anh ta thường phải hy
sinh một ít lợi nhuận hoặc sự an toàn. Do đó, hầu hết các danh mục đầu
tư sẽ được “dẫn đường” bởi một mục đích ưu việt mà thôi, và các mục tiêu
khác chiếm tỷ trọng ít hơn trong kế hoạch tổng thể.
Chọn
một mục tiêu chiến lược đơn giản và phân bổ tỷ trọng hợp lý cho các mục
tiêu khác là một tiến trình phụ thuộc vào các yếu tố như tính khí nhà
đầu tư, hoàn cảnh cuộc sống của anh ta, tình trạng hôn nhân, tình trạng
gia đình và nhiều thứ khác. Trong số các mục tiêu đó, nhà đầu tư chắc
chắn phải tìm một sự phối hợp hợp lý các cơ hội đầu tư. Bạn chỉ cần dành
thời gian, sức lực hợp lý trong việc tìm kiếm, nghiên cứu, và quyết
định các cơ hội liên quan đến những mục tiêu của mình.
Nguồn: Investopedia
Nguyễn Hoàng Thịnh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét