Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014
Bài học từ Hải chiến Hoàng Sa 1974
23:21
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tác giả: Ngô Minh Trí & Koh S.L. Collin | Biên dịch: Nguyễn Thị Nhung
Đã bốn mươi
năm trôi qua, nhưng đến hôm nay những bài học từ trận hải chiến Hoàng
Sa vẫn còn nguyên giá trị cho quá trình hiện đại hóa hải quân của Việt
Nam
Vào ngày
16/01/1974, Lực lượng Hải quân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) phát hiện
nhóm lính thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) có mặt
trên nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group) ở phía tây quần đảo Hoàng Sa
(lúc bấy giờ thuộc sở hữu của chính quyền Nam Việt Nam). Lúc này Nhóm
đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) ở phía đông Hoàng Sa thuộc quyền kiểm
soát của Trung Quốc, còn Nam Việt Nam nắm giữ Nhóm đảo Lưỡi Liềm. Dù vào
thời điểm đó Mỹ đã cắt giảm hỗ trợ quân sự dành cho chính quyền Sài Gòn
sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973, dẫn đến việc Nam Việt Nam cũng
cho rút dần các lực lượng đồn trú trên quần đảo, nhưng đây thực sự là
một diễn biến bất ngờ do Trung Quốc chưa bao giờ tiến hành bất kỳ hành
động đơn phương nào để phá vỡ nguyên trạng.
Hai ngày tiếp
theo, lực lượng hải quân hai bên đã có các vụ va chạm ở cự ly gần, và
sau đó đấu pháo nổ ra khi quân Nam Việt Nam cố gắng giành lại Đảo Quang
Hòa (Duncan Island). Cuộc đụng độ tiếp tục leo thang, trong đó Trung
Quốc nắm thế áp đảo với lực lượng tăng viện được cử đến khu vực giao
tranh, bao gồm cả yểm trợ không quân triển khai từ đảo Hải Nam gần đó và
các tàu tuần tra tên lửa lớp Hải Nam. Trước tình hình bất lợi là Mỹ đã
cắt giảm hỗ trợ hải quân và Hạm đội 7 của Hải quân Hoa Kỳ đang rút dần
sự hiện diện trên Biển Đông theo hiệp định hòa bình năm 1973, Hải quân
VNCH đã bị đánh bại thảm hại. Bắc Kinh sau đó đã nhanh chóng tận dụng
chiến thắng này để cho đổ bộ lực lượng quy mô lớn và hoàn tất việc kiểm
soát quần đảo Hoàng Sa.
Hải chiến Hoàng
Sa từ đó đã đi vào lịch sử với ý nghĩa là trận đụng độ hải quân đầu
tiên giữa Việt Nam và Trung Quốc trong cuộc tranh giành quyền kiểm soát
các đảo trên Biển Đông. Trận giao tranh trên biển tái diễn giữa hai nước
tại khu vực gần quần đảo Trường Sa vào năm 1988 là lần thứ hai và đến
nay cũng là lần cuối cùng. Kể từ đó, căng thẳng đã lắng dịu. Việt Nam và
Trung Quốc vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc trao đổi cấp đảng lãnh đạo
và giữa quân đội hai nước (bao gồm cả sự kiện đoàn đại biểu Hạm đội Nam
Hải của Hải quân PLA đến thăm một căn cứ hải quân của Việt Nam theo lời
mời). Bắc Kinh và Hà Nội gần đây cũng đã bắt đầu thực hiện những cuộc
tham vấn song phương về vấn đề hợp tác phát triển nguồn tài nguyên biển
tại Biển Đông.
Tuy nhiên, từ
trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974, chúng ta vẫn có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm hữu ích và có giá trị lâu dài cho Hà Nội cũng như công
cuộc hiện đại hóa lực lượng hải quân mà Việt Nam đang thực hiện, đặc
biệt là trước những diễn biến địa chính trị hiện nay.
Bài học lịch sử thứ nhất: Ngoại giao là giải pháp đầu tiên… nhưng không phải là duy nhất
Không có bất cứ
hiệp định khu vực và quốc tế nào có thể tạo thành lá chắn tuyệt đối
trước các hành động đơn phương, dù là sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng
vũ lực. Bản Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) ký kết
năm 2002 giữa Trung Quốc và các nước có tranh chấp tại Đông Nam Á là một
bước ngoặt lớn nhưng lại không hoàn toàn hiệu quả. Trên thực tế, các
hành vi đơn phương đe dọa sử dụng hay thực sự sử dụng vũ lực với mục
đích lật đổ nguyên trạng hiện nay trên Biển Đông vẫn tiếp tục diễn ra
như một xu thế áp đảo. Đoạn video hiện trường do đài CCTV Trung Quốc
công bố vào tháng 1/2014 vừa qua đã quay lại một cuộc đụng độ giữa các
tàu chấp pháp của Việt Nam và Trung Quốc từ năm 2007 ở vùng biển quanh
quần đảo Hoàng Sa. Gần đây hơn, Biển Đông liên tục chứng kiến các vụ
căng thẳng, bao gồm hành động quấy nhiễu tàu thăm dò địa chấn phía Việt
Nam của Trung Quốc, vụ đối đầu Trung Quốc – Philippines tại Bãi cạn
Scarborough/Hoàng Nham vào tháng 4/2012, và tiếp đó là hành vi khoa
trương lực lượng của các tàu tuần tra và khu trục hải quân Trung Quốc
tại Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) mà Philippines đang nắm quyền kiểm
soát. Những tình tiết này chứa nhiều điểm tương đồng đến kỳ lạ với kịch
bản đụng độ hải quân trước kia từng dẫn đến trận hải chiến dữ dội năm
1974
Trong khi các
bên tranh chấp ở Biển Đông đã ngồi lại tham dự vào những cuộc tham vấn
về Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC), Bắc Kinh từ tuyên bố đơn phương
trước đó về áp đặt Vùng nhận dạng phòng không (air defense
identification zone – ADIZ) trên biển Hoa Đông vào tháng 12/2013 đã lên
tiếng khẳng định mình có đủ những quyền không thể tranh cãi cho việc
thiết lập các vùng ADIZ lên những khu vực khác nếu muốn. Một Vùng nhận
dạng phòng không trên Biển Đông một khi được thiết lập chắc chắn sẽ củng
cố lợi thế cho Bắc Kinh tại các vùng biển tranh chấp ở đây, bởi nó hỗ
trợ cho các lệnh cấm đánh bắt mà nước này đơn phương áp đặt hàng năm,
tăng cường quyền thi hành luật biển mở rộng trước đó cho chính quyền đảo
Hải Nam cũng như luật ngư nghiệp được thông qua mới đây, theo đó yêu
cầu tàu bè đánh bắt cá của nước khác phải có sự cho phép của Bắc Kinh
mới được hoạt động trên phần lớn Biển Đông. Những diễn biến trên nếu
tiếp tục phát triển sẽ chỉ đẩy cao nguy cơ bùng nổ xung đột nóng trên
Biển Đông, dù là vô tình hay có suy tính trước.
Bài học lịch sử số 2: Không phải lúc nào các cường quốc ngoài khu vực cũng ở kề bên, và không phải lúc nào họ cũng giúp đỡ
Hiện nay các
cường quốc ngoài khu vực ngày càng có nhiều lợi ích ràng buộc tại Biển
Đông. Ngoài chính sách tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ,
Nhật Bản dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe thời gian qua cũng tích cực đẩy
mạnh các hoạt động ngoại giao của mình ở Đông Nam Á, một trong những mục
đích của chính sách này là nâng cao lập trường lãnh hải của Tokyo trên
biển Hoa Đông. Việt Nam chính là một trong những nước được hưởng lợi
nhiều nhất từ chiến lược này. Nhân dịp Đối thoại Chính sách Quốc phòng
Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 4 tổ chức tại Washington vào cuối tháng
10/2013, hai bên đã đi đến ký kết một thỏa thuận tăng cường hợp tác an
ninh hàng hải. Cũng trong tháng này, có nguồn tin cho hay Tokyo đã rất
nhiệt tình với việc cung cấp các tàu tuần tra cho Việt Nam trong một
phần của kế hoạch đẩy nhanh quá trình xây dựng tiềm lực an ninh hàng hải
của quốc gia Đông Nam Á này. Đáng chú ý không kém, Hà Nội cũng đang có
mối liên kết thân tình với New Delhi, trước đó họ đã chào đón nhiều
chuyến viếng thăm cảng thường xuyên của Hải quân Ấn Độ trong một thập kỷ
qua.
Tuy vậy, không
có cường quốc ngoài khu vực nào thể hiện rõ thái độ đứng về một bên cụ
thể trong các tranh chấp Biển Đông, mà chủ yếu chỉ hướng tập trung vào
duy nhất tự do hàng hải. Điều này đồng nghĩa với việc ngay cả trong
trường hợp các tuyến đường giao thương hàng hải huyết mạch bị bóng đen
xung đột vũ trang trên Biển Đông đe dọa, và Washington hay Tokyo có
nguyên nhân chính đáng để can dự vào đây, thì khả năng họ hay bất kỳ thế
lực ngoài khu vực nào sẽ giang tay hỗ trợ cho các bên tranh chấp vẫn
không thể đoán định. Ví dụ như nếu Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại châu
Á – Thái Bình Dương (U.S. Pacific Command) có thể phát hiện những ám
hiệu về hoạt động quân sự bất thường phía Trung Quốc trên Biển Đông,
siêu cường này có thể không phản ứng kịp thời. Trong quá trình triển
khai một phần chiến lược tái cân bằng, Hạm đội Hải quân Số 7 của Hoa Kỳ
đã tăng cường hoạt động tuần tra biển trong khu vực này: theo công bố,
tàu chiến đấu ven biển mới mang tên U.S.S Freedom đang thực hiện những
nhiệm vụ vượt mức công tác huấn luyện thông thường trong khu vực, trong
khi có thông tin cho biết tuần tra biển trên không cũng đã được Hải quân
Hoa Kỳ đẩy mạnh kể từ tháng 7/2012.
Tuy nhiên,
trong thời gian diễn ra giao tranh năm 1974, Sài Gòn từng tìm kiếm hỗ
trợ từ Hạm đội Số 7 của Mỹ, nhưng lực lượng này đã tuân theo mệnh lệnh
không can dự vào tranh chấp, và kết quả là Hải quân Nam Việt Nam hoàn
toàn đơn độc khi chiến đấu tại quần đảo Hoàng Sa. Ngày nay Washington
cũng có lý do để áp dụng quan điểm tương tự, ngay cả nếu một cuộc giao
tranh hải quân khác thực sự tái bùng nổ giữa Trung Quốc và Việt Nam, đặc
biệt là khi ở các tình huống đối đầu cục bộ, tranh chấp không hẳn sẽ
gây ảnh hưởng đến tự do hàng hải của các bên khác.
Hơn nữa, Hạm
đội Nam Hải của Hải quân PLA hiện tại và trong tương lai không còn là
một lực lượng yếu kém, chỉ bám sát ven biển và vận hành những trang
thiết bị tấn công và tuần tra cỡ nhỏ thời Liên Xô cũ như trước nữa. Sau
một thời gian tích lũy đầu tư nâng cấp về năng lực triển khai lực lượng,
bao gồm cả khả năng tiến công đổ bộ, Hải quân PLA ngày nay đã sở hữu
nền tảng vững chắc hơn so với thời kỳ năm 1974, đồng thời đủ sức triển
khai lực lượng trên quy mô lớn trong một khoảng thời gian dài liên tục, ở
những khu vực xa bờ hơn để phục vụ cho mục tiêu khẳng định chủ quyền,
và sức mạnh chiến đấu tổng quát của lực lượng này cũng hứa hẹn sẽ hùng
mạnh hơn rất nhiều một khi được “cởi trói” ra Biển Đông.
Bài học lịch sử số 3: Cần phải sở hữu ít nhất một lực lượng kiểm soát biển hữu hạn
Chắc chắn Việt
Nam sẽ không thể đuổi kịp năng lực hải quân của PLA trên Biển Đông về
quy mô và số lượng. Như các phát biểu chính sách Hà Nội, một cuộc chạy
đua vũ trang với Trung Quốc không chỉ là một ý định bất khả thi từ trứng
nước, mà còn được đánh giá là chứa đựng nguy cơ tiềm ẩn đối với công
cuộc Đổi mới mà Việt Nam đang tiến hành. Quá trình hiện đại hóa hải quân
của Việt Nam thời hậu Chiến Tranh Lạnh đã được xác định là nhằm lấp đầy
những thiếu sót năng lực sau hàng thập kỷ bị bỏ bê.
Trong những năm
gần đây, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể
khi sở hữu dàn máy móc mới thay thế cho những phương tiện lạc hậu từ
thời Liên Xô. Tuy nhiên, những trang thiết bị mới, chủ yếu là do Nga
cung cấp như tàu khu trục nhẹ Gepard-3.9, tàu ngầm lớp Kilo, máy bay đa
chức năng Su-30MK2V Flanker được trang bị để tấn công trên biển và hệ
thống tên lửa phòng thủ bờ biển Yakhont/Bastion, các tàu hộ thống lớp
SIGMA của Hà Lan cũng như những tàu tấn công và tuần duyên sản xuất
trong nước,… tất cả để cho thấy một quá trình hiện đại hóa lực lượng chủ
yếu nhằm vào mục tiêu ngăn chặn mọi thế lực thù địch tiếp cận với vùng
tranh chấp. Dù vậy, những thiết bị này không chứng tỏ năng lực đảm bảo
khả năng tiếp cận của chính Việt Nam.
Tuy nhiên, trận
Hải chiến Hoàng Sa vào năm 1974 đã nhấn mạnh cho Việt Nam ngày nay một
bài học: ngăn chặn kẻ thù chỉ bằng cách phong tỏa các thực thể đảo đá
trên Biển Đông là chưa đủa, mà quan trọng hơn còn phải đảm bảo khả năng
tiếp cận của chính mình tới những đơn vị đồn trú có vị trí dễ bị tấn
công và nhạy cảm trên Biển Đông. Chỉ có cuộc chuyển đổi từ năng lực ngăn
chặn sang kiểm soát trên biển mới hy vọng có thể đạt được điều này.
Trong bối cảnh khu vực dọc biên giới trên bộ với các nước láng giềng vẫn
được duy trì trong hòa bình, Việt Nam nên tân dụng cơ hội để tập trung
vào năng lực chiến đấu trên biển bằng không lực.
Với một Việt
Nam luôn đi theo hướng duy trì nguyên trạng (cũng giống như chính sách
mà chính quyền Sài Gòn năm 1974 theo đuổi) và trong bối cảnh hải chiến
trên Biển Đông có nguy cơ tái diễn, lực lượng quần đảo Việt Nam càng có
thêm lý do để giành lại các thực thể trên biển đã bị chiếm cứ, hoặc ít
nhất là củng cố những căn cứ mà họ đang đồn trú trước mối đe dọa bị tấn
công vũ trang. Theo kịch bản này, tình thế khó khăn của quốc phòng Việt
Nam có lẽ cũng không khác so với của Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Trong
chiến lược quốc phòng mới công bố gần đây, Tokyo đã vạch rõ tính cấp
thiết của chính sách phòng ngự cơ động hợp nhất và mạnh bạo , để chủ
động dự trù cho tương lai Lực lượng Tự vệ nước này cần tái chiếm các đảo
thuộc biển Hoa Đông trong thời gian xảy ra chiến sự căng thẳng. Tất
nhiên Việt Nam không thể hy vọng tập trung được trang thiết bị ngang với
sức mạnh của Nhật Bản do còn nhiều hạn chế về kinh tế. Để xây dựng được
quân lực kiểm soát biển tốt, ít nhất là ở mức hữu hạn, Hà Nội nên tập
trung vào việc cải thiện khả năng báo hiệu sớm (early warning) và hải
vận đổ bộ (amphibious sealift) trên phạm vi rộng.
Nhiệm vụ cảnh
báo sớm của Việt Nam hiện tại đang được trao cho một mạng lưới giám sát
điện tử cố định lắp đặt dọc bờ biển Việt Nam và trên những thực thể ở
Biển Đông thuộc sở hữu của nước này, và chỉ những năm gần đây máy bay
tuần dương mới được tăng cường bổ sung cho lực lượng hải quân và cảnh
sát biển Việt Nam. Những máy bay này có nhiệm vụ chủ yếu là do thám trên
bề mặt biển, nhưng lại chịu hạn chế về thời gian hoạt động cũng như
thiếu khả năng chiến đấu chống tàu ngầm phù hợp, đặc biệt là trong bối
cảnh thách thức trong lòng biển của PLA càng tăng cao. Một lực lượng
không quân tuần dương với khả năng hoạt động kéo dài và được lắp đặt cảm
biến tầm xa chính là phương tiện thích hợp cho thời điểm hiện tại, và
có lẽ sẽ bám trụ tốt hơn những thiết bị lắp đặt cố định.
Thủy quân
lục chiến của Việt Nam – lực lượng chuyên trách tiến công đổ bộ, sau
nhiều lần cải tổ trong những thập niên qua đã trở nên gọn nhẹ nhưng cũng
tinh nhuệ hơn, sở hữu trang thiết bị tiên tiến hơn. Mặc dù vậy, lực
lượng này vẫn còn yếu về mặt chuyển quân, trong khi các tàu đổ bộ thời
Liên Xô và tàu cổ của Mỹ đã quá cũ và gần như không thể hoạt động. Các
công ty đóng tàu hải quân non kém của Hà Nội đến nay đã cho xuất xưởng
một vài phương tiện vận chuyển tấn công mới, có vẻ như để lấp đầy lỗ
hổng này. Tuy nhiên, Thủy quân lục chiến của Việt Nam cần phải bổ sung
thêm một số lượng tàu lớn hơn thế nếu muốn triển khai các lực lượng vững
mạnh hơn, hoạt động với tốc độ cao hơn để có thể củng cố những căn cứ
đóng quân trên Biển Đông hoặc tái chiếm chúng từ đối thủ.
Những suy nghĩ cuối cùng
Hải chiến Hoàng
Sa đã qua đi bốn mươi năm. Tuy vậy, dù Biển Đông đến nay tương đối tĩnh
lặng, đây vẫn là bài học nhắc nhở Hà Nội tiếp tục thận trọng qua việc
duy trì nhịp độ đẩy nhanh hiện đại hóa hải quân. Trong khi ngoại giao
vẫn đang là phương sách được ưa chuộng và các cường quốc ngoài khu vực
ngày càng phụ thuộc mạnh mẽ vào khu vực, sức mạnh quân sự tương xứng
theo chính sách phòng vệ tự lực vẫn còn rất cần thiết, nhất là khi khu
vực tiếp tục còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Để duy trì nguyên trạng trên Biển
Đông, so với quân lực VNCH, lực lượng Không quân và Hải quân của Việt
Nam hiện tại và trong tương lai đang và sẽ phải đối mặt với một thách
thức còn lớn hơn gấp nhiều lần.
Nguồn: The Diplomat
0 nhận xét:
Đăng nhận xét