Nguyễn Trung
Hà Nội
Như tựa của nó, bài viết này chỉ nêu lên những
vấn đề chính Việt Nam sẽ phải đối mặt trong
thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Với suy nghĩ cho rằng cần làm rõ
được những vấn đề đặt ra trước khi suy nghĩ
về các giải pháp, bài này không đề cập tới, mà
xin dành việc bàn về các giải pháp cho các dịp khác. Với tất
cả tinh thần trách nhiệm của mình, người viết bài này đưa ra
cách nhìn riêng về một số vấn đề, để ai quan tâm thì tham
khảo. Vì hiểu biết và điều kiện làm việc rất giới hạn,
những ý kiến trong bài chắc chắn có nhiều thiếu sót, mong
được bổ khuyết.
Kính
dâng Tổ quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long
I. Vấn đề đặt ra
Việt Nam, kể từ 1986, sau một phần tư thế kỷ thực hiện sự thay đổi
căn bản mang tên là đổi mới, đã kết thúc thời kỳ phát
triển theo chiều rộng với nhiều thành tựu to lớn có tính bước ngoặt,
thay đổi bộ mặt đất nước và được thế giới ghi nhận. Cần nhận định
dứt khoát như vậy để gỡ bỏ mọi rào cản, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đổi mới. Cần nhận định dứt khoát như vậy trước khi tìm hiểu những
vấn đề đặt ra cho Việt Nam phía trước trên con đường phát triển của
mình.
Mặt khác, cũng phải tỉnh táo nhìn nhận, so với chính ta trước kia,
những thành tựu đạt được trong 25 năm qua là rất to lớn; nhưng nếu
so với chặng đường 25 năm đầu tiên trên con đường trở thành NIC
(nước mới công nghiệp hóa) của Hàn Quốc, Đài Loan.., nước ta phát
triển như thế là chậm, so với những thách thức hiện tại và phía
trước nước ta phải đối mặt lại càng chậm. Nên có cái nhìn nhiều
chiều như vậy để định liệu công việc của mình, và nhờ đó có thể “đỡ”
rơi vào bệnh “mẹ hát con khen hay”!
Việt Nam bước vào thập kỷ 2020 đúng vào lúc kinh tế thế giới – trước
hết là những nền kinh tế lớn mà đầu tàu là kinh tế Mỹ - đang tìm
cách ra khỏi cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống hiện nay để tìm
đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới. Trong khi đó Trung
Quốc đang dấn bước vào thập kỷ 2020 với mọi nỗ lực quyết liệt nhất
để đi nhanh hơn nữa trên con đường trở thành siêu cường vào giữa thế
kỷ này; giới nghiên cứu trên thế giới hầu như có cùng nhận định: Thập kỷ 2010 đánh dấu bước ngoặt mang tính thời đại của
Trung Quốc trên đường đi tới siêu cường, thập kỷ 2020 hiện tượng
Trung Quốc sẽ còn nóng bỏng hơn nữa trên trường quốc tế.[1]
Như vậy, thập kỷ 2020 đến với Việt Nam với ba đặc điểm. Thứ
nhất, thế giới đang tìm đường ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay,
trên thực tế là đang phải tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát
triển mới khác trước. Thứ hai, hiện tượng Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường
ngày càng trở nên nóng bỏng trên trường quốc tế - nhất là tại khu
vực. Và thứ ba, Việt Nam vừa phải thích nghi với bối cảnh thế giới
mới rất quyết liệt so với trước, đồng thời vừa phải tự mình tìm
đường chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn để có thể đứng
vững trong tình hình mới.
Ba
đặc điểm ấy đặt ra cho Việt Nam
nhiều thách thức mới, tới mức có thể nói:
Kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước
ngày 30 Tháng Tư năm 1975, do đòi hỏi trong nước và bối cảnh quốc tế
mới, chưa bao giờ mà độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và
tương lai phát triển của đất nước phải đối phó với nhiều thử thách
nguy hiểm và quyết liệt như hiện nay. Cụ thể là con đường phát triển
của Việt Nam đang đặt ra nhiều đòi hỏi gắt gao, đồng thời cục
diện quốc tế và khu vực đang đi vào một bước ngoặt đặt nước ta trước
nhiều thách thức mới. Tất cả tạo nên sức ép căng thẳng bên ngoài và
bên trong, đòi hỏi cả nước phải dấn lên đối mặt.
Chỉ cần nhìn vào bức tranh thế giới, bản đồ địa chính trị hiện thời
của khu vực nước ta với một Trung Quốc đầy tham vọng, và nhìn vào
các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, vào các vấn đề an ninh quốc
phòng, vào những đòi hỏi của phát triển và cạnh tranh.., sẽ thấy rõ
những điều vừa trình bày. Tính chất quyết liệt của chặng đường nước
ta phải đi trong thập kỷ 2011-2020 là: Làm chủ được tình hình này sẽ
tạo thời cơ lớn cho tương lai của đất nước, thất bại trong xử lý
tình hình này, đất nước đi vào con đường đầy hiểm họa.
II.
Những nét mới trong bối cảnh quốc tế
liên quan mật thiết
đến nước ta
Cục
diện thế giới đang có thay đổi lớn về kinh tế cũng như về chính
trị. Những thay đổi này không náo nhiệt như khi chiến tranh lạnh vừa kết
thúc, song hầu như tác động sâu sắc hơn nhiều đến mọi quốc gia. Thậm
chí tại nhiều nước – kể cả Mỹ – cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
hiện nay tác động trực tiếp đến từng gia đình.
Cuộc đại khủng khoảng kinh tế thế giới đang diễn ra là vô tiền
khoáng hậu. Sau một năm (9-2008 tới 9-2009) đánh vật với cuộc
khủng hoảng này, các nền kinh tế lớn đã phải bỏ ra tổng cộng ước
khoảng trên 10 nghìn tỷ USD (tương đương với 2/3 GDP của cả nước Mỹ
và với 1/6 GDP toàn thế giới), đồng thời phải tiến hành nhiều liệu
pháp đau đớn mang tính điều chỉnh vĩ mô và hệ thống để cứu chữa.
Hiện nay cuộc khủng hoảng này được xem là đã chạm đáy; nhưng lối ra
có lẽ sẽ phải mất nhiều năm. Nguy cơ lại xảy ra khủng hoảng
mới ngấp nghé.
Chưa ai dám nói bao giờ và như thế nào kinh tế thế giới sẽ phục hồi
và lấy lại được sự phát triển năng động đã có như trong một hai thập
kỷ vừa qua. Tuy nhiên, có khá nhiều người trong giới nghiên cứu chia
sẻ ý kiến:
-
Khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay là một dạng đổ vỡ
của các hiện tượng kinh tế bong bóng của các nền kinh tế chủ chốt
trên thế giới – bắt đầu từ Mỹ, xảy ra chủ yếu do (a) sự đổ vỡ của
các thị trường tiền tệ, (b) sự bất cập của các thể chế tài chính
quốc gia trước sự vận động của đời sống kinh tế đang diễn ra,
(c) bản thân nền kinh tế có nhiều yếu tố của khủng hoảng thừa
mang thuộc tính cơ cấu;[2]
thực chất đấy là cuộc khủng hoảng có tính hệ thống rất sâu sắc
trên cả hai phương diện (a) bản thân cấu trúc kinh tế có những
mất cân đối lớn và (b) sự phá sản của tư duy kinh tế do chủ nghĩa
tân tự do chi phối; cuộc khủng hoảng này được coi là trầm trọng
nhất kể từ 1929-1933, để lại nhiều hậu quả nan giải;
-
Vì đòi hỏi phải thay đổi cả cấu trúc và tư duy, nên cuộc
khủng hoảng này của kinh tế thế giới mang tính chất là cuộc
khủng hoảng chuyển giai đoạn phát triển (transformational crisis), các quốc gia sẽ không thể giữ nguyên
cách làm ăn như lâu nay (kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc),
sẽ xuất hiện những điều chỉnh vĩ mô tại nhiều quốc gia theo
hướng quan tâm hơn nữa đến sự bền vững của thị trường nội địa và
của môi trường;
-
Hệ thống tài chính tiền tệ thế giới đang có những xáo
trộn lớn, buộc phải cải tổ cơ bản để hạn chế những rủi ro
̶
đặc biệt là trên 2 vấn đề: (1) Sự suy yếu ngày càng nhanh chóng
của đồng USD và (2) vai trò đang nổi lên đầy tính lũng đoạn của
đồng Nhân dân tệ (Trung Quốc);
-
Phải tăng cường hơn nữa vai trò điều tiết của nhà nước để
hỗ trợ “bàn tay vô hình” của thị trường; khung khổ WTO tuy vẫn
được duy trì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cọ xát mới gay gắt
hơn;
-
Phải sớm có các chính sách và biện pháp thân thiện hơn với môi trường
thiên nhiên để giảm thiểu các đại họa, tại nhiều
nước đã phải hướng mạnh tới nền kinh tế có hàm lượng carbon
thấp...
-
Phải thay đổi nhiều điều quan trọng trong tư duy kinh tế;
một số học giả nổi tiếng như Krugman, Stiglitz, Fukuyama, thượng
nghị sỹ Max Baucus... cho là kinh tế học hiện đại có nhiều điểm
lỗi thời.[3]
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay còn cho thấy những mặt
trái hay là những vấn đề do quá trình toàn cầu hóa đặt ra – nhất là
trong kinh tế
̶
mà mọi quốc gia đều phải đối
mặt.[4]
Cũng có thể nói cuộc khủng hoảng này đánh dấu một giai đoạn mới của
quá trình toàn cầu hóa với hai đặc điểm: bảo hộ có xu hướng gia
tăng, song cạnh tranh thâm nhập vào nhau cũng sẽ quyết liệt hơn.
Trong khi đó cục diện quốc tế có hai hiện tượng nổi bật nhất kết
thúc thời kỳ hậu chiến tranh lạnh:
(a) sự suy yếu nhanh chóng của siêu cường Mỹ,[5]
và
(b) vai
trò ngày càng nổi lên của các cường quốc khác – trước hết là Trung
Quốc, rồi đến Nga, Ấn Độ.
1. Sự suy yếu của Mỹ
Chiến tranh Iraq và chiến tranh chống khủng bố - trước hết là chống
Al-Qeada - Taliban – không đem lại kết quả như Mỹ đề ra, thậm chí
chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm, cùng với tình trạng từ năm 2008
Mỹ lâm vào khủng hoảng kinh tế nặng nề nhất từ khi cuộc Đại Suy
Thoái, đã khiến Mỹ phải điều chỉnh căn bản chiến lược toàn cầu của
mình. Mức độ điều chỉnh gay cấn đến nỗi Singapore cho rằng Mỹ đang
tạo ra khoảng trống cho Trung Quốc tung hoành ở châu Á.[6]
Để hiểu thực trạng kinh tế Mỹ trong khủng hoảng hiện nay, xin trích dẫn
phân tích sau đây của Francis Fukuyama:
“ ...Chỉ
riêng từ
năm
2001
đến năm 2008, (trước đó không tính) hơn 5 nghìn tỷ USD
tiền tiết kiệm của nước ngoài đã đổ vào nền kinh tế giàu nhất thế giới –
nước Mỹ, thúc đẩy một cao trào đi vay và kích thích quá mạnh chi tiêu
của các hộ gia đình cũng như các tập đoàn. Mức độ nợ liên tục gia tăng
và ở mức rất cao: khi xảy ra suy thoái đầu thập kỷ 1980 tổng nợ tư
nhân (hộ gia đình và các tập đoàn, công ty) mới chỉ là 123% GDP, nhưng
đã vọt lên 290% GDP năm 2008. Trong khoảng thời gian này, riêng nợ của
các hộ gia đình là 48% GDP đầu thập kỷ 1980 đã vọt lên tới 100% GDP vào
năm 2008. Vì vậy mọi cố gắng của Quỹ dự trữ Liên bang (Fed) tung tiền ra
để tăng thêm khả năng thanh toán của nước Mỹ chẳng còn mấy hiệu quả. Các
hộ gia đình và các tập đoàn lâm vào tình trạng suy sụp kéo dài hơn các
thời kỳ suy thoái trước. Người Mỹ bắt đầu phải học để trở thành người
tiết kiệm, nhất thiết phải như vậy. Nhưng việc tỉnh táo quay trở lại với
nghịch lý nổi tiếng của Keynes về sự tằn tiện lại gây ra cho nước Mỹ
bệnh thiếu máu!..” (Fukuyama 2009a)
Sự điều chỉnh này của Mỹ thực chất là sự thoái lui một bước quan
trọng có tính bắt buộc trong chiến lược toàn cầu so với thời George
W. Bush, nguyên nhân chủ yếu là lực bất tòng tâm. Mỹ hiện vẫn
là siêu cường số 1, song vai trò và ảnh hưởng của nó giảm sút
đáng kể so với thời kỳ ngay sau khi chiến tranh kết thúc.
Hiện tượng Obama thắng cử không đơn thuần chỉ là một thắng lợi độc
nhất vô nhị cho đến nay của thể chế dân chủ Mỹ và trên thế giới. Sâu
xa hơn thế, hiện tượng Obama nói lên tầm vóc điều chỉnh chiến lược
chưa từng có kể từ sau chiến tranh thế giới II mà Mỹ phải chấp nhận.
Điều đáng chú ý là so với tất cả mọi thời kỳ khác kể từ chiến tranh
thế giới II kết thúc, siêu cường Mỹ trong thời kỳ hậu chiến tranh
lạnh chiếm vị thế quốc tế cao nhất trong toàn bộ lịch sử của nó.
Song chính trong thế thượng phong này của thời kỳ hậu chiến tranh
lạnh, siêu cường Mỹ đã chịu nhiều thất bại và tổn thất nhất, đã sa
sút nhanh nhất so với tất cả các thời kỳ trước đó kể từ khi kết thúc
chiến tranh thế giới II. Nguyên nhân chủ yếu là “tham vọng và gánh
nặng đế chế” quá lớn cùng với sự đổ vỡ thảm hại của chủ nghĩa tân tự
do trong kinh tế. Sự thoái lui này diễn ra trong bối cảnh
Trung Quốc phát triển “rất nóng” trên con đường trở thành siêu
cường, vì thế trên thế giới đang manh nha những biến động chao đảo
của quá trình hình thành một trật tự mới, nhiều quốc gia sẽ chịu tác
động – trong đó có nước ta. Tình hình quyết liệt tới mức
chưa bao giờ sách báo và các phương tiện truyền thông Mỹ lại đầy rẫy
như hiện nay các nhận định, đánh giá về Hiện tượng chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trở thành chủ nghĩa tư bản toàn trị
đặc sắc Khổng giáo, về Sự giới hạn của quyền lực Mỹ,
về Chiến lược toàn cầu của Washington đang hủy hoại nước Mỹ,
về Triển vọng chẳng lấy gì làm sáng sủa của Obamanomics,
về Sự cáo chung của đế chế Mỹ, vân vân, - và về
…Thế giới trong thập kỷ tới này nghiêng về phương Đông!.[7]
Hiện tượng Obama cũng đồng thời cho thấy Mỹ quyết tâm thay đổi và có
lẽ có thể thay đổi được – chính điều này sẽ cho phép Mỹ tiếp tục
duy trì – dù không còn mạnh như trước – vị trí siêu cường
số 1 trong một thế giới đang tiến vào cục diện đa siêu
cường. Sự điều chỉnh của Obama trong kinh tế thông qua các luật pháp
mới và gói kích thích (stimulus) thực chất là một cuộc sắp xếp lại
và điều chỉnh lại nền kinh tế của họ. Rất nhiều khó khăn còn ở phía trước,
và tiếng nói trong nước Mỹ chỉ trích chính sách của Obama
không phải là ít. Đơn giản là cuộc cải cách nào cũng đau đớn; bởi vì
trong phạm vi nguồn lực có hạn xóa sổ ai, cứu ai đều vấp phải cọ xát
gay gắt. Hiện tượng Obama đánh dấu một thời kỳ thay đổi sâu sắc đang
diễn ra sôi động ở hầu hết các nước phát triển – mới đây nhất là sự kiện ngày 30-08-2009 thủ tướng Yukio
Hatoyama[8]
đảng Dân Chủ ở Nhật thắng cử, chấm dứt thời kỳ đảng
Dân chủ Tự do ngự trị chính quyền Nhật hơn nửa thế kỷ!
Nét nổi bật của điều chỉnh chiến lược toàn cầu của nước Mỹ Obama là:
Mỹ quyết rút khỏi Iraq để tập trung vào các vấn đề như mặt trận
chống Al-Qaeda – Taliban tại Afghanistan, vấn đề vũ khí hạt nhân của
Iran, vấn đề vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên... Ngày 17-9-2009 Mỹ
đi thêm một nước cờ chiến lược nữa là quyết định rút bỏ kế
hoạch lá chắn tên lửa Châu Âu để tăng thêm hòa hoãn với Nga
(đã được Nga hưởng ứng) và tập trung cố gắng tìm kiếm các khả năng
xử lý vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran. Bước đi này còn nhằm phân hóa
bớt các thế lực gây sức ép khác đối với Mỹ. Quan hệ Mỹ - Nga ấm hẳn
lên cho thấy tầm vóc của quyết định 17-09-2009. Khả năng nâng quan
hệ với Nga để tranh thủ thêm điều kiện đối phó với Iran đang được Mỹ
tính đến. Những cải cách trong đối nội của nước Mỹ đang diễn ra
càng làm rõ những thay đổi trong chiến lược đối ngoại của
nước này.
Có thể nói cải
cách, thay đổi theo cái mới là việc diễn ra thường xuyên và liên
tục năm này qua năm khác ở các nước phương Tây. Tuy nhiên những
thay đổi qua cuộc khủng hoảng này thực sự là một đợt cải cách
sâu rộng. Đặc biệt tại Mỹ, công việc điều chỉnh vỹ mô hiện nay
có lẽ quyết liệt hơn các cường quốc phương Tây khác, được bắt
đầu từ cải cách giáo dục, đổi mới việc đào tạo nguồn nhân lực,
đặt lại cách nhìn về “outsourcing” (lấy nguồn từ bên ngoài) và
cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế Mỹ trong tình hình mới (nhất
là trước tình hình sản phẩm Trung Quốc ngày càng thôn tính thị
trường Mỹ), cải cách mạnh mẽ các thể chế về tài chính, bảo hiểm
y tế, về điều hành kinh tế, v... v... Nói chung là không thể phó
thác cho “laissez faire” với bất kỳ giá nào của “chủ nghĩa tân
tự do” như đã diễn ra trong mấy thập kỷ vừa qua. Việc Mỹ ngày
11-9-2009 quyết định áp mức thuế 35% (mức cũ là 4%) đối với lốp
xe hơi nhập từ Trung Quốc, không đơn thuần chỉ là một hành động
“trả miếng”, mà còn liên quan mật thiết đến việc xem lại chủ
trương “outsourcing” (lấy nguồn lực từ bên ngoài) hiện nay. Tóm
lại, có thể nói: Nội dung cơ bản nhất của điều chỉnh vỹ mô ở Mỹ
hiện nay là chia tay với trạng thái cực đoan vừa qua của chủ
nghĩa tân tự do, hướng mạnh hơn vào nền kinh tế carbon thấp,
tăng cường vai trò kinh tế trong thị trường nội địa. Vì những lẽ
này, gọi đấy là sự điều chỉnh mang tính hệ thống. Còn có thể nói
một cách khác: Đó còn là sự điều chỉnh có nhiều dân chủ hơn.
Từ
tình hình trên, có thể thấy phát biểu của Tổng thống Obama
tại
phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 23-9-2009
''...đã đến lúc thế giới chuyển sang một hướng mới.
Chúng ta phải dấn thân vào một thời đại tiếp cận mới dựa
trên quyền lợi chung và cùng tôn trọng nhau...''
không đơn thuần là một lời nói ngoại giao, mà hàm ý rõ ràng kêu gọi
cộng đồng các quốc gia trên thế giới nỗ lực cho một cách sống
chung mới. Phát biểu này đánh đi tín hiệu khá rõ: Chính Mỹ cũng
đang tìm cách ứng xử mới trong thế giới ngày nay.
Liên quan đến Đông Nam Á, đặc biệt là Biển Đông, nhiều lần các nhà
quân sự Mỹ tuyên bố (ngay từ cuối thời George W. Bush): Mỹ đứng
ngoài việc tranh chấp biển đảo ở khu vực này, miễn là giữ được thông
thương tự do trên eo biển Malacca, các quyền lợi của Mỹ ở khu vực
này được bảo đảm, và không được đụng chạm đến Đài Loan. Có thể hiểu
đây sẽ là lằn ranh cuối cùng Mỹ sẽ có thể chấp nhận một khi
tình hình đòi hỏi bắt buộc phải như vậy.[9]
Mặt khác, Mỹ khuyến khích giải quyết những tranh chấp trên Biển
Đông trên diễn đàn đa phương giữa các nước liên quan ở Đông Nam Á.
Trong cuộc điều trần về Biển Đông tháng 7-2009, Thượng viện
Mỹ đã bày tỏ mối quan ngại sâu sắc của Mỹ về tình hình Trung Quốc
ngày càng lấn át về kinh tế và quân sự ở khu vực này. Cuộc điều trần
này cho thấy Mỹ muốn có thái độ chủ động hơn đối với các
nước trong khu vực Biển Đông, “...từ quan hệ về chính sách đến đối
thoại về chiến lược, lên tới tầm mức hoạt động quân sự, bằng cách
gia tăng khả năng quân sự cho các nước đối tác. Trong khi đó Hoa Kỳ
cũng tăng cường hoạt động ngoại giao quân sự với Trung Quốc, gia
tăng đối thoại để tránh nguy cơ tính toán sai lầm gây xung đột bất
ngờ”.[10]
Trong khi đó, tại cuộc họp ASEAN - Mỹ ngày 24-07-2009 ngoại trưởng Hillary
Clinton khẳng định Mỹ tiếp tục tăng cường quan hệ với ASEAN.[11]
Cũng không thể bỏ qua một thực tế khác là trong quan hệ song phương
Mỹ - Trung hiện nay, phía Mỹ cũng chủ động đẩy mạnh xu thế hòa hoãn.
Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung
(khai mạc tại Washington ngày 27 tháng 9 năm 2009) đã mang dáng dấp
của diễn đàn G2 mà nhiều đồng minh của Mỹ không muốn. Giả định rằng
trong bối cảnh nào đó (ví dụ Mỹ tiếp tục suy yếu và sa lầy, kinh tế
các nước phương Tây tiếp tục đình đốn, Trung Quốc tập hợp thêm được
vây cánh...) sẽ xuất hiện G2 với tính cách là yếu tố chi phối bàn cờ
thế giới, tình hình sẽ rất phức tạp, các nước nhỏ yếu sẽ phải hứng
chịu nhiều hệ lụy – nhất là tại khu vực Đông Nam Á. Tại
“Diễn
đàn chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung”
này Obama nói
“Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ định hình cho thế kỷ
21… Đây là trách nhiệm mà hai bên phải gánh vác.”
Trong
điện chúc mừng phiên họp đầu tiên của diễn đàn này, Hồ Cẩm Đào viết:
“Cả Trung Quốc và Mỹ gánh vác trên vai trách nhiệm quan trọng về
những vấn đề trọng đại liên quan đến hòa bình và sự phát triển của
nhân loại.”[12]
Chắc chắn rồi đây lúc hòa hoãn, lúc căng thẳng, song phía Mỹ sẽ vẫn
có các bước đi tiếp mở rộng quan hệ với Trung Quốc trên mọi lĩnh
vực, bên nào cũng có thừa khôn ngoan giành cái lợi về cho mình.
Như vậy có thể thấy chính sách đa dạng của Mỹ nói trên đối với khu
vực Biển Đông sẽ còn tùy thuộc đáng kể vào chính thái độ các nước
ASEAN (đối với Mỹ và Trung Quốc), đồng thời chịu sự chi phối sâu sắc
của quan hệ Mỹ - Trung.
2. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
Sự lớn mạnh của Trung Quốc như là “công xưởng của thế
giới” đang thúc đẩy khát vọng của Trung Quốc đi nhanh trên con đường
trở thành siêu cường vào khoảng năm 2050, mặc dù kinh tế và nội trị
Trung Quốc còn rất nhiều vấn đề nhạy cảm.
Sẽ là phiến diện
trong đánh giá Trung Quốc nếu bỏ qua những vấn đề nhạy cảm luôn
luôn xuất hiện trong kinh tế và trong nội trị của quốc gia này.
Báo chí nước ngoài nhận xét: Cái yếu nhất của Trung Quốc là
Trung Quốc là nước của Đảng Cộng Sản Trung Quốc,
chính vì lẽ này Trung Quốc không thể trở thành siêu cường với
nghĩa lãnh đạo thế giới. Thậm chí cần thấy rõ trong quá trình
phát triển của nó, quốc gia này luôn luôn đứng trước không ít
những vấn đề nan giải về phân hóa và bất công xã hội, về khoảng
cách giàu nghèo quá lớn, nguy cơ phân rã, sự mong manh của hệ
thống ngân hàng tài chính tiền tệ, những thách thức thường trực
đối với hệ thống chính trị... Thực tế này giải thích tại sao
Trung Quốc sẵn sàng thực hiện và có khả năng thực hiện được các
biện pháp cực đoan không tưởng tượng nổi như “cách mạng văn
hóa”, “sự kiện Thiên An Môn”, chính sách đối với Tân Cương và
Tây Tạng... Nhạy cảm lớn nhất cũng là nguy cơ lớn nhất đối với
hệ thống chính trị của Trung Quốc là vấn đề dân chủ. Tuy nhiên,
cần chú ý: Trung Quốc là một thế giới riêng cho chính nó, nghĩa
là trong tình hình cấp thiết, Trung Quốc có thể huy động mọi khả
năng và lực lượng có thể, để chế ngự và kiểm soát tình hình nội
tại với bất kỳ giá nào; Trung Quốc có thể làm tất cả mọi việc
rất cực đoan với cách nghĩ “mục tiêu biện minh cho mọi
biện pháp”, chấp nhận trả giá ghê gớm để giành được mục
tiêu Trung Quốc muốn... Lịch sử còn chứng kiến, khi nội bộ có
khó khăn hoặc cần giải quyết một yêu cầu chính trị nào đó, Trung
Quốc thường hướng “ngòi nổ” ra bên ngoài, đó là lúc tiến hành
cách mạng văn hoá thì giương cao ngọn cờ chống đế quốc “gió Đông
thổi bạt gió Tây”; khi tiến hành cuộc chiến tranh biên giới
chống Việt Nam tháng 2-1979 thì gương cao ngọn cờ chống tiểu bá
và dạy cho Việt Nam bài học…[13]
Với nguồn tài nguyên Trung Quốc đem về bằng mọi cách từ khắp nơi
trên thế giới, trước hết là từ châu Phi và châu Mỹ Latinh, Úc.., với
nguồn lao động khổng lồ và giá rẻ trong nước, với chính sách phát
triển gần như hy sinh môi trường, Trung Quốc hiện nay đứng đầu thế
giới trong sản xuất nhiều nguyên liệu cơ bản như sắt, thép, đồng,
nhôm, xi măng... là cường quốc thứ nhất trong xuất khẩu tàu biển, là
cường quốc thứ hai sau Mỹ trong xuất khẩu ô-tô, trong vòng một vài
năm tới GDP kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ vượt Nhật[14]...
Báo chí thế giới thừa nhận Trung Quốc thành công vượt xa chủ nghĩa
thực dân mới của phương Tây tại châu Phi, Mỹ Latinh và một số nơi
khác trên thế giới (trong đó có Đông Nam Á...). Những khoản viện trợ
lớn của chính phủ Trung Quốc dành cho các quốc gia này với danh
nghĩa “không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước nhận
viện trợ”. Trên thực tế là Trung Quốc quan hệ trực tiếp và ủng
hộ giới thống trị ở những quốc gia này, bất luận bản chất những chế
độ này như thế nào. Phương thức hợp tác song phương như vậy của
Trung Quốc tại những quốc gia này đang mang lại nhiều kết quả lớn
cho Trung Quốc (tuy nhiên gần đây một số nước châu Phi đã phản ứng
chống lại sự tham lam thái quá của Trung Quốc). Hơn thế nữa,
hiện tượng Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế ngày càng quan trọng
với Iran, Iraq, với các nước và lực lượng “cánh tả” (chống Mỹ) ở
châu Mỹ Latinh – nơi được coi là sân sau của Mỹ
̶
đang làm cho Mỹ và
phương Tây lo lắng.
Với nguồn dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới (2100 tỷ USD) Trung Quốc
đang tìm cách thay đổi hệ thống tiền tệ thế giới. Trước mắt Trung
Quốc chưa thể “hạ bệ” đồng USD (hiện nay vẫn còn chiếm tới 60% tổng
giao dịch tiền tệ và thương mại trên thế giới). Song với tư cách là
chủ nợ lớn nhất của Mỹ, đang nắm giữ khoảng 60% trái phiếu và những
giấy tờ có giá khác của Mỹ,[15]
Trung Quốc đòi hỏi đồng nhân dân tệ cũng phải được coi là phương
tiện thanh toán quốc tế. Đòi hỏi này bị bác bỏ tại cuộc họp G20
(tại Luân Đôn ngày 02-04-2009) với lý do đồng nhân dân tệ chưa phải là đồng
tiền chuyển đổi tự do. Trung Quốc chuyển sang chiến thuật mới là đòi
nâng cao vai trò của Trung Quốc tham gia vào “quyền rút vốn
đặc biệt” (SDR – một đơn vị được coi như là tiền của IMF) để làm yếu
và tiến tới thay thế dần đồng USD. Đồng thời Trung Quốc áp dụng các
biện pháp đòi các nước có quan hệ buôn bán với Trung Quốc trực tiếp
dùng đồng nhân dân tệ làm phương tiện thanh toán trong quan hệ song
phương, một số nước đã chấp thuận. Có thể nói đây là một bước mới bổ
sung quan trọng cho việc mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của Trung
Quốc trên thế giới – đặc biệt là quyền lực mềm.
Trong số hàng nghìn tập đoàn kinh tế của Trung Quốc đã có nhiều tập
đoàn lọt vào danh sách các nhóm TNCs top 100, TNCs top 50
của thế giới, trong đó phải kể đến tập đoàn dầu khí
PetroChina có số vốn vượt 1000 tỷ USD và trở thành TNC đứng
đầu thế giới về quy mô vốn.[16]
Tình hình vừa trình bày trên cho thấy chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc ngày càng tự bộc lộ ra là chủ nghĩa tư bản Trung
Hoa thời nay trong hệ thống chính trị một Đảng. Đấy chính là chủ
nghĩa tư bản toàn trị với đặc trưng Khổng giáo.[17]
Thế giới, nhất là các nước láng giềng của Trung Quốc, ngày càng lo
ngại trước hiện tượng Trung Quốc cũng đang trên đường trở thành siêu
cường quân sự
̶ đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương.
Bình luận trên nhật báo Giải phóng quân Nhân dân (Trung Quốc) ngày
12 tháng 3 năm 2009, Hoàng Thôn Luận viết:
“...Quyền lợi quốc gia của Trung Quốc vượt xa ra ngoài biên cương
lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Trung Quốc, bao gồm cả các vùng
đại dương bao la nơi các tàu chở dầu của Trung Quốc qua lại, cũng
như không gian vũ trụ… Quyền lợi quốc gia Trung Quốc mở rộng đến
đâu, sứ mệnh của lực lượng vũ trang của chúng ta (Trung Quốc) được
mở rộng đến đấy...! Đứng trước nhiệm vụ lịch sử mới, lực lượng vũ
trang của chúng ta (Trung Quốc) không chỉ bảo vệ biên giới lãnh thổ,
mà còn phải bảo vệ biên giới quyền lợi quốc gia của chúng ta.”[18]
Ngân sách quốc phòng hàng năm của Trung Quốc hai thập kỷ nay thường
xuyên tăng 2 con số (từ 10% đến 17% mỗi năm). Số liệu thống kê chính thức
của Trung Quốc cho biết chi tiêu quốc phòng của nước này năm 2007
ước khoảng 70 tỷ USD. Song theo đánh giá của Bộ Quốc phòng Mỹ, của
RAND (cơ quan nghiên cứu của Mỹ), và của RAW
(Research and Analysis Wing,
cơ quan nghiên cứu của Ấn Độ), thực chi cho ngân sách quốc phòng của
Trung Quốc năm 2007 ước khoảng 138-156 tỷ USD, đứng vào hàng thứ
hai trên thế giới – nghĩa là ước khoảng 1/4 – 1/3 ngân sách quốc
phòng của Mỹ, vượt Nga, gấp 5 lần của nước Anh, và bỏ xa Ấn Độ...
Ngày 21 tháng 9 năm 2009 Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt
tuyên bố nước này có hầu hết mọi hệ thống vũ khí hiện đại của các
nước phương Tây.
Trung Quốc đang trở thành cường quốc vũ trụ. Hiện nay Trung Quốc
đang đẩy mạnh xây dựng hải quân nước xanh (hoạt động
tầm đại dương với hàng không mẫu hạm đang mua của Nga hoặc tự đóng
lấy). Trong chuyến đi thăm Trung Quốc đầu năm 2009 của đô đốc Mỹ
Timothy Keating, phía Trung Quốc đặt thẳng vấn đề để Trung Quốc
quản lý Thái Bình Dương từ đảo Hawaii về phía Tây, phía
Mỹ sẽ quản lý Thái Bình Dương từ Hawaii về phía Đông.
Keating đã đáp lại: “No, Thanks!”.[19] Riêng trên Biển Đông hải quân Trung Quốc giữ vị thế áp đảo, với mục
tiêu trước mắt là “cái lưỡi bò”.[20]
♦
Trên
nhiều phương diện, hiện tượng Trung Quốc trên đường trở thành siêu
cường đang là vấn đề nóng bỏng và rất phức tạp của cả thế giới. Giáo
sư Thôi Lý Nhũ, chủ tịch Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế Đương đại
(CICIR – Bắc Kinh), một viện nghiên cứu chiến lược của Trung Quốc
tầm cỡ quốc tế, đầu năm nay phát biểu thẳng thắn trước giới học giả
nước ngoài: “Mười
năm qua Trung Quốc đã phát triển từ một vị thế tương đối thấp lên
một vị thế tương đối mạnh, vì vậy những xung đột giữa Trung Quốc với
thế giới bên ngoài không đặc biệt quyết liệt lắm (not particularly
vehement). Tuy nhiên, trong vòng mười năm tới, Trung Quốc sẽ đi tiếp
từ vị thế tương đối mạnh hiện nay lên một vị thế còn mạnh hơn nữa.
Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thế giới sẽ còn lớn hơn nữa – và
nỗi lo của thế giới về Trung Quốc cũng sẽ tăng theo...”[21]
Trên thế giới, kể cả Mỹ, không ai đặt vấn đề đối đầu với Trung Quốc.
Nhưng tất cả các quốc gia đều phải cùng nhau hay riêng lẻ nỗ lực tìm
cách ứng xử và đối xử thích hợp nhất với hiện tượng Trung Quốc trong
thế kỷ 21 này sao cho phù hợp với xu thế tiến bộ chung của loài
người. Đó còn là phương thức hữu hiệu nhất, khuyến khích hay bắt
buộc Trung Quốc cũng phải thích nghi với trào lưu chung của thế
giới.
III. Một số vấn đề đối ngoại đặt ra cho Việt Nam
Sự suy yếu tiếp tục của Mỹ và mối quan hệ Mỹ - Trung như trình bày trên đây là hai yếu tố mới, nổi bật nhất,
trực tiếp nhất kết thúc thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, vẽ lại bản đồ
chính trị của thế giới: hiện tượng đa siêu cường.
Riêng trên Biển Đông đang hình thành với nhiều diễn biến phức tạp xu
thế hai cực Mỹ - Trung với các kịch bản khác nhau. Thực tế này liên
quan trực tiếp đến nước ta trong thập kỷ tới trên nhiều phương diện.
Mối quan hệ Việt – Trung trở thành vấn đề đối ngoại quan trọng nhất
và khó xử lý nhất đối với nước ta trong thập kỷ tới.
1.
Vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại hiện nay của các nước
trên thế giới
Trước khi bàn
sâu về quan hệ Việt-Trung, xin có vài nhận xét khái quát về
vị thế Việt Nam ngày nay trên trường quốc tế.
Có thể nói
hiện nay Việt Nam đạt được vị thế quốc tế cao nhất trong lịch sử của
mình với tính cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Việt Nam
ngày nay là đối tác chiến lược của nhiều nước, đầu tư nước ngoài và
kim ngạch ngoại thương tăng trưởng năng động. Chính sách đối ngoại
hòa bình – hợp tác – hữu nghị của Việt Nam cùng với cục diện thế
giới hiện nay mang lại cho Việt Nam vị thế này. Sự thiện cảm của
nhân dân thế giới dành cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và
thống nhất đất nước của Việt Nam trong thế kỷ trước cũng là yếu tố
quan trọng góp phần làm nên vị thế quốc tế ngày nay của đất nước.
Toàn bộ thực tế này tạo ra thuận lợi rất quan trọng cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, cho thực hiện nghĩa vụ đối với
thế giới của Việt Nam với tính cách là một quốc gia thành viên đầy
đủ và bình đẳng trong cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên,
cần nhận rõ một sự thật khác, đó là vị trí của Việt Nam trong chính
sách đối ngoại của nhiều nước đối tác, nhất là các nước đối tác quan
trọng, nói chung là tương đối thấp so với khả năng Việt Nam có thể
đạt được. Nguyên nhân chính của sự kiện này không phải vì nước ta nghèo mà chủ yếu
vì:
Một là,
về một số phương diện nhất định, Việt Nam vẫn chưa bước ra khỏi phong
cách đối ngoại thời kháng chiến – phong cách tranh thủ sự ủng hộ của
cộng đồng thế giới là chính, mà chưa chủ động và tích cực dấn thân
tham gia vào những vấn đề chung của cộng đồng thế giới, trong khi đó
cuộc sống lại luôn luôn đòi hỏi có cho có nhận
chứ không thể một chiều chỉ nhận – nhất là nước ta
hiện là một quốc gia thành viên đầy đủ trong các thể chế của cộng
đồng quốc tế.
Hai là, tuy ta có thiện chí hợp tác – dù song phương hay đa phương, nhưng do
khả năng của ta, trước hết do nhiều vấn đề nội bộ riêng của nước ta
chưa một lòng một ý, dẫn tới sự hợp tác của ta chưa đạt được mức
tiềm năng cho phép, chưa đúng mức các đối tác mong đợi, thậm chí có
lúc ta chịu nhiều thua thiệt. Trong 25 năm qua nhiều lần ta bỏ lỡ cơ
hội lớn rất đáng tiếc và không lấy lại được.
Ba là, nền ngoại giao Việt Nam hiện nay do ảnh hưởng của ý thức hệ nên tiếp
tục có những hẫng hụt, lạc hậu nhất định trong nhận thức những diễn
biến mới trên thế giới, chưa chủ động dấn thân tiến cùng với trào
lưu thế giới - đây còn là vấn đề của tri thức, trí tuệ, phẩm
chất chính trị và mưu lược -, do đó chưa xác lập được cho mình bản
lĩnh mới để khai thác hay chủ động ứng phó với sự vận động của xu
thế thế giới. Bản lĩnh ngoại giao ngày nay của nước ta rất yếu so
với thời kỳ kháng chiến.
Bốn là, trên hết, ngoại giao Việt Nam đang thiếu một nội trị vững mạnh
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) và một ý chí thống nhất làm
nền tảng. Phải thừa nhận: Nội trị hiện nay của nước ta cản trở đáng
kể phát huy vị thế đối ngoại của đất nước.
Những nhược
điểm trình bày trên đang hạn chế sức mạnh ngoại giao nước ta và ảnh
hưởng đến sức mạnh của nước ta nói chung, nhất là trong việc tập hợp
đồng minh để bảo vệ lợi ích quốc gia và để tiếp tục phát huy vị thế
mới của đất nước.
Do sự vận
động của tình hình thế giới, đặc biệt là do các mối tương quan mới
giữa các cường quốc – bao gồm cả hiện tượng Trung Quốc đang trên
đường trở thành siêu cường, xuất hiện tại nhiều nước các châu lục
khác nhau trên thế giới mối lo Việt Nam có thể rơi vào vòng tay của
Trung Quốc.
Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các cường quốc phương
Tây, kể cả Mỹ, đều không muốn có một Việt Nam yếu, chịu lệ thuộc vào
Trung Quốc. Những nước này, kể cả Mỹ, hiểu rõ ý thức độc lập tự chủ
của Việt Nam và vì thế có lẽ không có ảo tưởng lôi kéo Việt Nam đi
vào con đường ngoại giao của những đối trọng. Có thể
hiểu, xu thế chính của những nước này muốn có một Việt Nam mạnh đúng
với vị thế đang có trong khu vực, giữ vững được độc lập tự chủ của
mình – là vì các lý do:
(1)
Việt Nam ngày nay không phải là “đối tượng” của những cường quốc
này;
(2)
Việt Nam ngày nay không có có xung đột lợi ích với họ;
(3)
Một Việt Nam mạnh, độc lập tự chủ và có vị thế như thế khách quan là
có lợi nhất cho hòa bình nói chung và cũng sẽ có lợi nhất cho họ
trên bàn cờ thế giới hiện tại...;[22]
(4)
Một Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc hoặc để Trung Quốc khống chế là
điều nguy hại đối với hòa bình và an ninh khu vực với nhiều hệ quả
xấu khác – đây là điều nhiều cường quốc và nhiều nước láng giềng và
bè bạn của ta không muốn, chính nhân dân ta cũng không chịu;[23]
(5)
Vân…vân…
Cần nói rõ như vậy để không cường điệu hóa đến mức nhầm lẫn coi các
sự việc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam để diễn biến hòa bình dưới
chiêu bài dân chủ và nhân quyền” là quốc sách lật đổ của các
nước phương Tây đối với nước ta.
Hiển nhiên
giữa chế độ chính trị nước ta và chế độ chính trị của các nước
phương Tây có nhiều giá trị khác nhau, đặc biệt là về vấn
đề dân chủ và nhân quyền.
Các nước phương Tây vì lợi ích của chính mình có chủ trương khai
thác các vấn đề như xã hội dân sự, dân chủ và nhân quyền – một xu
thế ngày càng trở thành một trào lưu mạnh trên thế giới – để phát
huy ảnh hưởng của họ vào các nước khác, kể cả vào Trung Quốc. Có
quốc gia nào, nhất là các nước lớn, lại không muốn phát huy ảnh
hưởng của mình ra bên ngoài, để tập hợp lực lượng, để khai thác, để
tác động vào những điểm yếu của các nước có liên quan, v.v.?
Xin đừng quên cuộc sống và quy luật tiến hóa của xã hội loài người
cũng như trong quan hệ giữa các quốc gia trên trái đất này xưa nay
và mãi mãi sẽ có “diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nhau như vậy.
Cứ xem Trung Quốc “diễn biến”, “diễn biến hòa bình” vào nước ta như
thế nào trong lịch sử 2000 năm quan hệ hai nước cho đến ngày nay
cũng sẽ rõ. Trong sự “diễn biến” vào nhau này, quy luật muôn đời vẫn
là: Người thắng cuộc luôn luôn là kẻ có khả năng thích
nghi và vượt trội cao hơn đối tượng của mình. Yếu tố căn bản để
trở thành người thắng cuộc là phải đồng hành với tiến bộ và
những giá trị cao đẹp. Chẳng lẽ lịch sử 2000 năm của nước ta không
nói lên điều gì trong mối quan hệ qua lại này?
Cũng là chuyện hiển nhiên các tổ chức của một số người Việt ở nước
ngoài muốn sử dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để lật đổ nhà nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Họ làm mọi việc và “lobby” mọi
người, mọi tổ chức, mọi cơ quan nước họ cư trú, vận động dư luận, để
tranh thủ nhân vật này hay lực lượng nọ của nước sở tại hoặc ở những
nơi khác cho mục đích lật đổ, chống đối của họ. Vấn đề chống đối
hay lật đổ như thế trước hết là vấn đề giữa trong nước và những lực
lượng người Việt này ở nước ngoài.[24]
Nếu cho câu chuyện chống đối và lật đổ của những người Việt này là
quốc sách hay là nằm trong quốc sách của các cường quốc phương Tây,
kể cả Mỹ, thì sẽ là sự cường điệu đến mức chệch hướng. Nếu các cường
quốc phương Tây lúc này có quốc sách muốn lật đổ hay muốn diễn biến
hòa bình để lật đổ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì họ phát
triển quan hệ mọi mặt với Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, dành
cho Việt Nam không ít sự giúp đỡ để làm gì? Mà Việt Nam đã, đang
nhận và sẽ tiếp tục nhận sự giúp đỡ ấy. Thậm chí Việt Nam đang yêu
cầu họ thừa nhận nền kinh tế của mình là nền kinh tế thị trường,
muốn họ tăng cường giúp đỡ...
Nếu các cường quốc phương tây lúc này có quốc sách lật đổ hay diễn
biến hòa bình để hạ gục nước ta, tại sao một số nước trong các nước
phương Tây lại đồng ý nâng quan hệ hợp tác với nước ta lên tầm đối
tác chiến lược?.. Các nước phát triển từ hàng chục năm nay liên tục
dành cho nước ta những khoản viện trợ ODA không nhỏ, nguồn vốn tài
trở này góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
nước ta. Hàng năm chính phủ ta tiếp tục vận động các nước duy trì
nguồn tài trợ này. Hội nghị các nước tài trợ ODA tháng 12-2009 đã
quyết định viện trợ ODA cho Việt Nam 8 tỷ USD, mức cao nhất từ trước
đến nay – trong lúc bản thân những nước này chưa ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Tại hội nghị này các nước nhấn
mạnh: muốn phía Việt Nam xử nghiêm khắc vụ Huỳnh Ngọc Sỹ và đẩy mạnh
chống tham nhũng nói chung, đình chỉ một số vụ việc mất dân chủ và
nhân quyền... Giữa lúc nước ta đang nỗ lực khắc phục khủng hoảng
kinh tế, sự giúp đỡ này càng có ý nghĩa. Có thể coi những đòi hỏi
này của các nước viện trợ là diễn biến hòa bình chống đối hay lật đổ
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam? Còn chủ trương của trong
nước dùng vấn đề “diễn biến hòa bình” để giải quyết những vấn đề
trong nội bộ nước ta lại là câu chuyện hoàn toàn khác.
Sự thực có một thứ diễn biến hòa bình khác nhất thiết phải vô hiệu
hóa, đó là sự câu kết giữa tham nhũng, tha hóa ở trong nước và bàn
tay can thiệp của quyền lực mềm từ bên ngoài. Song cho đến nay chưa
được đặt ra yêu cầu chống sự diễn biến nguy hiểm này. Những dự án
kinh tế lớn công nghệ lạc hậu có vốn đầu tư nước ngoài được hình
thành thông qua những quá trình đấu thầu méo mó, tình trạng buôn
lậu, xuất khẩu lậu những khối lượng hàng hóa lớn và nhiều sự việc
nghiêm trọng khác đã xảy ra… đòi hỏi phải ngăn ngừa sự lũng đoạn
nguy hiểm này.
Nói thêm về vấn đề làm bạn với người
Cần nhấn mạnh:
đường lối ngoại giao muốn làm bạn với người của nước ta là đúng đắn.
Tuy nhiên, lẽ đời nghiệt ngã: chỉ có thiện chí “chay” – nghĩa là
chẳng có thực lực hay ảnh hưởng gì làm căn bản – thì trước sau
“chay” vẫn hoàn “chay”! Vì vậy, không thể bỏ qua một chuỗi câu hỏi
tiếp theo và rất nhiều việc phải làm, để cho đường lối đối ngoại
làm bạn này trở thành hiện thực:
-
Ta muốn làm bạn với người, nhưng người có muốn làm bạn với ta
không? Đấy là hai chuyện khác nhau.
-
Làm thế nào để ta có thể là bạn được của người, và đối lại, người cũng muốn
nhận ta làm bạn? – Còn thứ “làm bạn” do được ban phát thì chẳng
hay ho gì – vì đó sẽ là nếu sang thì làm đĩ, nếu kém sang một
chút thì làm thằng hầu!
-
Làm thế nào để người cần phải làm bạn với ta?
-
Làm thế nào để người nếu không muốn làm bạn với ta thì cũng
không chống được ta?
-
Làm thế nào để người nếu không muốn làm bạn với ta thì cũng phải
tôn trọng ta?
-
Làm thế nào để người không thể phản ta hay bán rẻ ta?
-
Làm thế nào để người nếu chưa phải là bạn của ta hoặc chưa muốn
thì cũng không chống ta?
-
Làm gì và làm thế nào để nước ta không bị lôi vào trò chơi “đối
trọng”, lúc là “cái mộc” cho người này, lúc là “lá chắn” cho kẻ
khác..?
-
Làm thế nào để ngày càng thêm bạn, bớt thù?
-
Làm thế nào để không ai cô lập được Việt Nam?
-
Vân... vân..
Tóm lại, muốn
làm bạn với người, trước hết phải biết mình là ai, và cần hiểu mình
phải (sẽ phải) là ai. Điều này cũng có nghĩa ta phải quyết tâm là
chính ta, rồi mới đủ trí tuệ và bản lĩnh tính chuyện làm bạn với
người. Đừng quên độc lập tự chủ là một trong những bài học quý, nên
được xếp ngang với ý chí Không gì quý hơn độc lập tự do!
Có thể nói ngoại giao Việt Nam vô cùng giàu có những bài học này.
Vậy lo câu chuyện làm bạn, trước hết là lo cho mình có lực, có trí
tuệ, có tư cách, có tính cách, có ảnh hưởng lan tỏa, có khí phách,
có mưu lược và có bản lĩnh thực hiện đường lối đối ngoại làm bạn.
Tại hội nghị Thành Đô (1990) ta muốn làm bạn, thậm chí muốn làm đồng
chí nữa, nhưng Trung Quốc có chấp nhận đâu! Có thể nói dứt khoát
đường lối ngoại giao làm bạn phải bắt nguồn từ nội trị
lành mạnh và đầy sức sống của quốc gia, từ sự chủ động dấn thân vào
trào lưu chung của thế giới – nếu không, thì đường lối này chỉ đưa
nước ta trở thành con đĩ hay thằng hầu. Không có ý thức hệ nào thay
đổi được quy luật này trong cuộc sống.
Việt Nam đang có vị thế đối ngoại cao chưa từng có trong lịch sử của
mình để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mở rộng ảnh
hưởng của mình đối với thế giới bên ngoài. Song vấn đề hàng đầu của
ngoại giao Việt Nam ngày nay vẫn là nhận biết chuẩn xác thế giới và
giác ngộ triệt để lợi ích quốc gia, dấn thân với tất cả tinh thần
độc lập tự chủ. Trên hết cả vẫn là xây dựng một nội trị vững
mạnh cho dân tộc vươn lên làm nền tảng và định hướng cho đối ngoại.
2.
Một số suy nghĩ về quan hệ Việt-Trung
2.1. Đại hán, bài Hoa, thần phục Hoa
Trước hết nên đặt sang một bên những ảnh hưởng di sản lịch sử để lại
và tách ra khỏi mọi cách nghĩ bài Hoa hay thần
phục Hoa để tỉnh táo nhìn nhận sự việc.
Ví dụ không ít người nghĩ rằng sự bành trướng của Trung Quốc là do
tư tưởng đại Hán. Điều này đúng nhưng không đủ.
Nghĩ thế hàm nghĩa khi nào Trung Quốc bỏ được đại Hán –
một điều không tưởng – thì sẽ hết bành trướng.
Thực ra đòi hỏi về không gian sinh tồn của Trung Quốc trên con đường
trở thành siêu cường đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn so với tư
tưởng đại hán. Nghĩa là dù có hay không tư tưởng đại
hán, vấn đề mở rộng không gian sinh tồn của cái công xưởng thế
giới này vẫn là tất yếu – vì “đầu vào” và “đầu ra” của nó là
cả thế giới, nhằm vào thế giới. Tự Trung Quốc đã nói lên: Hàng hóa
Trung Quốc tới đâu, quyền lực mềm của Trung Quốc tới đó. Điều này
cho thấy chẳng có liên minh hay đồng minh nào cùng ý thức hệ, cũng
chẳng có tư duy bài Hoa hay thần phục Hoa
nào có thể vô hiệu hóa được đòi hỏi mở rộng không gian sinh tồn này[25]
của cái công xưởng thế giới. Thực tế này đòi hỏi nước
ta phải có một cách tiếp cận khác và cách giải quyết khác những
thách thức đặt ra.
Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường rất khó mở rộng không
gian sinh tồn như thế đi lên hướng Bắc, sang phía Đông hay về phía
Tây. Cứ nhìn bản đồ địa dư và bản đồ địa chính trị thì thấy rõ điều
này. Trong lịch sử đã có vụ Ussuri với Liên Xô cũ năm 1969, phần
trên bài viết này đã nêu ví dụ Timothy Keating từ chối đề nghị của
Trung Quốc đầu năm nay về chia đôi Thái Bình Dương, Nhật bản trước
sau không chịu chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc về biển đảo, biên
giới Ấn – Trung hiện nay đang căng thẳng... Hướng thuận lợi nhất
làm bàn đạp cho Trung Quốc mở đường giành vị thế siêu
cường chỉ còn lại hướng Nam, Việt Nam trong tình hình này trở
thành chướng ngại vật chính! Thực hiện được cái “lưỡi bò” ở Biển
Đông, Trung Quốc sẽ khống chế được tuyến đường biển huyết mạch
Malacca và từ đó có thể khống chế đáng kể Thái Bình Dương, sẽ có
thêm sức nặng mặc cả để nâng cao vị thế của Trung Quốc. Chuyện Biển
Đông có thể là đột phá khẩu, là cú hích đẩy Trung Quốc lên vị thế
chiến lược toàn cầu cao hơn, chứ không đơn thuần là Trung Quốc chỉ
tranh chấp lãnh hải và tài nguyên. Xin đừng quên điều này.
Hơn nữa, trong thập kỷ vừa qua sự đi xuống quá nhanh của phương Tây
– trước hết là Mỹ, sự đi lên quá nóng của Trung Quốc trên thực tế đã
dẫn đến tình hình Lý Quang Diệu mô tả: Đang hình thành khu vực trống
(vacuum) trong chính sách của Mỹ khiến cho Trung Quốc tự do hoành
hành ở châu Á.[26]
Không phải ngẫu nhiên mối quan ngại của hầu hết các nước châu Á về
một siêu cường Trung Quốc đang gia tăng, nhất là trong bối cảnh quốc
tế hiện nay. Sự vận động của cục diện thế giới và sự phát triển tự
thân của Trung Quốc tạo nên tình huống như vậy; chẳng có đạo đức,
thiện chí, ý thức hệ hay cuồng vọng nào có thể thay đổi được. Sự
thật duy nhất Trung Quốc phải tuân thủ là: Cường quốc đang phát
triển năng động này tuy thế cũng không thể làm gì vượt quá khả năng
và tầm với của nó.
Trong chiến lược toàn cầu của mình, hiện nay Trung Quốc vẫn chủ
trương “giấu mình chờ thời”, tiếp tục tranh thủ thời
gian để mạnh thêm và để cho các đối thủ chính của mình – trước hết
là Mỹ - tiếp tục suy yếu thêm. Đồng thời Trung Quốc sẽ không bỏ lỡ
bất kỳ cơ hội nào có các “bước đi nóng” (hot performances) trong
phạm vi cục bộ, nhất là đối với Việt Nam - như chúng ta đã thấy từ
hơn nửa thế kỷ nay: trong cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam
2-1979, trong đàm phán biên giới trên bộ, trong đánh chiếm các đảo
của ta ở Biển Đông, các hoạt động uy hiếp khác trên biển, vân vân…
Thế giới về cơ bản vẫn là cục diện hòa bình, song một nửa thế kỷ qua
Đông Nam Á luôn có những sự cố như vậy. Đây là điểm khác nhau quan
trọng giữa cục diện quốc tế nói chung và tình hình khu vực nước ta
đang sống nói riêng. Giới hạn hay yêu cầu Trung Quốc đặt ra cho
những “bước đi nóng” này là về đại cục miễn sao không cản trở, mà
phải thúc đẩy nhanh hơn mục tiêu chiến lược là sớm trở thành siêu
cường của Trung Quốc.[27]
Cũng không phải ngẫu nhiên, các Đại hội của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
từ năm 1949 đến nay không lúc nào không tìm cách xoa dịu mối lo của
thế giới, luôn luôn giương cao ngọn cờ chống bá quyền, thực chất là
để thanh minh cho chính mình. Gần đây nhất Trung Quốc bỏ cả cách nói
trỗi dậy hòa bình, và ngày càng nói nhiều đến
win-win. Trong khi đó phương tiện truyền thông nội địa Trung
Quốc gần như không có thời kỳ nào, kể cả hiện tại, ngớt nói công
khai suy nghĩ của Trung Quốc về không gian sinh tồn, điển hình có lẽ
là bài nói của tướng Trì Hạo Điền – nguyên bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, tại Hội nghị các tướng lĩnh Trung Quốc bàn về chiến lược chiến
tranh
tương lai, tổ chức năm 2005 (được công bố trên Tạp chí "Các vấn
đề chiến lược", Ấn Độ, 15/4/2009) và các bài nói về thời cơ
đang đến cho Trung Quốc giải quyết dứt điểm vấn đề Biển Đông.[28]
Như vậy cách nghĩ đại Hán, bài Hoa, thần phục Hoa
chẳng ích gì. Người Việt Nam ta cũng chẳng có cách gì bê đất nước
mình đi chỗ khác để tránh mọi điều phiền toái. Vậy chỉ còn cách đứng
tại chỗ,
suy nghĩ,
làm những việc phải làm: Chịu trở thành bãi phế thải của cái
công xưởng thế giới? Hay trở thành đối tác làm ăn được tôn
trọng?
Hoàn toàn có khả năng trở thành một đối tác làm ăn được Trung Quốc
tôn trọng, nếu nước ta là một đối tác tin cậy và được tôn trọng của
cả thế giới. Mặt khác, hợp tác được với Trung Quốc với tư cách là
một Việt Nam độc lập và là một đối tác được tôn trọng, Việt Nam cũng
sẽ hợp tác được với cả thế giới.
Thiếu điều căn bản này, nhân nhượng của ta đối với
Trung Quốc không thể giúp nước ta yên thân, mà chỉ khuyến khích
Trung Quốc lấn tới. Hơn nữa, cần nhìn vào chính sách của Trung Quốc
đối với từng nước ASEAN riêng rẽ để thấy rõ thực tế trần trụi này.
Làm thế nào để cả dân tộc một lòng một dạ đem hết trí tuệ và nghị
lực của mình làm bằng được điều căn bản này, đấy là
chìa khóa để giải quyết vấn đề. Cần nói thẳng thắn: Hiện nay chưa
làm được như vậy! Hiện nay con đường làm như vậy thậm chí có những
sự việc tự ngăn chặn!
2.2. Thực tế quan hệ Việt-Trung hiện nay
Hội nghị cấp cao Việt-Trung tại Thành Đô năm 1990 tuy còn nhiều
vấn đề phải bàn cãi,[29]
song đã mở đầu thời kỳ quan hệ bình thường Việt-Trung hiện nay. Đến
nay đã được 2 thập kỷ, xen kẽ những đoạn đường lúc hợp tác, lúc căng
thẳng, nơi này nơi khác vẫn còn đổ máu – lúc ở biên giới trên bộ,
lúc trên biển.
Đáng chú ý, sau khi hoàn tất cắm mốc biên giới trên bộ đầu năm 2009,
với tất cả những nhượng bộ và thiện chí phía Việt Nam có thể làm,
tình hình lại rộ lên vấn đề Biển Đông, lúc này lúc khác ngư dân nước
ta bị giết hoặc ngược đãi dã man, “cái lưỡi bò” vẫn
được mưu toan triển khai, kể cả kịch bản dùng vũ lực cũng được báo
chí Trung Quốc đề cập tới... Giống như chim phải đạn, trong ký ức,
một không khí lạnh buốt năm 1946 phảng phất lại “…ta càng nhân
nhượng, địch càng lấn tới!..” Người Việt Nam ai quên được
khoảnh khắc ngày xưa ấy?!.. Tuy nhiên thời thế đã xoay vần…
Mới đây, đúng một ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi thăm Tứ
Xuyên, Hội nghề cá nước ta phải ra tuyên bố ngày 16-10-2009 phản đối
Trung Quốc ngược đãi và cướp bóc 200 ngư dân ta vào lánh nạn cơn bão
Ketsana 26-09-2009 tại đảo Trụ Cẩu – Hoàng Sa thuộc ta, ngày
21-10-2009 người phát ngôn Bộ ngoại giao ta phải trao tiếp công hàm
phản đối cho đại sứ Trung Quốc.
Đặc biệt là những hoạt động ngược lại với 16 chữ như
thế của Trung Quốc trong các năm 2008 và 2009 ráo riết hơn và nghiêm
trọng hơn so với trước, mặc dù phía Việt Nam hết sức kiềm chế
– như người phát ngôn Bộ Ngoại giao ta vẫn nói. Đến nỗi dư luận nước
ngoài cho rằng: Trung Quốc nắm thóp được Việt Nam không bao giờ dám
ngả vào Mỹ và phương Tây, nên càng làm tới!.. Việt Nam mất cắp mà
không dám la làng thì thế giới làm sao bênh được..![30]
Những hiện tượng “nóng”/ “lạnh” như thế xen kẽ nhau thường xuyên.
Trong khi đó chính giới hai nước không thiếu các chữ vàng lời đẹp
nói về quan hệ hai nước! Khoảng cách có thuốc súng và máu giữa thực
tế và lời nói như vậy cho thấy điều gì?
Xin lưu ý, trong bối cục của tình hình thế giới những năm 1980 Trung
Quốc đã dùng vũ lực thường xuyên uy hiếp Trường Sa, – đặc biệt là
cuộc tấn công đẫm máu của hải quân Trung Quốc đánh chiếm thêm các
bãi cát ngầm và một số đảo ở Trường Sa ngày 14-03-1988. Ngày nay
không thể không đặt ra câu hỏi: Trung Quốc dự định và có thể sẽ làm
gì nữa trong bối cảnh thế giới hiện tại?
Trong bài đăng trên Hoàn Cầu Thời báo, ngày 18/03/09,
tác giả Đới Hy, đại tá không quân Trung Quốc và nhà bình
luận có tiếng, kêu gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trường
Sa: "Song song với việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải
(Biển Đông), cần thiết lập căn cứ quân sự trên quần đảo Nam
Sa (Trường Sa), với các cơ sở dành cho máy bay, trực thăng và
các loại hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng
lớn ở đây sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân sự...
không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam Hải (Biển
Đông) mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội."[31]
Trong quan hệ kinh tế hai nước có rất nhiều vấn đề phức tạp.
Không biết phía Trung Quốc lobby thế nào
mà
thắng thầu nhiều công trình kinh tế lớn do phía Việt Nam làm chủ đầu
tư, kể cả tại nhiều địa điểm có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh
quốc phòng của ta. Đáng chú ý là nước ta hiện nay đã đạt được trình
độ phát triển nhất định, mà hầu như tất cả các công trình do Trung
Quốc thực hiện đều dưới dạng chìa khóa trao tay (EPC) - với
công nghệ lạc hậu – ví dụ công nghệ cho nhà máy Nhân Cơ sơ chế
bô-xít thành alumin ở Tây Nguyên là công nghệ Bayer có từ 100 năm
nay! - cùng với thiết bị và vật tư gần như 100% là của Trung Quốc, đưa hàng
vạn người Trung Quốc không có tay nghề vào làm việc không có giấy
phép. Có nhiều hiện tượng gian lận trong thực hiện các dự án, có nơi
đưa vào nước ta từ cái hố xí bệt như báo chí ta đã phanh phui!.. Nếu
họ ở lại sinh con đẻ cái thì sẽ làm sao? Xin nhắc lại, đấy là những
sự việc thật, không có chuyện bài Hoa ở đây. Vì thế
không thể không đặt ra câu hỏi: Trong những dự án đã ký kết, đã thực
hiện, và đang thực hiện, có sự thao túng nào không của bàn tay tham
nhũng? Chúng luồn lách từ đâu? Đến mức độ nào?..
Phần lớn đầu tư của Trung Quốc vào ta là khai thác khoáng sản và
chuẩn bị địa bàn hoạt động mới ở nước ta cho công nghiệp của Trung
Quốc – gần đây nhất là khu công nghiệp An Dương – Hải Phòng do Thâm
Quyến xúc tiến. Trong khi đó ngoại thương ta nhập siêu từ Trung Quốc
mỗi năm 10 – 13 tỷ USD,[32]
khoảng 80 – 90% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Trung Quốc là nguyên
liệu. Buôn bán qua biên giới (biên mậu) là một kênh quan trọng trong
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, song không hiếm lúc
Trung Quốc đưa ra đủ mọi thứ lý do đơn phương “đóng cửa” với các lý
do khác nhau
̶ mỗi lần xảy ra như thế hàng trăm triệu đồng sản
phẩm xuất khẩu của ta bị hủy hoại bên trong biên giới… Tình hình này
cộng với nhập lậu ồ ạt hàng Trung Quốc kém chất lượng thực sự gây
nguy hiểm cho đất nước. Duy trì tình trạng này trong tương lai, đầu
tư của Trung Quốc và kim ngạch ngoại thương hai nước càng lớn, nước
ta phải đối mặt với mối nguy và sự lệ thuộc càng lớn. Tăng cường
quan hệ kinh tế Việt – Trung có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước
ta, song mở rộng hợp tác kinh tế với các tỉnh Trung Quốc mà không
cải thiện được tình hình nêu trên sẽ càng bất lợi.
Ngoài việc gây sức ép các hãng BP và Exxon phải hủy các hợp đồng thăm
dò dầu khí đang làm với ta (nhưng phía ta lại giải thích với báo chí
là các hãng này đã làm xong việc và tự rút!), Trung Quốc tiếp tục
nêu yêu sách “lưỡi bò” trên Biển Đông, tuyên bố vùng cấm đánh cá từ
16-05-2009 đến 1-08-2009 kinh độ 170 Đông xuống tận vỹ tuyến 12; có
lúc đưa tàu quân sự đánh đuổi tàu cá của ta trong vùng biển của ta
chỉ cách bờ 65 hải lý… khiến hàng nghìn ngư dân của ta thất nghiệp,
khốn đốn…
Còn không ít các vấn đề phức tạp khác nữa của quyền lực mềm...
Toàn bộ thực tế nói trên sẽ chi phối sâu sắc tình hình phát triển và
an ninh của nước ta trong thập kỷ 2011-2020. Lịch sử tranh chấp giữa
các siêu cường mà nước ta đã nếm trải thời chiến tranh lạnh sẽ không
lặp lại. Nhưng mối quan hệ tay đôi và sự tranh chấp hay tranh
giành ảnh hưởng như vậy giữa hai nước lớn này thời nào cũng dễ đẩy
các nước nhỏ lâm vào cảnh “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”.
Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có chính sách đối đầu với Trung Quốc.
Ngày nay cả thế giới – kể cả Mỹ - không nước nào chọn chính sách đối
đầu với Trung Quốc. Việt Nam càng không có lý do để làm việc này. Kể
từ khi ra đời, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – ngày nay là Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nước ta đã từng sống trong thời kỳ quan
hệ Việt – Trung đúng với tinh thần vừa là đồng chí vừa là anh
em, núi liền núi sông liền sông…
Không hoài cổ, nhưng không thể không đặt ra câu hỏi: Cái gì tốt đẹp
đã đạt được trong quá khứ, tại sao không đạt được trong tương lai?
Câu trả lời về phía Trung Quốc, để cho Trung Quốc trả lời.
Câu trả lời về phía chúng ta, tự chúng ta phải tìm lấy. Để có câu
trả lời ấy, dân tộc Việt Nam ta hôm nay cần bắt đầu từ lòng tự trọng
và ý chí thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu hiện nay, rồi mới đến các
việc phải làm khác. Một nước Việt Nam èo uột không thể làm bạn với
Trung Quốc hoặc với bất kỳ nước nào trên thế giới này. Điều chắc
chắn là Trung Quốc cần thế giới nếu không hơn thì cũng không kém các
cường quốc khác. Có thể sẽ có một Trung Quốc siêu cường, nhưng có lẽ
không thể có một đế chế Trung Quốc, một Pax Sinica trong thời đại
ngày nay. Thực lực và những giá trị Trung Quốc có, hoặc sẽ có đều
khó lòng cho phép Trung Quốc trở thành một đế chế như thế. Tự thân
Trung Quốc cũng nói lên điều này. Vì thế, Việt Nam nên có một vai
trong cái thế giới mà Trung Quốc cần ấy.
Trung Quốc có thể rất thâm độc, nguy hiểm, rất hung hãn như chúng
ta đã từng thấy từ Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, như trong vấn
đề chiến tranh Khmer đỏ chống Việt Nam, chiến tranh biên giới tháng
2-1979, các cuộc đánh chiếm cướp các đảo của ta, tiếp tục uy hiếp
trên Biển Đông, thâm nhập sâu vào Tây Nguyên... Nhưng Trung Quốc sẽ
làm được gì nữa nếu cả nước ta trên dưới một lòng và có sự hậu thuẫn
của cả thế giới tiến bộ? Trung Quốc sẽ làm được gì nữa, nếu nước ta
hiểu rõ bàn cờ thế giới mọi thời đoạn, không tự trói buộc mình vào
bất kỳ một ý thức hệ nào ngoài lý tưởng duy nhất và ý chí sắt đá:
Phải khôn ngoan đến cùng để thực hiện lợi ích quốc gia trên hết!
Mặt khác quan hệ Việt – Trung hai, ba thập kỷ vừa qua phải chăng cho
thấy nhân nhượng Trung Quốc bao nhiêu cho đủ đây? Hòa hiếu đến thế
nào nữa cũng vẫn không được tôn trọng? Thậm chí nhiều lúc Trung Quốc
tỏ ra rất hỗn xược – điển hình nhất có lẽ là chuyện nửa đêm gọi đại
sứ ta ở Bắc Kinh để trách cứ chuyện báo chí ta nói nhiều về thực
phẩm Trung Quốc xuất vào việt Nam nhiễm hóa chất độc hại, chuyện
lãnh đạo Trung Quốc phê phán Việt Nam cải cách quá nhanh! Còn bao
nhiêu chuyện đau lòng khác nữa..! Trong khi đó thượng nghị sỹ Obama
lúc tranh cử cũng như sau khi đắc cử tuyên bố thẳng thừng không cho
nhập khẩu các đồ chơi của trẻ em có nhiều chất chì sản xuất từ Trung
Quốc thì phía Trung Quốc hoàn toàn lặng lẽ!
Nhìn chung, từ sau 30-4-1975, đặc biệt từ sau hội nghị Thành Đô
(1990), Trung Quốc tiếp tục lấn tới trong quan hệ với Việt Nam, đồng
thời Trung Quốc khuyến khích hay để ngỏ cửa cho phát triển những mối
quan hệ hợp tác nhẩt định. Với cả hai cánh tay “cứng” – “mềm” như
vậy, Trung Quốc nhất quán theo đuổi mục đích làm cho Việt Nam ngày
càng lệ thuộc hoặc phải nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc. Cũng phải
nói cho khách quan: Từ xưa đến nay có cường quốc nào không đối xử
với các nước nhỏ hơn hay các con mồi của mình như thế? Lịch sử Việt
Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay có biết bao nhiêu bài học phong
phú trong mối quan hệ như vậy với các “người bạn lớn” muốn chi phối
vận mệnh nước ta!
Tuy nhiên, trước hết ta cũng phải tự trách mình: Ta có làm sao thì
người mới dám xử sự với ta như thế chứ!? Hay là mọi việc xảy ra chưa
đủ thức tỉnh lòng tự trọng của dân tộc Việt Nam thời này?! Còn ai
muốn hiểu những điều trình bày trên là kích động chống quan hệ hữu
nghị hợp tác Việt-Trung xin cứ phản bác.
Không chống Trung Quốc, không bài Hoa, nhưng nhất thiết phải tự ta
là ta, nghĩa là phải có bản lĩnh và thực lực để trở thành một đối
tác được tôn trọng! Hữu nghị “chay” kết quả sẽ là “âm”. Dân tộc Việt
Nam ta chẳng lẽ không có kinh nghiệm gì về tình bằng hữu ăn xin?
Và trên hết cả, hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi,
cùng phát triển với cái công xưởng thế giới là điều kiện căn
bản cho chung sống hòa bình, hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đừng chọn kịch bản để cho Việt Nam trở thành một bãi thải, một lá
chắn hay một con đê chắn sóng Trung Quốc, mà cần tìm ra và lựa chọn
kịch bản Viêt Nam trở thành cầu nối giữa các bên với Trung Quốc
̶
cho một thế giới của hợp tác hòa bình và phát triển. Đòi hỏi sống
còn này đặt ra cho nước ta nhiệm vụ phải phấn đấu tự nâng cao mình
toàn diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng,
ngoại giao, trước hết là đòi hỏi nâng cao nhân cách, năng lực và bản
lĩnh con người Việt Nam thời nay, toàn dân tộc là một ý chí thống
nhất mạnh mẽ! Trên hết cả, đòi hỏi này đặt ra trách nhiệm trực tiếp
và vô cùng quan trọng cho những người đang nắm giữ vận mệnh quốc
gia. Chế độ chính trị của đất nước phải đáp ứng tối đa đòi hỏi này.
Xin đừng quên lịch sử Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đã
hơn một lần đem lại cho nước ta bài học cay đắng: Quyền lợi quốc gia
của ta luôn luôn đứng trước nguy cơ bị các nước lớn bán rẻ, tranh
giành nhau, hoặc đem ra đổi chác với nhau. Điều gì sẽ xảy ra nếu ở
khu vực Đông Nam Á sẽ do thế hai cực Trung – Mỹ với các kịch bản
khác nhau chi phối: kịch bản cân bằng, kịch bản giành giật, kịch bản
thỏa hiệp – nhất là kịch bản Mỹ vì thế đi xuống và vì lợi ích chiến
lược toàn cầu của mình muốn hi sinh, muốn đem lợi ích của Việt Nam
đổi chác lấy cái gì đó..? Làm sao nước ta đứng vững được trong bất
kỳ kịch bản nào?
Tất cả xoáy vào câu hỏi: Làm gì để Việt Nam thoát được nghèo hèn như
một tật nguyền?
IV.
Việt Nam đứng trước đòi hỏi sống còn
phải chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới
Bước
vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước kể từ khi hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất
đất nước vừa tròn 35 năm. Trong suốt thời kỳ 35 năm này, nước ta mất
trắng 5 năm đầu tiên với nhiều hy sinh lớn lao cho chiến tranh chống
bọn diệt chủng Polpot – Yengsari ở Campuchia và chống cuộc chiến
tranh chớp nhoáng của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta,
được gọi là cuộc chiến tranh 17-02-1979. Cuộc chiến tranh giúp nhân
dân Campuchia chống lại bọn Khmer đỏ diệt chủng còn kéo dài ác liệt
thêm nhiều năm nữa sau khi Phnompenh đã được giải phóng. Cuộc chiến
tranh biên giới 17-02-1979 biến thành xung đột đẫm máu với Trung
Quốc trên biên giới phía Bắc nước ta, kéo dài mãi đến năm 1989 mới
thực sự kết thúc. Trong khi đó đất nước lâm vào cảnh khốn khó với
biết bao nhiêu chuyện đau lòng – từ những đổ vỡ, hy sinh mất mát mới
trong nước phải chịu đựng, đến những tang tóc không kể xiết rơi vào
những người vượt biển phải bỏ đất nước ra đi…
Điểm lại thực
tế lịch sử nêu trên để thấy rõ bối cảnh vô cùng phức tạp đất nước ta
phải đối phó khi bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước trong
hòa bình. Người Việt Nam ta dù là ai, trong nước, ngoài nước, bất
luận tôn giáo, chính kiến, đẳng cấp nào, nếu còn nặng lòng với đất
nước nhất thiết phải cùng nhau nghiêm túc rút ra từ khoảng thời gian
lịch sử này những bài học không được phép quên. Vì vậy rồi đây sẽ
phải đánh giá chuẩn xác và khách quan 15 năm (1975-1989) bi kịch đầy
máu và nước mắt sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết
thúc – không phải chỉ để làm rõ trách nhiệm trước lịch sử, quan
trọng hơn là để không vấp lại sai lầm cũ, để làm rõ con đường phải
đi phía trước.
Điểm lại như vậy thực tế lịch sử trước khi nói về kinh tế chỉ muốn
xin lưu ý ngay từ đầu:
Trong thập kỷ tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhất thiết
đòi hỏi phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới -
với lý tưởng lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia là duy nhất và trên
hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là
sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa
bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối quan hệ quốc tế thuận lợi
có thể tranh thủ được.
Đương nhiên, mỗi người Việt Nam được nói tới ở đây, còn món nợ lớn
hơn thế đối với tổ quốc mình trước sau nhất thiết phải trả. Đó là:
Phải dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc Việt Nam
ta đã trải qua từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc cho đến nay.
Đơn giản vì lẽ: Có dân tộc nào muốn thành công trên con đường trở
thành một quốc gia phát triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc
nhìn lại mình? Lịch sử không làm lại được và có những khúc quanh có
không cưỡng lại được, nhưng bài học thì phải rút ra. Đặt vấn đề như
vậy, phải chăng có thể rút ra:
(1) Nhìn nhận phiến diện thế giới chúng ta đang sống, (2) sự giác ngộ
không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn
biến động vô cùng phức tạp, (3) sự nô lệ vào ý thức hệ hoặc các niềm
tin mù quáng - phải chăng đấy là ba nguyên nhân khởi thủy kìm hãm sự
phát triển của đất nước 35 năm qua? Ngày nay còn phải cộng thêm
nguyên nhân (4) là sự tha hóa mới trên nhiều phương diện. Suy cho
cùng, trước sau đấy vẫn là những vấn đề của trí tuệ, tầm nhìn và ý
chí!
Dưới đây xin tập trung nêu ra một vài vấn đề phát triển kinh tế của
đất nước trong thập kỷ tới (2011-2020).
1. Mô hình phát triển theo chiều rộng của kinh tế nước ta hiện nay đã
đi trọn vòng đời
Kể từ khi xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp và bắt tay tiến hành công
cuộc đổi mới năm 1986, nước ta thực sự bắt đầu đi vào thời kỳ phát
triển trong thời bình. Tính đến nay, chặng đường này trọn một phần
tư thế kỷ (nếu lấy năm họp Đại hội toàn quốc ĐCSVN lần thứ XI làm
cột mốc).
Trong 25 năm này kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng
trưởng theo chiều rộng: chủ yếu dựa vào (1) khai thác lợi thế so
sánh về giá lao động rẻ (trình độ tay nghề thấp, ít hàm lượng kỹ
thuật, thậm chí một bộ phận đáng kể là lao động cơ bắp), (2) khai
thác tài nguyên thiên nhiên, (3) đẩy mạnh đầu tư từ các nguồn trong
nước và nước ngoài cho phát triển một nền kinh tế sử dụng nhiều lao
động giá rẻ và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, (4) sử dụng
lãng phí đất đai và không thân thiện với môi trường.
Từ 10 năm trở lại đây mô hình phát triển theo chiều rộng cho thấy
kinh tế nước ta chỉ có tăng trưởng nhờ thâm dụng lao động rẻ và đầu
tư mới, hầu như không có phát triển. Thực tế này giải thích tại sao
càng đuổi thiên hạ, khoảng cách tụt hậu của ta cứ xoạc rộng ra mãi.
Nhìn chung mô hình phát triển như thế cho thời kỳ này là cần thiết,
nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Tuy nhiên
chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp và càng về sau càng thấp so với
công sức bỏ ra, hoặc so với những cái giá phải trả. Đại hội X đã phê
phán tình trạng yếu kém của mô hình phát triển theo chiều rộng.[33]
Mối lo lớn nhất là sau ¼ thế kỷ tăng trưởng và phát triển kể từ khi
đổi mới, nước ta cho đến nay vẫn chỉ là người cung cấp lao động rẻ,
nông phẩm thô, nguyên liệu thô hoặc sơ chế thấp, sản phẩm gia công,
sản phẩm chế tạo với hàm lượng công nghệ thấp, đất đai và thị trường
nội địa trở thành nơi thu hút FDI chủ yếu cho công nghiệp có hàm
lượng công nghệ thấp, gây nhiều gánh nặng cho môi trường tự nhiên và
xã hội... Với chiến lược phát triển dựa vào 4 yếu tố như vậy, thế
mạnh lớn nhất và nguồn lực nội tại lớn nhất của đất nước là con
người Việt Nam không được phát huy. Trên thực tế nước ta đang đi vào
xu thế trở thành một nước đi làm thuê và đất nước cho thuê
với cả nghĩa đen và nghĩa bóng.[34]
Nước ta có kế
hoạch hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Nhưng trong 25 năm
qua quá trình công nghiệp hóa chủ yếu vẫn dựa vào 4 yếu tố của phát
triển vừa nói trên. Vì thế vẫn chưa làm bộc lộ rõ và chưa xác lập
được thế mạnh để nền kinh tế nước ta có thể bức phá trở thành một
nước công nghiệp hóa trong một tương lai gần. Cho đến nay cũng chưa
xác định được đâu sẽ là chỗ đứng trong tương lai của nền công nghiệp
nước ta trong kinh tế thế giới để vươn tới.
Với GDP tính theo đầu người hiện nay đạt khoảng 1000 USD – tăng
khoảng 10 lần so với khi bước vào đổi mới, nước ta mới ra khỏi nhóm
nước đang phát triển có thu nhập thấp. Hiện tại nền kinh tế nước ta
phát triển ở mức thấp trên các phương diện: trình độ lao động, hàm
lượng công nghệ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý đất nước,
hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con người, của văn hóa, xã hội
và của toàn bộ hệ thống chính trị... Nhìn chung sau 25 năm nước ta
vẫn còn là một quốc gia lạc hậu, vẫn chưa thấy hình hài của một nền
kinh tế công nghiệp hóa, càng chưa thể hình dung một quốc gia công
nghiệp Việt Nam trong vòng một hai thập kỷ tới sẽ ra sao. Điều này
có nghĩa vào năm 2020 nước ta sẽ vẫn còn đứng cách rất xa các chỉ
tiêu của một nước được coi là hoàn thành giai đoạn công nghiệp hóa.
Theo IMF, năm 2008 GDP danh nghĩa (nominal) tính theo đầu người
của ta là 1040 USD, của Thái Lan là 4115 USD. Để đạt được mức
phát triển trên nhiều phương diện như của Thái Lan hiện nay (kết
cấu hạ tầng, nhà nước pháp quyền, thu nhập tính theo đầu người,
quyền tự do dân chủ của dân...), ước tính nước ta cần 20 năm
hoặc lâu hơn nữa. Song Thái lan hiện nay vẫn chưa được coi là
một NIC và vẫn trong tình trạng cứ vài ba năm lại một cuộc đảo
chính quân sự. Từ đó có thể suy ra: Tiếp tục con đường
phát triển hiện nay, nước ta hai ba chục năm nữa vẫn chưa thể
trở thành một nước công nghiệp hóa.
Theo cách định nghĩa của UNDP và một số viện nghiên cứu trên thế
giới, một nước được coi là nước mới hoàn thành công nghiệp
hóa (NIC), đại thể phải có các tiêu chuẩn sau đây:
· Có những chuyển biến cơ bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm
phần nhỏ nhất trong tổng số lao động cả nước, (theo đánh giá của
Hội đồng quy hoạch kinh tế và phát triển Đài Loan,
sau 25 năm đầu tiên tiến hành công nghiệp hóa, tỷ trọng lao động
nông nghiệp ở Đài Loan còn 18%, ở Hàn Quốc còn 12% lao động cả
nước), tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn rất thấp, công
nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng chủ yếu trong công nghiệp và đã
có các tập đoàn kinh tế tham gia vào các “chuỗi” cung ứng hay
sản xuất toàn cầu, trong toàn bộ nền kinh tế khu vực dịch vụ
vượt khu vực công nghiệp và khu vực nông nghiệp...
· Có khả năng lớn trong thu hút FDI.
· Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và trong khung khổ của
pháp luật.
· Quyền công dân và các quyền tự do dân chủ khác trong xã hội ngày
càng mở rộng. Nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển.
· Có đội ngũ lãnh đạo mạnh và tinh thông.
· V… v…
Một quốc gia hoàn thành thời kỳ công nghiệp hóa còn phải được nhìn
nhận theo các tiêu chí của một xã hội công nghiệp. Đơn giản là rất
khó tồn tại một nước công nghiệp hóa trong một thể chế chính trị -
văn hóa – xã hội lạc hậu. Trên phương diện này, phải nói nước ta còn
khá lạc hậu so với một nước công nghiệp hóa và so với thế giới chung
quanh về nhiều mặt: dân trí, tính công khai minh bạch, xã hội dân
sự, năng lực + tính trách nhiệm và tính tin cậy được
(accountability) của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, đặt Hiến
pháp và pháp luật lên trên hết, khả năng đề kháng hay khắc phục
những tha hóa mới trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập, đặc
biệt nghiêm trọng là tình trạng lạc hậu và đi sai hướng của hệ thống
giáo dục[35]
với những hệ quả lâu dài và khó lường cho tương lai...
Nói một cách hình ảnh: Đến năm 2010, sau ¼ thế kỷ đổi mới, nước ta
có lẽ mới chỉ đi được khoảng 1/3 hay một nửa đầu của toàn bộ chặng
đường công nghiệp hóa mà thôi.
Từ nay đến năm 2020 có cách nào “đi” hay “bay” nốt 2/3 hay một nửa
chặng đường còn lại không?
Trả lời:
Dứt khoát không! Thậm chí “đi” hay “bay” tiếp tục như mô hình phát
triển hiện nay, sẽ rất khó có một nước Việt Nam công nghiệp hóa
trong vòng ba bốn thập kỷ tới, hoặc không bao giờ![36]
Những điều vừa trình bày trên cho thấy: Nhìn về bất kỳ phương diện
nào, nước ta chắc chắn không thể hoàn tất thời kỳ công nghiệp hóa
vào năm 2020.
Tóm
lại, sau 25 năm công nghiệp hóa, nước ta có một nền kinh tế phát
triển theo chiều rộng và còn mang nặng các đặc tính: manh mún, bóc
ngắn cắn dài, tranh thủ được cái gì thì làm cái nấy. Nền kinh tế
nước ta ngày càng có những mất cân đối lớn, ngày càng đi sâu vào một
cơ cấu kinh tế lạc hậu và ô nhiễm môi trường nặng nề! Hơn nữa tính
mất cân đối, tính lạc hậu này và tình trạng ô nhiễm môi trường đã
tới ranh giới chịu đựng cuối cùng của đất nước, vượt qua nó sớm muộn
sẽ dẫn tới đổ vỡ lớn.
Vài ví dụ:
o
Xuất khẩu than, dầu, gạo và nhiều sản phẩm khác đã tới đỉnh của khả
năng cho phép, không thể vượt qua được, thậm chí tiếp tục duy trì
những cái “đỉnh” này có thể dẫn tới thảm họa (hiện nay đã trù tính
phải nhập than từ năm 2012).
o
Ô nhiễm môi trường và sử dụng đất đai lãng phí đã tới mức nguy hiểm,
trong khi dân số tiếp tục tăng, ruộng đất ngày càng khan hiếm.
o
Cơ cấu kinh tế lạc hậu và nhiều chính sách kinh tế - xã hội hiện nay
không cho phép tận dụng được mọi cơ may mà “cơ cấu dân số vàng”[37]
có thể đem lại cho đất nước. Thậm chí “cơ cấu dân số vàng” này có
thể biến thành mối đe dọa lớn vì nạn thất nghiệp và sự xuống cấp của
xã hội đang ngày càng nghiêm trọng.
o
Những yếu kém về nhiều mặt trong thu hút FDI khiến nước ta về
nhiều mặt thực chất đang là nước đi làm thuê và là đất nước cho
thuê.
o
Nhập siêu và thâm hụt ngân sách cứ tiếp tục như hiện này sẽ hứa hẹn
những đổ vỡ lớn trong tầm tay.
o
Càng nhiều đô thị hiện đại mọc lên do phát triển không đồng bộ (nhất
là quy hoạch, luật pháp, năng lực hành chính, các chính sách kinh
tế, các ngành dịch vụ, nguồn nhân lực, các ngành cung ứng...) các
thất bại và ách tắc càng lớn…
o
Vân vân... Vân vân...
Xin đừng để những lời khen vàng ngọc của nước ngoài về “tính năng
động”, về “triển vọng tốt đẹp” của kinh tế Việt Nam, về “khả năng
hấp dẫn” của thị trường Việt Nam, “Việt Nam là nền kinh tế đang
lên”, về vân vân... ru ngủ chúng ta. Cứ cho những lời khen ấy là
thực bụng, thì cũng đừng quên họ nhìn Việt Nam về nhiều mặt đang là
thị trường tốt nhất để đưa tới những thứ họ đang không muốn có hay
muốn loại bỏ ở nước họ, hoặc những thứ các nơi đang thừa ế và muốn
tống khứ! Vinashin, các dự án thép và xi-măng khổng lồ là những ví
dụ tiêu biểu, chưa nói đến hàng trăm sân golf….
Những năm 1994-1995 kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng đầu
tiên sau 10 năm đổi mới. Nguyên nhân chính là lực đẩy đầu tiên của
đổi mới đã làm xong nhiệm vụ của nó, kinh tế bắt đầu có những mất
cân đối mới, đầu tư kém hiệu quả, tăng trưởng và xuất khẩu đều giảm,
lạm phát tăng cao. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 ở châu Á
xảy ra chậm hơn và không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
kinh tế 1994-1995 ở nước ta (sự thật là nước ta kém nhạy bén nên
không tận dụng được một số cơ hội do cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ năm 1997 đem lại).
Vào quý IV năm 2007, kinh tế nước ta bước vào cuộc khủng hoảng lớn
lần thứ 2 kể từ khi tiến hành đổi mới. Năm 2007 lạm phát nhảy
vọt lên 12,6%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của năm là 8%; năm
2008 lạm phát bùng lên 19,89% (22,8% theo WB và IMF), trong khi đó
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,2%,[38]
năm 2009 lạm phát 6,88% và tăng trưởng GDP đạt 5,32% (nguồn: TCTK và
Bộ KH&ĐT). Ngoài những nguyên nhân tương tự như cuộc khủng hoảng
1994-1995, cuộc khủng hoảng hiện nay còn do tác động nghiêm trọng
của một số chính sách vỹ mô, trước hết trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tháng 9-2008 (nghĩa là
chậm gần một năm so với ở nước ta) làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế
của nước ta hiện nay trầm trọng thêm, chứ không phải là nguyên nhân.
(Tuy nhiên, giá đầu vào rẻ, nên mặt nào đó cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới cũng giúp cho kinh tế trong nước bớt căng thẳng, hầu hết
các sản phẩm xuất khẩu của nước ta vẫn tiếp tục giữ được tăng trưởng
về khối lượng và nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trong năm
2008 và 2009).
Tình hình phát triển kinh tế 25 năm qua, đặc biệt là những tín hiệu
giống nhau của 2 cuộc khủng hoảng nối nhau liên tiếp cho thấy: Mô
hình phát triển kinh tế theo chiều rộng đã đi trọn vòng đời
của nó, bắt buộc phải chuyển sang mô hình khác.
2. Tính hiệu quả và chất lượng của phát triển kinh tế ngày càng thấp.
Hiện tượng này thể hiện tập trung nhất ở chỉ số lạm phát và chỉ số
ICOR của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng
cao và thuộc loại cao nhất ở châu Á, đồng thời lạm phát vượt xa mức
tăng trưởng. Nói nôm na đấy là hiện tượng: Tiền của công sức bỏ ra
ngày càng nhiều, hiệu quả kinh tế thu được có tỷ lệ ngày càng thấp.
Kéo dài tình trạng này sẽ kiệt sức.
Biểu 1
Năm |
Tăng trưởng GDP |
Tỷ lệ lạm phát |
Chỉ số ICOR |
2006 |
8,17% |
7,7% |
5,0 lần |
2007 |
8,48% |
12,6% |
5,2 |
2008 |
6,23% |
19,89% (22,87%) |
6,9 |
2009 |
5,32% |
6,88% |
8 |
Nguồn: Thông báo của TCTK cuối tháng 12-2009.
Chú ý:
Chỉ số ICOR thời kỳ 2000 – 2006 của nước ta là 5,0. Một số chuyên
gia đánh giá chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2008 cho toàn bộ nền kinh
tế nếu tính đủ là <7, và riêng cho khu vực nhà nước là <8 hoặc 2 con
số, trong khi đó của khu vực tư nhân là 3,2, của khu vực FDI
là 5,2.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc chỉ số ICOR của
nhiều thập kỷ gần đây, phổ biến là 3 hoặc >3, nghĩa là chỉ số ICOR
của nước ta cao gấp rưỡi hoặc gấp đôi so với những nước này.[39]
Theo WB từ tháng 12-2007 đến tháng 6-2008 tài sản thị trường chứng
khoán Việt Nam giảm mất 17 tỷ USD – nghĩa là mất một nửa giá trị;
lạm phát trong 8 tháng đầu năm 2008 của Việt Nam là 28,3%.
Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á
Quốc Gia |
Giai đoạn |
GDP (%) |
Đầu tư/GDP |
ICOR |
Hàn Quốc |
1961-1980 |
7.9 |
23.3 |
3.0 |
Đài Loan |
1961-1980 |
9.7 |
26.2 |
2.7 |
Indonesia |
1981-1995 |
6.9 |
25.7 |
3.7 |
Thái Lan |
1981-1995 |
8.1 |
33.3 |
4.1 |
Trung Quốc |
2001-2006 |
9.7 |
38.8 |
4.0 |
Việt Nam |
2001-2006 |
7.6 |
39.1 |
5.1 |
Nguồn: World Bank
Diễn đàn Kinh
tế Thế giới (WEF) căn cứ vào 9 tiêu chí chủ yếu là (1) thể chế kinh
tế, (2) hệ thống cơ sở hạ tầng, (3) năng lực kinh tế vĩ mô, (4) hệ
thống giáo dục và y tế phổ thông, (5) trình độ giáo dục đại học,
(6) hiệu quả vận hành của cơ chế thị trường, (7) mức độ sẵn sàng về
công nghệ, (8) mức độ hài lòng của doanh nghiệp, và (9) mức độ sáng
tạo - để đánh giá năng lực cạnh tranh của các quốc gia.
Đánh giá của WEF cho thấy các năm gần đây nhất là nước ta liên tiếp
tụt thứ bậc trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh của các
quốc gia trên cả 3 phương diện quốc gia, sản phẩm và doanh
nghiệp.
Trong số các quốc gia được đem ra so sánh, năm 2006 nước ta xếp hạng
thứ 64, năm 2007 xếp hạng thứ 68, năm 2008 xếp hạng thứ 70;
nếu so sánh riêng trong khu vực Đông Á, Việt Nam chỉ đứng trên
Philippines và Campuchia (Myanmar chưa được xếp hạng).[41]
Đấy là các tín hiệu rõ nét minh họa thêm tính hiệu quả của nền kinh
tế nước ta ngày càng giảm sút.
Hiện nay Việt Nam được liệt vào danh sách các nước đứng đầu thế giới
về giá thuê trụ sở văn phòng cho các doanh nghiệp nước ngoài, về chi
phí trung gian, về tốn kém thời gian trong xử lí các dịch vụ phục vụ
kinh doanh... Bộ Công Thương nước ta cũng thừa nhận tình trạng sử
dụng đất đai và tài nguyên ở nước ta rất lãng phí, mức độ tiêu hao
năng lượng cho một sản phẩm mới trung bình cao gấp đôi so với Thái
Lan, Malaysia...[42]
Các làng ung thư, các dòng sông chết - nhiều vùng kinh tế quan trọng
hầu như không còn một con sông nào được coi là không bị ô nhiễm, nạn
khan hiếm nước nước và nước sạch cũng như nhiều tệ nạn xã hội ngày
càng gia tăng và đang vượt khỏi khả năng kiểm soát của bộ máy nhà
nước. Chất lượng cuộc sống tiếp tục xuống cấp – thể hiện rõ nhất
trên lĩnh vực giáo dục và y tế, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi
trường, tệ nạn quan liêu tham nhũng gia tăng...
3. Càng phát triển, nền kinh tế càng nhiều ách tắc hay mất
cân đối mới, thậm chí mất phương hướng phát triển
Những ách tắc này được đặt dưới tên gọi chung là
những thắt cổ chai. Đó là những mất cân đối ngày càng
gay gắt
-
giữa khả năng đáp ứng của kết cấu hạ tầng và đòi hỏi phát triển của
nền kinh tế, giữa sự phát triển yếu kém nguồn nhân lực và đòi hỏi
của phát triển kinh tế - xã hội;
-
giữa khả năng quản trị quốc gia và đòi hỏi phát triển của đất nước
trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập tình trạng quan liêu và
nạn tham nhũng rất nặng nề, khả năng thực thi pháp luật yếu kém..;
-
đặc biệt là tình trạng nhập siêu và tình trạng thâm hụt ngân sách
rất nghiêm trọng: Nhập siêu từ năm 2000 ngày càng lớn và được coi là
ở mức báo động. Kể từ năm 1995 đến 2005, nhập siêu của Việt
Nam luôn ở mức dưới 5 tỷ USD và ước khoảng 10% GDP; song đã
tăng vọt lên trên 12 tỷ USD vào năm 2007 (gấp 2,4 lần so với năm
2006) và đến hết tháng 9/2008, tổng mức nhập siêu đã lên tới con số
15,8 tỷ USD (ước khoảng trên 20% GDP/năm)... Nếu phân tích các quốc
gia ta nhập siêu, sẽ thấy bức tranh trầm trọng hơn (chủ yếu
từ Trung Quốc và các nước châu Á – là các quốc gia có công nghệ
thấp). Thâm hụt ngân sách từ năm 2000 trung bình là 5-6% GDP/năm,
riêng năm 2009 dự kiến là 8% GDP/năm (thông báo của TCTK 12-2009 ước
là 7%).
-
Mất cân đối giữa một bên là năng lực và chất lượng thấp trong
việc hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển.., và
một bên là đòi hỏi phát triển mọi mặt đất nước. Tình trạng hiện nay
là càng phát triển càng rối và không đồng bộ. Quyết định sáp nhập Hà
Tây vào Thủ đô Hà Nội nhưng đến bây giờ chưa có quy hoạch tổng thể
thủ đô được mở rộng, quyết định khai thác bauxite ở Tây Nguyên và
quy trình triển khai lộn ngược của 2 dự án khai thác bauxite ở Nhân
Cơ và Tân Rai là hai ví dụ điển hình của tình trạng rối ren này[43]…Còn
nhiều quyết định kinh tế hay dự án khác vội vã, kém chất lượng
với hệ quả khôn lường như vậy. Không thể không đặt câu hỏi: Tại sao
những chuyện như thế cứ lặp đi lặp lại qua các năm?
-
vân vân...
Hệ quả lớn nhất của tình trạng này là càng phát triển tích tụ
ngày càng nhiều ách tắc và mất cân đối lớn, phá vỡ mọi chiến
lược hay chủ trương phát triển có tính dài hạn.
4. Một số vấn đề lớn trong quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua
4.1. Trên thực tế chưa có một chiến lược công nghiệp hóa?
Đọc lại các văn kiện các Đại hội Đảng VII, VIII, IX và X về công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, điều đáng chú ý là trong khi các văn kiện
này dành nhiều sự chú ý và nêu nhiều yêu cầu cụ thể cho quan hệ sản
xuất định hướng xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp hóa, phần bàn về
nội dung công nghiệp hóa lại chỉ nêu: không công nghiệp hóa theo kiểu cũ, cần tận dụng lợi thế so sánh, cần đẩy mạnh hướng về xuất
khẩu nhưng chú ý đến thay thế nhập khẩu các sản phẩm tự làm ra có
lãi, chú ý thu hút FDI, các chỉ tiêu tăng trưởng của từng kế hoạch 5
năm, và cái đích: vào năm 2020 trở thành một
nước công nghiệp hóa (gần đây điều chỉnh là: cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hóa) theo hướng hiện đại.
Các nghị quyết viết như vậy cho phép rút ra kết luận: Đấy là
những chỉ tiêu số lượng cần đạt được của từng kế hoạch 5 năm, một số
quan điểm và cái đích mong muốn cho năm 2020, chứ không phải là một
chiến lược công nghiệp hóa.
Nhìn lại chặng đường 25 năm công nghiệp hóa, thực tế cho thấy:
(a) Rất
khó nói rằng quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam đã nhất
quán đi theo một chiến lược phát triển hay một quan điểm chiến lược
rõ rệt nào đã được xác lập, sẽ trở thành một nước công nghiệp hóa
ra làm sao? Nước Việt Nam công nghiệp hóa sẽ định chiếm chỗ
đứng ở đâu trong thị trường kinh tế thế giới? – (thời toàn cầu hóa
kinh tế thế giới ngày nay không thể có một quốc gia hay một nền kinh
tế công nghiệp hóa mà không trả lời chuẩn xác hai câu hỏi này).
Thậm chí có thể nói gần như thiếu hẳn một chiến lược công nghiệp hóa
thống nhất và xuyên xuốt các kỳ đại hội Đảng và các nhiệm kỳ với một
lộ trình rõ ràng, khiến cho không có được quá trình thực hiện liên
tục của một chiến lược, cái đích phải đạt được trở nên mơ hồ, mâu
thuẫn, mỗi Đại hội Đảng nói một khác (hiện nay nói là: Việt
Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại
vào năm 2020![44])
(b) Việt
Nam là nước đi sau, có rất nhiều cái bất lợi và cái lợi phải xử lý
thỏa đáng – điều này có nghĩa phải tìm ra con đường riêng của mình
để không phải lặp lại những sai lầm của các nước đi trước, tránh các
nguy cơ trở thành “bãi thải công nghiệp” của các nước khác, đồng
thời tìm ra cho mình con đường thuận lợi hơn. Thị trường thường chật
cứng đối với nước đi sau – vì vậy phải khai thác lợi thế nước đi sau
trong việc chiếm lĩnh các thị trường ngách (các “niches”), đi vào
các chuỗi cung - ứng trong thị trường thế giới.., mà muốn thế phải có các chính sách giáo dục đào tạo, kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa và chính sách đối ngoại… cho phép liên kết,
chiếm lĩnh những khâu nào đó trên thị trường thế giới; hiển nhiên 25
năm qua những đòi hỏi này không được đặt ra hoặc không được đặt ra
đúng tầm để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta.[45]
(c) Thiếu
hẳn chiến lược, kế hoạch và các quy hoạch cụ thể phát triển kết cấu
hạ tầng đi song song hoặc đi trước một bước mở đường cho sự tiến
triển của công nghiệp hóa với nội dung khai thác thị trường ngách và
chiếm thị trường mới.
(d) Thiếu
hẳn chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà sự nghiệp công nghiệp
hóa / hiện đại hóa đất nước đòi hỏi, thậm chí có thể nói hệ thống
giáo dục và chính sách phát triển nguồn nhân lực hiện nay là hoàn
toàn bất cập, trực tiếp gia tăng sự tụt hậu của đất nước và để lại
nhiều hệ quả lâu dài.[46]
(e) Chỉ
đề ra yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nội dung thay đổi tỷ
trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), song
không kèm theo các chính sách vỹ mô thực hiện thay đổi cơ cấu kinh
tế về chất lượng; do đó về cơ bản toàn bộ kinh tế vẫn tăng trưởng
theo số lượng, hiệu quả và tính bền vững nhìn chung thấp. Đại hội
Đảng đều phê phán tình trạng cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, nhưng
đến nay chưa có kế sách gì đảo ngược tình hình này.
(f) Do
chiến lược công nghiệp hóa không rõ ràng và do cách điều hành kinh
tế vỹ mô theo kiểu phân cấp (trên thực tế là phân tán và manh mún),
dẫn tới hình thành từ hàng chục năm nay “nền kinh tế GDP tỉnh”
với nhiều hệ quả trầm trọng. Trên thực tế công nghiệp hóa ở
nhiều tỉnh được hiểu là thi đua mở các khu công nghiệp, khai thác
tài nguyên không tái tạo được, phát triển ồ ạt các sản phẩm thượng
nguồn (trong đó phần lớn là nguyên liệu thô). “Nền kinh tế GDP tỉnh”
cùng với các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động theo kiểu độc quyền
khiến cho quá trình công nghiệp hóa bị phân khúc hay xé lẻ trên
nhiều phương diện, đồng thời đẻ ra nhiều hệ quả chính trị, xã hội,
văn hóa rất khó khắc phục.
(g) Đặc
biệt nghiêm trọng là các Đại hội đều thừa nhận cải cách chính trị
không đi kịp với đòi hỏi của phát triển kinh tế và xã hội, do đó
chẳng những không thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, không
phát huy được cái mạnh và những thuận lợi của đất nước – nhất là
nguồn lực con người, thậm chí làm cho quá trình công nghiệp hóa chậm
lại và diễn ra trong bối cảnh quan liêu tham nhũng ngày càng nặng
nề. Sự lạc hậu của thể chế chính trị đang tiếp tục làm trầm trọng
thêm tình trạng lạc hậu của thể chế kinh tế, khiến cho toàn bộ hệ
thống chính trị và bộ mày nhà nước ngày càng bất cập trước những đòi
hỏi phát triển của một quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa,
Tình trạng bất cập này và tệ nạn quan liêu tham nhũng ngày nay một
mặt trở thành rào cản chính của quá trình công nghiệp hóa đất nước,
mặt khác là cha đẻ của các quyết sách làm chệch hướng hay kéo lùi
quá trình công nghiệp hóa.[47]
(h) vân... vân...
Tất cả những điều vừa trình bày toát lên một sự thật: Nước ta
sau 25 năm trên thực tế vẫn chưa có một chiến lược công nghiệp hóa
đúng với cái tên gọi của nó. Quá trình công nghiệp hóa 25 năm
qua trên thực tế chủ yếu do sự lôi kéo, dẫn dắt tự thân của
cuộc sống và tác động của đầu tư và dòng vốn từ bên ngoài (nghĩa là
mang tính cơ hội rất cao), nhiều hơn là do chủ động thúc đẩy theo
một hướng chiến lược được xác lập của thể chế chính trị và do sự
giác ngộ với tầm nhìn sắc bén của những người lãnh đạo. Đã thế,
quá trình công nghiệp hóa này lại diễn ra trong tình hình thể chế
chính trị không theo kịp. Cần nói ngay, phát triển như thế đang ngày
một gây ra ách tắc và rối loạn, dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng nguy
hiểm. Gạt mọi chuyện lý lẽ sang một bên, điều đặc biệt quan trọng là
dù có hay không có chiến lược, mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa
vào năm 2020 là không khả thi.
4.2. Hai vấn đề lớn trong xu hướng công nghiệp hóa hiện nay của đất nước
Một là: Vai trò con người trong công nghiệp hóa
Các Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến phát huy nội lực. Song quan điểm
đúng đắn này lại được hiểu theo một nghĩa rất hẹp: Cái gì tự làm
được thì cố làm bằng vốn liếng, sức lực của chính mình (trên thực tế
rất gần với nội dung “tự cung tự túc”). Trong khi đó 25 năm công
nghiệp hóa qua chưa đặt ra vấn đề phát huy nội lực trước hết có
nghĩa là phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của nước ta là
con người Việt Nam.
Quan điểm chiến lược phát huy thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất
nước là con người có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định nội
dung cho toàn bộ quá trình công nghiệp hóa của nước ta cho đến khi
tới đích hoàn thành công nghiệp hóa và cho các giai đoạn phát triển
đất nước sau đó. Quan điểm chiến lược này cho đến nay vẫn chưa hình
thành. Chính vì lẽ này, đến nay nước ta vẫn thiếu hẳn một chiến
lược phát triển con người và chưa có được một thể chế chính trị - xã
hội phù hợp với yêu cầu phát triển con người để phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa.
Các Đại hội Đảng nhấn mạnh coi con người là trung tâm, song lại hiểu
vấn đề này chủ yếu là đối tượng phục vụ - theo những khía cạnh phát
triển giáo dục, văn hóa, xã hội. Ngay quan điểm này cũng chưa làm
được bao nhiêu, chưa thể nói con người đã trở thành trung tâm phục
vụ của mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội. Chưa đặt ra vấn đề
phát triển con người thành chủ thể, thành nguồn lực lớn nhất, và là
động lực quyết định của quá trình công nghiệp hóa. Càng chưa thể nói
là con người với tính cách là công dân của đất nước được phát triển
thành người chủ của đất nước, của hệ thống chính trị và bộ máy nhà
nước. Trong khi đó nhiều quyền và quyền lợi của người dân bị vi
phạm, nhiều trường hợp bị vi phạm nghiêm trọng.
Xin nhấn mạnh (a) quan điểm coi con người là trung tâm như ghi trong
các nghị quyết của Đảng và (b) quan điểm phát huy con người với tính
cách là thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước cho sự nghiệp
công nghiệp hóa như vừa trình bày trên là hai vấn đề hoàn toàn khác
nhau.
Các Đại hội Đảng VII và VIII nhấn mạnh không công nghiệp hóa theo
kiểu cũ. Song như đã trình bày trên, trong thực tế công nghiệp hóa
diễn ra 25 năm qua chủ yếu dựa trên 4 yếu tố (1) lao động rẻ,
(2) khai thác tài nguyên thiên nhiên, (3) đẩy mạnh tăng trưởng nhờ đầu
tư, (4) sử dụng đất đai và tiêu hao môi trường – thực chất
đấy là công nghiệp hóa theo tư duy cũ và kiểu cũ, bởi lẽ
thế mạnh và nguồn lực lớn nhất của đất nước trong thời đại mới ngày
nay là con người hầu như không được tính đến thỏa đáng (chỉ mới chú
trọng đến lao động dư thừa và giá rẻ). Cũng vì lẽ này tiến bộ của
khoa học kỹ thuật và công nghệ đưa vào nền kinh tế nước ta rất chậm,
mặc dù nước ta ngày nay đang ở trong thời đại thông tin.
Hai là:
Sa đà vào kinh tế thượng nguồn
Càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa 25 năm qua có khuynh
hướng càng đi sâu vào kinh tế thượng nguồn: khai thác khoáng
sản và các tài nguyên thiên nhiên khác, phát triển sản phẩm thô, giá
trị gia tăng rất thấp, duy trì công nghệ lạc hậu, cái giá phải trả
cho hủy hoại môi trường tự nhiên và môi trường xã hội rất cao... Đặc
biệt là trong các “nền kinh tế GDP tỉnh”, hầu như tất cả các tỉnh có
khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên thì đều coi đấy là thế mạnh của
mình và ra sức khai thác bừa bãi; có nơi Thủ tướng đã phải ra lệnh
đình chỉ.
Phát triển kinh tế thượng nguồn là điều khó tránh khỏi ban đầu đối
với một nước nghèo và lạc hậu. Song sai lầm là ở chỗ muốn lấy phát
triển kinh tế thượng nguồn làm cú hích và nguồn tích tụ vốn cho công
nghiệp hóa, thậm chí coi kinh tế thượng nguồn là một nội dung quan
trọng, là thế mạnh của công nghiệp hóa. Tại nhiều tỉnh trong nước đã
và đang xảy ra phát triển kinh tế thượng nguồn với bất kỳ giá nào,
thậm chí có nơi chủ yếu là để gây thành tích, phục vụ yêu cầu “giữ
ghế” hay “chạy ghế”. Phát triển như vậy còn là hệ quả của tư duy
lười biếng, dốt nát, đẽo gọt đất nước – song trên mặt nhiều báo cáo
các kỳ đại hội các đảng bộ tỉnh được coi đây là thành tích!
Sai lầm này 25 năm qua rất trầm trọng, vì tại nhiều nơi khoáng sản
và các tài nhiên thiên nhiên khác đã được khai thác đến cạn kiệt,
hủy hoại môi trường, chỉ để tiêu thụ lao động cơ bắp, có nơi chủ yếu
để phục vụ xuất khẩu nguyên liệu hay sản phẩm thô sang Trung Quốc.
Phát triển kinh tế thượng nguồn và các sản phẩm hàm lượng chế biến
thấp là điểm nổi bật nhất của mô hình phát triển theo chiều rộng 25
năm qua.
4.3. Sơ bộ đánh giá một số hệ quả
Để thấy rõ triển vọng nguy hiểm của công nghiệp hóa theo mô hình
phát triển theo chiều rộng, dưới đây xin nêu ra một số vấn đề:
·
Các xí nghiệp xi-măng, luyện thép đã có, đang xây dựng, hoặc đã được
cấp phép xây dựng sẽ dẫn tới tình hình nước ta vào năm 2020 sẽ dư
thừa khoảng một chục triệu tấn xi măng/năm và khoảng hai chục triệu
tấn thép/năm trong tình trạng đất nước ngày càng thiếu năng lượng
gay gắt. Phải chăng mục tiêu công nghiệp hóa của nước ta như vậy là
để trở thành cường quốc xi-măng và thép thô trong thế kỷ 21 này? Sắp
tới còn xuất hiện công nghiệp bô-xít để sơ chế ra nguyên liệu sơ chế
alumin trên Tây Nguyên với nhiều hệ quả trầm trọng, bất chấp sự phản
đối sâu rộng của dư luận khắp nơi trong nước. Hoàn thành những dự
án đã triển khai hay đã được phê duyệt, đến năm 2020 tình hình hứa
hẹn cảnh quan môi trường tự nhiên nhiều vùng của đất nước sẽ bị “mặt
trăng hóa”; kinh tế nước ta sẽ đổ vỡ, vì bị chính xi-măng và thép
thô kém khả năng cạnh tranh của chúng ta đè bẹp; riêng alumin sẽ đem
lại cho đất nước không phải chỉ sự tàn phá Tây Nguyên và các vùng
chung quanh mà cả sự lệ thuộc mới...[48]
Trong khi một số ngành quan trọng có hàm lượng công nghệ cao
như công nghiệp ô-tô, công nghiệp điện tử… có thể được coi là thất
bại, nước ta lại nhập về công nghiệp chế tạo cơ khí nặng như đóng
tàu đang thua lỗ… Công nghiệp hóa như vậy nguy cơ trở thành bãi thải
công nghiệp rất lớn.
·
Vào năm 2015 trở đi, nước ta sẽ thiếu năng lượng trầm trọng và phải
nhập khẩu, trong khi đó xuất khẩu than và dầu của nước ta suốt 25
năm qua hầu như bỏ qua tương lai của đất nước! Năm 2012 đã tính đến
phải nhập than với khối lượng rất lớn. Phát triển thủy điện đã vượt
qua cái ngưỡng cho phép và ngày càng gây ra nhiều hệ quả nghiêm
trọng.[49]
Trong khi đó nhà nước lại thiếu hẳn việc nghiêm khắc rà soát, đánh
giá lại chính sách năng lượng quốc gia hiện nay, thiếu hẳn những nỗ
lực xử lý nghiêm khắc và khắc phục tình trạng lãng phí và thất thoát
năng lượng quá lớn đang diễn ra hàng chục năm nay. Gần đây trên
phương tiện truyền thông rộ lên dự án khai thác than bùn đồng bằng
Bắc Bộ thật hãi hùng! Đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng
ngày càng nghiêm trọng của đất nước, lãnh đạo quyết định xây dựng
một lúc hai nhà máy điện hạt nhân gồm 4 lò phản ứng ở Ninh Thuận
không phải loại công nghệ tiên tiến nhất (mặc dù nước ta là nước đi
sau), với nhiều rủi ro còn đang bàn cãi chưa ngã ngũ.[50]
Tình hình cho thấy vấn đề năng lượng của quốc gia không thể giải
quyết đối phó tình thế theo kiểu “ngứa đâu gãi nấy!”, “vớ được gì làm nấy!” (nghĩa là chịu tác động của chủ nghĩa cơ hội
và các hoạt động lobby)... Trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có
một chiến lược năng lượng được cân nhắc thấu đáo, nghiêm cẩn.
·
Nếu đánh giá nghiêm túc chi phí/lợi ích (cost/benefit), bao gồm cả
những chi phí bắt buộc cho khắc phục những tác động ngoại vi của
việc khai thác than, hoàn trả môi trường tự nhiên nơi khai thác, sự
thất thoát hàng chục triệu tấn than lậu/năm, sự tàn phá môi trường
tự nhiên trong vùng, đánh giá cái được và cái mất so với đòi hỏi của
chiến lược năng lượng quốc gia, vân… vân… khó có thể coi việc khai
thác mỗi năm khối lượng càng lớn than ở Quảng Ninh là một thành tựu
kinh tế. Đúng hơn nên coi đó là một thất bại kinh tế lớn và
một sai lầm về chiến lược năng lượng – không phải do
chủ trương khai thác than, mà do năng lực quản lý và hiệu quả kinh
tế yếu kém; đặc biệt quan trọng là do thiếu hẳn một chiến lược năng
lượng quốc gia được xác định với những luận cứ vững chắc làm cơ sở
cho việc khai thác. Thậm chí còn có thể coi việc khai thác than
Quảng Ninh như vừa qua trong khi đất nước ngày càng khan hiếm năng
lượng là ví dụ điển hình nhất trong nhiều ví dụ của tình trạng “bóc
ngắn cắn dài” tài nguyên quốc gia, các thế hệ tương lai sẽ phải
trả giá![51]
Trong cả nước còn có nhiều công trình khai thác titan, khai thác
đồng, khai thác các khoáng sản khác... hầu hết chỉ để cho xuất khẩu
nguyên liệu, với những hệ quả xấu tương tự.
·
Rừng phòng hộ và rừng tự nhiên ngày càng bị trọc hóa và chỉ còn lại
rất ít; đặc biệt là rừng đầu nguồn đã rất ít mà còn đang tiếp tục bị
xâm phạm nghiêm trọng. Lũ lụt ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và
khó khắc phục hơn. Đất đai bị xói mòn và sa mạc hóa cùng với tình
trạng chất lượng thổ nhưỡng ngày càng xuống cấp với tốc độ rất đáng
lo ngại. Riêng cơn bão Ketsana 26-09-2009 vừa qua gây ra lũ lụt lớn
nhiều nơi ở Tây Nguyên còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với việc
khai thác bauxite ở Tây Nguyên – nhất là đối với các hồ chứa chất
thải bùn đỏ nhiễm hóa chất độc dự kiến sẽ được xây dựng ở vùng này!
Xin hãy đến tận nơi các khu khai thác này, dù là titan ở dọc bờ biển
miền Trung, dù là những cánh rừng nham nhở do khai thác quặng
sắt ở Lào Cai để xuất khẩu sang Trung Quốc, các vùng khai thác vàng
bừa bãi ở Bắc Kạn, Quảng Nam, Bình Thuận... – mà chủ yếu là khai
thác lậu, những dòng sông chết, những con sông bị đổi dòng và
đôi bờ sụt lở do khai thác cát bừa bãi, những cánh đồng hoang do các dự án treo...
để nhìn tận mắt đất nước đang bị băm vằm và ô nhiễm như thế nào!
·
Xin hãy đối chiếu thực tế nêu trên với quan điểm ghi trong nghị
quyết Đại hội X: “Căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập
trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan
trọng của nền kinh tế như lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện
thép, phân bón, hóa chất, xi-măng, khai thác bô-xít và sản xuất
alumin, bột giấy gắn với trồng rừng và một số sản phẩm cơ khí chế
tạo” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc khóa X, trang 197-198)
·
Vân... vân...
Nhìn dài hạn đến năm 2020, hoặc 2030.., có thể nói ngay từ bây
giờ nếu không có quyết tâm thay đổi hẳn tư duy về phát triển để
hướng mạnh vào phát triển bền vững chủ yếu dựa vào phát huy nguồn
lực con người, nếu không đảo ngược được xu thế phát triển như đang
diễn ra, nếu cứ tiếp tục phát triển theo hướng xâm phạm môi trường
tự nhiên, bóc lột các nguồn tài nguyên không tái tạo được một cách
không thương tiếc, viễn cảnh của nước ta thật rất đáng lo ngại! Các
thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt. Trong khi đó tác
động của biến đổi khí hậu toàn cầu ngày một gay gắt, nhất là đối với
nước ta.[52]
5. Vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay
Nghị quyết 26 Hội nghị Trung ương 7 khóa X ban hành ngày 05-08-2008
viết:
“Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Ðảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu
khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ
khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số
mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh
tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành
nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn
thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết
quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng
cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân
ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn
kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh
tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất;
nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân
lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách
thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất
nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt
hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa
thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.
Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát
triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém,
môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên
tai còn nhiều hạn chế. Ðời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân
tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và
thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức
xúc”.
Đấy là bức tranh khái quát trong văn kiện chính thức của Đảng về
tình hình nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay (theo
cách nói “tam nông”) - đương nhiên vẫn theo cách nhìn so ta bây
giờ với ta trước đây và còn bỏ qua nhiều vấn đề hệ trọng khác
trong nông thôn.
Trước khi nêu một số vấn đề cụ thể cần đặc biệt quan tâm, xin nhấn
mạnh là nông nghiệp nước ta nói chung, đặc biệt là nông dân nước ta
nói riêng, đã góp phần cực kỳ quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước trên mọi phương diện: đảo ngược tình thế nguy
hiểm của đất nước, mở đầu và tạo đà cho toàn bộ công cuộc đổi mới
phát triển, bảo đảm an ninh lương thực và an ninh chính trị, tạo ra
tiềm lực mới cho đất nước, mở rộng thị trường kinh tế đối ngoại,
tăng cường khả năng hội nhập của đất nước trong giai đoạn đất nước
còn nghèo và nền kinh tế còn chậm phát triển...
Đặc biệt cần nhấn mạnh sự đóng góp của nông dân có ý nghĩa rất to
lớn và vô cùng quan trọng. Chính những thành tựu này cho thấy vai
trò của nông dân và nông nghiệp trong quá trình phát triển đất nước
– cụ thể ở đây là trong quá trình công nghiệp hóa/hiện đại hóa và
trong hội nhập kinh tế thế giới chưa được nhận thức đúng tầm, dẫn
đến những yếu kém và tồn tại lớn như đã nêu trong NQTƯ 26 khóa X.
Nông dân là quân chủ lực của các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian
khổ, có những đóng góp có ý nghĩa rất to lớn và vô cùng quan trọng
trong suốt 25 năm đổi mới vừa qua như trên đã nói, nhưng hiện
nay lại là thành phần xã hội đang chịu nhiều thiệt thòi nhất trong
quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá và hội nhập kinh tế thế
giới. Một bộ phận nông dân vượt qua được tác động của quá trình này
và tìm được con đường sản xuất kinh doanh dẫn tới một cuộc sống khá
giả hơn; song bộ phận này chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn ở nông thôn.
Các chính sách hiện hành và việc thực thi chúng cho thấy không thể
ngăn chặn tình trạng bần cùng hoá vẫn tiếp tục diễn ra đối với bộ
phận nông dân bị tác động trực tiếp. Nhìn chung, khoảng cách thu
nhập của nông dân – đặc biệt là của của bộ phận nông dân bị tác động
trực tiếp của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa - đang gia tăng
ngày càng nhanh, dẫn đến nhiều hệ quả khác nhau của phân hóa xã hội.
Chất lượng cuộc sống của họ, các quyền lợi về giáo dục, y tế, các
phúc lợi xã hội khác của họ trên thực tế ngày càng giảm sút so với
sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế cả nước. Mặt khác nông dân
cũng là nạn nhân chính của thiên tai, dịch bệnh (cho người và cho
nông nghiệp), tình trạng môi trường tự nhiên bị tàn phá, nạn lạm
phát và nhiều tác động khác của quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa cũng như của tình trạng quan liêu tham nhũng nói chung (ở nông
thôn rất nặng so với thành thị).[53]
Cần đặc biệt lưu ý là sự biến động của thị trường và giá cả (được
mùa rớt giá, được giá mất mùa..; hiện tượng nông dân bị ép
mua ép bán <đầu vào – đầu ra>, hiện tượng lúc phải chặt loại cây
này, lúc phải bỏ chăn nuôi kia với nhiều tổn thất lớn cho nông
dân...) gần như trở thành thách thức thường xuyên đối với nông
dân. Họ hầu như không có khả năng gì đáng kể để tự bảo hộ, để tự đối
phó với những thách thức này. Có thế nói họ hầu như bị bỏ mặc, trong
khi đó sự bảo hộ và những hậu thuẫn từ phía nhà nước và các cơ quan
chức năng có thể xem như muối bỏ bể. Một ví dụ trong trăm ngàn ví
dụ: Hàng chục năm nay nông dân Nam bộ là chủ lực trong xuất khẩu
gạo, song đến nay vẫn chưa có cách gì thỏa đáng giảm thiểu sự thiệt
hại khá lớn trong thu hoạch mùa màng, thiếu nghiêm trọng các silo
cất giữ lúa, đầu vào và đầu ra cho sản xuất của họ bị tư thương và
thậm chí của cả các công ty quốc doanh ép giá... Trong khi đó các
hiện tượng như ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch bệnh, các hệ quả
của biến đổi khí hậu, cường độ canh tác, việc sử dụng ngày càng
nhiều hoá chất, sự khan hiếm nước và nguồn nước sạch… ngày càng trầm
trọng. Thực tế này khiến cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi
ngày càng rủi ro, bấp bênh, làm nghiêm trọng thêm tình trạng bần
cùng hoá nông dân, cản trở sự phát triển nông nghiệp bền vững.
Cần lưu ý, tình trạng bần cùng hóa nông dân cùng với nhiều thiệt
thòi khác của nông thôn (nhìn chung còn rất lạc hậu) tự nó đang xâm
hại nghiêm trọng hay tước bỏ nhiều quyền của người nông dân. Đầu
tiên phải kể đến: học hành mở mang trí tuệ, tiếp cận với tri thức và
công nghệ, quyền thụ hưởng các phúc lợi xã hội khác... nhằm nâng cao
đời sống kinh tế cũng như nâng cao quyền năng của chính mình trong
xã hội. Đấy là những điều kiện hàng đầu để người nông dân tự bảo vệ
được mình và tìm đường thoát khỏi cái nghèo và lạc hậu. Song
những điều kiện hàng đầu này thường xuyên bị cái nghèo và bất công
cướp đi, khiến cho cái nghèo và lạc hậu của họ trở thành truyền
kiếp. Sự thiếu vắng của xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền trong
nông thôn làm cho tình trạng này của họ trầm trọng thêm. Tất cả giải
thích vì sao sau 25 năm công nghiệp hóa mà nông thôn nước ta nhìn
chung vẫn rất lạc hậu, chỉ cần bước chân ra khỏi thành phố là có thể
thấy tận mắt. Trong khi đó khoảng 70-80% các vụ khiếu kiện hàng năm
trong cả nước trước hết là của nông dân.
Thực tế vừa nói trên đặt ra nhiều thách thức mới trong tương lai –
nhất là trong tình hình nước ta ngày càng chật, người ngày càng
đông: nước ta có dân số đứng thứ 12 trên thế giới, mật độ dân số
nước ta cao gần gấp 5 lần mức của thế giới, gấp 2,5 lần các nước
Đông Nam Á, gấp 2 lần Trung Quốc... Trong khi đó nguy cơ sa
mạc hóa trong đất liền, nguy cơ biển lấn đất và nhiễm mặn, các thiên
tai khác do hệ quả của hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu ngày
càng lớn.
Tại nhiều
vùng nông nghiệp rộng lớn của nước ta cứ 1 ha đồng ruộng bị chuyển
đổi mục đích sử dụng cho công nghiệp hoá và đô thị hoá khiến cho 20
– 30 nông dân mất việc làm và và 3 – 4 hộ mất kế sinh nhai. Trong
khi đó tốc độ chuyển dịch ngành nghề cho nông dân diễn ra rất chậm,
sau 25 năm đổi mới và tiến hành công nghiệp hoá tỷ trọng lao động
nông nghiệp vẫn chiếm trên 60% lao động cả nước. Cho đến nay mới chỉ
có 28% lao động cả nước được đào tạo về nghề nghiệp, tỷ lệ này trong
nông dân còn thấp hơn nhiều lần. Thực tế này là nguồn gốc nhiều hiện
tượng xã hội đau lòng, trước hết là nạn thất nghiệp, các “chợ vợ”
cho người nước ngoài, nạn mãi dâm, tình trạng bán cả cơ nghiệp và
tài sản tìm đường đi lao động ở nước ngoài với nhiều cơ cực và bị
lừa gạt… Tình trạng khiếu kiện đất đai nóng bỏng từ hàng thập kỷ
nay, sắp tới sẽ còn quyết liệt hơn khi phải dành một diện tích
đáng kể cho phát triển đường sá và các công trình kinh tế khác.
Trong khi đó thiếu hẳn một quy hoạch tổng thế cho cả nước có khả
năng đón đầu sự phát triển này và giảm bớt những tổn thất.
Nông dân các
dân tộc ít người ở các vùng núi còn phải chịu đựng nhiều thiệt thòi
hơn, do rừng núi vốn là quê hương lâu đời, không gian sinh tồn và
không gian văn hoá của họ đang ngày càng bị lấn chiếm. Nạn phá rừng
bừa bãi của các công ty và lâm tặc, việc lấn đất lấn rừng, làm lâm
trường, làm kinh tế trang trại... cùng với tình trạng nhập cư ồ ạt
đang uy hiếp ngày càng nặng nề sự tồn tại và tương lai các tộc ít
người ở nước ta. Còn quá nhiều vấn đề tồn tại trong việc tái định cư
và ổn định cuộc sống cho đồng bào các tộc ít người phải di dời đi
nơi khác do những công trình thủy điện đã hoàn thành hoặc đang
xây dựng... Nên đến tận nơi các công trình thủy điện chi chít miền
Trung để thấy tận mắt cảnh quan và môi trường tự nhiên, những cánh
ruộng và đất đai trồng trọt vô cùng quý giá tại đây, môi trường xã
hội, quê hương văn hóa bản địa... của đồng bào các tộc ít người ở
đây bị tàn phá, bị cướp đi như thế nào!
Nhìn chung, những nỗ lực bỏ ra cho việc cải thiện đời sống kinh tế -
văn hoá – xã hội đối với đồng bào các tộc ít người là to lớn so với
tình hình đất nước còn nghèo, song không đảo ngược được xu thế nói
trên – trong đó nguyên nhân chính lại là sự yếu kém về năng lực và
phẩm chất của chính quyền các cấp. Tình hình đang trở nên đặc biệt
nghiêm trọng trong việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Nhà văn
Nguyên Ngọc cảnh báo:
“Chấp nhận chương trình
này (khai thác bauxite Tây Nguyên) là chúng ta chấp nhận không còn
Tây Nguyên, không còn cái mái nhà phải giữ cho kỳ được để đảm bảo
phát triển bền vững, không chỉ cho Tây Nguyên mà cho cả nước; là
chấp nhận phát triển bằng bất cứ giá nào, chấp nhận hy sinh tương
lai cho hôm nay. Cũng là không còn coi trọng sự tồn tại của các tộc
người bản địa như những thực thể văn hoá xã hội từng là chủ nhân của
vùng đất có ý nghĩa sinh tử này của tổ quốc ta.”
Làng nghề
(nói cho đúng hơn ở nhiều nơi là nghề riêng của làng) và kinh tế
trang trại là hai hình thái kinh tế có khả năng lớn trong việc thu
hút lao động ở nông thôn, bao gồm cả việc chuyển đổi nghề nghiệp cho
một bộ phận nông dân nhất định. Hai hình thái kinh tế này
trong những năm qua phát triển mạnh, góp phần tích cực thay đổi bộ
mặt nông thôn. Song sự phát triển này chủ yếu do sự vận động tự thân
của nông thôn tìm đường tự cứu mình và phát triển chính mình, không
thể tránh khỏi những hậu quả đặc thù của tình trạng tự phát. Chính
sách của nhà nước và những khuyến khích hay hậu thuẫn cần thiết phải
có cho hai hình thái kinh tế này tuy đã làm được một số việc rất
khiêm tốn, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thậm chí nhiều địa phương
còn tồn tại một số rào cản – có nghĩa trên thực tế là không khuyến
khích.
Một vấn nạn chưa có giải pháp là tổn thất lớn hàng năm về người và
của, về môi trường đất đai do thiên tai gây ra, lặp đi lặp lại trong
một số vùng nhất định. Thực tế này cho thấy đang thiếu hẳn một chủ
trương chiến lược giảm thiểu dần những tổn thất và hậu quả của thiên
tai – bao gồm cả việc di dời hoặc quy định lại những vùng dân cư
nhất định mà thiên tai thường xuyên lặp lại, từng bước kiên cố
hóa lâu dài, hay hiện đại hóa một số những công trình nhất định thuộc hệ
thống phòng chống thiên tai... Hiện nay vẫn chưa hình thành được
những quan điểm hay chủ trương chiến lược dự phòng, các công việc
phải triển khai ngay từ bây giờ trở đi cho tình huống vào những năm
2030, 2050…
Nước ta là một nước nông nghiệp, nhưng cho đến nay thực sự đang
thiếu hẳn một chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững và hài hoà
với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Thực tế đang diễn ra một
quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá – kể cả hiện tượng xây dựng
bừa bãi các sân golf[54]
– ngày càng gây ra nhiều gánh nặng mới cho nông dân và nông thôn.
Nông nghiệp bền vững
Dựa
vào kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể nói:
Nông nghiệp bền vững nhìn về nhiều phương diện thực chất là một
cuộc cách mạng nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, là
một bộ phận hữu cơ của quá trình công nghiệp hóa.
Là nước đi sau, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững là hướng
tới việc từng bước đưa vào nông nghiệp những thành tựu
mới nhất của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, những thành
tựu mới của văn minh nhân loại - kể cả trong lĩnh vực tổ chức,
quản lý việc canh tác, kinh doanh.., - là quy hoạch lại phát
triển nông nghiệp, xắp xếp lại nông thôn, tổ chức lại quản lý
nông thôn, xây dựng đời sống tinh thần và văn hóa mới trong xã
hội nông thôn... -,.., tất cả nhằm tạo ra lợi thế phát triển tối
ưu chung cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước...
Cốt lõi của phát triển nông nghiệp bền vững là (1) phát triển
được nguồn lực con người trong nông nghiệp, (2) tạo ra được nền
nông nghiệp có năng xuất và hiệu quả kinh tế cao, (3) nền nông
nghiệp có khả năng gìn giữ và tái tạo được độ phì nhiêu của đất
đai, (4) nền nông nghiệp có khả năng góp phần quyết định gìn giữ
môi trường tự nhiên của quốc gia, (5)nền nông nghiệp có khả năng
đóng góp tốt nhất vào phát huy lợi thế so sánh của quốc gia
trong nền kinh tế toàn cầu hóa của thế giới...
Một nền nông nghiệp cao như thế, có nhiều hàm lượng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ như thế, sẽ làm mờ đi ranh giới giữa nông
nghiệp và công nghiệp, và vì lẽ này nó trở thành một bộ phận hữu
cơ của toàn bộ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lợi thế về nông nghiệp của nước ta rất lớn, song rất cần một
chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững như thế để phát huy,
để góp phần tăng thêm thế mạnh cho đất nước. Đặt vấn đề như vậy
rồi đối chiếu với chính sách hiện hành và các việc đang làm, sẽ
thấy nhiều việc phải làm khác đi, nhất là sẽ thấy tính bức xúc
của việc xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững.
Hướng về một nền nông nghiệp bền vững như thế là nhiệm vụ quốc
gia phải phấn đấu suốt cả một thế hệ con người, hoặc thậm chí
của vài thế hệ, và hoàn toàn không thể tiếp cận bằng những quan
điểm “giai cấp”, “quan hệ sản xuất”, “ý thức hệ”... đang chi
phối đường lối chính sách hiện hành đối với phát triển nông
nghiệp.
Còn phải chờ xem những chủ trương chính sách mới đề ra gần đây cho
về vấn đề “tam nông” (Nghị quyết 26, tháng 08-2008) sẽ được thực
hiện ra sao,[55]
mặc dù như thế là chậm. Cái đúng được đề ra trong nghị quyết 26 là
coi giải quyết những vấn đề của nông dân và nông nghiệp là một nhiệm
vụ có vị trí chiến lược trong công nghiệp hóa và trong sự nghiệp bảo
vệ đất nước, là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Tuy nhiên, điều quyết định là sẽ có những biện pháp thực hiện cụ thể
như thế nào?
Tồn tại lớn nhất là cho đến nay vẫn chưa tìm ra được con đường phát
triển một nền nông nghiệp bền vững, hiện đại, gắn liền với việc
chuyển dịch một bộ phận ngày càng lớn lao động nông nghiệp sang các
ngành nghề khác. Tất cả các Luật và các chính sách hiện hành không
đáp ứng được đòi hỏi này. Tất cả những nỗ lực cụ thể loay hoay chung
quanh việc cải tiến mô hình hợp tác xã cũng không giải quyết được
vấn đề.
Không giải quyết thành công vấn đề nông dân, sẽ không có một nước
Việt Nam công nghiệp hóa.
Nâng cao dân trí, khả năng tiếp cận công nghệ mới, việc làm, phát
triển nông phẩm và thực phẩm sạch và cao cấp, đặc biệt là phát triển
nông nghiệp dựa trên công nghệ sinh học và gìn giữ môi trường sinh
thái, ngày càng mở rộng thị trường trong nước và bên ngoài cho sản
phẩm cao cấp của mình, sự hậu thuẫn và bảo hộ không thể thiếu của
nhà nước... đó là những đòi hỏi nóng bỏng của nông dân và của nền
nông nghiệp Việt Nam, Nhà nước và toàn xã hội có nghĩa vụ phải đáp
ứng tốt nhất.
Rất nên tận dụng lợi thế nước đi sau, tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện
đại và hội nhập kinh tế thế giới sớm phát triển được một nền
nông nghiệp hiện đại, nhất là hướng vào các nông phẩm và thực phẩm
cao cấp có giá trị gia tăng cao, có ưu thế lớn tại mọi thị trường
trong nước và nước ngoài. Cần coi đây là một nội dung quan trọng
trong công nghiệp hóa của nước ta, phát huy tối đa lợi thế so sánh
mọi mặt của nước ta.
Như vậy, tư duy về công nghiệp hóa cũng phải thay đổi cho phù hợp
với đòi hỏi này.
Chú ý:
Có lẽ không nên dùng khái niệm “tam nông”, vì có hơi hướng học mót,
không sáng tạo. Trên hết cả, khái niệm “tam nông” không nói lên được
mọi vấn của vấn đề nông nghiệp trong tổng thể hữu cơ của quá trình
công nghiệp hóa. Ngay ở Trung Quốc đã bắt đầu phải nói đến “tứ
nông”. Chẳng lẽ rồi đây ta cũng sẽ lại nói theo “tứ nông”? Phát
triển nông nghiệp bền vững đòi hỏi phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ, phải có sự hỗ trợ và kết hợp rất quan trọng của
công nghiệp. Vì lẽ này phát triển nông nghiệp bền vững phải là một
thành phần chiến lược trong toàn bộ chiến lược công nghiệp hóa. Nói
ngắn gọn, muốn phát triển nông nghiệp bền vững phải thay đổi cơ bản
quan niệm và quá trình công nghiệp hóa / đô thị hóa đang diễn
ra hiện nay ở nước ta. Không phát triển thành công nông nghiệp bền
vững, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta có nguy cơ sẽ chỉ mang lại
một bãi thải công nghiệp toàn quốc! Chính vì lẽ này, công nghiệp hóa
thực sự là một quá trình quy hoạch, xắp xếp lại giang san đất nước.
6. Chuyển sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn phát triển
theo chiều sâu - trở thành đòi hỏi tất yếu của đất nước
Tất cả những vấn đề đất nước phải đối mặt như đã trình bày trong các
điểm từ 1-5 bên trên khẳng định tất yếu này.
Phải nói việc chuyển giai đoạn phát triển một cách có ý thức như vậy
là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải
huy động (a) trí tuệ cả nước, (b) kinh nghiệm của thế giới, (c) sự
quyết tâm một lòng một dạ của toàn dân, và (d) sự tận tụy, trung
thành tuyệt đối của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đối
với lợi ích quốc gia (xin đặc biệt nhấn mạnh yếu tố này), để có
thể thực hiện thành công nhiệm vụ sinh tử này với cái giá phải trả
thấp nhất. Làm thế nào để Việt Nam hội đủ được 4 điều kiện này? Một
lần nữa tình hình cho thấy tầm nhìn của lãnh đạo và chất lượng của
hệ thống chính trị trở thành yếu tố quyết định.
Dưới đây xin trình bày một vài gợi ý ban đầu.
(1) Nói chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là
nói đến phát triển chủ yếu dựa trên cơ sơ phát huy lợi thế và nguồn
lực lớn nhất của đất nước là con người, là phát triển rất chú trọng
đến chất lượng.
Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là thay đổi căn bản quan điểm hiện có
về chiến lược phát triển.
Con người được nói tới ở đây vừa là chủ của chính bản thân
mình, là chủ của đất nước, vừa chính mình trực tiếp là lực lượng sản
xuất quyết định nhất. Câu hỏi đặt ra ngay tức khắc là
thể chế chính trị, luật pháp nào, hệ thống giáo dục nào, khung khổ
xã hội nào, và những chính sách phát triển kinh tế - chính trị - xã
hội nào cần phải có để có thể tạo ra được và tiếp tục phát triển
được con người như thế. Bao trùm lên tất cả là còn phải duy dưỡng và
xây dựng những giá trị văn hóa nào làm nền tảng đạo đức, tinh thần
và tâm hồn của con người với tính cách như thế
̶
con người của
hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải là
con người công cụ.
Câu trả lời nếu tìm được, trước hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và
chấp nhận triệt để nhiều thay đổi căn bản trong thể chế chính trị và
trong hệ thống quản lý đất nước, trong tư duy cũng như trong tìm tòi
và thiết kế các chính sách phát triển đất nước, trong việc tuyên
chiến với mọi cái hủ bại, trong việc duy dưỡng và xây dựng những giá
trị tốt đẹp, đặc biệt là đổi mới và phát triển nền giáo dục nước
nhà...
Nói bao nhiêu cũng không xuể về chủ đề con người, song nhất thiết cần nhấn mạnh chế độ chính trị của đất nước phải như thế
nào để người dân gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết
yêu nước của mình. Xây dựng một chế độ chính trị được người
dân cảm nhận nó gần như đồng nghĩa với tổ quốc là rất khó, song nhất
thiết phải hướng tới. Không có điều kiện này, ước mơ trở
thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại ganh đua được
với thiên hạ sẽ chỉ là ước mơ, càng khó bảo vệ bờ cõi đất nước. Đơn
giản, người dân có thể nói: Tôi không thể hết lòng vì đất nước
trong một chế độ tham nhũng!
(2) Đặt vấn đề như nêu trong điểm (1) là khởi điểm và đồng thời cũng
là nền tảng để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời
đại ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Quan điểm này không mới, chiếm vị trí quan trọng trong rất nhiều
nghị quyết và chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng khó trở thành
hiện thực vì không có thể chế phát huy được con người. Suốt 25 năm
qua không ít công sức và ngân sách bỏ ra cho mục tiêu đưa tiến bộ
khọc kỹ thuật và công nghệ vào sự nghiệp phát triển đất nước. Song
kết quả cuối là chỉ đạt được hàm lượng khoa học và công nghệ thấp
hoặc thậm chí rất thấp trong sản phẩm làm ra, trong chất lượng các
chủ trương chính sách, trong luật pháp, trong quy hoạch phát triển,
trong các quyết định chiến lược, quyết sách.., cũng như trong bộ máy
làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung và của hệ thống
nhà nước nói riêng, trong xây dựng và phát triển xã hội mới... Kết quả cuối cùng còn là sự lãng phí rất to lớn về tiền của, công
sức, cơ hội và thời gian. Tham nhũng trong đầu tư cho khoa học và
công nghệ không thể nói là nhỏ, càng không nhỏ đối với một nước
nghèo như nước ta.
Nhiều phê bình trong nước và từ nước ngoài nói khâu “R&D” (“Nghiên
cứu & Triển khai”) của nước ta rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không
đủ, bởi vì nhận xét này không nói lên được nguyên nhân chính của
tình trạng này là chưa có con người và thể chế phải có; thậm chí
nhận xét này còn bị hiểu thiên lệch là ta làm “R&D” chưa giỏi và vì
ta nghèo!
Tình trạng “hàm lượng công nghệ thấp” như vừa nêu trên còn do một
nguyên nhân khác rất quan trọng: Đó là chính trị (đúng hơn trong
nhiều trường hợp phải nói là ý đồ chính trị) chứ không
phải khoa học và chân lý có tiếng nói quyết định. Sắp tới cần
làm sao cho dân chủ và người tài có chỗ đứng phải có trong sự nghiệp
phát triển đất nước.
(3) Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ
thống giáo dục và đào tạo.
Đòi hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự
nhất trí rộng rãi trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải
cách theo hướng nào, tiêu chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý
kiến các bên hữu quan để có sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng
nhau tranh luận cho sự lựa chọn phương án tối ưu nhất cho đất nước.
Phương án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu
đào tạo, đó là: hình thành và phát huy con người hành động theo
tư duy của tự do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.
Sự nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với
một kế hoạch được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi
hỏi bức xúc của phát triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài
và bền vững của đất nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả
thập kỷ 2020 và sau nữa, phải rất triệt để, nhưng cũng không thể
nóng vội được.
Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của
riêng ngành giáo dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục
và đào tạo bao gồm và liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác
của toàn bộ đời sống đất nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể
tiến hành cải cách này trong tình hình còn đầy rãy những hiện tượng
bằng thật không ăn nhằm gì. Hiện nay có quá nhiều trường hợp bằng
thật bị thải loại và thua bằng giả. Thực tế tại các quốc gia cũng
cho thấy không thể tiến hành cải cách giáo dục một cách đích thực
nếu thể chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy không nghiêm khắc
chống lại những giá trị trái ngược với những mục tiêu một nền giáo
dục tiên tiến phải theo đuổi.
Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành
công trong thập kỷ 2011-2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước
trong thế kỷ 21, chứ không phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang
làm. Thậm chí còn phải nói sự nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo
cần bắt đầu từ một điểm sơ khởi: không nói dối!
(4) Phải đánh giá lại, quy hoạch và thiết kế lại kết cầu hạ
tầng vật chất, kỹ thuật, pháp chế và xã hội; riêng phát triển kết
cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cần phải đi song song hoặc cố đi trước
một bước quá trình phát triển của đất nước; tất cả phải đạt được
bước trước chuẩn bị cho bước sau.
Có thể nói các “thắt cổ chai” đã trầm trọng tới mức những năm gần
đây bắt đầu đẩy lùi sự phát triển kinh tế - nhất là về chất lượng và
tính hiệu quả của nó, nhìn chung là đẩy lùi sự phát triển của đất
nước. Kinh tế, sơn hà xã tắc của một quốc gia nhất thiết phải có
một hệ thống kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật và một thể chế luôn
luôn được hoàn thiện làm giá đỡ.
Không thể không rùng mình nếu đối chiếu, so sánh đòi hỏi này với
thực trạng hiện nay của đất nước. Trong đời sống hàng ngày đầy rãy
những hiện tượng từ bất cập,[56]
tác trách, đến sa đọa... Về một số phương diện nhất định, chính thể
và xã hội nước ta thực sự đang xuống cấp nghiêm trọng! Ngày
càng nhiều hiện tượng tha hóa đến mức đồi bại, đối với bên trong thì
làm mất kỷ cương phép nước, lòng dân ly tán; đối với bên ngoài thì
không giữ được thể diện quốc gia và làm yếu vị thế đất nước, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm.
Trong cuộc sống đất nước năm này qua năm khác có biết bao nhiêu sự
việc khác nhau gây bức xúc lớn như thế, dồn nén lại thành câu hỏi:
Chế độ Đảng đang xây dựng cho đất nước thực chất là chế độ gì?!
Đảng Cộng Sản Việt Nam nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước nhất thiết
cũng phải tự hỏi mình như vậy, để nhìn lại tất cả, nhất là để qua đó
nhận biết khoảng cách giữa những gì Đảng đã cam kết với đất nước và
thực tế đang diễn ra trong cuộc sống.
(5) Phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đây là một quá trình đau
đớn, gian khổ, nhưng tất yếu phải làm.
Chữ
nói về câu chuyện này đã mòn, song phải thừa nhận chưa có
chuyển biến. Những vấn đề nêu trong các điểm từ 1 - 4 bên trên đã nêu
ra được một số nguyên nhân, nhưng chắc chắn chưa đủ. Cần nghiên
cứu công phu để tìm ra giải pháp.
Trước mắt nên bỏ cách tư duy “kinh tế GDP” tỉnh, tạm thời đặt sang
một bên vấn đề tỷ trọng các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ) trong phạm vi tỉnh để đánh giá tỉnh đó tiến bộ hay
thụt lùi, mà nên đo lường bằng kết quả thu nhập của người dân, chất
lượng cuộc sống của họ, khả năng cạnh tranh đích thực của các sản
phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh đạt được, chuyển đổi cơ cấu đầu tư
theo hướng tập trung vào các sản phẩm tỉnh có lợi thế nhất, chuẩn bị
cho những sản phẩm mới tỉnh có lợi thế lớn theo cách nhìn dài hạn...
Cấp quốc gia cũng phải làm như vậy.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải ưu tiên nâng cao khả năng cạnh
tranh nhằm chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa còn rất rộng của
nước ta cho sản phẩm của ta, đảo ngược hẳn tình hình thị trường nội
địa nước ta hiện đang bị sản phẩm nước ngoài nắm giữ phần lớn. Đòi
hỏi này hoàn toàn không có gì liên quan đến tư duy “tự cung tự cấp”
hoặc “thay thế nhập khẩu”, bởi lẽ nước ta đã hội nhập kinh tế thế
giới và thị trường nước ta là thị trường mở.
Để thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, có thể tạm thời chấp nhận
chỉ số tăng trưởng thấp trong một số năm nhất định, nếu bước đi này
đem lại chất lượng tăng trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển
năng động mới tiếp theo.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thập kỷ 2011-2020 nhất
thiết phải tính đến thực tế ngay sát nước ta, tại khu Buong
Thatluong liền kề con đường Kaysone Phomvihane ở Vientiane đã manh
nha dự án một China Town 1600 ha – (có tin nói nhân dân Lào đang
phản đối), ở Campuchia cũng có tình hình tương tự, rồi đến các dự án
thủy điện trên sông Mekong – (có tin đồn bao gồm cả
mục đích nhằm luyện nhôm cho việc khai thác bô-xít ở
Lào)… Ngay trên đất nước ta cũng đang xuất hiện khu công nghiệp
800ha do Thâm Quyến xây dựng tại An Dương – Hải Phòng và bao nhiêu
vấn đề khác nữa do cái “công xưởng thế giây ra trực tiếp đối với
nước ta, hàng vạn người Trung Quốc dưới dạng lao động đi theo công
trình đang thâm nhập khắp nơi vào nước ta, kể cả trên Tây Nguyên...
Giả thiết rằng những dự án này sẽ được thực hiện, kinh
tế và an ninh của nước ta sẽ đứng trước những vấn đề gì? Đối sách
của nước ta?
Trên hết cả, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục tiêu mở đường đi vào
một giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh quốc tế mới cần được xem
là xắp xếp lại giang sơn đất nước!
Nhiệm vụ này bao gồm nhiều việc hệ trọng phải làm. Chẳng những phải
sớm hình thành được ý đồ chiến lược phát triển, mà còn phải quy
hoạch được các quá trình phát triển các lĩnh vực, trong đó đặc biệt
quan trọng là chiến lược và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với
chức năng mở đường và làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển đất
nước. Những lúng túng hiện nay trong quy hoạch phát triển trên các
lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng... là những ví dụ cho
thấy việc quy hoạch phát triển khó và yếu kém như thế nào! Ngay
trước mắt, trong vòng 10 - 20 năm tới sẽ phải dành thêm khoảng 15 –
20% đất đai cho phát triển hệ thống giao thông vận tải và giải quyết
vấn đề đô thị hóa; công việc này không quy hoạch có luận cứ xác đáng
và xúc tiến từ bây giờ, hệ quả sẽ ra sao? Chắc chắn không thể tiến
hành theo kiểu sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội và tư duy nhiệm kỳ.
Ngay trước mắt là việc cần loại bỏ các tập đoàn và doanh nghiệp thua
lỗ. Cơ cấu lại và chỉ cần giữ một số tập đoàn kinh tế nhà nước thiết
yếu với nguyên tắc không được kinh doanh trái nghề.[57]
Nhà nước mạnh mẽ hậu thuẫn phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Đổi mới cơ cấu kinh tế nhất thiết phải tìm cách vô hiệu
hóa sự câu kết giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, thực
hiện công khai minh bạch.[58]
Có lẽ không nên bám lấy mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm
2020 với bất cứ giá nào, vì điều này vừa không hiện thực, vừa
trở nên không quan trọng nữa. Thậm chí làm theo các kế hoạch công
nghiệp hóa hiện hành nếu dẫn đến kết cục năm 2020 nước ta sẽ trở
thành cường quốc xi-măng, thép thô và bô-xít thì sẽ đồng nghĩa với
tự sát. Nhất thiết cần tìm cách đảo ngược xu thế phát triển kinh tế
thượng nguồn.
Mục tiêu chiến lược nên chọn là vào năm 2020 sẽ hoàn thành việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu như đã trình bày trên, gắn với đổi mới thể chế chính trị,
để từ đó mở ra cho nước ta một giai đoạn phát triển mới.
Nếu trong vòng 10 năm, từ nay đến năm 2020, mà thực hiện được mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế như vậy, thì đó là một thành tựu kì
diệu có tính bước ngoặt như đổi mới năm 1986 – vì điều này sẽ chặn
đứng khả năng nước ta rơi tiếp vào tình trạng lạc hậu, lệ thuộc, sẽ
ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ và nô dịch, sẽ mở ra cho đất nước con đường
đi vào một giai đoạn phát triển mới.
Thiết nghĩ ngay từ hôm nay, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước cần nhằm vào mục tiêu lâu dài là từng bước xây dựng nên
một nền kinh tế hiện đại dựa trên phát huy lợi thế lớn nhất của đất
nước là con người, trí tuệ, bản lĩnh của Việt Nam - nghĩa là xây
dựng một nền kinh tế của một quốc gia dựa trên một dân tộc có trí
tuệ.
V. Phần kết
Nhìn lại, yếu
tố nổi bật nhất của 25 năm đổi mới là dân chủ. Có thể nói: thừa nhận
đổi mới là kết quả của thừa nhận dân chủ. Thành tựu đạt được của đổi
mới trước hết là nhờ dân chủ: trí tuệ và nguồn lực được cởi trói,
được phát huy – từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị
trường.
Hiển nhiên ai cũng thấy mức độ dân chủ đạt được ở đây còn khiêm tốn
và chủ yếu mới chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Song cái dân chủ
còn khiêm tốn ấy đã đủ sức gần như trong một đêm[59]
xóa bỏ cơ chế kinh tế bao cấp rất nặng nề ở nước ta hồi ấy và bứng
đi không ít cái thể chế ăn theo với nó, đảo ngược được tình
hình nguy khốn của đất nước lúc đó, mở đường cho đi tới hôm nay.
Vì vậy, còn có thể nói dân chủ
̶ dù
là ở mức độ còn khiêm tốn ấy – là thành tựu bậc nhất của 25
năm đổi mới.
Và trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, dân chủ sẽ là chìa
khóa mở cửa giải phóng con người với tính cách vừa là chủ bản thân,
là chủ đất nước, vừa là nguồn lực lớn nhất của đất nước cho một Việt
Nam cường thịnh.
Song có một sự thật khác: Thành tựu bậc nhất ấy của 25 năm
đổi mới còn bị xem là một nguy cơ diễn biến hòa bình,
vì thế 25 năm qua có không ít việc làm ngăn cấm, kìm hãm, trấn áp
dân chủ, làm chậm bước tiến của đất nước, bỏ lỡ nhiều cơ hội lớn. Đi
vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, phải thẳng thắn đối
mặt với sự thật này.
Ngày nay chỉ có giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ mới có thể tạo ra
nền tảng thực hiện được đoàn kết, hòa hợp và hòa giải dân tộc. Đấy
chính là con đường mở mang dân trí, phát huy con người Việt Nam,
là nguồn sức mạnh và sáng tạo vô tận, để làm nên một Việt Nam hạnh
phúc, phồn vinh. Đó chính là phương hướng xây dựng một chế độ
chính trị mà người dân có thể cảm nhận nó gần như đồng nghĩa với Tổ
quốc, tạo dựng một nền nội trị vững chãi bất khả xâm phạm của đất
nước, khơi dậy hào khí dân tộc. Chỉ một khi người dân cảm nhận được
chế độ chính trị này là của mình, vì mình, là lực hậu thuẫn vô song
cho sự phấn đấu của mình, là người gắn kết toàn dân tộc và khơi dậy
mọi tinh hoa gìn giữ và làm rạng rỡ giang sơn gấm vóc, là người đưa
đất nước dấn thân vào trào lưu tiến bộ chung của nhân loại, là niềm
tự hào vì nó mà mình phấn đấu, là điều thiêng liêng vì nó mà mình
sẵn sàng xả thân gìn giữ, là niềm tự hào của nước Việt Nam… - chỉ
khi xây dựng được một chế độ chính trị làm nên những giá trị như thế
nó mới hòa nhập được vào làm một với tổ quốc, nó mới được người dân
cảm nhận gần như đồng nghĩa với tổ quốc. Một quốc gia có chế độ
chính trị và tổ quốc là một, quốc gia ấy là vô địch! Không một chủ
nghĩa nào có thể thay thế được sức sống của sự hòa nhập làm một như
vậy của chế độ chính trị và tổ quốc! Một chế độ chính trị như thế sẽ
giải phóng mạnh mẽ nhất trí tuệ và nghị lực Việt Nam. Một chế độ
chính trị như thế - đến lượt nó – sẽ nâng lên giá trị và sự thiêng
liêng của tổ quốc, nâng lên vị thế của quốc gia trong cộng đồng thế
giới. Hơn lúc nào hết dân tộc Việt Nam ta cần có sức sống này! Tinh
thần yêu nước của người Việt Nam ta ngày nay phải được xây dựng từ
lẽ sống này! Văn hóa và giáo dục Việt Nam cần hướng vào xây dựng cái
đích này. Ngày nay kho tàng trí tuệ của nhân loại và của dân tộc
mình hoàn toàn cho phép chúng ta khai phá con đường xây dựng cho đất
nước một chế độ chính trị như thế. Rất đáng để thế hệ này sang thế
hệ khác ngay từ bây giờ tiếp nối nhau xây dựng nên cho tổ quốc của
chúng ta một chế độ chính trị như thế.
Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, nước ta có thể chung
sống hòa bình và hợp tác hữu nghị được với Trung Quốc, bảo vệ được
bờ cõi và gìn giữ được ta là ta trong tình thế mới, đối phó được với
những thách thức mới trong bối cảnh thế giới ngày nay. Giương cao
ngọn cờ dân tộc dân chủ như thế, Việt Nam sẽ có bạn bè là cả thế
giới tiến bộ - kể cả trong lòng nhân dân Trung Quốc – hậu thuẫn cho
mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Giương cao ngọn cờ
dân tộc dân chủ như thế, Việt Nam đồng thời sẽ có khả năng cùng tiến
bước trong trào lưu chung của nhân loại tiến bộ, dấn thân làm tròn
trách nhiệm là thành viên bình đẳng trong cộng đồng các quốc gia
trên thế giới.
Giai đoạn phát triển mới này của đất nước đòi hỏi Đảng Cộng Sản
Việt Nam phải tự đổi mới chính mình, giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ
lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước, trừ phi Đảng muốn tự
mình vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình để trở thành đảng cai trị!
♦
Tập
đoàn kinh tế nhà nước, nền “kinh tế GDP tỉnh” và tư tưởng nhiệm kỳ
là 3 sản phẩm và là hệ quả của hệ thống chính trị hiện thời.
3 sản phẩm này cộng sinh và công hưởng với nhau đang ngày càng trở
thành cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của hệ thống chính trị - xã
hội nước ta. Tham nhũng, chạy chức chạy quyền và nhóm lợi ích
và mọi tha hóa khác chủ yếu từ đây mà ra. Quốc nạn nội
xâm
này lũng đoạn nghiêm trọng đời sống mọi mặt của đất nước còn đáng sợ
hơn ngoại xâm. Sự phát triển của đất nước đòi hỏi sớm khắc
phục tình trạng này. Có làm được hay không? – Đấy là câu hỏi
sống còn đối với vận mệnh đất nước.
♦
Các
nhiệm vụ phải thực hiện trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ này đạt kết
quả ra sao, sẽ quyết định: Việt Nam hoặc sẽ dấn sâu hơn nữa vào con
đường trở thành một quốc gia nghèo hèn, lệ thuộc, hay là sẽ bước hẳn
vào ngả đường mới, sẽ trở thành một nước phát triển đúng với tinh
thần nước mạnh dân giàu, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Tình hình và nhiệm vụ đất nước phải đối mặt trong thập kỷ tới này
đặt ra vấn đề cải cách chính trị và có con người trong hệ thống
chính trị ngang tầm trở thành điều kiện tiên quyết cho việc mở ra
giai đoạn phát triển mới. Cải cách chính trị trở thành chìa khóa của
mọi giải pháp. Nội dung cơ bản của cải cách chính trị là khai phá
con đường xây dựng nên một chế độ chính trị mà người dân cảm nhận
được nó gần như đồng nghĩa với Tổ quốc như đã trình bày trên, là cố
sao thực hiện được những bước đi đầu tiên trên con đường này, để
trong vòng thập kỷ thứ hai của thế kỷ này đất nước vượt qua được mọi
thách thức, tạo ra sức mạnh đi vào giai đoạn phát triển mới. Mọi
việc chỉ có thể bắt đầu từ quá trình dân chủ hóa. Tên gọi chính xác
của quá trình cải cách chính trị này cũng là
dân chủ hóa.
Xin đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực thi có
kết quả, tiết kiệm xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, cần
có trí tuệ và kỷ cương rất cao với tinh thần dám hy sinh mọi lợi ích
riêng, dám vượt lên mọi yếu kém riêng, để hoàn toàn một lòng vì dân
vì nước của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Trước
hết, nếu có ý chí như vậy, đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước sẽ phát huy được trí tuệ và ý chí trong Đảng và của cả nước,
nhờ đó sẽ có đủ trí tuệ và mọi điều kiện cần thiết trong tay để hoàn
thành nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Đảng đang nắm quyền lãnh đạo đất
nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước mang
trên vai mình trách nhiệm không thể thoái thác về thành / bại của
quá trình dân chủ hóa này.
Dân chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội lực bất khả xâm phạm cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và tập hợp sự hậu thuẫn của cả
thế giới tiến bộ cho sự nghiệp này. Dân chủ hóa vì vậy là dân tộc
tất thắng, là đất nước tất thắng!
Cho nên, nếu đặt vấn đề dân chủ hóa là điều kiện sống còn và phát
triển của đất nước, tập thể lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ tìm được
câu trả lời và các giải pháp. Nói đơn giản: Dân chủ hóa như vậy thực
sự là một cuộc cách mạng từ trên xuống rất đáng mong muốn, là con
đường an toàn nhất và cũng khả thi nhất cho nước ta tại bước ngoặt
lịch sử hiện nay, là bước đi đầu tiên trên con đường xây dựng chế độ
chính trị gần như đồng nghĩa với tổ quốc. Vì những lẽ vừa trình bày,
rất đáng dành cho quá trình dân chủ hóa đất nước trí tuệ và tâm
huyết nhiệt thành nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước, trước hết là
của các công dân mang thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thách thức lớn nhất của dân chủ hóa không phải là diễn biến hòa
bình, mà là cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và lợi ích cá
nhân; lịch sử hiếm khi ghi lại được các chiến công đánh bại cám dỗ
này. Nhưng cũng xin nói ngay: Để cho cái dốt và cái vô đạo đức
hoành hành, hoặc cuồng tín hay bảo thủ.., thì chỉ có một đường dẫn
đến đổ vỡ mà thôi! Vậy chỉ còn cách đừng quay lưng lại phía mặt trời
để vượt qua cái bóng của chính mình.[60]
♦
Đất
nước và dân tộc ta đứng trước bước ngoặt lịch sử trong bối cảnh kinh
tế thế giới đang có những chuyển biến sâu sắc mang tính hệ thống với
nhiều thách thức mới, cục diện chính trị thế giới đi vào đa cực. Nên
nhìn nhận đấy là thế giới cho ta cơ hội xác định một con đường phát
triển mới dựa trên xây dựng một dân tộc có trí tuệ, độc lập tự chủ
vươn lên, hợp tác với cả thế giới, không cần và không phải đi với
một bên, chống một bên! Mặt khác, cục diện thế giới như đang diễn ra
sẽ giằng xé gay gắt nước ta trên mọi phương diện, nhiều nguy cơ đang
trực tiếp uy hiếp sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, tương
lai phát triển của đất nước. Trước tình hình như vậy, không có nội
lực bắt nguồn từ trí tuệ, bản lĩnh và thực lực của cả nước một lòng
là không ngửng mặt lên được. Dân chủ là cội nguồn của nội lực
này. Sự lựa chọn của đất nước dứt khoát chỉ có thể là vượt lên mọi
thách thức, nắm lấy mọi cơ hội phát triển thực lực của mình để trở
thành đối tác được tất cả các bên tôn trọng. Muốn được như vậy, nước
ta cần phấn đấu trở thành cầu nối của các nền kinh tế lớn. Một thể
chế chính trị phát huy được trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam sẽ thực
hiện được điều này.
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam có trách
nhiệm rất lớn đối với đất nước.
Hà Nội, mùa
Đông 2009
Tham khảo
Blumenthal, Dan, 2009, "The Erosion of U.S. Power in Asia",
Far Eastern Economic Review, tháng 5.
Cao
Huy Thuần, 2009, “An ninh”,
Thời Đại Mới 17, tháng 11.
Clinton, Hillary, 2009,
Remarks at the ASEAN Regional Forum, 23 tháng 7.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X
Dillon, Dana, và John J. Tkacik Jr (2005-2006),
China’s
Quest for Asia, Policy Review.
Ferguson, Niall,
2009, “The
decade the world tilted east”, Financial Times, 27 tháng
12.
Lam, Willy, 2009, "Beijing Learns to be a Superpower",
Far
Eastern Economic Review,
1 tháng 5
Lam,
Willy, 2009b, China's
Quasi-Superpower Diplomacy: Prospects and Pitfalls,
Washington D.C.: Jamestown Foundation.
Marciel, Scot, 2009,
Maritime Issues and Sovereignty Disputes in East Asia, Thượng viện
Mỹ, ngày 15 tháng 7
Nguyễn Trung: “Mô hình tập đoàn nhà nước và mối lo vượt tầm kiểm
soát”
và
Cải cách tập đoàn nhà nước và một chữ "Dám".
Nguyễn Trung,
2008a, “Ngã ba 2007”,
Viet-studies, tháng 1.
Tkacik, John, 2007b,
A Chinese Military Superpower?
Heritage Foundation.
Chú thích
[2] Đặc
biệt là sự thừa kế trên thị trường bất động sản, trên thị trường xe hơi
và nhiều thị trường quan trọng khác đang kéo theo sự suy sụp của nhiều
ngành kinh tế khác. Tình trạng nợ nần lớn của cá nhân, công ty và ngân
sách quốc gia khiến cho sức mua khó hồi phục. Hơn nữa sự điều chỉnh cơ
cấu kinh tế bắt buộc phải lựa chọn thường gắn theo với những đổ vỡ và
cái giá phải trả không thể tránh khỏi. Thậm chí có ý kiến coi đây là 4
nguyên nhân có thể làm nảy sinh khủng hoảng mới.
[3]
Thậm chí có người gọi khoa kinh tế học hiện nay là “kinh tế học của đổ
vỡ”, coi Alan Greenspan - nguyên chủ tịch Fed - là một trong những tội
phạm chính của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay!
Tuy nhiên sẽ là xuyên tạc sự thật hay ngộ nhận nực cười nếu nghĩ rằng
kinh tế thế giới đang quay đầu hướng về chủ nghĩa xã hội – như một số
người cố tình nhận định như vậy...
[4] Riêng
tại Mỹ có rất nhiều ý kiến phân tích những yếu kém và những thiệt hại
giảm thiểu khả năng cạnh tranh của Mỹ trong quá trình toàn cầu hóa –
trong thương mại, trong thu hút đầu tư, trong thực hiện “outsourcing”...
[5]
Chủ yếu do những thất bại của hai nhiệm kỳ tổng thống George W. Bush vì tham vọng
quá lớn trong chiến lược toàn cầu và do sự phá sản của chủ nghĩa tân tự
do dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ hiện nay. Cuộc khủng khoảng này
âm ỷ từ lâu và bùng nổ với sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers ngày
14-09-2008, sau đó lan tỏa thành quy mô thế giới.
[7] Niall
Ferguson (2009) và nhiều sách báo khác liên quan của các tác giả: Andrew
Bacevich, Noam Chomsky, Timothy P. Carney, Willy Lam, John Tkasick,
Francis Fukuyama, Martin Jacques…
[8] Hatoyama hiện
nay đang gặp khó khăn vì tai tiếng của một phụ tá.
[9]
Xem Blumenthal (2009). Chú ý: Tháng 2-1995 hải quân
Philippines bị hải quân Trung Quốc đánh bại trong việc đòi lại
đảo San Hô Mischief (Vành Khăn – thuộc Trường Sa), Philippines yêu
cầu hải quân Mỹ can thiệp, nhưng bị từ chối với lý do đảo này nằm
ngoài phạm vi Hiệp ước phòng thủ chung hai nước ký năm 1951, Mỹ chỉ ra
tuyên bố phản đối Trung Quốc
[10] Tham
khảo phát biểu của Scot Marciel và Robert Scher, Bộ quốc phòng
Mỹ, tại cuộc điều trần trước Thượng viện ngày 15-09-2009 và phát
biểu của thượng nghị sỹ
Jim Webb tại
cuộc điều trần này.
[11]
Hillary Clinton (2009)
[13] Hynes
(1998), Lam (2009)
[14] Tkacik (2007a, b), Dillon và Tkacik (2005-2006)
[15]
Có tài liệu nói trong tổng số 2100 tỷ USD dự trữ của Trung Quốc có 35%
nằm trong dạng dự trữ bằng đồng USD và 25% là trái phiếu và các giấy tờ
thế chấp; nghĩa là gần 1/3 tổng dự trữ của Trung Quốc là do Mỹ nợ. Có lẽ
thông tin này chính xác hơn.
[16]
Tuy nhiên về quy mô sản xuất dầu lửa, PetroChina vẫn
chỉ bằng một phần ba hay một phần hai so với các tập đoàn dầu khí
của Anh và Mỹ như EXXON, BP.... Song chính thực tế này đang
nói lên chính sách huy động vốn rất quyết liệt của của chính phủ
Trung Quốc cho PetroChina và phản ánh cái “đói dầu”
cực kỳ gay gắt của quốc gia này. Xem U.S. News & World Report (2007)
[17]
Ferguson (2009), Goldman (2009): “...Chính quyền
Trung Quốc hiện nay vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Ðảng Cộng sản...
Một thế hệ mới các lãnh tụ Đảng xuất hiện, dẫn đầu là cựu Thị trưởng
Thượng Hải Giang Trạch Dân... ngay sau khi lên nắm quyền đã thẳng
tay đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại Quảng trường
Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989. Tập đoàn lãnh đạo đó – và
đặc biệt thế hệ các lãnh tụ hiện thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Cẩm
Ðào cùng các cộng sự viên của ông ta, những kẻ lên nắm quyền vào năm
2002 – đang tìm cách giáo huấn trở lại cán bộ Đảng để họ thấm nhuần
hệ tư tưởng Lê-ni-nit. Trong khi củng cố năng lực của chính quyền
nhằm đối phó với những bất bình đẳng ngày càng tăng và tệ nạn tham
nhũng tràn lan, những kẻ lãnh đạo thuộc thế hệ trẻ của xứ sở ấy đang
ra sức tái tập trung quyền lực chính trị...” Cao Huy Thuần (2009)
[19]
Xem (1) Strategy Page (2007), (2) tường thuật của Taipei
Times 22.02.09 về chuyến đi thăm Trung Quốc của đô đốc Mỹ Timothy
Keating.
[20] Xem
Ngô Vĩnh Long (2009), Cao Huy Thuần (VNN, TDM 2009)
[22] McCain
(2009): "Giờ đây, công việc khó khăn nhất bình thường hoá quan hệ đã
lùi lại phía sau. Tôi tin rằng, đã đến lúc chúng ta chuyển từ việc bình
thường hoá quan hệ song phương sang hiện đại hoá những liên kết giữa hai
nước cho tương xứng với vị thế ngày càng tăng của Việt Nam ở khu vực và
trên thế giới… Đã đến lúc cần có bước đi mới…Việc tiếp tục củng cố mối
quan hệ giữa hai nước không nên chỉ vì sự chuyển đổi kinh tế chưa từng
thấy của Việt Nam và tiến bộ vượt bậc trong quan hệ giữa hai nước trong
hai thập kỷ qua, mà còn vì sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế mang tính
lịch sử từ phương Tây về châu Á…Và trong kỷ nguyên này, tôi tin rằng
Việt Nam sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng”. Thông điệp này
của McCain nói lên điều gì?
[23] Chỉ riêng
viện trợ ODA năm 2009 đạt mức cao nhất từ xưa đến nay (8 tỷ USD) trong
lúc các nước cấp viện trợ chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay
đã nói lên điều này.
[24] Tiếp xúc với
nhiều người Việt ở nước ngoài nổi lên một nhận xét khá phổ biến:
Khi còn chính quyền Sài Gòn với cả triệu quân đầy vũ khí trong tay mà
còn thua cộng sản, mấy tổ chức đảng phái này nọ ngoài này nhằm nhè gì!
Đánh võ mồm! Có những người của các đảng phái này chống Hà Nội quyết
liệt, song không ít trong số họ vì những động cơ riêng tư hoặc vì những
mục đích vụ lợi rõ rệt. Số đông người Việt ở nước ngoài thuộc thế hệ
chiến tranh không muốn dính líu với những đảng phái này, số thế hệ trẻ
không biết đến chiến tranh hầu như không quan tâm đến những thứ như thế.
Tâm lý số đông người Việt thuộc thế hệ chiến tranh là hận thù cũ nguôi
ngoai dần, muốn đất nước yên ổn để gìn giữ quan hệ ruột thịt họ hàng
hoặc có điều kiện phát triển công việc làm ăn, ví dụ rõ nhất có lẽ là
trường hợp ông Nguyễn Cao Kỳ... Có nhiều trí thức mong muốn đóng góp với
đất nước nhưng thấy trong nước còn nhiều điều chưa chấp nhận được. Tâm
lý chung là mong muốn đất nước có dân chủ, thượng tôn pháp luật và sớm
thoát nghèo, rất lo ngại uy hiếp của Trung Quốc đối với đất nước – một
số còn cho rằng nếu làm được như vậy thì ĐCSVN cũng được!
[25] Khái niệm
“không gian sinh tồn” nghe rất lạc hậu, rất thịnh hành thời Đức quốc
xã, ngày nay ít người muốn nói tới; thậm chí ngày nay có người tin rằng
vấn đề này ngày nay đã được giải quyết: các quốc gia thời kỳ toàn cầu
hóa ngày nay không cần phải mở rộng không gian sinh tồn của mình mà vẫn
có thể phát triển – trong chừng mực nhất định ý kiến này là có lý. Song
rất tiếc rằng cuộc sống không biến mất hiện tượng mở rộng không gian
sinh tồn, mà chỉ phát triển thêm các hình thái “mở rộng”
khác nhau mà thôi. Toàn cầu hóa là một hình thái mở rộng như thế.
Hình thái “mở rộng” của Trung Quốc hiện nay là đa dạng
nhất, bao gồm cả hình thái xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải nước khác và các
hoạt động khác như các bài trên thế giới viết về chủ nghĩa thực dân mới
Trung Hoa đã phân tích, trong nhiều trường hợp là cách hành xử của Trung
Quốc là “mục tiêu biện minh cho biện pháp” như mọi người đều biết.
[27] Nguyễn
Trung (2009b)
[28] Tham khảo
các bài báo Trung Quốc gần đây liên quan đến Biển Đông đã được nhà Trung
Quốc học Dương Danh Dy dịch ra tiếng Việt.
[29] Trần
Quang Cơ (2005)
[30] Loại trừ kẻ
xấu, dư luận chính đáng trên thế giới không sao hiểu nổi phản ứng nhu
nhược hay sự nhẫn nhục của Việt Nam trước những sự kiện ngang ngược của
Trung Quốc. Luồng dư luận này cho rằng vì ngại sức ép của Trung Quốc, vì
lo rằng phong trào phản đối Trung Quốc sẽ dấy lên phong trào dân chủ
trong nước, nên ĐCSVN không dám huy động nhân dân đấu tranh, không dám
kêu gọi dư luận quốc tế như đã làm thời kháng chiến.
[31] BBC
(2009a),
Feigenbaum (2004) đề cập đến nguy cơ Trung Quốc có thể tiếp tục đánh chiếm
một số đảo ở Biển Đông mà Mỹ không làm gì nếu chưa đụng chạm đến lợi
ích chiến lược của Mỹ trong toàn vùng. Trong khi đó không ít báo chí
Trung Quốc cho rằng hiện nay là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc thực
hiện đường lưỡi bò.
[32]
Ví dụ: Năm 2009 ngoại
thương Việt Nam nhập siêu 10 tỷ USD, song riêng nhập siêu từ Trung Quốc
khoảng 12 - 13 tỷ USD, nghĩa là toàn bộ xuất siêu của ta không đủ
trang trải cho nhập siêu từ Trung Quốc! Kéo dài tình trạng này rất
nguy hiểm.
[33] Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trang 163.
[34] Nguyễn Trung (2007b, 2008a)
[35] Nền giáo
dục nước ta hiện nay nặng về đào tạo con người công cụ hơn là
hướng về đào tạo con người hành động theo tư duy tự do. Đây
có lẽ là vấn đề mấu chốt nhất khiến nền giáo dục nước nhà lạc hậu và
góp phần kìm hãm tương lai phát triển của đất nước.
[36] Trong
kinh tế học, người ta gọi hiện tượng các nước đang phát triển với
mọi nỗ lực của nhiều thập kỷ, thậm chí của cả nửa thế kỷ hoặc lâu
hơn nữa mà vẫn không thể trở thành một nước công nghiệp là hiện
tượng “rơi vào cái bẫy nước có thu nhập trung bình”. Có nhiều nước
đang phát triển đã rơi vào cái “bẫy” này. Thái Lan là một ví dụ điển
hình của “cái bẫy nước có thu nhập trung bình”. Trong thế kỷ 20,
Thái Lan không bị một cuộc chiến tranh nào tàn phá, không là thuộc
địa của một đế quốc nào, đã đi được 60 năm trên chặng đường công
nghiệp hóa tính từ năm 1949, nhưng ngày nay chưa ai dám nói khi nào
Thái Lan sẽ là một NIC! Đọc thêm Nguyễn Trung (2008b)
[37] Cơ cấu
dân số có tỷ lệ người trong tuổi lao động chiếm quá nửa hoặc gần gấp
đôi số người sống phụ thuộc.
[38] IMF và
EIU đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2008 lạm phát là 22,87%, tăng
trưởng GDP là 6,23%.
[39] Trần
Đức Nguyên (2009)
[40] Trần
Đức Nguyên (2009)
[42] Theo
thống kê của Liên Hiệp Quốc năm
2005, mỗi kWh điện tiêu thụ các nước Tây Âu làm ra trên 3 USD, Hàn
Quốc: 2,2 USD, Philippines: 1,9 USD, Thái Lan: 1,5 USD, Trung
Quốc: 1 USD, Việt Nam chỉ có 0,87 USD.
[43] Đó
là tình trạng chưa nghiên cứu đầy đủ các vấn đề theo Luật đòi
hỏi; và chưa chuẩn bị xong kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải,
xử lý bùn đỏ nhiễm hoá chất độc hại..; tóm lại là còn rất nhiều
câu hỏi quan trọng chưa được giải đáp thoả đáng về tính khả thi
của dự án, tính hiệu quả của dự án, tác động lâu dài đối với môi
trường tự nhiên, môi trường xã hội, an ninh quốc gia… mà đã
triển khai ngay dự án… - tìm đọc các phản biện rất phong phú về
vấn đề này. Xem thêm: Nguyễn Trung (2009a)
[44] Rất
khó định nghĩa hay định nghĩa thế nào cũng được khái niệm
“cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện
đại”. Cụm từ cơ bản trở thành và
cụm từ theo hướng hiện đại vừa mơ hồ và co
giãn tùy ý, vừa mâu thuẫn nhau. Song quan trọng hơn là toàn bộ
khái niệm này thiếu hẳn những tiêu chí và mục tiêu cần đạt được
để làm rõ.
[45] Quá
trình công nghiệp hóa cho đến nay diễn ra hầu như dưới dạng một
chuỗi các kế hoạch 5 năm của cấp trung ương (các ngành) và của
cấp các tỉnh cộng lại. Rất khó nói rằng những kế hoạch 5 năm này
được thiết kế theo một quan điểm chiến lược công nghiệp hóa
xuyên suốt:
(1)
Quá trình công nghiệp hóa diễn ra
trong thực tế ở cấp trung ương là hoạt động của các tập đoàn
kinh tế nhà nước (phần lớn dưới dạng các tổng công ty 90 và 91)
gần như với tính cách mỗi tập đoàn là một “vương quốc” riêng lẻ.
(2) Quá
trình công nghiệp hóa ở cấp tỉnh chủ yếu do “tư tưởng nhiệm kỳ”
và quan điểm “nền kinh tế GDP tỉnh” chi phối, tranh thủ làm được
gì làm nấy, gặp gì làm nấy, không ít tình trạng chồng chéo,
trùng lặp, giẫm đạp lên nhau – tỉnh anh
có xi măng lò đứng, tỉnh tôi cũng có; tỉnh anh có nhà máy mía
đường, tỉnh tôi không kém tỉnh anh; tỉnh anh có khu công nghiệp,
tỉnh tôi cũng không thua...
[46] Xem
thêm Nguyễn Trung (2007)
[47] Hiện
nay có tới khoảng 6000 thủ tục hành chính cần xem xét, gây lãng
phí bao nhiêu thời gian, tiền bạc, của cải; Chính phủ đã cam kết
phải bãi bỏ khoảng 30% những thủ tục này trong thời gian ngắn
nhất, song trên thực tế quá trình “bãi bỏ” này đang diễn ra rất
chậm. Tác động của các tập đoàn và các nhóm lợi ích tiếp tục giữ
vai trò quyết định trong việc hình thành các quyết sách kinh tế
quan trọng theo chiều hướng cục bộ mạnh ai nấy làm, tranh thủ
cái lợi trước mắt và không quan tâm đến sự phát triển vỹ mô của
quá trình công nghiệp hóa, biểu hiện rõ nhất là kết cấu hạ
tầng quốc gia tụt hậu so với phát triển kinh tế, tiếp tục đi sâu
vào kinh tế thượng nguồn và khai thác tài nguyên đất đai, có quá
nhiều quyết định hoặc công trình kinh tế chồng chéo, trùng lặp
hay phi kinh tế.., vân vân...
[48]
Riêng Tây Nguyên và các vùng cao khác, các vùng trung du có ý
nghĩa chiến lược đối với sự sống còn và tương lai phát triển đất
nước, cần được bảo tồn và phát triển theo hướng thân thiện với
môi trường và bền vững - nhất là trước tình hình thiên tai ngày
càng đa dạng và khốc liệt, tác động của biến đổi khí hậu ngày
càng quyết liệt. Khi diện tính đất đai ngày càng mất đi và tình
trạng nhiễm mặn ngày càng rộng do biến đổi khí hậu, các vùng này
sẽ trở thành các vùng có ý nghĩa sống còn của đất nước. Là một
trong các quốc gia chịu tác động nặng nhất của biến đổi khí hậu
toàn cầu, thế hệ hôm nay có trách nhiệm rất lớn chuẩn bị cho các
thế hệ mai sau.
[49] Xem
thêm Tấn Đức (2009)
[50] Xem,
chẳng hạn, Phạm Duy Hiển (2009), Phùng Liên Đoàn (2009), Trần
Sơn Lâm (2009)
[51]
Xem Nguyễn Thành Sơn (2009)
[52]
Hiện nay Chính phủ đang kêu gọi tiến hành các biện pháp tăng
cường bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với tác động của
biến đổi khí hậu, thế nhưng lại có quá nhiều quyết định kinh
tế của chính phủ đi ngược lại chủ trương này, điển hình là
khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phát triển quá nhiều thủy
điện, mở rộng khai thác khoáng sản, tiếp tục phát triển các
ngành công nghiệp gây ô nhiễm (ví dụ như Huyndai-Vinashin ở
Khánh Hòa với công nghệ sử dụng hạt nix...)...
[53]
Trên thực tế, tại một
số vùng nông thôn người dân cho
rằng đang xuất hiện “tầng lớp cường hào mới”.
Các bản án ngày 13/11/2008 của Tòa án
Nhân dân TP. Hà Đông (Hà Nội) 33 tháng tù cho 5 người đàn bà
nông dân (VietNamet, 2009a) ,
bị phạt tiền do dám chửi đường xấu ở Cà Mau (Vietnamnet,
2009b)...
thực ra không thấm tháp gì so với những hiện tượng nhũng
nhiễu, hạch sách, lấn chiếm đất đai, ăn chặn tiền cứu đói,
tiền giúp đỡ đồng bào bị lũ lụt... và các khoản đóng góp của
dân, v.v., xảy ra trong rất nhiều làng xã...
[54]
Cả nước hiện có 166 sân golf, (có tài liệu nói là trên 140
sân!), nhiều gấp 3 lần mức bình quân của thế giới, diện tích
trung bình 200 – 300 ha/sân. Không ít dự án xây dựng sân
golf trở thành một phần các dự án địa ốc trá hình. Hệ quả
của việc nông dân mất đất cho sân golf rất nhiều mặt, và tác
động môi trường của sân golf rất lớn.
[55]
Tìm đọc và so sánh với Nghị quyết Trung ương số 26 ban hành
ngày 05-08-2008 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
[56]
Hiện nay dư luận
cả nước
đang xôn xao việc xả lũ
công trình thủy điện ở miền Trung trong cơn bão số 11 vừa
qua, đặt vấn đề: quy hoạch các công trình thủy điện, chất
lượng thiết kế hồ trữ nước và việc xả lũ có phải là nguyên
nhân làm cho lũ trầm trọng thêm khiến cho nhiều sinh mạng bị
cướp đi? Xem Minh Quân (2009), Cẩm Văn Kính (2009)
[57]
Vì tập đoàn kinh tế nhà nước được phép dành tới 30% tổng vốn
của mình (nghĩa là rất lớn) cho kinh doanh các sản phẩm trái
nghề nên không hoàn thành việc thực hiện các sản phẩm chính
của tập đoàn, lỗ biến thành lãi, phát sinh nhiều tiêu cực,
đồng thời lấn át khu vực kinh tế tư nhân – nhất là các xí
nghiệp nhỏ và vừa. Cần bãi bỏ hẳn quy định này.
[58]
Mặc dù có sự giải thích, thanh minh.., song dư luận trong
nước vẫn vô cùng bức xúc về các vụ CPI, Securency, vụ án
Nông trường Sông Hậu, tập đoàn Vinashin…
[59]
Năm 1987 nước ta còn thiếu đói lương
thực, năm 1989 nước ta đã xuất khẩu lương thực!
Posted in: Chính Trị
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét