Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

CÔNG GIÁO CHÍNH SỬ 3

Trần Chung Ngọc


đăng ngày 21 tháng 10, 2007




CHƯƠNG IV

SÁCH LƯỢC BÀNH TRƯỚNG CỦA KI TÔ GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
Chúng ta đã thấy, qua những tài liệu dẫn chứng ở các phần trên, sự phát triển của Ki Tô Giáo ở Âu châu đã dựa trên những chính sách kỳ thị tàn bạo, cường quyền thắng công lý, chứ không dựa trên luân lý và đạo đức. Kể từ thế kỷ 16, Ca Tô Giáo đã hoặc liên kết với các đế quốc thực dân, hoặc làm tiền phong, hoặc theo gót các lực lượng thực dân để truyền đạo trên khắp thế giới. Gia Tô Giáo đã thành công ở Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh, nhưng thất bại ở Á Châu vì gặp phải những nền văn hóa lớn khác, vượt xa nền văn hóa Ki Tô về mọi phương diện tâm linh, luân lý, đạo đức v..v... như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Khổng giáo. Sau đây tôi sẽ duyệt qua sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo trên thế giới. Riêng về lịch sử du nhập của Ca Tô Giáo vào Việt Nam và ảnh hưởng của tôn giáo này trên xã hội Việt Nam tôi sẽ dành cho một chương riêng.
Hiển nhiên, trong cuốn sách nhỏ này, tôi không thể viết đầy đủ chi tiết về sự truyền đạo của Ca Tô Giáo Rô-ma trên thế giới. Cho nên, sau đây tôi chỉ nêu ra những sắc thái chính của sự bành trướng của Ca Tô Giáo Rô-ma ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, và Á Châu.
Penny Lernoux, trong cuốn "Tiếng Kêu Than Của Người Dân" (Cry of the People, p. 10) viết về sự truyền đạo Ca Tô Giáo Rô-ma ở Châu Mỹ La Tinh như sau:
"Nhìn theo góc cạnh lịch sử, Giáo hội Ca Tô Rô-ma ở Châu Mỹ La-Tinh có vẻ như là một tổ chức ít chống đối những chế độ quân phiệt độc tài nhất. Từ khi Columbus đặt chân trên Tân Thế Giới thì người ta không thể phân biệt giữa Thập Giá và Lưỡi Gươm. Các linh mục và những quân xâm lược Tây Ba Nha chia nhau dân chúng và đất đai cưỡng đoạt được. Và rất lâu trước khi các chế độ quân phiệt dựng lên những phòng tra tấn, những tòa án xử dị giáo đã hoạt đông với roi vọt và giá căng người. Vào thời các cuộc chiến giành độc lập vào đầu thế kỷ 19, Giáo hội là địa chủ lớn nhất ở Châu Mỹ La Tinh và cũng là lực lượng chính trị bảo thủ nhất trên lục địa.
Vì thế lực chính trị và kinh tế của Giáo hội và vì Giáo hội nắm trong tay độc quyền giáo dục dân chúng, Giáo hội nắm toàn quyền trong xã hội Mỹ-La-Tinh. Giáo hội dạy những nô lệ thổ dân và Phi Châu an phận theo định mệnh và hứa hẹn một đời sau tốt đẹp hơn. Giáo hội gieo hạt giống cao ngạo (của những tín đồ Ca Tô) mang từ Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha tới. Giáo hội khuyến khích quan niệm thủ lợi sâu đậm trong giới trung lưu, rằng họ có thể làm bất cứ điều gì, kể cả giết những nông dân vô tội, chừng nào mà họ còn đi xem lễ nhà thờ, đóng góp đất đai và tiền bạc cho sự bành trướng của Giáo hội, và bắt con cái họ đi rửa tội. Đây là những tín hữu Ki Tô tốt, được các giám mục ở Châu Mỹ La Tinh tôn vinh. Hậu duệ của họ ngày nay nắm chính quyền quân phiệt, cai trị hai phần ba dân chúng trong vùng. Hãy nhìn đằng sau một tên độc tài, chúng ta thấy đứng đó một giám mục."
(Viewed historically, the Latin-American Catholic Church would seem the least likely institution to oppose the military regimes. From the moment Columbus set foot in the New World, cross and sword had been indistinguishable. Priests and conquistadors divided the plunder in people and land. And long before Latin America's military regimes installed their torture chambers, the Inquisition was at work with whip and rack. By the time of the wars of independence at the beginning of the nineteenth century, the Church was the largest landowner in Latin America. It was also the most conservative political force on the continent.
Because of its political and economic importance and its monopoly of education, the Catholic Church was the arbiter of Latin-American society. It taught the Indian and African slaves to embrace fatalism on the promise of a better hereafter. It planted the seeds of machismo brought from Spain and Portugal. It encouraged a deep strain of cynicism among the upper classes, who learned that they might do anything, including slaughter innocent peasants, as long as they went to Mass, contributed land and money to the Church's aggrandizement, and baptized their children. These were the "good Christians" honored by the Latin-American bishops. Their descendants run the military regimes that today govern two thirds of the area's people. Look behind a dictator, there stands a bishop.)
Anene Obianyido, trong cuốn "Chúa Ki Tô hay Quỷ? Bộ Mặt Đồi Bại Của Ki Tô Giáo ở Phi Châu" (Christ or Devil? The Corrupt Face of Christianity in Africa, p. 15), cũng viết như sau về sự hiểu biết của các giáo sĩ thừa sai về Phi Châu và quan niệm của họ về những truyền thống dân tộc Phi Châu:
"Làm sao mà người dốt nát Phi Châu ý niệm nổi Thượng đế? Làm sao có thể được? Thượng đế là một ý niệm triết lý mà những người dân man rợ không thể hiểu nổi. Đó là những quan niệm sai lầm của những thừa sai và các con buôn Âu châu lúc mới tới Phi Châu, tác giả của khái niệm méo mó về Phi châu mà xưa kia, và theo một mức độ nào đo, cho tới ngày nay, kiến thức về lục địa Phi của những người da trắng vẫn còn dựa trên khái niệm sai lầm này. Thực ra, không phải chỉ là "quan niệm sai lầm về Thượng đế" của Phi Châu mà các thừa sai chống đối. Mọi khía cạnh của nền văn hóa truyền thống Phi châu đối với họ đều không thể chấp nhận được, do đó những người dân Phi Châu tân tòng Ki Tô Giáo không được phép xem coi, đừng nói đến chuyện tham gia, những lễ lạc truyền thống hay những cuộc nhảy múa truyền thống, đặc biệt là nếu những cuộc khiêu vũ đó thuộc một dạ hội hóa trang. Đó là thái độ thù nghịch của người da trắng khi họ không biết gì về Phi Châu và dân chúng trong lục địa; khi, theo lời của giáo sư Idowu, "đối với thế giới Tây phương, Phi Châu không có văn hóa và bất cứ một tổ chức xã hội nào."
(How can the untutored African conceive God? How can this be? Deity is a philosophical concept which savages are incapable of framing" That was the erronous view shared fully by the early missionaries and European traders, the authors of the original distorted notion of Africa on which the white man's understanding of the continent was and, to an extent, still is based. Indeed, it was not only the African's "misconception of deity" that the missionaries quarrelled with. Every aspect of the traditional culture was unacceptable to them, hence the early African converts were not allowed to watch, let alone participate in, traditional ceremonies or traditional dance, especially if it had to do with masquerades. That was the hostile attitude of the white man when he was ignorant of Africa and its people; when, in the words of Professor Idowu, "to the Western world indigenous Africa was barren of culture or any form of social organization.)
Trong cuốn Các Giáo Sĩ Thừa Sai (Missionaries, p. 90), cuốn sách đi kèm với một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, khảo luận về những thành quả truyền đạo của Ki Tô Giáo trên thế giới, Julian Pettifer & Richard Bradley cũng viết như sau về Phi Châu:
"Những thừa sai gửi về một phúc trình nói đến sự cải đạo: "Sự cải đạo được vui vẻ đón nhận, và có những diễn văn về sự truyền bá vinh quang của Ki Tô Giáo; nhưng thật ra thì các thổ dân đã bị biến đổi từ những người tốt (lương), với nhiều đức tính tuyệt vời, thành những kẻ dối trá chuyên nghiệp, đạo đức giả, và chuyên gây tai tiếng. Và công cuộc "văn minh hóa" vẫn tiếp diễn." Vậy mà những phê bình về mục đích liêm chính của các thừa sai như trên cũng không thay đổi phong trào đi truyền giáo xảy ra ở khắp Âu Châu, và niềm tin của các thừa sai vẫn vững chắc. Nhưng cùng lúc họ bắt buộc phải tự hỏi tại sao cái thông điệp của họ không được đón nhận. Điều hiển nhiên đối với các thừa sai là người Phi Châu dốt nát sẽ được lợi mọi đàng nếu theo Ki Tô Giáo. Nhưng đối với đa số người Phi Châu thì vấn đề lại ngược lại. Câu hỏi thích đáng hơn là tại sao các thừa sai lại hi vọng có thể thành công, vì đối với người dân Phi Châu trước thời bị chiếm làm thuộc địa, không có lý do gì để họ phải theo Ki Tô Giáo."
(The missionaries sent home a report of conversions: "It is received ...with joy, and speeches are made about the glorious work of spreading Christianity; whereas..the natives have been transformed from good heathens, with many excellent qualities, into accomplished liars, hypocrites and scandal-mongers..Thus the glorious work of "civilization" goes on" Yet such attacks on their integrity of purpose failed to deflect the missionary movement that was sweeping through Europe, and the belief of the missionaries held firm. At the same time they were forced to question why their message was not being taking up more readily. It seemed obvious to them that the benighted
African had everything to gain by becoming Christian. To most Africans the opposite was true. It is perhaps more pertinent to ask why the missionaries ever expected to be successful, since for the African in the pre-colonial period there seemed no point in becoming Christian.)
về Bắc Phi (Ibid., p. 190) :
"Sự tuyển mộ được thi hành triệt để nhưng sự thành công cải đạo những dân theo Hồi Giáo thật là ít ỏi. Thí dụ ở Morocco, một vị thừa sai hoạt động cho Hội truyền giáo tiền tuyến phúc trình rằng chỉ có 300 người theo Ki Tô Giáo trong một dân số 26 triệu; ở Bắc Phi có nhiều mồ của các nhà truyền giáo hơn là số dân theo đạo. Tuy rằng sự thất bại đã rõ ràng, các nhà truyền giáo vẫn duy trì một niềm lạc quan không thể dập tắt được. Theo Patrick Johnstone, một tác giả đi truyền giáo, thì "Những vết nứt trên bức tường Hồi Giáo hầu như không thể xuyên qua được, có thể mở rộng ra bằng sự cầu nguyện". Đối với cộng đồng những nhà truyền giáo, cầu nguyện có vẻ như là vũ khí chính thật và hữu hiệu để đánh đổ Hồi giáo."
(The recruitment drive is fierce but their success among Muslims are few. In Morocco, for example, one missionary who worked for the Frontline mission reported that there were only about 300 Christians in a population of 26 million; more evangelical missionary graves in North Africa than Christian converts. Despite the very real sense of failure, the unquenchable
optimism that typifies evangelical missionary endeavour is sustained. In the words of Patrick Johnstone, an evangelical author, "The cracks in the seemingly impenetrable wall of Islam can be widened by prayer!" To the evangelical community, prayer is seen as a genuine and effective tool with which to combat Islam.)
và về Nam Mỹ (Ibid., p. 133) :
"Những thổ dân thường được sống cùng nhau trong những "làng Ki-Tô" tại đó họ được đặt dưới sự kiểm tra kỹ lưỡng của các linh mục, họ được dạy giáo lý và được khuyến khích bỏ đi những tục lệ "man rợ" để thay thế vào đó bằng tục lệ và đức tính Ki Tô. Bị xa lìa khỏi chính dân tộc của mình và bị từ chối sự tự túc dựa trên săn bắn, trồng trọt vườn tược, họ chỉ còn một con đường để theo. Dựa trên những con số rửa tội, số người cải đạo thật đáng ngạc nhiên. Người ta ghi những con số 8000, 10000, và đến cả 14000 người cải đạo mỗi ngày. Chúng ta phải nhớ rằng, khả năng nói tiếng địa phương của các linh mục thường rất yếu kém, không có Thánh kinh viết bằng tiếng bản xứ, và những người cải đạo
hoàn toàn mù chữ, điều hiển nhiên là ngay khi đó những sự "cải đạo" thật là vô nghĩa."
(The Indians were often drawn together into "Christian villages" where, under the scrunity of the Fathers, they were taught their catechism and encouraged to forgo their "savage" practices for Christian customs and virtues. Cut off from their own
people and denied the self-sufficiency based on hunting, gathering and the cultivation of their gardens, there was only one way for them to go. Judging from the numbers baptized, the conversion rate was astonishing, which records of 8000, 10000 and even 14000 people being baptized in a single day. Bearing in mind that the priests' grasp of the language was often feeble, that there was no scripture in the vernacular and that the "converts" were totally illiterate, it must have been evident even then that the "conversions" were meaningless.)
Trên đây là vài sự kiện về thực chất truyền giáo của đạo Ca Tô ở Phi Châu và Nam Mỹ. Chúng ta thấy cũng những hình ảnh quen thuộc này ở Á Đông. Ca Tô Giáo Rô-ma đã thành công ở Phi Châu và Nam Mỹ và phần lớn các quốc gia trong những lục địa này trở thành hầu như toàn tòng Ca Tô Giáo. Nhưng trải qua mấy trăm năm dưới sự lãnh đạo của Thập Giá và Lưỡi Gươm, các quốc gia ở Phi Châu và Nam Mỹ vẫn là những quốc gia nghèo khổ và chậm tiến nhất trên thế giới. Có thể tin được chăng những lời tuyên truyền của các nhà truyền giáo: theo Ki Tô Giáo thì sẽ trở nên văn minh tiến bộ giàu có như các nước Âu, Mỹ? Trong Kinh Nhật Khóa của người Gia Tô Việt Nam có đoạn ca tụng Thánh Phan-Xi-Cô Xa-vi-e là "lịnh rao truyền tiếng đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ", vậy qua mấy trăm năm rồi những dân theo Ca Tô Giáo Rô-ma đã hết mọi rợ chưa, và người Ca Tô Việt Nam so với đại đa số người "lương" thì văn minh hơn hay mọi rợ hơn? Tin Chúa mà không biết gì về Chúa, tin giáo hội mà không biết gì về giáo hội, tin Thánh Kinh mà không biết gì về Thánh Kinh, vậy đó có phải là những biểu tượng của sự văn minh tiến bộ hay không? Thế giới đã tiến xa trong mọi lãnh vực kể từ thới Trung Cổ, các tín đồ Ca Tô vẫn còn giữ đầu óc của thời Trung Cổ (an astrolabe mind), theo như nhận định của Linh mục Ernie Bringas, vậy đó có phải là dấu hiệu củavăn minh tiến bộ hay không?
Cũng như ở Phi Châu và Nam Mỹ, sự truyền bá đạo Ca Tô sang Á Đông luôn luôn song hành với các lực lượng đế quốc thực dân Âu châu. Tuy nhiên, Ca Tô Giáo đã đụng phải những nền văn hóa cao hơn văn hóa Gia Tô nhiều nên có thể nói là sự truyền giáo của đạo Ca Tô Tây Dương đã hoàn toàn thất bại ở Á Đông trừ Phi Luật Tân.
Thật vậy, trong cuốn Missionaries, trg. 165, chúng ta có thể đọc một đoạn nhận định tổng quát về thành quả truyền giáo của đạo Ki Tô ở Á Đông như sau:
"Dù số tín đồ gia tăng ở Nam Hàn, nhưng chỉ có Phi Luật Tân vẫn là quốc gia chính theo Ki Tô Giáo ở Á Châu. Những thừa sai thành công ở đây vì có cùng những lý do họ đã thành công ở Phi Châu, Nam Mỹ và vùng vịnh Thái Bình. Các linh mục Gia Tô vào Phi Luật Tân theo những quân chinh phục Tây Ban Nha và thấy ở nơi đây nhiều bộ lạc có nhược điểm là theo những tôn giáo truyền thống của từng bộ lạc. Trong những hoàn cảnh như vậy, Giáo hội đã đạt được một thắng lợi kỳ lạ khác.
Ở các nơi khác ở Á Châu, sự tiến bộ trong công cuộc truyền giáo Ki Tô rất chậm, có thể nói là không đáng kể. Bất cứ nơi nào mà các thừa sai đụng phải những nền văn hóa tôn giáo lớn như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, hay Hồi Giáo thì dân chúng ở những nơi đây đều cưỡng lại và đôi khi tỏ thái độ thù nghịch rõ rệt."
(Despite gain in South Korea, the Phillipines is still the only major Christian country in Asia. The missionaries were successful there for the same reasons they were successful in Africa, Latin America and throughout the Pacific basin. Roman Catholic priests entered the Philippines on the arm of the Spanish conquerors and found there numerous vulnerable tribes adhering to their traditional religions. In these circumstances the Church scored another extraordinary success.
Elsewhere in Asia, Christian progress has been slow, even negligible. Wherever missionaries have encountered other great religious cultures such as Buddhism, Hinduism or Islam, the people have remained quite resistant and sometimes downright hostile.)
Để hiểu tại sao công vụ truyền giáo của các thừa sai Tây phương ở Á Châu lại thất bại, tôi xin trích dẫn tóm tắt nhận định tổng quát về thực chất truyền giáo của Ca Tô Giáo Rô-ma tại Á Châu của Avro Manhattan trong cuốn "Chủ Nghĩa Đế Quốc của Gia Tô Giáo Và Sự Tự Do Của Thế Giới" ("Catholic Imperialism and World Freedom", trg. 341 - 365):
"Những công vụ truyền giáo của Ki Tô Giáo không bao giờ chỉ là thuần túy truyền giáo. Những công vụ truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc làm đạo quân tiền phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao Tây phương, và những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống nhau: những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện. Sự chấp nhận, do tự nguyện hay do cưỡng bức, hai thứ trên được tuyên dương là chiến thắng của nền văn minh Ki Tô, và văn minh Ki Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có tính cách thống trị - hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây phương - sự thành công thường thường tùy thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội ở ngoài khơi.
Những dân tộc chậm tiến, nhưng có nền văn minh cao, mất đi nền độc lập của họ, văn hóa của họ bị chế nhạo, màu da của họ bị coi như là dấu vết của nhục nhã, quá khứ, hiện tại và ngay cả những khả năng thành đạt trong tương lai của họ bị khinh miệt và coi thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương thuyết giáo về "tứ hải giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân quyền của mọi người, và lý tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân.
Thực ra, từ khi được cấy vào từ Judea, Ki Tô giáo đã trở thành tôn giáo của Tây phương, và từ đó trở nên tôn giáo lớn nhất trên thế giới, không do sức mạnh của những nguyên lý tinh thần mà do sự thống trị vật chất của người da trắng... Ki Tô giáo hiện còn bị hầu hết Á Châu bác bỏ vì tôn giáo này được coi như biểu thị sự tham tàn của thế giới Tây phương, của chủ nghĩa đế quốc Tây phương và của sự "ưu việt của người da trắng".
Tuy nhiên, cho rằng Á Châu đã loại bỏ Ki Tô Giáo chỉ vì nó là một phó sản của Tây phương là sai lầm. Khoa học và Kỹ nghệ cũng là những phó sản của Tây phương, nhưng chúng được đón nhận. Chủ nghĩa Marx là một phó sản của tư tưởng Tây phương, tuy nhiên chỉ trong vài thập niên đã đủ để nó gây mầm mống khắp lục địa trong đó gần hai ngàn năm nỗ lực của Ki Tô Giáo chỉ đưa tới một kết quả thê thảm.
Chủ nghĩa Cộng Sản, như là nguồn cảm hứng cách mạng của thế giới, có ích hay có hại là tùy theo quan niệm mỗi người. Nhưng sự lan tràn kỳ lạ của nó là một sự kiện. Nó đã góp phần cho một sự thức tỉnh nhanh chóng hơn của Á Châu, cho sự nổi giậy mau hơn của tinh thần quốc gia của Á Châu, và cho sự chống lại Ki Tô Giáo của Á Châu quyết liệt hơn. (Chẳng trách là, cho tới bây giờ, Ca Tô Giáo Rô-ma vẫn coi CS là kẻ thù nguy hiểm nhất, cần phải tiêu diệt bằng mọi thủ đoạn và lũng đoạn chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v..v..)
Có thể nào một sự rao truyền Ki Tô Giáo thuần khiết hay nguyên lý căn bản về "tứ hải giai huynh đệ" đã gây nên phản ứng sâu rộng ở Á Châu như vậy? Nếu không thì nguyên nhân căn bản nào đã, và đang gây nên phản ứng như vậy? Câu trả lời là: chính trị Ki Tô Giáo. Chính trị Ki Tô Giáo đã đầu độc những sự giao thiệp Âu Á. Ngay từ những ngày đầu tiên của Ki Tô Giáo ở Viễn Đông, Ki Tô Giáo, xuất hiện dưới bộ áo tôn giáo, đã luôn luôn vươn lên như một lực lượng chính trị phục vụ cho những cá nhân và quốc gia Tây phương. Tin Lành Giáo cũng phạm tội như là Ca Tô Giáo. Giống như Ca Tô Giáo, các thừa sai Tin Lành luôn luôn làm tiền phong, hoặc theo gót các con buôn, tàu chiến, và những đoàn quân xâm lăng. Tuy nhiên, chính trị Tin Lành Giáo, dù phạm tội, không thể nào đồng hạng với Ca Tô Giáo. Sự tác hại gây nên bởi chính trị Ca Tô Giáo (Công Giáo) ở Á Châu thì to lớn một cách không thể nào so sánh được, hơn tất cả những sự tác hại gây nên bởi mọi giáo hội Ki Tô khác cộng chung lại với nhau.
Không giống như Tin Lành, những hoạt động của các thừa sai Ca Tô được phối hợp hoàn toàn với những mục tiêu tôn giáo - chính trị chuyên biệt. Với chủ ý dùng quyền lực chính trị để khuất phục những dân tộc Á Châu trong lãnh vực tôn giáo, Gia Tô Giáo đã đầu độc những mối liên hệ giao thiệp Âu Á ngay từ lúc bắt đầu, và sự đầu độc này đã góp phần hơn gì hết cho sự nghi ngờ bẩm sinh của dân tộc Á Châu đối với Tây phương hiện còn âm dội trong mọi lãnh vực cho tới ngày nay.
Những yêu sách chính trị của Giáo hội Ca Tô trên những quốc gia phi-KiTô bao giờ cũng liên kết với những yêu sách tôn giáo. Bởi vì, bất cứ khi nào Giáo hội gửi các thừa sai đi đến các nơi này, mục đích của Giáo hội là biến những người tân tòng thành những tín đồ của Giáo hội và là thuộc hạ của Giáo hoàng. Hai điều này không thể tách rời nhau được. Cũng như ở Tây phương, ở phương Đông, bất cứ nơi nào mà có Giáo hội Gia Tô là ở đó có Vatican; nghĩa là, quyền lợi ngoại giao và chính trị của Ca Tô Giáo.
Cho nên, những thừa sai Ca Tô tự động biến đổi thành những "tác viên chính trị", tạo thành nền tảng quyền lực chính trị của Ca Tô Giáo bất cứ nơi nào họ dựng lên những cộng đồng Gia Tô.
Những hoạt động tôn giáo - chính trị của Ca Tô Giáo như vậy thường tạo nên những ảnh hưởng sâu rộng, với bản chất ghê tởm nhất, trên lịch sử nhân loại. Những hoạt động này đã trở nên nguyên nhân trực tiếp của những thảm họa chính trị và quân sự trong những sự giao dịch giữa Tây phương và Á Châu, những thảm họa mà người ta thường tin là do những sai lầm, lòng tham lam, và sự thiển cận của những quốc gia đế quốc, và không bao giờ là do sự lì lợm tôn giáo của Giáo hội Ca Tô, đường lối ngoại giao lá mặt lá trái của Vatican, hoặc khát vọng thống trị cả hai lục địa của Vatican mà thường khi làm nhơ nhuốc lịch sử hiện tại và góp phần làm cho sự phương hại đến những giao dịch hòa bình của các dân tộc trên thế giới kéo dài bất tận."
(Christian missions were never solely Christian missions. They were invariably preceded, accompanied, or followed by Western warehouses, Western diplomacy, and Western armies. Whichever the sequence, the result was eternally the same: the partial or total loss of the regional, national, and racial liberty of the Asiatics, wherever and whenever the Cross and the Western Hat had made their appearance. The voluntary or forced acceptance of both was proclaimed to be the victory of Christian civilization, and Christian civilization came to mean whatever tended to be dominant - in other words, whatever was Western - success very often depending on the appearance of naval squadrons off the coasts.
Backward and highly civilized peoples lost their independence; their cultures were ridiculed, the color of their skin became a mark of opprobium; their past, present, and even potential future achievements were scorned and despised... This while, at the same time, Western religion preached universal brotherhood, Western democracy, the rights of all men, and Western idealism the equality of all races...
In fact, since its transplantation from Judea, Christianity had become Western, and since then had become the dominant world religion, not through the strength of its principles but through the physical dominance of the White race... Christianity is still spurned by most of Asia as being hopelessly identified with the rapacity of the Western world, of Western Imperialism and of Western "White supremacy".
To think, however, that Asia has rejected Christianity simply because it is a by-product of the West would be erroneous. Science and industrialism are Western by-products; yet they are welcome. Marxism is a by-product of Western thought, yet a few decades have sufficed to plant its seeds throughout the continent in which almost two thousand years of Christian efforts were spent with the most dismal result...
Whether Communism, as the inspirer of a world revolution, is beneficial or harmful is anyone's opinion. Its phenomenal spreading, however, is a fact. It has contributed to a swifter awakening of Asia, to a quicker emergence of Asian nationalism, to a fiercer Asian opposition to Christianity.
Could the mere preaching of an unadulterated Christianity or of the basic principle of brotherhood of man have provoked such far-reaching Asiatic reaction?
If not, what was, and, indeed what is, its fundamental cause? The reply is: Political Christianity.
Political Christianity has poisoned, at the very source,
Asiatic-Western relations. Since its inception in the Far East, Christianity, having appeared in the apparel of religion, has always emerged as a political force at the service of Western individuals and nations. Protestantism is as guilty as Catholicism. Like the Catholic, so also the Protestan missionaries were invariably preceded or followed by traders, gun-boats, or military expeditions. Political Protestantism, however, although guilty, cannot be put on a par with Catholicism. The damage caused by political Catholicism in Asia has been incommensurably greater than anything done by all the other Christian Churches put together.
Unlike those of Protestantism, all its missionaries' activities were fully co-ordinated and had specific religious-political goals. By purposely employing political power to subdue Asiatic people in the religious field, Catholicism poisoned Asiatic-Western relations from the very beginning, and this poisoning has contributed, perhaps more than anything else, to the inborn suspicions of the Asiatic people towards the West, which has reverberated in all fields to our present
day.
The political claims of the Catholic Church upon non-Christian lands are inseparable from her religious one. This owing to the fact that, whenever sending out her missionaries, her aim is to make the newly converted people simultaneously members of the Church and subjects of the Pope.
The two are inseparable. As in the West, so also in the East, wherever there is the Catholic Church there also is the Vatican; that is to say, Catholic diplomatic and political interests.
Catholic missionaries, therefore, are automatically transformed ito "political agents" and ultimately become the foundation stones of the political power of the Catholic Church wherever they erect Catholic communities...
Such Catholic religious-political activities have often produced far-reaching effects, of a most nefarious nature, upon the history of mankind. They became the direct cause of political and military disasters in Western dealings with Asia; disasters popularly believed to be due merely to the blunders, rapacity, and short-sightedness of imperalistic nations, and never to the religious intransigence of the Catholic Church, to the diplomatic duplicity of the Vatican, or to the thirst for domination of both which, very often, by befouling the current of history, have contributed to the perennial detriment of the peaceful relationship of the peoples of the world.)
Với chính sách truyền đạo tệ hại như trên, hẳn chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy các dân tộc Á Châu cho tới ngày nay vẫn từ chối không chấp nhận Ki Tô Giáo (gồm Chính Thống, Ca Tô và Tin Lành) nói chung, Ca Tô Giáo nói riêng, trừ một thiểu số tình nguyện làm tôi tớ hèn mọn cho Vatican (Xin đọc câu "Chúng con là những tôi tớ hèn mọn, sấp mình dưới chân các Đấng run sợ dâng lên những lời dưới đây" trong bức thư gửi Giáo hoàng John Paul II của 12 môn đệ linh mục Nguyễn Hữu Trọng), hoặc "vô cùng sợ hãi Tòa Thánh, đến nỗi..."Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm" (Nguyễn Văn Trung), trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập 2), coi thị quốc Vatican (Vatican city) trọng hơn ông bà tổ tiên đã sinh ra mình và đất mẹ đã nuôi dưỡng mình.
Để độc giả có một ý niệm về bản chất cuồng tín của các nhà truyền giáo Ki Tô ngay trong thời đại này, tôi xin trích dẫn sau đây một đoạn trong cuốn Missionaries, trg. 186, nói về phương cách truyền giáo của Gia Tô Giáo ở Thái Lan:

"Ở Á Châu, không có mấy nước mà các thừa sai cảm thấy hoàn toàn tin tưởng là công vụ truyền giáo của họ sẽ không bị gián đoạn trong tương lai. Ngay cả dân Thái cũng nhạy cảm đối với vấn đề thừa sai nếu sự
truyền giáo không khéo xử, thái độ khoan dung của dân Thái có thể thay đổi. Hiện nay, trong một nước mà 97 phần trăm theo Phật Giáo, 2 phần trăm theo Hồi Giáo, số người theo Ki Tô Giáo hiển nhiên rất ít.
Sulak Siravaksa là một trí thức Phật Giáo theo học các trường Ki Tô. Tuy nhiên, ông ta rất lấy làm khó chịu trước những tài liệu truyền giáo mô tả Thái Lan là "địa hạt của Satan"; rằng "99% dân Thái bị câu thúc bởi ma quỉ"; lên án Phật Giáo là "thờ hình tượng" và là "một tôn giáo yếm thế một cách vô vọng."; và chấp chặt là "không có sự mặc khải của Ki Tô thì không hiệp thông được với Thượng đế." Như Sulak đã vạch rõ, đó là ngôn ngữ hàng ngày của một số tài liệu truyền giáo, những tài liệu này đã xúc phạm nặng nề đến những Phật tử Thái Lan."
(In Asia there are few countries where missionaries can feel completely confident of an uninterrupted future for their work. Even the Thais are sensitive on the
subject of missionaries and if evangelism is not carried out in a tactful manner, their tolerant attitude may change. At present, in a country where 97 percent of the population is Buddhist and 2 percent Muslim, there are obviously very few Christians.
Sulak Sivaraksa is a Buddhist intellectual who was educated in Christian schools. He is, however, severely irritated by evangelical literature that describes Thailand as "the territory of Satan"; that declares "99 percent of Thais are in bondage to demons"; that condemns Buddhism as "idolatry" and "a religion of hopeless escapism"; and which insists that "without Christian revelation, there is no relationship with God". As Sulak points out, this is the everyday language of a certain kind of mission literature, which is deeply offensive to Thai Buddhists.)
Vì chính sách truyền đạo cuồng tín cố hữu như trên tại Thái Lan mà Phật Giáo Thái đã phải chính thức gửi kháng thư cho John Paul II, phàn nàn về những việc làm sai trái của Ca Tô Giáo ở Thái Lan, như sẽ được trình bày trong một phần sau.

Người Việt chúng ta thường ngưỡng mộ thành quả canh tân đất nước của Nhật Bản và các "sử gia" Ca Tô Việt Nam thường đổ trách nhiệm lên đầu các vua quan triều Nguyễn là không biết noi gương Nhật Bản để canh tân đất nước. Nhưng bối cảnh lịch sử của hai nước Nhật và Việt trong thế kỷ 19 hoàn toàn khác nhau. Muốn hiểu tại sao Nhật Bản canh tân được mà Việt Nam lại không, chúng ta phải trở lại lịch sử tiếp xúc của Nhật với Tây phương, và từ đó nhận ra sự khác biệt giữa những điều kiện chính trị, xã hội của hai nước. Sự thành công của Nhật Bản trong vấn đề canh tân đất nước dựa phần lớn vào thái độ dứt khoát, quyết liệt của Nhật đối với Ca Tô Giáo như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Từ đầu thế kỷ 16, Nhật Bản đã tiếp xúc với Tây phương qua những thương gia ngoại quốc, nhất là những thương gia Bồ Đào Nha. Khi đó Nhật Bản hoan nghênh những sự trao đổi ý kiến và trao đổi hàng hóa và mở cửa cho thông thương tự do. Tuy nhiên, theo sau các thương gia là những thừa sai Ki Tô Giáo, nhất là những thừa sai Ca Tô, tới để truyền đạo. Muốn hiểu hiện tượng trên, tưởng chúng ta cũng nên nhắc lại là:
"Vào cuối thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự cho Ca Tô giáo cái quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba Tây, thuộc Tây Ba Nha; 2) còn Bồ Đào Nha thì được Ba Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp các dân địa phương vào trong giáo hội Ca Tô. Do đó, đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của gìới linh mục đã biện minh cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào niềm tin Ca Tô."
(Missionaries, trg. 132-133: By the end of the fifteenth century, Pope Alexander VI created two spheres of influence; he determined that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should belong to Spain, while Portugal would take Brazil and whatever could be seized in Asia and Africa. It was decreed that along with territorial gains would go the duty to incorporate any native peoples into the Catholic Church...With the invading armies came priests and friars whose presence justified the subjugation of the people and the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to the faith.)
Các thừa sai Ca Tô được sự ủng hộ nồng nhiệt của Nobugata, một lãnh chúa Nhật Bản (1573-1582).
Nobugata, ngoài việc cho phép các giáo sĩ tự do truyền đạo còn cấp đất cho họ ở Kyoto, cùng hứa hẹn cấp cho họ một khoản tiền mỗi năm. Do đó, Ca Tô giáo lan tràn khắp nước, hàng ngàn người theo đạo và các trung tâm Ca Tô mọc lên ở nhiều nơi trong nước Nhật.
Nếu các giáo sĩ Ca Tô chỉ giới hạn trong việc truyền bá tình thương của đạo Chúa thì chắc chắn Nhật Bản và các nước khác ở Á Châu sẽ để cho họ tự do, nhất là Việt Nam, một dân tộc đã nổi tiếng là hiếu khách và không hề có chuyện kỳ thị tôn giáo. Nhưng, do sự cực đoan tôn giáo của Ca Tô giáo là Giáo hội Ca Tô phải thống trị giáo dân trong tất cả những lãnh vực tôn giáo, đạo đức, xã hội, chính trị v..v.., kết quả là các cộng đồng Ca Tô ở Nhật Bản đều phải đặt dưới quyền thống trị của Vatican. Theo giáo điều Ca Tô, Giáo hội không cho phép những người dân Nhật theo đạo phục tùng những người cầm quyền như là một người dân trong một nước. Những người gia nhập Giáo hội Ca Tô đương nhiên tự biến họ thành những thuộc hạ của Giáo Hoàng. Một khi sự t rung thành đã chuyển sang một thế lực ngoại quốc ở ngoài đất Nhật, các giáo dân trở thành bất trung đối với những nhà cầm quyền Nhật Bản. Điều này rất nguy hại cho sự an ninh của Nhật, quốc nội cũng như quốc ngoại.
Vì Ca Tô Giáo dạy rằng đạo Ca Tô là đạo duy nhất chân thật, các tín đồ Ca Tô Nhật đã phát động tinh thần bất khoan nhượng tôn giáo, và khi ở vị thế có quyền hành, tìm cách xóa bỏ các tôn giáo khác bằng bạo lực. Điều này đã gây nên những xáo trộn trong xã hội. Bất cứ ở nơi nào mà Ca Tô giáo chiếm đa số trên đất Nhật thì ở nơi đó Phật Giáo và các tôn giáo khác đều bị chèn ép. Chùa chiền bị phá hủy, đóng cửa hay chiếm đoạt để làm nhà thờ. Trong nhiều trường hợp, Phật tử bị cưỡng bách theo đạo, từ chối có thể bị tịch thu gia sản hay xử tử. (Những người sống ở miền Nam, nhất là vùng Nam, Ngãi, dưới triều Ngô Đình Diệm chắc chắn chưa quên những cảnh này).
Trước tình thế quốc gia như vậy, những nhà cầm quyền Nhật Bản, Hideyoshi rồi Ieyasu, thay đổi thái độ và bắt đầu từ năm 1614 Ieyasu đưa ra một chính sách để đối phó với những xáo trộn mà các giáo sĩ và giáo dân Gia Tô giáo đã gây ra:
"Mọi công dân Nhật theo đạo được lệnh phải bỏ đạo; các nhà thờ và tu viện Ca Tô bị phá hủy, tài sản đất đai bị tịch thu, và tất cả linh mục ngoại quốc được lệnh phải rời khỏi các xứ đạo, tập trung tại Nagasaki để chờ tống xuất."
Sắc lệnh này chưa kịp thi hành thì "một sắc lệnh khác khe khắt hơn được ban hành, và sự đàn áp tôn giáo trở thành tàn nhẫn hơn cho tới khi mọi vết tích công khai của Ki Tô Giáo bị phá hủy."
(Missionaries: A further decree, much fiercer in tone, set in train a ruthless persecution that continued until all overt vestiges of Christianity had been destroyed.)
"Khi sắc lệnh trục xuất thứ hai được ban hành, một số thừa sai rời khỏi nước Nhật nhưng nhiều vị ở lại và toan tính tiếp tục gây dựng ngầm các xứ đạo. Tất cả đều bị săn lùng và hành quyết.
Toàn thể các cộng đồng Ki Tô phải chịu đựng những biện pháp cấm đạo. Họ bị cưỡng bức giẫm lên hình tượng của Mẹ Maria bồng Con khắc trên những bản nhỏ, ai từ chối đều bị hành quyết. Hình phạt thông thường là đóng đinh, nhưng được thay đổi một cách ác độc, nạn nhân bị đóng đinh đầu ngược xuống đất và ở bờ biển. Khi thủy triều lên họ bị chết ngộp dần dần."
(When the second decree of expulsion was promulgated, a number of missionaries left Japan but many remained and tried to continue their ministry in hiding. All of them were hunted down and put to death.. . Whole communities were put to the test. They were forced to trample upon a fumie, a small plaque bearing a carved image of the Virgin and Child, and those who refused were executed. Crucifixion was the usual fate, but, in a cruel refinement, the victims were crucified upside down on the shoreline. As the tide came in, they slowly drowned. )
Vào thời điểm này, những tín đồ Ca Tô ở Nhật bắt đầu tổ chức võ trang chống lại chính quyền. Cuộc chiến bùng nổ vào mùa đông năm 1637 tại Shimbara và tại đảo Amakusa, những vùng hầu như toàn tòng Ca Tô. Những cộng đồng Ca Tô này, cầm đầu bởi các linh mục Tây phương, công khai chống lại chính quyền.
Chính quyền Nhật, sợ rằng các toán giáo dân đó liên kết với những giáo dân Ca Tô Tây phương và bị Bồ Đào Nha dùng làm phương tiện để chiếm đất đai của Nhật, đánh thuế rất nặng trên những cộng đồng này. Các linh mục dòng Tên tổ chức một đạo quân khoảng 30000 giáo dân Nhật, với cờ xí mang tên Giê-Su, Maria, Thánh Iago, tiến quân đối đầu với đại diện chính quyền về dân sự và quân sự ở địa phương, và nhiều cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra trong vùng Shimbara và vùng vịnh Nagasaki. Giáo dân giết luôn Thống Đốc ở Shimbara và rồi cố thủ trong một thành lũy kiên cố khi quân chính phủ kéo đến dẹp.
Với vũ khí thô sơ, chính quyền Nhật phải nhờ đến sự trợ giúp của Hòa Lan (theo Tin Lành) về súng đại bác và tàu chiến. Hòa Lan ưng thuận, và giúp chính quyền san thành bình địa nơi cố thủ của các giáo dân và hầu như tất cả các giáo dân trong đó đều bị tàn sát.
Kết quả cuộc nổi loạn của giáo dân này là một đạo Dụ bài Ngoại của chính quyền Nhật Bản ban hành năm 1639, Manhattan, Catholic Imperialism and World Freedom, trg. 361:
"Trong tương lai, chừng nào mà mặt trời còn soi sáng thế giới, không một ai được phép nhập cảnh Nhật Bản, ngay cả với tư cách là đại sứ..."
(For the future, let none, so long as the Sun illuminates the World, presume to sail to Japan, not even in the quality of ambassadors...)
Đạo Dụ trên được áp dụng cho mọi nước Tây phương, trừ Hòa Lan vì Hòa Lan đã giúp phương tiện cho chính quyền Nhật dẹp cuộc nổi loạn của các giáo dân Ca Tô. Nhưng ngay cả đối với người Hòa Lan, họ cũng bị hạn chế tối đa. Lý do: tuy họ không phải là tín đồ Ca Tô Giáo nhưng cũng là tín đồ Ki Tô Giáo. (Nevertheless, even they were put under extreme restrictions owing simply to the fact that although they were not Catholics they were Christians.)
Đối với Nhật Bản khi đó, bất cứ cái gì liên hệ đến Ki Tô Giáo nói chung đều bị nghi ngờ là có âm mưu lừa dối, chinh phục, và bất khoan dung.
Manhattan, (Ibid.,trg. 362):
"Người Hòa Lan không được phép đọc ngay cả những lời cầu Kinh Ki Tô Giáo trước mặt một công dân Nhật nào. "
(The Dutch were not permitted to use Christian prayers in the presence of a single Japanese subject).
Hiệp ước thương mại giữa Nhật và Hòa Lan có những điều khoản như:
- Không một tàu buôn nào của Hòa Lan được chở một tín đồ Ki Tô bất cứ quốc tịch nào hoặc chuyên chở thư từ viết bởi tín đồ Ki Tô.
- Hòa Lan phải báo cho chính quyền Nhật biết tình hình bành trướng của Ki Tô Giáo ở ngoại quốc.
- Mọi sách viết về những đề tài tôn giáo phải khóa kín, niêm phong trong các rương hòm và trao cho chính quyền Nhật giữ trong suốt thời gian tàu cặp bến Nhật.
(No Dutch ship should carry a Christian of any nationality or convey letters written by Christians.
The Dutch should convey to the Japanese governor any information about the spreading of Christianity in foreign lands that might be of interest.
All books, especially those dealing with religious subjects, belonging to Dutch ships had to be put into trunks, sealed, and turned over to the Japanese during the period the ship was in port)
Với những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca Tô Giáo nói riêng vàì Ki Tô Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị cái họa Ki Tô Giáo trong suốt hơn 200 năm, trong thời gian này trên đất Nhật không hề có bóng dáng của ngay cả một linh mục thừa sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ Ca Tô sẵn sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương phản quốc, cho tới khi Đô Đốc Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và uy hiếp Nhật phải mở cửa giao thương và cho truyền đạo lại vào năm 1854. Trước mối nhục vì bị thua kém về kỹ thuật và súng ống này, Nhật Bản đã quyết tâm canh tân. Năm 1866, Nhật còn là một dân tộc thuộc loại Trung Cổ. Chỉ trong vòng 33 năm, tới năm 1899, Nhật đã trở thành một cường quốc không kém các nước Tây phương. Ngoài lòng yêu nước cao độ và quyết tâm, yếu tố chính trong sự thành công canh tân của Nhật là một tình trạng xã hội, chính trị ổn định, không có một đạo quân thứ 5 nằm vùng trong lòng dân tộc và các thừa sai gián điệp chuyên gây xáo trộn trong các quốc gia để thủ lợi về mặt tôn giáo cũng như về vật chất thế tục.
Missionaries, trg. 169:
"Trong 24 năm đàn áp Ki Tô Giáo ở Nhật Bản, 62 thừa sai Tây phương đã bị hành quyết cùng với hàng ngàn giáo dân Nhật. Phải tới hơn 200 năm sau Nhật mới lại mở cửa cho các thừa sai trở lại, nhưng lòng của họ vẫn khép kín."
(During the twenty-four years of the great Japanese persecution, sixty-two European missionaries were put to death together with thousands of Japanese Christians. It was to be more than 200 years before the Japanese would again open their doors to missionaries but even then, they did not open their hearts.)
Một câu ngắn gọn sau đây của Hal Dareff trong cuốn Câu Chuyện Việt Nam (The Story of Vietnam, trg. 28,) có thể nói lên hoàn cảnh khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam trong thế kỷ 19:
"Đóng cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh được sự xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất hạnh thay, trong nước đã có những người ngoại quốc rồi - Các giáo sĩ thừa sai."
(By sealing off their borders, they would keep out the foreigner and his alien ways. Unfortunately, there were already foreigners in Vietnam - The Missionaries.)
Ở Ấn Độ, hơn 400 năm nay Ki Tô Giáo đã vô cùng tích cực trong vấn đề truyền đạo với hi vọng Ki Tô hóa Ấn Độ nhưng dân chúng Ấn, tuy nghèo khó và trước những hứa hẹn về vật chất của Ki Tô Giáo, vẫn từ chối tôn giáo này. Số người theo Ki Tô Giáo nói chung chưa lên tới 1% tuy chính quyền Ấn đã rất dễ dãi để cho những nhà truyền giáo tự do truyền đạo.
Sự dùng vật chất để ép những người ngoại đạo đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn về vật chất theo đạo lộ liễu đến mức một Ủy Ban Điều Tra Những Hoạt Động của Các Giáo Sĩ Thừa Sai tại Ấn Độ đã phải đưa ra những khuyến cáo sau đây, trong cuốn "Tín ngưỡng của người khác" ("The Faith of Other Men", trg. 107) của Giáo Sư Wilfred Cantwell Smith, một nhà Thần học KiTô nổi tiếng, Giáo sư môn Tôn Giáo Thế giới và Giám đốc trung tâm nghiên cứu tôn giáo thế giới tại đại học Harvard:
" Nên yêu cầu những thừa sai mà mục đích chính là dụ người vào đạo phải rút lui. Số lượng lớn các nhà truyền giáo ngoại quốc không được hoan nghênh và cần phải kiểm soát.
Sự dùng các dịch vụ y tế hay chuyên môn như là phương tiện trực tiếp để dụ người vào đạo phải cấm bởi luật pháp.
Mọi toan tính dùng vũ lực hay lừa gạt gian dối, hay đe dọa bằng những cách bất chính hay giúp đỡ tài chính hay mọi sự trợ giúp khác, hoặc bởi những phương tiện hay hứa hẹn lừa gạt gian dối, hoặc bằng sự giúp đỡ tinh thần và vật chất, hoặc lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm hay lòng tự tin của bất cứ người nào, hoặc bằng cách khai thác nhu cầu, sự yếu kém về tinh thân (tâm thần) hay nhẹ dạ của bất cứ người nào, hoặc, đại cương là mọi toan tính hay nỗ lực (dù thành công hay không), trực tiếp hay gián tiếp thâm nhập vào ý thức tôn giáo của con người (dù đã trưởng thành hay còn vị thành niên) thuộc tín ngưỡng khác, với mục đích thay đổi ý thức tôn giáo hay tín ngưỡng của họ, để cho hợp với lý tưởng và niềm tin của phe đi dụ người ta vào đạo, phải tuyệt đối cấm."
(Those missionaries whose primary object is proselytization should be asked to withdraw. The large influx of foreign missionaries is undesirable and should be checked..
The use of medical or other professional services as a direct means of making conversions should be prohibited by law..
Any attempt by force or fraud, or threats of illicit means or grants of financial or other aid, or by fraudulent means or promises, or by moral and material assistance or by taking advantage of any person's inexperience or confidence, or by exploiting any person's necessity, spiritual (mental) weakness or thoughlessness, or, in general any attempt or effort (whether successful or not), directly or indirectly to penetrate into the religious conscience of persons (whether of age or underage) of another faith, for the purpose of consciously altering their religious conscience or faith, so as to agree with the ideas of convictions of the proselytizing party should be absolutely prohibited..)

Tại sao người ta lại phải khuyến cáo như vậy nếu các công vụ truyền giáo của CaTô giáo chỉ thuần túy là truyền giáo? Chúng ta cũng nên để ý rằng, hiện nay, ở Ấn Độ đang có phong trào bài Ki Tô Giáo rất mạnh. Báo Los Angeles Times ngày 12 tháng 11, 1998, đăng một bài tường thuật dài của ký giả Dexter Filkins về những hành động bài Ki Tô Giáo, nhiều khi dùng đến bạo lực, ở Ấn Độ. Một lãnh tụ của phong trào bài Ki Tô Giáo, ông B. L. Sharma, tuyên bố:
"Chúng tôi đã phải làm nô lệ cả ngàn năm, và nay chúng tôi đã sáng mắt rồi. Tôi đòi hỏi chính phủ Ấn Độ phải đuổi cổ những kẻ đang dụ dân Ấn cải đạo, và phá hại văn hóa, ngôn ngữ và y phục của chúng tôi."
(We were slaves for 1000 years and now we have opened our eyes. I demand that the government of India throw out these people who are out to convert Hindus and ruin our culture, language and attire.)
Ở Trung Quốc , chúng ta đã biết, các giáo sĩ thừa sai toa rập với lực lượng thực dân Anh đưa thuốc phiện vào đầu độc dân Trung Quốc và lợi dụng cuộc chiến tranh nha phiến để truyền đạo. Nhưng lịch sử truyền đạo Ca Tô ở Trung Quốc là một thất bại nặng nề cho các nhà truyền giáo Ca Tô. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trích dẫn sau đây trong cuốn The Chinese Looking Glass của Dennis Bloodworth, trg. 170-173, viết về phản ứng của người Trung Hoa đối với Gia Tô Giáo như thế nào:
"Từ thế kỷ 16 trở đi, các giáo sĩ dòng Tên đã được đón tiếp ở Bắc Kinh. Người ta nói rằng, vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Minh đã cải đạo sang Ki Tô Giáo trước khi chết, và con trai của bà đã được rửa tội với tên Constantine. Tuy các tín đồ Gia Tô căm phẫn chính đáng về những sự kiềm chế tiếp tục ngăn cản sự tự do truyền đạo ở những nơi khác trên đất Trung Quốc, căn bản căm phẫn của họ thật là yếu ớt một cách lố bịch. Vì chính trong những khoảng thời gian này, Gia Tô Giáo đang tàn sát những tín đồ Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân Huguenots ở Pháp, và Văn Phòng Thánh (Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo.) còn đang bận thiêu sống những kẻ dị giáo từ Granada tới Goa.
Đối với người trí thức Trung Hoa, các Thần (hay Thượng đế, hay Chúa, tùy theo cách gọi trong các nền văn hóa khác nhau. TCN) là để cho những nông dân ngu dốt. Một Nho gia lỗi lạc đã nói: "Không có ai ở trên trời phán xét tội lỗi." Tôn giáo là thuốc phiện của những "người đần độn". Còn đối với đại chúng thì, không làm gì có chuyện cứu rỗi, và như vậy, không làm gì có chuyện luận phạt xuống địa ngục. Do đó, các học giả chỉ đánh giá đạo đức Ki Tô Giáo còn ngoài ra coi những giáo sĩ dòng Tên như là các kỹ thuật gia khéo léo.
Nhưng đối với một giáo sĩ thừa sai thì dân Trung Quốc phải chia thành hai: giáo dân Ki Tô và những người ngoại đạo. Nhưng sự khó khăn ở đây là Trung Quốc không có danh từ "ngoại đạo" vì các tôn giáo ở đây đã sống chung tốt đẹp với nhau và hiểu rõ rằng chỉ có Khổng Giáo mới là đạo chính thức ở Trung Quốc. Tuy nhiên, dần dần các quan lại Trung Quốc hơi ngạc nhiên khi thấy rõ rằng các tín đồ Ki Tô không sẵn sàng để sống hòa hợp trong đại khối dân tộc với các tôn giáo khác nhau, nhưng lại chống Khổng giáo bằng một tập hợp các qui luật của riêng họ.
Đó chính là lạc đạo. Một người Trung Hoa khi trở thành một tín đồ Ki Tô thì không được coi như là người Trung Hoa nữa. Cái xí nghiệp truyền giáo bị ngăn chặn, cấm đoán, rồi lại được phép truyền đạo. Những tín đồ Ki Tô cuồng tín trong cuộc nổi loạn của giặc Thái Bình (Người cầm đầu giặc Thái Bình là Hồng Tú Toàn, một tín đồ Ki Tô, tự xưng là em của Giê-su, tự phong là Thái Bình Vương, chiến đấu cho cái gọi là Thái Bình Thiên Quốc của Chúa Trời. TCN) đã làm nguy hại cho đức tin của họ khi họ đánh mạnh vào giới văn thân, và khi đến lượt các thừa sai bị đối xử thô bạo, giết chóc bởi những toán dân khác, thì giáo hội không được sự thương xót của Bắc Kinh, mà còn bị Bắc Kinh rất đỗi nghi ngờ vì có vẻ như các quyền lực Tây phương luôn luôn dựa vào những sự đối xử quá đáng đối với dân Chúa của họ để mượn cớ đòi hỏi nhiều nhượng bộ hơn ở Trung Quốc.
Sau cuộc cách mạng năm 1911, Ki Tô Giáo được coi như là mốt thời trang, vì những bộ óc mờ mịt của những người hăng say thuộc đảng Cộng Hòa bị hoang mang bởi những ý niệm về tự do và dân chủ. Nhưng rồi ngay sau đó họ đã vỡ mộng. Những thiệt hại đáng sợ trong Đệ Nhất Thế Chiến đã làm cho các quan sát viên Đông phương tin chắc rằng một giáo phái được gọi là cao quý mà lại gây ra những cảnh tàn sát tập thể như vậy không thể nào là nguồn cứu rỗi của họ, và những sự tàn bạo trong Đệ Nhị Thế Chiến đã củng cố cảm tưởng sơ khởi trên.
Ngày nay những người Cộng Sản không tán thành những sự mê tín duy linh phi lý, và họ khoan nhượng cho khoảng từ 2 tới 3 triệu tín đồ Ki Tô theo tín ngưỡng của mình một cách đứng đắn mà không cần đến sự ban phúc của La Mã, và họ ủng hộ một phong trào Phật Giáo lớn hơn, hướng dẫn bởi những người hiểu rằng "trước hết họ phải có những trách nhiệm xã hội và những nhiệm vụ yêu nước" trước khi say đắm trong sự xa xỉ tôn giáo."
(From the sixteenth century onwards Jesuits were welcomed in Peking. The last Ming empress, it was claimed, was converted to Christianity before she died, and her son was baptized Constantine. Although the Roman Catholics were full of righteous indignation about the fetters that continued to hamper free missionary work in the rest of China, they were on ridiculously weak ground. For this was the sorry period in which the Catholics were butchering the Protestants of the Netherlands, the Huguenots were being tortured by the thousands in France, and the Holy Office was busy burning heretics from Granada to Goa.
To the literate Chinese, gods were only for ignorant peasants. As a prominent neo-Confucian had laid down: "There is no man in the sky judging sin." Religion was the opiate of the "stupid people." For the rest, there was no personal salvation or, come to that, damnation. The scholars therefore appreciate only the ethics of Christianity and otherwise regarded the Jesuits as clever technicians...
For the missionary, China must be divided into Christians and heathens. But the difficulty was that the Chinese simply had no word for "heathen," for religions had rubbed along well enough together in the Middle Kingdom on the strict understanding that Confucianism was the only official creed. Nevertheless, it gradually became clear to the slightly astonished mandarins that the Christians were not prepared to be stitched into the patchwork quilt made up of the rest, but were challenging Confucian doctrine itself with a rival set of rules of their own.
This was heresy. A Chinese who became a Christian could no longer be regarded as Chinese. Missionary enterprise was hampered, then forbidden, then permitted again. The "Christian" fanatics of the Taiping rebellion perilously compromised the faith by smitting scholars in the name of Jesus, and when it was the turn of the missionaries to be manhandles and murdered by other Chinese mobs, the Church did not earn sympathy in Peking, but even greater distrust, for it seemed that the Western powers always made these excesses against their men of God to pretext for seizing more concessions in China...
After the revolution in 1911, Christianity enjoyed a certain vogue, for it was confused in the muddles minds of eager Chinese republicans with liberty and democracy. But disillusion soon followed. The frightful toll of World War I persuaded Orientals onlookers that a gentle cult productive of so much mass murder held no salvation for them, and the atrocities of World War II confirmed the initial impression...
Today the Communists frown upon reasonless, animistic superstition, tolerate in the best traditions two
to three million Catholics in China, who "lead a proper spiritual life" without the blessing of Rome, and patronize a much bigger Buddhist movement led by men who understand they must "first bear their socialist responsibilities and fulfill their patriotic obligations" before indulging in the luxury of religion.)
Chúng ta đã thấy, qua những tài liệu về sự thất bại của công vụ truyền giáo của Gia Tô Giáo ở Á Đông. Á Đông đã dứt khoát tù chối một tôn giáo mà từ những tín lý, lễ nghi cho tới những cung cách cư xử của những giáo sĩ thừa sai Gia Tô, hoàn toàn không hợp với người Á Đông. Chẳng thế mà trong những nước lớn ở Á Châu như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan... số người theo Ki Tô Giáo nói chung, rất là ít ỏi, có thể nói là không đáng kể. Thống kê mới nhất cho biết số tín đồ Ki Tô ở Ấn Độ vào khoảng 1%, ở Thái Lan cũng vậy, chỉ khoảng 1%, ở Nhật Bản chưa tới 1%, và ở Trung Quốc chỉ vào khoảng 4 phần ngàn và không lệ thuộc Vatican. Buồn thay, ở Việt Nam, số tín đồ Gia Tô lên tới 8% và còn hoàn toàn nô lệ Vatican.
Nền văn minh kỹ thuật Âu Mỹ, đã một thời vượt xa Á Đông, nhưng từ trước cũng như cho tới ngày nay, về vấn đề đạo đức và tâm linh thì đối với người Á Đông, Âu Mỹ vẫn còn trong tình trạng chưa khai hóa. Trong Kinh Nhựt Khóa của người Gia Tô Việt Nam có câu: "Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e là lịnh rao truyền tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ". Người Ca Tô Việt Nam đã coi ông bà tổ tiên và cả dân tộc mình là dân mọi rợ, trong khi thực ra thì câu trên phải được viết là "Ông Thánh Phan-Xi-Cô Xa-Vi-e là lịnh rao truyền "tiếng nói mọi rợ" của Đức Chúa Thánh Thần cho những dân tộc văn minh mà về phương diện tôn giáo và tâm linh đã vượt xa và tiếp tục vượt xa những dân tộc Âu Mỹ mê tín và cuồng tín."
Để biện hộ cho những tội ác của Ca Tô Giáo Rô-ma đối với nhân loại và sách lược truyền đạo bạo tàn, man rợ của Giáo hội Gia Tô, người ta thường viện câu: tôn giáo nào cũng tốt cả, cũng đều dạy con người làm lành tránh ác, vậy bản chất của mọi tôn giáo đều tốt cả. Nhưng trên thực tế thì có phải như vậy không? Nếu cùng tốt cả, cùng dạy con người làm lành tránh ác cả thì tại sao lại có tôn giáo không hề làm đổ một giọt máu trong quá trình truyền đạo hơn 2500 năm như đạo Phật, và tại sao lại có cảnh xương chất thành núi, máu chảy thành sông trên vai lịch sử của Ca Tô giáo? Con người Tây phương vẫn tự hào là văn minh tiến bộ hơn các dân tộc khác, và sự truyền đạo là để "văn minh hóa" những dân tộc này, nhưng tại sao lại có sự khác biệt giữa phương cách truyền đạo trong tinh thần từ bi của đạo Phật và phương cách truyền đạo hết sức man rợ của Ca Tô Giáo mà kết quả là nhiều triệu người phải chịu đựng những cảnh tra tấn, tù đầy, giết chóc? Các tín đồ Gia Tô giải thích làm sao về sự khác biệt này? Nếu cho rằng đó là ý của Chúa, thì hơn 80% số người trên thế giới đã có lý khi họ từ chối một tôn giáo mà lịch sử đẫm máu của nó không thể nào có thể làm mờ nhạt đi được.
Có phải vì vậy mà ngày nay các dân tộc văn minh trên thế giới đều dần dần rời bỏ cái tôn giáo mà họ đã phải chịu đựng gần 2000 năm nay, đến nỗi các nhà tuyền giáo ngày nay đã coi Âu Châu như là vùng truyền giáo quan trọng nhất trên thế giới để khôi phục niềm tin của dân chúng trong vùng này. Tôi sẽ trở lại tình trạng Ca Tô Giáo ở Âu Châu với vài con số thống kê mới nhất trong một phần sau. Các học giả nghiên cứu về tôn giáo đã đồng thuận ở một điểm: sự khác biệt giữa lịch sử truyền giáo của Phật Giáo và Ca Tô Giáo nằm ngay trong chính giáo lý của mỗi tôn giáo. Giáo lý Phật Giáo thì khỏi cần bàn tới vì trong suốt hơn 2500 lịch sử của Phật Giáo chúng ta không thấy một cuộc chiến tranh tôn giáo nào cũng như chưa từng thấy khi nào Phật Giáo dùng đến bạo lực để tra tấn, hành hạ, thiêu sống những người không cùng quan điểm với Phật Giáo, hoặc dùng những thủ đoạn phi luân để dụ hay cưỡng bách người khác tín ngơỡng vào đạo Phật. Người ta chỉ thấy Vua A Dục buông gươm xuống và chinh phục chư hầu bằng lòng từ bi theo giáo lý Phật Giáo, sau khi được giáo lý Phật Giáo cảm hóa. Nhưng còn giáo lý KiTô giáo thì sao? Nó nằm ngay trong hai cuốn Cựu Ước và Tân Ước, gọi chung là Thánh Kinh. Sau đây tôi sẽ lược duyệt một số tài liệu phân tích nội dung Thánh Kinh để chứng tỏ rằng những sách lược tàn bạo của Giáo hội Ca Tô Rô-ma đối với nhân loại bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối vào cuốn Thánh Kinh, được tin như là ghi chép những lời mặc khải của Thượng đế, và được tin là không thể sai lầm. Do đó, Giáo hội đã theo sát những lời dạy của Chúa trong Thánh Kinh, đi khắp nơi trong thế giới để truyền bá "đức tin Ca Tô" bằng bạo lực, cưỡng ép, và giết chóc.

Những gì mà quần chúng được dạy để tin mà không cần đến lý lẽ Vậy thì ai có thể phủ bác niềm tin này bằng lý lẽ?

(What the populace learned to believe without reasons, Who could refute it then by means of reasons)?

(Friedrich Nietzche)
 


CHƯƠNG V
THÁNH KINH KI-TÔ GIÁO
Có thể nói cuốn Thánh kinh là cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới. Trong phương trời Âu Mỹ trước đây, hầu như mỗi nhà tín đồ KiTô giáo nói chung đều có ít nhất là một cuốn Thánh kinh, thường được dùng làm vật trang trí hay vật hứng bụi (dust collector) vì chẳng có mấy ai đọc nó. Nhưng đây cũng là một cuốn sách mà người ta đã đưa lên bàn mổ để nghiên cứu, phân tích, thẩm định giá trị khả tín v...v.. kỹ nhất và đầy đủ nhất. Người ta đã phân tích từng câu từng chữ trong Thánh Kinh, tìm hiểu xuất xứ, ai viết và viết bao giờ? Thí dụ, một nhóm khoảng 200 học giả chuyên về Thánh kinh (Bible experts) thuộc mọi tông phái trong KiTô giáo đã cùng nhau nghiên cứu Thánh kinh trong nhiều năm, từ 1985, và có những phiên họp định kỳ để bỏ phiếu về những câu mà người ta cho rằng Gìê-Su nói ở trong Thánh Kinh và những phép lạ Giê-Su làm, được kể trong Thánh kinh. Thể thức bầu phiếu của họ là đưa ra 4 loại nút màu khác nhau: Nếu nhà khảo cứu cho rằng lời nói hay phép lạ đó "đúng" là Giê-Su nói hay làm thì bỏ nút màu đỏ, "không đúng" thì nút màu đen, "có thể đúng" thì nút màu hồng, "có thể đúng, có thể không" thì nút màu xám. Kết quả? Giê-Su KHÔNG NÓI 80% những điều ghi trong Thánh kinh và Giê-Su CÓ THỂ chỉ có khả năng chữa lành một số bệnh tâm thần liên hệ đến sự cử động của thân thể (psychosomatic) hay mẩn da (skin rashes). Ngoài ra, Giê-Su KHÔNG HỀ thực hiện một phép lạ nào như đi trên nước, làm yên một cơn bão tố ngoài biển, hay cứu người chết sống lại, đuổi quỷ ám ra khỏi người, biến nước thành rượu v..v.., tất cả chỉ là vay mượn từ các huyền thoại Hi Lạp của thi sĩ Homer (The Seminar scholars believe the Gospel writers borrowed from the Greek poet Homer), hoặc phóng đại quá mức để nhấn mạnh đến quyền năng của Giê-Su (The Seminar fellows suggest that the Gospel writers exagerated the stories in order to emphasize Jesus' power). Tôi xin nhắc, đây là công việc nghiên cứu trí thức của chính các chuyên gia KiTô giáo chuyên môn về mọi ngành, dựa trên rất nhiều tài liệu và sự kiện lịch sử viết bằng cổ ngữ, văn bản gốc Thánh kinh viết bằng tiếng Hi Lạp, những sự kiện khoa học v..v.., chứ không phải của những người ngoại đạo.
Về cuốn Thánh Kinh, học giả Lloyd M. Graham (Ibid., trg. 5) viết như sau:
"Cuốn Thánh Kinh không phải là "lời của Thượng đế" mà là những cóp nhặt từ những nguồn tài liệu dân gian. Vườn Địa Đàng, Adam và Eve được lấy từ các chuyện của dân Babylone; trận "lụt cả" hay Hồng thủy chỉ là sự phóng đại của khoảng 400 câu chuyện về những trận lụt; chuyện cái tàu lớn của Noah chúng ta có thể thấy trong cả tá những huyền thoại về Hồng thủy; ngay cả tên các con của Noah cũng là những tên cóp nhặt, cũng như những chuyện như hi sinh Isaac, phán xét Solomon, Samson xô đổ cột; cái tên Moses cũng lấy từ tên Mises của dân Syrie, các luật của Thượng đế lấy từ luật của Hammurabi. Đấng cứu thế được dẫn xuất từ đấng cứu thế Madhi của Ai Cập, một vài câu được chép lại nguyên văn từ kinh điển Ai Cập. Giữa Giê-su và nhân vật Horus của Ai Cập, Gereald Massey kiếm thấy 137 điểm tương tự, và giữa đấng Ki Tô và Krishna có đến cả vài trăm điểm giống nhau. Làm sao mà Thánh Kinh có thể coi là những lời mặc khải của Thượng đế?"
(The Bible is not "the word of God" but stolen from pagan sources. Its Eden, Adam and Eve were taken from the Babylonian account; its Flood or Deluge is but an epitome of some four hundred flood accounts; it Ark and Ararat have their equivalents in a score of Deluge myths; even the names of Noah's sons are copies, so also Isaac's sacrifice, Solomon's judgment, and Samson's pillar act; its Moses is fashioned after the Syrian Mises; its laws after Hammurabi's code. Its Messiah is derived from the Egyptian Mahdi, Savior, certain verses are verbatim copies of Egyptian scriptures. Between Jesus and the Egyptian Horus, Gerald Massey found 137 similarities, and those between Christ and Krishna run into the hundreds. How can the Bible be a revelation?)
Nhưng có lẽ nhận xét tổng quát sau đây của một học giả Ca Tô sẽ cho chúng ta biết rõ hơn về cuốn Thánh Kinh:
Trong cuốn "Những vị Thần cuối cùng của Huyền Thoại: GiaVê và Giêsu" ("Mythology's Last Gods: Yahweh and Jesus", p. 16), Tiến sĩ William Harwood, một tín đồ GiaTô đã tỉnh ngộ và bỏ được một niềm tin sai lầm sau khi nghiên cứu lịch sử các tôn giáo trong đế quốc La Mã và khám phá ra rằng "bí tích" ăn thịt uống máu Chúa (Eucharist) mà ông đã tin và thọ hưởng cái bí tích rùng rợn này hàng tuần và trong nhiều năm, đã có từ 3000 năm trước khi Giêsu ra đời, và rằng các Thần hay Thượng Đế (Gods) chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của con người (Dr. Harwood..discovered that the "god-eating" ritual in which he participated weekly as a believing Christian had existed three thousand years before Jesus' birth. Not for three years, however, could he fully abandon the disproved beliefs to which he had been emotionally committed, and acknowledge that gods are as imaginary as fairies), đã viết:
"Người ta đã khám phá ra rằng, từng quyển một trong Thánh Kinh đều chứa những sai lầm về sự kiện, những phỏng đoán không chính xác, những kỹ thuật làm hợp lý hóa, những điều tiên tri về những sự việc đã xảy ra, ghép với những điều tiên tri về tương lai đã được chứng tỏ là không chính xác, và không còn sai lầm gì nữa là chứa những lời nói láo cố ý. Nếu sự khám phá này được phổ biến tới đại chúng thì cái huyền thoại Do Thái - KiTô đã bị quật nhào bởi một cơn gió lốc khó có hi vọng phục hồi.
Trước nguy cơ bị loại bỏ này, Giáo Hoàng đương thời (John Paul II) bổ nhiệm một số sử gia của chính ông ta để khảo sát những kết luận về Thánh Kinh của những sử gia thế tục và tìm ra trong những bằng chứng của họ những sơ hở mà Giáo Hoàng tin rằng thể nào cũng phải có. Kết quả là những sử gia của Giáo Hoàng cũng phải xác nhận là Thánh Kinh của họ thực ra chỉ là một ảo tưởng sai sự thực. Họ phúc trình kết quả lên Giáo Hoàng, và khi Ngài lập tức dẹp bỏ cái phúc trình này đi thì họ không còn là tín đồ CaTô nữa. Rồi Giáo Hoàng ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền của Ngài phát minh ra một phương pháp luận khác để đánh đổ phương pháp của những sử gia trên, một phương pháp luận được tạo ra với mục đích rõ rệt là phải đi đến kết luận là cuốn Thánh Kinh của Do Thái - KiTô không phải là một tác phẩm hoang đường, không cần để ý đến chuyện phải xuyên tạc những bằng chứng đến cỡ nào để đi tới mục đích trên. Cái phương pháp luận đó là "Thần học"...
Đó là quyền lực của chính trị Thần quyền của thế giới mà, mặc dù đã có hàng ngàn tác phẩm nghiên cứu và bài khảo cứu phủ bác toàn bộ Thánh Kinh Do Thái - KiTô, cho tới ngày nay, 90% dân chúng trong những xã hội mà tôn giáo chính là KiTô Giáo không hề biết đến sự hiện hữu của những bằng chứng bất khả phủ bác là quyển Thánh Kinh chỉ là một tác phẩm giả tưởng."
(One by one the various books of the bible were discovered to contain errors of fact; inaccurate guesses; rationalizations; prophecies ex-post-facto, usually combined with prophecies of the future that proved inaccurate; and unmistakable, deliberate lies. Had this discovery been allowed to reach general public, Judeo-Christian mythology would have suffered a blow from which it could not have hoped to recover.
Facing elimination, the current Pope appointed his own historians to examine the secular historians' conclusions and find the flaw in their evidence that he believed must be there. The outcome was that the Papal historians confirmed that their bible really was falsifiable fantasy. They presented the Pope with their reports and, when he promptly suppressed them, they all ceased to be Catholics. So the Pope ordered his propaganda machine to invent an alternative methodology to combat that of the historians, a methodology created for the specific purpose of reaching the conclusion that the Judeo-Christian bible is nonfiction, no matter how severely the evidence had to be distorted in order to achieve that objective. That methodology was 'theology'..
...Such was the power of the world's theocracies that, despite the publication of thousands of scholarly books and articles refuting every part of the Judeo-Christian bible, to this day the existence of unchallengeable proof that the bible is a work of fiction is unknown to ninety percent of the population of Christian-dominated societies.)

Có bao nhiêu tín đồ Ca Tô Giáo Rô-ma biết được điều này, và có bao nhiêu tín đồ Ca Tô tin được điều này? Có bao nhiêu tín đồ Ca Tô đã đọc những tác phẩm của những chuyên gia phê bình Thánh Kinh từng câu, từng chữ một và vạch ra những điều sai trái trong Thánh Kinh, trái ngược hẳn với những lời giảng lệch lạc, méo mó, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) của hàng giáo phẩm Gia Tô, những người dựa trên một niềm tin không suy luận, tự cho mình cái độc quyền có khả năng hiểu và giảng Thánh Kinh, coi thường và hạ thấp trí tuệ của các tín đồ?
Chúng ta đã thấy Giáo hoàng và Giáo hội đã dùng những thủ đoạn lừa dối như thế nào để duy trì quyền lực trên đám tín đồ kém hiểu biết. Tại sao Giáo hội phải làm như vậy? Vì quyền lực thế tục cũng như tài sản của Giáo hội Ca Tô Rô-ma tùy thuộc ở số đông tín đồ nên Giáo hội rất sợ tín đồ biết đến cái bản chất thực sự của Giáo hội cũng như những sai lầm trong Thánh Kinh, những sai lầm mà chính giáo hoàng hay giáo hội cũng không thể phủ nhận. Chúng ta cũng nên nhớ rằng đã một thời Giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh, vi phạm luật này có thể bị xử tịch thu tài sản, bị vạ tuyệt thông, hay bị tử hình. Về sự việc này, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ (Ibid., trg. 43), đã viết như sau:
"Tôi mới đầu không hiểu tại sao Giáo hội cấm không cho giáo dân có Kinh Thánh hay đọc Kinh Thánh, nhất là bằng Quốc Ngữ. Dần dà tôi mới thấy sự cấm đoán đó hết sức là hữu lý, vì nếu cứ để cho giáo dân đọc Kinh Thánh, dần dà họ sẽ bới ra được những cái dở của Kinh Thánh, những chỗ dịch sai, dịch bậy của Kinh Thánh, những chỗ thêm, bớt vào Kinh Thánh.... Ngày nay người ta đã bới móc ra rằng Kinh Thánh có nhiều đoạn mâu thuẫn nhau; năm quyển Cựu Ước đầu tiên không phải do Maisen viết mà do nhiều người viết về sau này; Jeremiah, Daniel cũng do nhiều người viết ở nhiều thế kỷ khác nhau; Thánh thư cho giáo đoàn Hebrews, Thánh thư Thessalonians II, Thánh thư Peter II không phải do Paul và Peter viết ra. Thực là điên cái đầu..."
Nhưng trong Thánh Kinh không phải chỉ có những sai lầm và mâu thuẫn, mà ngay cả căn bản tín lý cứu rỗi của Chúa Giê su cũng đã bị bác bỏ trước những khám phá mới nhất của khoa học. Trước những khám phá mới về nguồn gốc con người và vũ trụ, tuổi của vũ trụ, của trái đất, của loài người v..v.., thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh đã hoàn toàn bị bác bỏ. Không làm gì có chuyện một ông Thượng đế toàn năng sáng tạo ra vũ trụ và mọi vật trong đó trong 6 ngày rồi mệt phải nghỉ ngày thứ bảy, cách đây khoảng hơn 6000 năm. Không làm gì có chuyện Adam và Eve là tổ tiên loài người và sa ngã, cho nên không làm gì có chuyện "Tội tổ tông". Không có tội tổ tông thì không ai cần ai cứu rỗi, do đó, vai trò cứu rỗi của Chúa Giê su là chuyện hoang đường và trở thành khôi hài. Và cũng hoang đường không kém là chuyện Chúa "thăng thiên", vì thân xác con người, sau khi chết, không thể tự nhiên bay lên trời, chống lại sức hút của trái đất, trái với định luật vạn vật hấp dẫn, như một số người có đầu óc khuyết tật vẫn còn tin vào một huyền thoại "bay lên trời" kể ra cách đây gần 2000 năm về một người Do Thái, Giê su, mà tiểu sử thuộc loại bất minh, đầy mâu thuẫn. Làm sao chúng ta có thể hiệp thông vĩnh viễn cùng Chúa ở trên Thiên Đường khi chúng ta không hề biết Thiên đường ở đâu, và niềm tin "Chúa đang ở trên Thiên đường" chẳng qua chỉ là điều "Giáo hội dạy rằng", nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn nếu không muốn nói là một cái bánh vẽ trên trời. Đã có ai từ Thiên đường trở về trần gian và khẳng định là Chúa đang ở trên Thiên Đường? Thiên đường, nếu có, là ở trong tâm con người chứ không phải là ở một nơi nào đó, thí dụ như trên vòm trời mô tả trong Thánh kinh, mà ta mong lên đó sau khi chết. Cái vòm trời Thiên đường tưởng tượng này, có những cánh cửa mở ra để các thiên thần đổ nước xuống thành mưa, của những người viết Thánh Kinh với trí tuệ của những người bán khai, ngày nay đã bị kính thiên văn của Galileo Galilei và những khám phá mới của khoa học làm rớt ra từng mảng. Với những kính thiên văn tân kỳ nhất, các khoa học gia đã quan sát khắp vũ trụ, từ những thiên hà cách xa trái đất hằng triệu năm ánh sáng cho tới những khối tinh vân cách chúng ta cả tỷ năm ánh sáng, nhưng không thấy Thiên đường ở đâu. Giả thử Thiên đường ở xa hơn nữa, tận cùng vũ trụ, nghĩa là cách xa chúng ta khoảng 15 tỷ năm ánh sáng, thì Chúa, mới chết cách đây có 2000 năm, dù có "thăng thiên cả hồn lẫn xác" với vận tốc của ánh sáng, vận tốc giới hạn của mọi vật chất, cũng còn nhiều tỷ năm nữa mới lên tới Thiên đường. Vậy chuyện các tín đồ tin rằng sẽ được hiệp thông với Chúa ngay sau khi chết phải chăng chỉ là chuyện không tưởng?
Có lẽ vì vậy mà, sau nhiều năm nghiên cứu, từ năm 1985, Hội nghị các chuyên gia Ki Tô Giáo nghiên cứu về nhân vật Giê Su (The Jesus Seminar), gồm khoảng 200 học giả thuộc mọi tông phái trong Ki Tô giáo, đã viết trong tác phẩm "Ngũ Kinh" (The Five Gospels, trg. 2) như sau:
"Chúa Ki Tô (Giê Su) của tín điều và tín lý, trong thời Trung Cổ đã là một niềm tin vững chắc, không còn thuyết phục được những người (khoa học gia) đã nhìn thấy những vòm trời (như trong Thánh Kinh mô tả. TCN) qua Kính Thiên Văn của Galileo. Những Thần Thánh và Quỷ dữ cổ xưa đã bị quét ra khỏi những vòm trời đó bằng cái kính đáng kể này. Copernicus, Kepler, và Galileo đã triệt phá những trụ xứ huyền hoặc (Thiên đường) của các Thần (hay Thượng Đế) và Satan và để lại cho chúng ta những thiên đường thế tục."
(The Christ of deed and dogma, who had been firmly in place in the Middle Ages, can no longer command the assent of those who have seen the heavens through Galileo's telescope. The old deities and demons were swept from the skies by that remarkable glass. Copernicus, Kepler, and Galileo have dismantled the mythological abodes of the gods and Satan, and bequeathed us secular heavens.)
Đối với những người ngoại đạo và đối với các khoa học gia thì thiên đường chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của con người để tự an ủi trước những khó khăn của đời sống hiện tại, cho nên họ không quan tâm đến một cái bánh vẽ trên trời. Đây cũng không phải là mối quan tâm của hơn 4 tỷ người trên thế giới không tin, không theo đạo Chúa. Nhưng đối với những tín đồ của đạo Chúa tin rằng Thánh Kinh là những lời mặc khải không thể sai lầm của Thượng đế, do đó tin rằng có Thiên đường có Hỏa ngục, tuy không biết ở đâu, thì họ cần biết rõ Chúa đang ở đâu để mà hiệp thông với Chúa. Điều này họ có thể biết được nếu họ chịu khó đọc Thánh kinh với một chút logic trong đầu.
Trong cuốn "Holy Bible: The New King James Version" hoặc cuốn "The Holy Bible: The New International Version", Chúa phán:
Matthew 5: 22: "Nhưng kẻ nào chê người khác là " đồ điên" thì sẽ bị đày hỏa ngục" (But whoever says "you fool" shall be in danger of hell fire.)
Nhưng rồi sau đó, Chúa chê những người khác:
Matthew 23: 17: "Đồ điên và mù! Cái nào lớn hơn, vàng hay đền thờ Thánh hóa vàng?" (Fools and blind! For which is greater, the gold or the temple that sanctifies the gold?)
Matthew 23: 19: "Đồ điên và mù! Cái nào lớn hơn, đồ cúng hay bàn thờ Thánh hóa đồ cúng?" (Fools and blind! For which is greater, the gift or the altar that sanctifies the gift?"
Vậy bây giờ Chúa đang ở đâu? Tôi nghĩ chẳng cần phải thông minh cho lắm cũmg có thể trả lời được câu hỏi này.
Đọc Thánh Kinh tôi nhận thấy tin theo Chúa kể cũng khá mất nhân vị: khi thì bị mắng là chó, khi thì bị mắng là đồ điên và mù, khi thì bị mắng là Satan (Phê rô), khi thì bị rủa là đồ rắn độc, bị đày đọa hỏa ngục v..v.. Hình ảnh của một Chúa nhân từ, được rao giảng là thương yêu người v..v.. , quả thật không phù hợp với những ngôn từ Chúa nói trong Thánh Kinh.
Có bao nhiêu tín đồ Ca Tô biết được rằng, trong giới trí thức và khoa học, Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Big Bang và thuyết Tiến Hóa, và như vậy là Giáo hoàng mặc nhiên phủ nhận thuyết Sáng Tạo trong Thánh Kinh, phủ nhận huyền thoại Adam và Eve, căn bản của thuyết về tội tổ tông, và cuối cùng phơi bày sự vô nghĩa của vai trò Cứu Thế của Giê-su Ki-Tô. Nhưng, như Tiến sĩ William Harwood đã trình bày ở trên, giáo hoàng vẫn dùng những phương tiện không chính đáng về cách diễn giải Thánh Kinh để giữ đám đông tín đồ kém hiểu biết, dù rằng những diễn giải này không được chấp nhận trong giới khoa học và trí thức, và chính Giáo hoàng cũng không tin và tự biết rằng những diễn giải này không có giá trị thuyết phục trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ. Nhưng chúng ta phải công nhận là "nghệ thuật" diễn giải Thánh Kinh này của giáo hội đã rất có hiệu quả trong vấn đề duy trì một niềm tin không suy luận, không cần biết, không cần hiểu, nơi đa số tín đồ ít học, kém hiểu biết, nhất là ở trong các nước kém mở mang.
Tôi nghĩ không có bao nhiêu tín đồ Ca Tô biết những sự kiện trên, vì nếu biết thì cả một nền tảng tín ngưỡng bị sụp đổ. Con người, nhất là những người dân bình thường, kém hiểu biết và tinh thần yếu đuối, cần một cái gì dựa vào để được yên tâm, tự an ủi. Đối với đám tín đồ ngày ngày phải đương đầu với những sự đói khổ, khó khăn vật chất như ở Nam Mỹ, Châu Mỹ La Tinh, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân và ở một sô quốc gia kém mở mang ở Á Châu thì một sự hứa hẹn về một Thiên Đường sau khi chết quả thật là một niềm an ủi lớn lao. Niềm an ủi này là khát vọng chung của đám đông tín đồ trong những tôn giáo độc Thần Tây phương. Vì đời sống hiện tại của họ không có mấy hi vọng sáng sủa nên họ hi vọng một đời sau tốt đẹp hơn. Họ không hề biết đến một sự kiện: tất cả chỉ là những hứa hẹn không thể kiểm chứng được, và từ xưa tới nay không có một ai, kể cả Chúa Giê Su và mấy trăm Giáo Hoàng trong quá khứ, đã từ Thiên đường trở về để cho lớp người đang sống biết thế nào là Thiên Đường. Giáo hội biết rõ tâm lý này nên đã triệt để khai thác sự yếu kém của đám tín đồ đông đảo, dùng mọi cách để nuôi dưỡng những tín lý của giáo hội trong đám tín đồ thiếu hiểu biết để duy trì một hệ thống quyền lực, một hệ thống sống trên một niềm tin không suy luận mà giáo hội đã gieo vào đầu óc của những con người chất phác, yếu đuối, ngay từ khi còn nhỏ, trí tuệ chưa mở mang. Chẳng thế mà nhà trí thức Gia Tô Đỗ Mạnh Tri, trong cuốn "Ngón Tay và Mặt Trăng", cũng đã cho rằng: "Tin là một cách sống, chết; không liên quan gì đến cái biết, cái hiểu."
Cộng với cái tâm cảnh nói trên, để giữ tín đồ, giáo hội thường che dấu những sự thực về lịch sử giáo hội cũng như những sai lầm của giáo hội và về giáo lý Ca Tô, cùng lúc dùng những biện pháp như đe dọa "tuyệt thông" (excommunication), nghĩa là không cho phép tín đồ được hưởng những "bí tích" thuộc loại mê tín dị đoan, mê tín dị đoan vì chúng không phù hợp với những sự kiện khoa học và cũng không thể giải thích được cho nên giáo hội đã gán cho chúng một nhãn hiệu "bí tích" để làm bặt mọi lý luận, mọi thắc mắc nơi tín đồ, hoặc như đe dọa đày đọa vĩnh viễn xuống một "Hỏa Ngục" tưởng tượng, đối với đám tín đồ ít học, kém hiểu biết, tinh thần yếu ớt và đã bị mê hoặc từ thuở mới lọt lòng mẹ ra đời với niềm tin là Giáo Hoàng hay Tòa Thánh Vatican thực sự giữ cái chìa khóa cửa Thiên Đường, và do đó giữ cái quyền cho hay không cho tín đồ hiệp thông với Chúa..
Ngày nay, các học giả nghiên cứu về luận lý (logic) để duy trì quyền lực của Giáo hội Ca Tô Rô-ma đã cho rằng đó là một kiểu kuận lý vòng vo, luẩn quẩn (convoluted logic), nhưng cái vòng này lại có tác dụng giam giữ đám tín đồ kém hiểu biết, vì một cái bánh vẽ trên trời (Từ của Linh mục Bringas: A Pie-in-the-Sky), nên không hề thắc mắc. Cái luận lý vòng vo của Giáo hội Gia Tô nó như sau:
- Quyền lực của Giáo hội là dựa trên Tân Ước mà Thượng đế đã linh ứng (inspire) cho các tông đồ viết.
- Làm sao chúng ta biết được là Thượng đế đã linh ứng cho các tông đồ?
- Vì "Giáo hội dạy rằng" như vậy.
- Tại sao chúng ta phải tin những lời "Giáo hội dạy rằng"?
- Vì Giáo hội là tiếng nói của Thượng đế.
- Căn cứ trên cái gì mà bắt chúng tôi phải tin như vậy?
- Căn cứ trên những bằng chứng trong cuốn Tân Ước viết bởi những tông đồ đã được linh ứng.
- Làm sao chúng ta biết được là Thượng đế đã linh ứng cho các tông đồ?
- Vì "Giáo hội dạy rằng" như vậy.
Và cái vòng luận lý này cứ tiếp tục như vậy, không bao giờ chấm dứt, bất kể là ngày nay, chúng ta đã biết, cuốn Tân Ước được viết sau khi Chúa bị đóng đinh cả mấy chục năm, trong đó có những tác giả chưa bao giờ gặp Chúa, biết Chúa, như Thánh Phao Lồ, và chứa không ít mâu thuẫn, những lời "tiên tri" về những sự việc đã xảy ra, hoặc những lời tiên tri về những sự việc không hề xảy ra, những phép lạ không hề có v..v....
Sau đây chúng ta sẽ lược duyệt một số nhận xét tổng quát về cuốn Thánh Kinh và tác dụng của nó trên con người.
David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New Mexico State University), trong cuốn "Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The Bad News Bible: The New Testament", trg. 1 - 2) đã viết như sau:
"Vấn đề là người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh kinh có những gì, hoặc ít nhất là Thánh kinh chứa loại tài liệu gì. Hầu hết đều lầm, họ chỉ quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ ngàng khi thấy không những Thượng đế trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của hắn (nghĩa là Giê-Su; TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới mức hoàn hảo khá xa. Thông điệp của Giê-su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn. Xét về toàn bộ thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu."
(The problem is that people think they know what's in the Bible, or at least what kind of material it contains. Most of them are wrong: they are only familiar with a few church-approved extracts, and are astonished not just how awful God is in the Old Testament, but also at how much less than perfect his son seems in the New. The message of Jesus isn't all good news; paradise is an uncertain prospect at best. Taken as a whole, it could well be The Bad News Bible.)
Linh mục Ernie Bringas viết về ảnh hưởng của sự tin mù quáng vào Thánh kinh như sau (Ibid., trg. 17):
"Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Kinh Thánh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng bố, ngược đãi người Do Thái vàì những người phi Ki-Tô, giết hại và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt, tạo tâm lý tôn sùng, và nhiều lầm lạc khác. Những mô thức hành xử có tính cách hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin vào quyền năng tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh."
(Over the past centuries, bibliolatry has led Christians in bigotry, the persecution of Jews and other non-Christians, murder and terrorism, the oppression of women, the suppression of sexuality, censorship, cult mentality, and other aberrations. The destructive behavior patterns can be easily traced to the unchallenged authority accorded biblical writing.)
Lloyd Graham luận về trách nhiệm tội lỗi của con người như sau (Ibid., trg. 425):
"Chúa Ki Tô cầu nguyện (Chúa Cha): "Cha hãy tha thứ cho họ vì họ không biết là họ đang làm gì". Người cha duy nhất của Chúa Ki Tô hay của con người là một nguyên lý thiên nhiên, và nguyên lý này không ý thức được những gì nó tạo ra. Làm sao mà nó có thể tha thứ những tội lỗi của con người? Đã làm cho con người man rợ và ngu đần, làm sao nó có thể kết tội con người? Nếu cái tên Ki Tô không biết gì về siêu hình học này (Giê-su) mà có chút kiến thức nào về luật nhân quả, thì lời cầu nguyện của hắn phải đọc ngược lại - Con người, hãy tha thứ cho Thượng đế, vì hắn không biết là hắn đã làm gì. Tất cả cuộc sống đều chứng tỏ cái sự kiện thê thảm này, cho nên vấn đề không phải là Thượng đế có tha thứ tội lỗi của con người hay không, mà là con người có thể tha thứ cho Thượng đế hay không? Bảo rằng con người gây ra những sự đau khổ cho chính mình vì cái "nguyên tội" (hay tội tổ tông) là một sự xuyên tạc sự thật. Cái "tội" đó là tội của Thượng đế - sự tạo ra vật chất, nguồn gốc của những sự xấu ác. Nhưng Thượng đế lại không gánh chịu sự đau khổ bởi những tội lỗi do chính mình gây ra, hắn bắt con người phải gánh sự đau khổ."
(Christ prayed: "Father forgive them for they know not what they do." The only father of Christ or man is a natural principle, and this is not conscious of what it creates. How then can it forgive man for his sins? Having made man savage and ignorant, how can it hold him guilty? Had this metaphysically ignorant Christ possessed any knowledge of Causation, his prayer would read in reverse - Man, forgive God, for he knows not what he does. All life attests this tragic fact, so the question is not, Will God forgive man for his sins? but can man forgive God for his cruelty? That man caused his own suffering through an "original sin" is a perversion of the truth. That "sin" was God's - the creation of matter, the source of evil. But God does not suffer for his sins, he lets man do it.")
Ingersoll (Ibid., trg. 119) viết về những tác hại của Thánh Kinh và của niềm tin vào Chúa trên nhân loại:
" Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong phúc âm của hắn chúng ta thấy cái tín lý về sự đau khổ vĩnh viễn, và những lời của hắn đã gia thêm sự kinh khủng vô tận vào sự chết. Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra."
(In Christ name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have been enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have been branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and the best. In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years. In his gospel was found the dogma of eternal pain, and his words added an infinite horror to death. His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual honesty a crime, made happiness here the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.
It would be far better had the New Testament never been written - far better had the theological Christ never lived.)

Điều chắc là những tín đồ Ca Tô hầu như rất ít người đọc cuốn Thánh Kinh, khoan nói đến chuyện đọc những tác phẩm nghiên cứu kể trên. Cũng vì vậy họ chỉ biết tới một vài đoạn chọn lọc được giảng với ý nghĩa nằm ngoài toàn bộ Thánh Kinh (Out of context) bởi những chức sắc Ca Tô, những người đã được huấn luyện rất kỹ về "nghệ thuật" trích dẫn và giảng Thánh Kinh. Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đã đưa ra một thách đố: ông sẽ tặng một giải thưởng là $100 (năm 1890) cho vị linh mục hay mục sư nào dám lên bục giảng, giảng những đoạn mà chính Ingersoll trích dẫn từ Thánh kinh. Trong nhiều năm, không có một người nào nhận lời thách đố này cả. Một người có óc suy luận tối thiểu có thể mường tượng ngay ra là nội dung những đoạn đó trong Thánh Kinh nó như thế nào.
Cũng vì vậy mà Ira Cardiff, một khoa học gia, đã đưa ra nhận xét sau đây:
"Hầu như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến ở trên (một tín đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh, có thể là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó - đừng nói là đọc cả cuốn.
Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi."
(Virtually no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it - much less reads all of it.
If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it.)
Trên đây chỉ là những nhận định rất tổng quát của một số học giả, linh mục về cuốn Thánh kinh. Qua những nhận định trên chúng ta không thể biết gì về nội dung của cuốn Thánh kinh. Muốn biết rõ về nội dung cuốn Thánh kinh chúng ta cần trích dẫn nhiều đoạn trong đó. Nhưng tôi xin phép quý độc giả cho tôi được miễn phần này vì những đoạn trích dẫn sẽ không phù hợp với tiêu chuẩn luân lý đạo đức của Việt Nam. Thay vì trích ra để dẫn chứng, tôi chỉ xin nêu sau đây 3 tài liệu, qua 3 tài liệu này quý độc giả có thể ít ra là mường tượng được nội dung cuốn Thánh kinh và ảnh hưởng của nó trên nhân loại ra sao.
1. Trong cuốn "Quyển sách của Ruth" ("The Book of Ruth", trg. 6-8 & 59-60), Ruth Hurmence Green, một phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình GiaTô và trong nền giáo dục GiaTô, đã viết như sau:
"Không có cuốn sách nào mà trong đó mạng sống con người, thật ra là mọi mạng sống, lại rẻ rúng như vậy. Cái vị Chúa ác ôn của Cựu Ước ra lệnh cho dân Do Thái giết, cưỡng hiếp, và tra tấn không thương sót toàn thể dân chúng nhiều quốc gia, "trẻ thơ và sơ sinh, thiếu niên và trinh nữ, và người già cả." Nếu họ không tuân lệnh thì chính họ sẽ chịu sự thịnh nộ thù hằn của Chúa. Những con cưng của Chúa đã vâng lời Chúa tàn sát nhiều ngàn người, xé xác những phụ nữ đang mang thai, quật con nít vào đá, để các đầu lâu vào trong những sọt và chặt chân tay những nạn nhân của họ. Cái kẻ tội phạm vô tiền khoáng hậu này (Chúa) đã nhận chết đuối toàn thể nhân loại trừ gia đình của một tên say rượu (Noah). Hắn đã khiến cho trái tim của Pharaoh thành chai đá nên đã giết tất cả các trẻ sơ sinh ở Ai Cập. Vì sự tái sinh của hắn trên trái đất (nghĩa là sự sinh ra của Giê-su) mà trong một vùng rộng lớn mọi bé trai dưới hai tuổi đều bị giết (bởi Herod). Có thể bảo tôi được chăng là mạng sống con người là thiêng liêng đối với Chúa?
Cuốn Tân Ước cũng không ủng hộ gia đình như là một ưu tiên của dân KiTô giáo. Giê-Su không những khinh khi chính gia đình hắn, mà trong một trường hợp, còn từ chối nói chuyện với gia đình của mình (Mathew 12: 46-49) nhưng lại đòi hỏi những người theo hắn phải từ bỏ gia đình họ, nói rõ rằng kẻ nào muốn làm đệ tử hắn thì phải bỏ tất cả những gì mình có (Luke 14:33).
Cuốn Thánh Kinh đã được dùng trong nhiều thế kỷ để sát hại nhiều triệu mạng người, và Ki-Tô giáo đã phá nát gia đình, như Giê Su đã hứa hẹn: "Ta sinh ra để làm cho con nghịch với cha, con gái nghịch với mẹ, con dâu nghịch với mẹ chồng, và những người trong nhà thành kẻ thù của nhau." (Matthew 10: 35-36). Trong Ngày Phán Xét các gia đình sẽ bị tan nát. Vậy ai là kẻ còn có thể cho rằng cuốn Thánh Kinh ủng hộ gia đình hay đời sống của con người?
Không có một trang sách nào trong Thánh Kinh mà không làm tôi bất bình về một phương diện nào đó. Thật ra, sau mỗi lần tìm hiểu Thánh Kinh tôi lại muốn đi tắm rửa sạch sẽ với xà bông "lye" của bà nội. Và khi tôi thấy Thánh Kinh coi thường phụ nữ thường là tôi muốn quẳng nó ra cuối phòng. Tôi nguyện không bao giờ còn cầm cuốn Thánh Kinh một cách lộ liễu trên tay ở nơi công cộng. Thomas Paine, đấng cứu rỗi thực sự của thế giới, đã tố cáo cuốn Thánh Kinh thay tôi: "Tôi thành thật ghê tởm nó như là tôi ghê tởm mọi sự độc ác."
Nhưng không phải trong đó chỉ có những sự ác độc và những sự tàn bạo không thể tưởng tượng được. Nếu là chuyện tục tĩu, bạn sẽ thấy nó trong cuốn sách này. Nếu là chuyện dâm ô, bạn sẽ thấy nó trong Thánh Kinh, và bạn không cần phải mất công tìm kiếm. Tôi không khuyên bạn mở ra bất cứ trang nào và đọc cái đoạn nó đập vào mắt bạn đầu tiên. Bạn có thể vi phạm luật kiểm duyệt. Nếu luật kiểm duyệt được thi hành một cách chặt chẽ, cuốn Thánh Kinh sẽ phải bán dấu diếm dưới quầy hàng"
(There is no other book in which human life, all life in fact, is so cheap. The fiendish Lord of the Old Testament orders the Jews to kill, rape, and torture without pity entire nations, "infant and suckling, young man and virgin, and the man with gray hair." If they do not obey, they feel the wrath of the Lord's vengeance themselves. His favorites dutifully massacre thousands, rip up pregnant women, and dash little ones against the stones, putting heads in baskets and mutilating their victims. This criminal of all time drowns the entire population of the world except for the family of a drunkard. He hardens Pharaoh's heart to make it possible to put all the first born of Egypt to the sword. He comes to earth incarnate in such a manner that all male children under two in a vast area must be killed, again with the edge of the sword. Tell me, if you can, that human life is sacred to the Lord.
...The New Testament yields little support for the family as even a Christian priority. Jesus not only shows contempt for his own family, even refusing to speak to them on one occasion (Matthew 12: 46-49) but demands that his followers abandon theirs, specifying that those who wish to be his disciples must "forsake all that he hath." (Luke 14:33)
...The Bible has been used for centuries to persecute millions of human beings, and Christianity has decimated families as Jesus promised it would: "For I have come to set a man at variance against his father, and the daughter against her mother, and the daughter-in-law against her mother-in-law. And a man's foes shall be they on his own household." (Matthew 10:35-36) On Judgment Day families will be torn apart. Does anyone still presume to picture the Bible as pro-family and pro-life?
...There wansn't one page of this book that didn't offend me in some way. In fact, after a session of searching the scriptures, I always wanted to take a bath with Grandma's lye soap. And when I encountered the Bible's disdain for women, I very often almost pitched the good book across the room. I vowed never to be seen in public with an unconcealed Bible in my hands. Thomas Paine, the true savior of the world, denounced the Bible for me: "I sincerely detest it as I detest everything that is cruel."
But it wasn't only the cruelty and the unimaginable atrocities. If there is obscenity, you'll find it in this book. If there is pornography, you'll find it in the scriptures, and you won't even have to search. I don't advise opening aimlessly and reading aloud the first passage that meets the eye. You might violate a censorship law. Strict censorship would mean that the Bible would have to be sold from under the counter.)
2. Trong cuốn "Kinh Tình Thương Đối Với Tội Ác" ("The Gospel of Love Vs Crime", trg. 6-7), Jack Bays viết như sau:
"Tín điều về sự đầy đọa vĩnh viễn là tín điều của những kẻ ác ôn. Hãy nghĩ tới hàng ngàn trẻ con và những người vô tư mà đời sống của họ chất đầy ảm đạm.
Những giáo lý này đã trải phủ trái đất với những đống xương vàng của những người dị giáo và học giả. Chúng ta thấy sự đàn áp ngoại đạo của Constantine, Clovis, Justinian, Theodosius và Charlemagne; chúng ta thấy những cuộc thánh chiến trong đó có tới 20 triệu người bị giết; chúng ta thấy sự tàn sát bừa bãi đàn ông, đàn bà, trẻ con ở Jerusalem bởi Godfrey - thấy những nhà thờ Hồi giáo chồng chất từng đống thây người Saracine - những người Do Thái bị thiêu sống trong các giáo đường Do Thái; chúng ta thấy Coeur de Lion tàn sát hàng ngàn những người bị bắt; sự cướp bóc và tàn sát ở Constantinople bởi dân Frank; chúng ta thấy dân Moor bị đuổi ra khỏi Tây Ba Nha trong những cuộc tàn sát đẫm máu, cảnh giết hại dân Huguenots và Waldenes, sự tàn sát những nông dân Đức, sự tan hoang của Ái Nhĩ Lan - Hòa Lan phủ đầy máu; chúng ta chứng kiến Smithfield và Bartholomew (các cuộc tàn sát nhiều ngàn người vì tôn giáo; TCN), chúng ta thấy Tòa Hình Án xử Dị Giáo với những hình cụ tra tấn ác ôn không thể đếm xuể; chúng ta thấy Auto-da-fé (cuộc lễ sau phiên tòa xử dị giáo, trao nạn nhân cho chính quyền hành hạ và thiêu sống; TCN), - nơi mà những người bị kết án là dị giáo bị chế riễu rồi dẫn đi tra tấn hay thiêu sống; chúng ta thấy con người bị căng ra trên cái giá, bẻ trẹo khớp xương, và chân tay bị xé ra; chúng ta thấy họ bị lột da sống - thân xác đẫm máu của họ bị đóng dấu bằng sắt nung đỏ; chúng ta thấy con người bị phủ đầy hắc ín rồi thiêu sống; chúng ta thấy họ bị ném từ trên các chòi cao xuống đường phố, đầu dọng xuống đất; chúng ta thấy họ bị chôn sống; chúng ta thấy họ bị treo cổ và cắt ra từng mảnh; chúng ta thấy họ bị những móc sắt hơ nóng móc lòi con ngươi ra... lưỡi họ bị kéo ra---xương họ gẫy nát---mình họ bị cả ngàn mũi kim đâm vào; chúng ta thấy những bà già bị trói chặt vào chân những con chiến mã hung hăng, và hàng triệu người bị tra tấn bởi những hình cụ ác ôn mà các bọn cuồng tín tôn giáo có thể nghĩ ra, Bọn người này nhận được quyền lực trực tiếp từ Thượng đế vì mọi điều này được dạy ngay trong Thánh Kinh. (Tác giả mô tả những sự kiện trong lịch sử CaTô giáo cùng những cảnh tra tấn trong các tòa hình án; TCN).
Thật vậy, đó là những gì mà giáo hội GiaTô đã mang tới cho thế giới, thay vì hòa bình và tình huynh đệ của phúc âm về tình thương. Những điều trên đã làm cho GiaTô giáo thành một tôn giáo đẫm máu nhất như chưa có tôn giáo nào làm đen tối mặt trái đất như vậy. Trong thế kỷ vừa qua, hơn 90% các cuộc chiến tranh là chiến tranh của người KiTô giết người KiTô hay giết người ngoại đạo. Tất cả những chiến cụ khủng khiếp; bom nguyên tử, hơi độc, phi cơ chiến đấu , v...v... đều là phát minh của người KiTô giáo. Trong bất cứ cuộc chiến nào cũng có những người giảng đạo, linh mục, mục sư ở mỗi phe cầu nguyện và thúc đẩy sự giết chóc như là Jehovah (Chúa Cha) già nua tàn bạo đã làm cho dân Do Thái khi họ tàn sát dân chúng trong vùng đất hứa, chiếm đoạt nhà cửa, gia súc và cả con gái của họ."
......" Đức quốc xã giết những người Do Thái chỉ vì những việc mà tổ tiên của họ làm trước đó 50 hay 100 năm. Điều này có đúng hay không? Không, nhưng thế còn mười lần đúng hơn là luận phạt con người vì một tổ tiên, Adam, làm 6000 năm về trước.
Đức quốc xã lùa dân Do Thái vào các phòng sát sinh và giết họ trong vòng vài phút.
Thần trong Thánh Kinh hứa vứt con người vào trong một cái hồ lửa, không cho họ chết mà giữ họ hấp hối trong đó vĩnh viễn. Thật là tệ hơn Đức quốc xã tới cả 10000 lần.
...Giá thử những người KiTô lúc đầu được phép quảng bá kinh về tình thương thì cái bản chất độc đoán, hiếu chiến của dân Tây phương đã đỡ đi và những cảnh đổ máu và cực khổ mà chúng tôi kể trên đã có thể tránh được.
Chúng ta có thể thấy điều này qua sự quan sát ảnh hưởng của kinh về tình thương trên những dân tộc Đông phương. Lịch sử lúc đầu của Ấn Độ cũng đẫm máu như lịch sử của mọi nước khác, bộ Bách Khoa Tự Điển ghi như vậy, nhưng sau khi kinh về tình thương (của đức Phật; TCN) truyền tới họ thì bản chất của họ thay đổi, và họ trở thành những người yêu hòa bình và có lòng từ bi đối với mọi sinh vật.
Vua A Dục là một lãnh chúa chưa từng thất trận, nhưng khi kinh về tình thương yêu được giảng cho ông ta thì ông ta đã buông gươm xuống và sau đó chinh phục mọi thứ bằng tình thương và tình huynh đệ. Ông ta đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để truyền bá cái thông điệp đó."
(The dogma of everlasting torment is the dogma of fiends. Think of the thousands of children and simple-minded adults whose lives have been filled with gloom! These teachings have strewn the earth with the yellow bones of heretics and scholars. We see the persecutions of Constantine, Clovis, Justinian, Theodosius, and Charlemagne; we see the crusades in which twenty million were killed; we see the indiscriminate massacre of men, women and children in Jerusalem by Godfrey--see the mosques piled seven deep in murdered Saracines--Jews burn in their synagogues; we see Coeur de Lion slaughtering thousands of captives; the Franks pillaging and slaughtering in Constantinople; we see the Moors expelled from Spain in bloody slaughter, the murder of the Huguenots and Waldenes, the slaughter of the German peasants, the desolation of Ireland--Holland covered with blood; we witness Smithfield and Bartholomew; we see the Inquisition with its countless instruments of fiendish torture; we see the Auto-de-fe,-where heretics clad in mockery, are led to torture and to death; we see men stretched upon the rack, disjointed, and torn limb from limb; we see them flayed alive--their bleeding bodies seared red-hot irons; we see live men covered with pitch and set on fire; we see them hurled headlong from towers to the street; we see them burried alive; we see them hanged and quartered; we see their eyes bored out with heated augers -- their tongues torn out--their bones broken--their bodies' pierced with a thousand needles; we see aged women tied to the heels of fiery steeds and on and on were millions tortured by every fiendish device that cankered minds of religious fanatics could devise. They had authority direct from God for all of it right there in their Bibles.
Yes, this is what the church brought upon the worid ; instead of the peace and brotherhood of the gospel 'of love. It has made Christianity the bloodiest religion that ever darkened the face of the earth. In the last century 90% of all the wars have been Christian wars with Christians slaughtering Christians or someone else. All of the hellish war rnachines; atomic bombs, poison 'gas, war planes, etc., have been Christian inventions, made and used by Christian nations. In every war there have been preachers priests and rabbis on each side praying
and urging on the slaughter just as old brutal Jehovah did for the Israelites while they were massacreing the people of the promised land, to take their homes, their stock and their daughters.)
....The Nazis killed the Jews just because of things their ancestors did in Germany 50 or 100 years before. Was that right? No, but it was ten times more right than to punish people for what an ancestor, Adam, did 6,000 years ago.
The Nazi brutes herded the Jews into chambers and snuffed their lives out within a few minutes.
The Bible God is pledged to put people into a lake of fire and not let them die but keep them there in agony forever. That is 10,000 times worse than the Nazis ever were.
Had the early Christians been allowed to go on promoting the gospel of love the tyrannical, aggressive nature of the people of the West would have been allayed and most of the bloodshed and misery we have mentioned would have been avoided. We can see this by observing the effects of the gospel of love on the peoples of the East. The early history of India was as bloody as any country, says the Britanica but after the gospel of love was brought to them their whole nature was changed, and they became peaceloving and kind to all creatures.
King Asoka was a victorious war lord whose armies had never known defeat but when the gospel of love was presented to him he laid down his sword and did all of his conquering after that by love and friendship. He spent the rest of his life in spreading that message.)
Có vẻ như những người truyền giáo Ki-tô giáo không hề biết đến những nghiên cứu mới nhất về cuốn Thánh Kinh của Ki-tô Giáo. Cho nên trong thời đại này mà họ vẫn viện dẫn Thánh Kinh, coi nó như là những lời mạc khải của một ông Thiên Chúa mà họ tin, nên không thể sai lầm. Để thấy rõ vấn đề, chúng ta hãy điểm qua vài đoạn bài giảng của Mục sư Nguyễn Hữu Ninh với vài nhận xét nho nhỏ để chúng ta cùng thấy trình độ hiểu biết về Thánh Kinh của một ông Mục Sư Tin Lành Việt Nam ngày nay, từ đó có thể suy ra trình độ hiểu biết về Thánh Kinh của những tín đồ Tin Lành và do đó có thể nhận rõ sự nguy hại của những đầu óc Tin Lành. Sau đây là vài đoạn điển hình trong bài giảng của Mục sư Nguyễn Hữu Ninh. Chúng ta để ý những đoạn này không khác với những lời giảng đạo tập sự của một số tân tòng Tin Lành như Nguyễn Huệ Nhật, Huỳnh Thiên Hồng, Lê Anh Huy v..v..,
Thánh Kinh là bộ sách Thánh của hai thời đại Cựu và Tân Ước. Ki Tô Giáo (Christianity) trong thế kỷ I thừa hưởng được bộ Kinh điển Cựu Ước đáng tin cậy của người Do Thái, và có bộ sách Thánh Tân Ước từ thời các sứ đồ và từ uy quyền của chính Chúa cứu thế bảo đảm...
Sách (trong Thánh Kinh) được chọn lọc và luân lưu giữa các hội thánh, được tra xét cẩn thận. Trước giả là những người đã được Chúa lựa chọn để ghi chép, tác giả chánh là Chúa Thánh Linh, Ngài hà hơi vào các lời ấy. Với hai nguyên tố quan trọng: Nhân tố và Thiên tố.
Nhân tố: Các sứ đồ, môn đệ của Chúa đã ghi chép theo sự hiểu biết của họ, họ không ở trong trạng thái ngất xỉu, tâm trí họ sáng suốt, nên văn thể vẫn giữ được sắc thái cá nhân của trước giả. Sách đọc lên rất rõ ràng, mạch lạc, đề tài tập trung vào sự cứu rỗi của Chúa Giê-su Ki Tô, không vẽ vời chuyện thần thoại hoang đường.
Thiên tố: Thần quyền (Chúa Thánh Linh) hà hơi vào trước giả, Ngài cảm thúc, kiểm soát lời viết. II Tim. 3:16: “Toàn thể Thánh Kinh đều do Thiên Chúa soi dẫn...”
Thiên Chúa hà hơi vào mỗi từ ngữ, vì thế người đọc Lời Chúa được Ngài tác động trong tâm linh chinh phục họ trở lại đầu phục Ngài. Sự hà hơi của Ngài bảo đảm giá trị Thần quyền của sách ấy vào kinh điển của Thánh Kinh...Lời ghi chép đã được chính Chúa Thánh Linh hà hơi.
Bộ kinh điển Cựu Ước gồm các phần chính sau đây:
Ngũ Kinh Môi-se – Torah: 1. Sáng Thế Ký; 2. Xuất Ai-cập Ký; 3. Lê-vi Ký; 4. Dân Số Ký; 5. Phục Truyền Luật Lệ Ký...
Kinh điển Tân Ước gồm có 27 sách đã được hội thánh đầu tiên tiếp nhận là thánh thư được Chúa Thánh Linh hà hơi, có giá trị thẩm quyền khuôn vàng thước ngọc cho niềm tin và phẩm hạnh của tín hữu (Christian)....
Chính Chúa Cứu thế đã chính thức công nhận Cựu Kinh và hứa rằng công vụ của Thánh Linh của chân lý sẽ hoàn tất mọi dữ kiện trong Tân Kinh. Lời phán của Chúa cứu thế là có giá trị tối hậu và là chìa khóa của kinh điển Cựu và Tân ước...

Đọc đoạn trên, chúng ta thấy rõ sự mê tín nặng nề trong những đầu óc Tin Lành và trình độ hiểu biết rất kém cỏi về chính cuốn Thánh Kinh mà họ tôn sùng.
Thật vậy, thứ nhất, Chúa Thánh Linh là Holy Spirit, hay là Thánh Ma (Holy Ghost), mà một Spirit lại có thể “hà hơi” như người thường, vì Mục sư Nguyễn Hữu Ninh đã gọi Chúa Thánh Linh là Ngài. Đúng là một chuyện tiếu lâm độc nhất vô nhị trên thế gian, chỉ có thể có trong Ki Tô Giáo, hoặc trong bộ phim “Ghost stories” của Tàu. Chuyện tiếu lâm này cũng tương tự như chuyện Chúa Thánh Linh có thể làm cho bà Mary mang thai mà không cần đến tinh trùng của...đàn ông. Từ khi khai thiên (khoảng 15 tỷ năm trước) lập địa (khoảng hơn 4 tỷ năm trước) cho đến khi Ngài “hà hơi” (khoảng 3000 năm trước, khi Ngũ Kinh được viết) vào các trước giả Thánh Kinh, thì chắc chắn là trong thời gian nhiều tỷ năm này chưa có những ống kem Colgate hay Crest v..v... Vậy cái hơi của Ngài tích tụ trong nhiều tỷ năm mà không có những sản phẩm này tất nhiên phải rất đặc biệt. Vì thế cho nên, do cái loại hơi đặc biệt này, các trước giả mới viết lên được những lời rất khó ngửi. Khó ngửi vì những lời đó phần lớn là những tư tưởng ác độc, bạo tàn, dâm loạn, hoang đường, phản khoa học, phi lý trí v..v.. mà chúng ta thấy có đầy trong Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước. Do đó, khi đọc Thánh Kinh, nếu chúng ta có một bộ óc tưởng tượng phong phú, thì chúng ta có thể ngữi thấy mùi. Mùi gì? Ngoài mùi “hà hơi” còn có mùi máu tanh trong suốt cuốn Cựu Ước, át hẳn mùi “hà hơi” khó ngửi của Chúa Thánh Linh.
Thứ nhì, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh viết rõ là “Ki Tô Giáo (Christianity) trong thế kỷ I thừa hưởng được bộ Kinh điển Cựu Ước đáng tin cậy của người Do Thái” Lẽ dĩ nhiên, vì những người Ki Tô Giáo đầu tiên là người Do Thái. Ai cũng biết Cựu Ước là lịch sử Do Thái, viết theo niềm tin của người Do Thái về một vị Thần của họ, giải thích những hiện tượng thiên nhiên mà trí tuệ của họ thời đó chưa hiểu nổi. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là, người Việt Nam chúng ta thì có liên hệ gì tới lịch sử Do Thái và Thần của họ, do đó cái “kinh điển Cựu Ước đáng tin cậy của người Do Thái” rất có thể không đáng giá một xu đối với người Việt Nam chúng ta, khoan nói đến chuyện tin cậy. Lịch sử Việt Nam đã chứng tỏ rõ ràng như vậy. Cái liên hệ duy nhất có thể có giữa người Việt Nam và người Do Thái là do cùng một sinh thể ban khai tiến hóa trong khoảng thời gian hàng tỷ năm mà thành, theo thuyết Tiến Hóa mà ngày nay cả thế giới, trừ một số có đầu óc khuyết tật trong Ki Tô Giáo, nhất là Tin Lành, đều chấp nhận là một sự kiện không ai có thể phủ bác [Xin đọc bài Charles Darwin Và Thuyết Tiến Hóa trên trang nhà Giao Điểm]. Nền văn hóa hòa bình định cư của dân tộc Việt không có gì giống nền văn hóa du mục bạo tàn của dân tộc Do Thái, và hơn 90% người Việt Nam theo chủ nghĩa nhân bản và nhân chủ, vậy tại sao người Việt Nam phải tin vào những chuyện hoang đường trong Thánh Kinh của người Do Thái và tôn thờ một vị Thần của người Do Thái, chỉ có giá trị tâm linh đối với người Do Thái?
Thứ ba, theo mục sư Nguyễn Hữu Ninh thì: Chúa Thánh Linh hà hơi vào trước giả, Ngài cảm thúc, kiểm soát lời viết. Vậy mỗi khi trước giả viết xong một câu lại phải trình lên Chúa Thánh Linh để Ngài kiểm soát? Kiểm soát như thế nào? Cầm bút nguyên tử gạch bỏ những lời không ưng ý hay “hà hơi lại” vào các trước giả để cho họ viết lại? Nhưng rồi Mục sư Nguyễn Hữu Ninh lại viết: Thiên Chúa hà hơi vào mỗi từ ngữ, vì thế người đọc Lời Chúa được Ngài tác động trong tâm linh chinh phục họ trở lại đầu phục Ngài. Như vậy là những từ ngữ đã được viết ra, sau khi đã được Chúa Thánh Linh kiểm soát. Vậy Ngài hà hơi vào những từ ngữ đó để làm gì nữa? Để cho con người mỗi khi đọc đến những từ ngữ đó lại ngửi được mùi “hà hơi” của Ngài? Mặt khác, nếu như tôi, vừa đọc vừa bịt mũi thì Ngài tính sao đây? Còn nữa, sao tôi đọc những Lời Chúa, đọc đi đọc lại nhiều lần, mà lại chẳng thấy Chúa Thánh Linh tác động gì hết trong tâm linh tôi để tôi trở lại đầu phục Ngài? Trái lại tôi chỉ thấy ghê tởm Ngài như Thomas Paine đã ghê tởm Ngài qua những chuyện độc ác, vô luân trong đó. Một bài học sơ đẳng cho Mục sư Nguyễn Hữu Ninh: không nên viết kiểu “suy bụng ta ra bụng người” rồi “vơ đũa cả nắm”.
Thứ tư, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh viết: “Chính Chúa Cứu thế đã chính thức công nhận Cựu Kinh”. Như vậy thì Chúa cứu thế, tức Giê-su, đã chính thức công nhận tất cả những chuyện hoang đường, phi lý, phản khoa học, sai lầm, ác độc, tàn bạo, loạn luân v..v.. trong Cựu Ước. Mục sư Ninh có dám phủ nhận là Cựu Ước không có những chuyện như trên không? Nếu Chúa cứu thế công nhận những chuyện như vậy, và tiếp nối công vụ để hoàn tất chúng trong Tân Ước, thì phải chăng những chuyện như trên chính là “khuôn vàng thước ngọc cho niềm tin và phẩm hạnh của Ki Tô hữu”? Chẳng trách lịch sử Ki Tô Giáo là một lịch sử ô nhục, đẫm máu nhất thế gian, với những giáo hoàng vô đạo đức, cuồng sát, loạn luân, với những cuộc thánh chiến, tòa hình án xử dị giáo, săn lùng giết hại “phù thủy”, đồng hành với chủ nghĩa thực dân v..v..., và ngày nay, chuyện một số không nhỏ linh mục, mục sư phạm tội loạn dâm phải chăng cũng là để hoàn tất những “khuôn vàng thước ngọc cho niềm tin và phẩm hạnh của Ki Tô hữu”? Ai có thể phủ nhận những điều này, xin lên tiếng.
Thứ năm, Lời phán của Chúa cứu thế là có giá trị tối hậu và là chìa khóa của kinh điển Cựu và Tân ước... Như vậy thì những lời phán ác độc của Chúa, những lời nguyền rủa của Chúa, những lời hỗn hào với mẹ của Chúa, nhưng lời “tiên tri” hoang đường của Chúa, những lời nói láo của Chúa như chúng ta sẽ thấy trong đoạn bàn về Ngũ Kinh sau đây v..v.., tất cả đều có giá trị tối hậu? Giá trị đối với ai? Mục sư Ninh chỉ có thể lừa dối được đám tín đồ ngu dốt, chưa hề đọc Thánh Kinh, qua những câu cường điệu bậy bạ như trên, chứ đối với giới hiểu biết thì vô tác dụng.
Và cuối cùng, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, cũng như Chúa Giê-su của ông ta (John 5:46; Luke 24:27; Luke 16:31), đều tin rằng Ngũ Kinh là do Môi-se viết. Cả hai đều sai lầm trầm trọng, vì chẳng có cái gì có thể gọi là “Ngũ Kinh – Môi-se”. Điều này chứng tỏ Chúa Giê-su cũng chỉ là một người thường như Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, sự hiểu biết rất giới hạn. Chứng minh?
Trước hết, tất cả các học giả nghiên cứu Thánh Kinh, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đều đồng thuận ở một điểm: Ngũ Kinh (5 sách đầu trong Cựu Ước) không phải là do Môi-se viết mà là do nhiều người khác nhau, thuộc nhiều môn phái khác nhau, viết trong khoảng thời gian 400 năm, từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 6 trước thời đại thông thường ngày nay (B.C.E = Before Common Era), hay Trước Tây Lịch (TTL) trong khi Môi-se sống trong khoảng thế kỷ 13 TTL. Các môn phái khác nhau đó là :
- Môn phái Yahwistic (viết tắt là J) vì gọi Chúa là Jehovah.
- Môn phái Elohistic (viết tắt là E) vì gọi Chúa là Elohim.
- Môn phái Deuteronomic (viết tắt là D) viết sách Deuteronomy.
- Môn phái Priestly (viết tắt là P) viết sau khi dân Do Thái đi lưu đày (sau 500 TTL).

Thứ nhì, Mục sư Rubem Alves đã đặt vấn đề trong cuốn Protestantism and Repression, trang 63:

Ai viết Ngũ Kinh? Câu trả lời của giáo hội Ki Tô lịch sử cho câu hỏi trên là khẳng định: "Moses viết". Nếu Moses không hề viết Ngũ Kinh (theo những kết quả nghiên cứu của các học giả. TCN) thì các tông đồ (Paul và John) đã sai lầm khi họ nói rằng Moses viết. Nếu họ sai lầm trong vấn đề này thì làm sao chúng ta có thể tin họ khi họ nói về những vấn đề như thiên đường và đời sau? Nếu Moses không viết Ngũ Kinh thì Giê-su đã nói láo hay sai lầm khi ông ta nói rằng Moses viết. (John 5:46 - Luke 24:27 - Luke 16:31). Nếu Giê-su thực sự không biết ai viết, tuy rằng ông ta nói rằng ông ta biết, làm sao chúng ta có thể tin ông ta được khi ông ta nói những chuyện trên trời?
(Who wrote the Pentateuch? The response of the historical Christian Church to that question is definite: “Moses wrote them”. If Moses did not write the Pentateuch, then the apostles (e.g., Paul and John) made a mistake when they said that he did. If they erred on this matter, how can we believe them when they deal with truths concerning heaven and the future life? If Moses did not write the Pentateuch, then Jesus lied or erred when he said Moses did. If Jesus did not know this, though he said he did know, how can we believe him when he talks about the thing of heaven?
Tôi có thể tin chắc là Mục sư Nguyễn Hữu Ninh không hề biết đến những tác phẩm nghiên cứu về Thánh Kinh Ki Tô Giáo, và chỉ viết theo những gì ông đã được dạy chứ chính mình chưa đọc kỹ Thánh Kinh, cho nên ông ta đã dập khuôn nói láo của Giê-su và viết là “Ngũ Kinh – Môi-se”. Nếu đọc kỹ, ông ta phải biết rằng trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 34: 5-7, Môi-se viết về cái chết của chính mình như sau: “Vậy Môi-se, tôi tớ Chúa qua đời trong đất Mô-Áp, như Chúa đã phán. Ngài (tức là Chúa) chôn ông ta (ngôi ba đấy nhé) tại một thung lũng đối ngang...Môi-se qua đời lúc ông ta (ngôi ba đấy) được 120 tuổi ...”
Vậy có phải là Môi-se viết ngũ kinh như Mục sư Nguyễn Hữu Ninh rao giảng cho tín đồ hay không? Nếu đúng là Môi-se viết thì ông không thể dùng ngôi ba “ông ta” để chỉ chính ông. Mặt khác, Môi-se sống trong thế kỷ 13 TTL và chỉ sống có 120 tuổi, trong khi Cựu Ước chỉ được viết từ thế kỷ 9 TTL, vậy bằng cách nào mà Môi-se viết Ngũ Kinh? Tôi đề nghị Mục sư Nguyễn Hữu Ninh hãy đọc ít nhất là cuốn Ai Viết Thánh Kinh? (Who wrote the Bible?, 1987) của Richard Elliott Friedman, và cuốn The Bible Unearthed: Archaelogy’s New Vision of Ancient Israel and The Origin of its Sacred Texts của Israel Filkelstein & Neil Asher Silberman, mới xuất bản năm 2002. Nhưng đề nghị này có vẻ như nước đổ đầu vịt, vì tôi hiểu những người Tin Lành hơn ai hết. Đối với họ thì tam đoạn luận sau đây là khuôn vàng thước ngọc cho mọi “lý luận”:
Tất cả những gì trong Thánh Kinh đều đúng (Everything in the Bible is true)
Thánh kinh viết Moses là tác giả của Ngũ Kinh (The Bible says that Moses is the author of the Pentateuch)
Vậy thì Moses phải là tác giả của Ngũ Kinh (Therefore Moses is the author of the Pentateuch)
Do đó, bài dịch này không có mục đích khai sáng Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, những tín đồ Tin Lành (sic) tân tòng Việt Nam như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Huệ Nhật, Khuất Minh, Phan Như Ngọc v..v.. và tất cả những “tôi tớ, tỳ nữ của Chúa” trên Mucsu.net, và cũng không có mục đích giúp họ hiểu biết thêm về cuốn Thánh Kinh Ki Tô Giáo. Nó chỉ có tính cách thông tin xác thực cùng đại chúng mà thôi.
Những tín đồ thuộc loại “tôi tớ Chúa” này thường cho rằng những gì viết trong cái gọi là Thánh Kinh Ki Tô Giáo, gồm Cựu Ước và Tân Ước, đều là những chân lý. Họ cũng còn coi cuốn Thánh Kinh là khuôn vàng thước ngọc cho luân lý đạo đức. Điều hiển nhiên là họ chưa bao giờ đọc kỹ Thánh Kinh, khoan nói đến chuyện đọc với đầu óc suy luận. Cũng vì vậy họ thường hay trích dẫn những câu vặt vãnh lạc lõng trong Thánh Kinh, coi chúng như là những chân lý, để làm luận điểm đối thoại. “Lý luận” thuộc loại “tôi tớ” của họ trong mọi cuộc đối thoại là: “Thánh Kinh viết rằng..”, làm như tất cả những điều trong Thánh Kinh phải được chấp nhận trước khi đối thoại, không hề biết Thánh Kinh chỉ là một sản phẩm man rợ của thời bán khai. Lẽ dĩ nhiên, họ chưa bao biết ai là những người viết Thánh Kinh, chưa bao giờ đọc những tác phẩm nghiên cứu về Thánh Kinh, phân tích Thánh Kinh từng câu từng chữ, và tuyệt đối không bao giờ để ý đến tính cách nhất quán, một tính cách không thể không có (sine qua non) trong một cuốn sách có thể gọi là có phần nào giá trị. Tính cách nhất quán này không hề có trong Thánh Kinh. Do đó, dù có được Thánh Linh hà hơi hay không, cuốn Thánh Kinh cũng chỉ là một sản phẩm hạ đẳng của thời bán khai vì chứa rất nhiều điều độc ác, vô đạo đức, phi luân lý, phản khoa học, phi lôgic, hoang đường v..v.. Chứng minh?
Chỉ cần mở cuốn Thánh Kinh ra và đọc với một đầu óc chưa bị nhiễm độc. Nếu ngại công tìm kiếm những điều trên, có đầy trong thánh Kinh, tôi xin giới thiệu một số tác phẩm trong đó các tác giả đã trích dẫn sẵn những câu, những đoạn trong Thánh Kinh mà lẽ dĩ nhiên các tín đồ Ki Tô Giáo không bao giờ được nghe giảng trong nhà thờ:
“The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture” của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.
“All The Obscenities in the Bible” của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh.
“The Bible Handbook” của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith et...: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô ngĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh.
“The Born Again Skeptic’s Guide to the Bible” của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.
“One Hundred Contradictions in the Bible” của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
“The Bible Unmasked” của Joseph Lewis: Lột mặt nạ Thánh Kinh, đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.
“Christianity Cross-Examined” của William Floyd: Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.
“Christianity and Incest” của Annie Imbens & Ineke Jonker: Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.
Những tín đồ Tin Lành Việt Nam như Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, tân tòng như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Huệ Nhật, Khuất Minh, Phan Như Ngọc v..v.. và tất cả những “tôi tớ, tỳ nữ của Chúa” trên Mucsu.net không bao giờ biết rằng ngay từ đầu thế kỷ 20, giới lãnh đạo Tin Lành Mỹ đã hoang mang lo sợ vì phải đối diện với hai thực tế. Thứ nhất, “Các học giả Âu Châu đã phân tích Thánh Kinh kỹ hơn bao giờ hết, và kết luận của họ là: Thánh Kinh không phải là cuốn sách do Thần Cha mạc khải mà viết ra, như các Ki Tô hữu đã tin, do đó không thể sai lầm. Thật ra, đó là, một hợp tuyển lộn xộn những huyền thoại cổ xưa, truyền thuyết, lịch sử, luật lệ, triết lý, bài giảng đạo, thi ca, chuyện giả tưởng, và một số ngụy tạo rất hiển nhiên.” (European scholars were scrutinizing the Bible more closely than ever before. They had concluded that it (the Bible) was not, as Christians had long believed, a book dictated by God and therefore infallibly true. It was, instead, a disorderly anthology of ancient myths, legends, history, law, philosophy, sermons, poems, fiction, and some outright forgeries.). Thứ nhì, chính là những tư tưởng trong thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin. [Xin đọc bài Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa trên trang nhà Giao Điểm]
Cho nên ngày nay, những ai còn nói chuyện mạc khải, hà hơi, hay thẩm quyền của Thánh Kinh, thật ra chỉ là những người còn sống trong bóng tối, lạc hậu ít ra là vài thế kỷ. Bởi vì, thực tế là, Thánh Linh có hà hơi hay không, trong Thánh Kinh (sic) loạn luân vẫn là loạn luân, độc ác vẫn là độc ác, giết người vẫn là giết người, phi lý phản khoa học vẫn là phi lý và phản khoa học v..v...

Để thay cho đoạn kết của chương này, tôi xin dịch bài "Những Lời Châu Ngọc về Thánh Kinh" (Gems Concerning the Holy Bible) của Robert G. Ingersoll trong cuốn "Ingersoll: Con Người Kỳ Diệu" (Ingersoll, the Magnificient), biên tập bởi Joseph Lewis, trg. 59-85. Qua bài này, chúng ta sẽ thấy thực chất cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo là như thế nào, và hi vọng Mục sư Nguyễn Hữu Ninh sẽ nhận thức được “chân giá trị” của một cuốn sách mà ông tin là Thiên Chúa của ông đã “hà hơi vào từng câu, từng chữ”. Xin quý độc giả ghi nhận, tất cả những gì Ingersoll viết đều dựa trên nội dung Thánh Kinh và lịch sử Ki Tô Giáo. Cũng như những bài tôi đã dịch về các chủ đề liên hệ đến Ki Tô Giáo, để tránh bài dịch quá dài, tôi đã lược bớt một số đoạn thuộc triết lý cá nhân của Ingersoll mà tôi cho là đã đi xa đầu đề của bài viết, tuy trong những đoạn này có những tư tưởng rất hay của Ingersoll về nhân chủ và nhân bản. Xin mời quý độc giả thưởng thức một bài viết ở cuối thế kỷ 19 của một danh nhân Hoa Kỳ: Đại Tá Robert G. Ingersoll, một chính trị gia, một diễn giả, một nhà hùng biện, và nhất là, một nhà tư tưởng tự do (Freethinker) lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Ông có tên trong lịch sử Hoa Kỳ, trong Tự Điển, trong Bách Khoa Tự Điển, trong Tự Điển điện tử (CD-ROM, Grolier Electronic Publishing, 1997) và những tác phẩm của ông có trong mọi thư viện ở Hoa Kỳ.
"Một người nào đó phải nói lên sự thực về cuốn Thánh Kinh. Những nhà giảng đạo [trong nước Mỹ. TCN] không dám vì họ sẽ bị đuổi khỏi các bục giảng. Những giáo sư đại học không dám, vì họ sẽ mất đi đồng lương. Các chính trị gia không dám. Họ sẽ bị đánh bại. Các chủ biên không dám. Họ sẽ mất độc giả. Các thương gia không dám, vì họ có thể mất khách hàng. Ngay cả những công chức thường cũng không dám, vì họ có thể bị đuổi. Vậy thì tôi nghĩ chính tôi sẽ phải làm việc này. [Xin nhắc lại, Ingersoll viết bài này vào cuối thế kỷ 19]
Có nhiều triệu người tin rằng Thánh Kinh là lời mặc khải của Thiên Chúa - nhiều triệu người nghĩ rằng cuốn sách này là cây gậy dẫn đường, là nguồn cố vấn và an ủi; rằng nó chứa đầy hòa bình trong hiện tại, hi vọng trong tương lai - nhiều triệu người tin rằng đó là suối nguồn của luật pháp, công lý và tình thương, và nhờ có những giáo lý thông thái và lành tốt mà thế giới có được tự do, thịnh vượng, và văn minh - nhiều triệu người tưởng tượng rằng cuốn sách này là sự mặc khải từ trí tuệ và lòng thương yêu của Thiên Chúa đến với tâm thức con người - nhiều triệu người coi cuốn sách này như là ngọn đuốc chinh phục được sự tối tăm của chết chóc, và tỏa ánh sáng trên một thế giới khác - một thế giới không có nước mắt.
Họ quên đi cái sự ngu tối và man rợ, sự thù ghét tự do, sự tàn sát tôn giáo ở trong Thánh Kinh; họ nhớ tới Thiên đường, nhưng quên đi những ngục tù tăm tối và sự đau khổ vĩnh viễn ở dưới hỏa ngục.
Họ quên rằng cuốn sách này giam hãm đầu óc con người và làm cho lòng người đồi bại. Họ quên rằng cuốn sách này là kẻ thù của tự do trí thức.
Các linh mục, mục sư phân vân là làm sao tôi lại có thể tồi tệ đến độ công kích cuốn Thánh kinh.
Tôi sẽ nói cho họ biết:
Cuốn sách này, cuốn Thánh Kinh, đã truy tố cho đến chết những người thông thái nhất và tốt nhất. Cuốn sách này đã chặn đứng sự tiến bộ của loài người. Cuốn sách này đã đầu độc những nguồn kiến thức và lạc dẫn năng lực của con người.
Cuốn sách này là kẻ thù của tự do, là cột chống của chế độ nô lệ. Cuốn sách này đã gieo những hạt giống thù hận trong gia đình và quốc gia, nhúm ngọn lửa chiến tranh, và làm cho thế giới nghèo khổ. Cuốn sách này là công sự của hôn quân bạo chúa - là chủ nhân của các nô lệ phụ nữ và trẻ em. Cuốn sách này đã làm đồi bại nghị viện và triều chính. Cuốn sách này đã biến các trường đại học [Ki Tô Giáo] thành thầy dạy của sự sai trái và kẻ thù ghét khoa học. Cuốn sách này chất đầy những nước theo KiTô giáo với những tông phái thù hận, độc ác, ngu tối, chém giết lẫn nhau. Cuốn sách này dạy con người giết đồng loại vì tôn giáo. Cuốn sách này đã lập nên Tòa Hình Án xử dị giáo, phát minh ra những hình cụ tra tấn, thiết lập những ngục tù tối tăm trong đó người lương thiện và nhân từ mai một dần; rèn những chuỗi xích trở thành rỉ xét trong da thịt họ, dựng lên những đoạn đầu đài để chặt đầu họ. Cuốn sách này đã xếp những đống củi dưới chân của người lành. Cuốn sách này đã trục lý trí ra khỏi đầu óc của nhiều triệu người và đưa những kẻ khùng vào đầy nhà thương điên.
Cuốn sách này đã gây nên cảnh cha mẹ làm đổ máu những trẻ sơ sinh. Cuốn sách này đã là trường bán đấu giá trên đó người mẹ nô lệ đứng nhìn đứa con nhỏ phải bị chia lìa khi bà được bán đi. Cuốn sách này chứa đầy thuyền kẻ buôn nô lệ và làm da thịt con người thành món hàng hóa. Cuốn sách này đã nhúm lửa thiêu sống những "mụ phù thủy" và những "thầy pháp”. Cuốn sách này chứa đầy tối tăm với những quỷ và ma [Satan và Holy Ghost], và thân thể con người với những ác quỷ [demons]. Cuốn sách này đã làm ô nhiễm đầu óc con người với giáo điều ô nhục về hình phạt đầy đọa vĩnh viễn [của Giê-su]. Cuốn sách này coi sự cả tin như là đức tính cao nhất, và sự tìm tòi hiểu biết như là tội ác lớn nhất. Cuốn sách này đã đặt kẻ ngu dốt và những vị Thánh nhơ bẩn lên trên triết gia và người nhân đức. Cuốn sách này dạy con người coi thường những niềm vui của đời sống này, để có thể sung sướng ở đời sau - bỏ phí thế giới này vì thế giới sau.
Tôi công kích cuốn sách này vì nó là kẻ thù của sự tự do của con người - là sự cản trở lớn nhất của sự tiến bộ của con người.
Tôi xin hỏi các linh mục, mục sư một câu: làm sao mà các ông có thể tồi tệ đến mức bào chữa cho cuốn sách này.
Cuốn Thánh Kinh đã là thành trì chống đỡ của hầu hết các tội ác.
Ngang qua cuốn Thánh kinh mở là thanh gươm (để giết người) và bó củi (để thiêu sống người).
Chúng ta hãy thoát ra khỏi sự tàn bạo của một cuốn sách, ra khỏi sự nô lệ của sự ngu tối cùng cực, của cái không khí quý tộc thống trị [của các giáo sĩ].
Một trong những việc đầu tiên mà tôi (Ingersoll) muốn làm là giải phóng giới giáo sĩ. Tôi là bạn tốt của họ, và mặc dù tất cả những gì họ có thể nói về tôi, tôi sẽ giúp họ một đại sự lâu dài. Trên cổ họ là những vết hằn của cái cổ áo linh mục, và sau lưng họ là những vết roi. Họ không được phép đọc và tự mình suy nghĩ. Họ được dạy như những con vẹt, và những người giỏi nhất là những người có thể nhắc lại đúng những câu mà họ được dạy. Họ ngồi như những con cú vọ [Người Việt Nam dùng danh từ “quạ đen” (corbeau noir)] trên một cành cây khô của cái cây hiểu biết và phát ra những tiếng cú kêu giống y như những tiếng cú kêu đã kêu trong 1800 năm nay. (They sit like owls upon some dead limb of the tree of knowledge, and hoot the same old hoots that have been hooted for eighteen hundred years).
Có một ông bác sĩ giải phẫu đến thăm một người tàn tật đáng thương và đề nghị giúp anh ta trong khả năng của ông ta. Ông bác sĩ bắt đầu phân tích về bản chất và nguồn gốc chứng tật của người kia, về những loại thuốc có thể giúp anh ta, về sự lợi ích của tập luyện, của không khí trong lành và ánh sáng, và nhiều điều khác có thể giúp chữa lành được chứng tật của người kia. Tất cả những hành động này đều do thiện ý của một bác sĩ có những kiến thức chính xác. Nhưng người kia hoảng sợ và kêu lên, “Tôi xin ông, đừng lấy đi cặp nạng của tôi. Đó là cái tôi phải tựa vào, nếu không thì tôi sẽ khốn khổ.” Ông bác sĩ giải phẫu nói: “Tôi không có lấy đi cặp nạng của anh, tôi sẽ chữa lành cho anh, và rồi tự anh sẽ vứt bỏ cái cặp nạng ấy đi.” [Đây chính là chủ trương của Ingersoll đối với giới giáo sĩ Ki Tô Giáo vào cuối thế kỷ 19, và ngày nay, TCN cũng chỉ đi theo con đường này để giúp các đồng bào xấu số vứt đi những cặp nạng không cần thiết của họ].
Lấy cái gì để thay thế cho một sự trừng phạt vĩnh viễn? Chỉ cần chứng tỏ là sự trừng phạt đó không hề có. Một người có bệnh tật muốn gì? Sức khỏe.
Bất kể sự kiện là những người ngoại đạo trong mọi thời đại đã chiến đấu cho nhân quyền, và đã là những người ủng hộ tự do và công lý, nhưng chúng tôi thường xuyên bị giáo hội Ki Tô cáo buộc là chỉ biết phá đổ mà không biết xây dựng.
Tôi không chống con người. Tôi chống những giáo lý mà tôi cho là sai lầm. Không cần thiết phải chống con người – chúng ta hãy chống sự sai lầm.. Chúng ta hãy làm hết sức để cung cấp sự hiểu biết, giáo dục, vì sự lợi ích của đồng bào chúng ta.
Những người tin vào Thánh Kinh ồn ào tố cáo những cái mà họ gọi là văn phẩm phi luân của thế giới. Nhưng thật ra thì ít có cuốn sách nào đã được xuất bản mà chứa những sự dơ dáy về luân lý đạo đức nhiều hơn là những lời mạc khải của Thiên Chúa. Những chuyện trong Thánh Kinh không loé lên một điểm thông minh dí dỏm nào. Chúng không bao giờ lên quá được mức buồn tẻ về những chi tiết của những thói xấu ngu đần. Tôi là người không muốn làm nhơ những trang giấy của tôi với những câu trích dẫn từ Thánh Kinh. (I cannot afford to soil my pages with extracts from them); và tất cả những đoạn đó trong Thánh Kinh, tôi để cho giới giáo sĩ xem xét, bình luận và giải thích. Các ông giáo sĩ đó có thể kiếm ra cách nào đó để lấy mật ong ra từ những bông hoa đó.
Cuốn Thánh Kinh không phải là cuốn sách để cho già cũng như trẻ đáng đọc. Nó chứa những trang sách mà không một ông mục sư nào ở Mỹ dám đọc trước cộng đồng dân Chúa bất kể là phần thưởng dành cho ông ta là cái gì. Có những chương mà không một người cha nào muốn đọc cho con nghe. Có những câu chuyện không thể kể; và sẽ có ngày cả nhân loại sẽ phân vân là sao mà một cuốn sách như vậy lại có thể gọi là được Thiên Chúa mạc khải.
Chúng ta thường xuyên được bảo rằng Thánh Kinh là nền tảng của sự khiêm tốn và đạo đức; trong khi thật ra thì những trang sách trong đó chẳng có gì là khiêm tốn và đạo đức [Xin dọc những lời tự nhận rất huênh hoang và những lời vô đạo đức của Giê-su trong Tân Ước. TCN], mà nếu một mục sư đọc chúng trên bục giảng thì ngay lập tức ông ta sẽ bị tố cáo là đồ khốn nạn dơ dáy (unclean wretch). Mọi phụ nữ sẽ bước ngay ra khỏi nhà thờ, và nếu nam giới có ở lại thì chỉ với mục đích là nghiêm khắc trừng phạt ông mục sư đó (chastising that minister).
Có phải tốt hơn là hãy chấp nhận Thánh Kinh được viết bởi những người man rợ trong một thời đại man rợ, thô thiển không? Có phải đúng hơn là có những tên Do Thái ngu đần nào đó đã viết lên những lời tầm thường đó. Những Ki Tô hữu bảo tôi rằng chính Thiên Chúa là tác giả của những điều đê tiện và ngu xuẩn (vile and stupid) này. [Và ngày nay, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh vẫn dạy các tín đồ Tin Lành rằng Thiên Chúa là tác giả của những điều đê tiện và ngu xuẩn này. TCN]
Sự kiện là, những điều hay trong một cuốn sách không chứng minh được là cuốn sách đó đã được Thiên Chúa mạc khải (hay “hà hơi” theo mục sư Nguyễn Hữu Ninh), nhưng những điều xấu xa và sai lầm trong đó đích thực đã chứng minh rằng đó không phải là một cuốn sách đã được mạc khải.
Vấn đề thực sự không phải là cuốn Thánh Kinh có được mạc khải hay không, mà là nó có đúng hay không. Nếu nó đúng, nó không cần phải được mạc khải. Nếu nó đúng thì không có gì khác biệt là nó đã được viết bởi một người hay một ông thần; và nếu nó không đúng thì không thể bảo nó là do sự mạc khải của thần mà viết lên. Một bản cửu chương (multiplication table) thì cũng có ích, cũng đúng như là một thần đã xếp đặt những con số trong đó. Nếu Thánh Kinh thực sự đúng, không cần phải đề cao nó là do sự mạc khải của thần.
Thật ra thì, chân lý không cần phải được mạc khải. Không có gì phải cần đến sự mạc khải trừ sự giả mạo hay sai lầm [nghĩa là muốn sự giả mạo trở thành chân thật, sự sai lầm trở thành đúng bằng cách khoác cho nó bộ áo “do Thiên Chúa mạc khải”. TCN]. Ở đâu mà sự thật chấm dứt, ở đâu mà xác suất (probability) ngưng lại, thì ở đó sự mạc khải (hay “hà hơi”) bắt đầu. Một sự kiện không bao giờ đi cùng với một phép lạ. Chân lý không bao giờ cần đến sự trợ giúp của phép lạ.
Sự mạc khải của cuốn Thánh Kinh tùy thuộc sự cả tin của người đọc. Đã có một thời, những điều viết trong đó về địa chất, về thiên văn, lịch sử thiên nhiên, đều được cho là do sự mạc khải của thần và do đó không thể sai lầm; thời đại đó đã qua. Đã có một thời, những quan niệm về luân lý đạo đức trong đó đã làm hài lòng những con người nắm quyền thống trị tư tưởng của nhân loại; thời đại đó đã qua.
Có một người thông minh nào trên thế giới ngày nay còn có thể tin được câu chuyện vườn Eden? Nếu bạn thấy người nào còn tin như vậy, hãy gõ lên trán anh ta, bạn sẽ nghe thấy một tiếng vang [vì đầu óc hắn ta rỗng tuếch. TCN]. Có một người thông minh nào mà ngày nay còn có thể tin là Thiên Chúa đã tạo ra người đàn ông từ đất sét, và người đàn bà từ một cái xương sườn, rồi đặt hai người vào trong một cái vườn, và đặt một cái cây ở giữa vườn? Không có chỗ nào ngoài cái vườn để đặt cái cây đó hay sao, nếu ông ta không muốn cho họ ăn trái cây trên cây đó? Có còn người nào ngày nay còn có thể tin vào chuyện con rắn (xúi Adam và Eve ăn trái cấm)? Tôi thật thương hại bất cứ ai, trong thế kỷ 19 này, còn tin vào những chuyện trẻ con như vậy.
Tại sao Adam và Eve bất tuân điều cấm của Thiên Chúa? Tại sao họ bị cám dỗ? Bởi ai? Bởi quỷ (hiện thân thành con rắn). Ai tạo ra quỷ? Thiên Chúa. Ông ta tạo ra quỷ để làm gì? Tại sao ông ta không nói cho Adam và Eve biết về con rắn? Tại sao ông ta không canh chừng con quỷ mà lại đi canh chừng Adam và Eve? Tại sao ông ta không gây ra nạn hồng thủy trước, và dìm chết con quỷ, trước khi ông ta tạo ra Adam và Eve?
Vậy mà, những người tự cho là mình thông minh – giáo sư đại học và viện trưởng các học viện [Ki Tô] danh tiếng – đã dạy trẻ con và lớp trẻ rằng chuyện vườn Eden là một sự kiện lịch sử tuyệt đối. Cái ông Thiên Chúa này của họ, đứng chờ xung quanh cái vườn Eden – biết rằng cái gì sẽ xảy ra – đã tạo nên Adam và Eve với mục đích duy nhất là điều xảy ra sẽ phải xảy ra, rồi sao nữa? Bắt tất cả chúng ta phải chịu trách nhiệm, và chúng ta không hề có mặt ở đó. Adam và Eve là đại diện của những người chưa được sinh ra. Trước khi tôi bị ràng buộc vào một đại diện, tôi muốn có cơ hội để bỏ phiếu chọn anh ta hay không? Và nếu tôi ở đó (vườn Eden), và biết mọi trường hợp đã xảy ra, tôi đã bỏ phiếu “không chấp nhận”. Tuy vậy, trách nhiệm vẫn về phần tôi.
Chúng ta được Thánh Kinh và Giáo hội dạy, vì sự “sa ngã” này của Adam và Eve, “tội lỗi và cái chết đã đi vào nhân loại”. Theo như vậy thì, ngay sau khi Adam và Eve ăn trái cấm, Thiên Chúa bắt đầu bày đặt ra những phương pháp để tiêu diệt sự sống của các con cái của ông ta. Ông ta đã “sáng tạo” ra mọi bệnh tật – nóng sốt, ho hắng và cảm cúm – tất cả những sự đau đớn cho thể xác và sự truyền nhiễm của bệnh dịch hạch, bệnh sốt rét và những vi khuẩn, để cho khi thở chúng ta hít vào những tên sát nhân mà chúng ta không thể nhìn thấy; và, sợ rằng có người sống thọ, Thiên Chúa phát minh ra động đất và núi lửa, bão tố và sấm sét; và các vi sinh vật tràn ngập vào tim óc, quá nhỏ đến nỗi mắt không nhìn thấy được.. Tất cả chỉ vì Adam và Eve không nghe lời ông ta.
Với lòng tốt vô tận (infinite goodness), Thiên Chúa phát minh ra bệnh nhức xương và đau khớp xương, chứng khó tiêu (dyspepsia), ung thư và chứng đau thần kinh, và vẫn còn tiếp tục phát minh ra những chứng bệnh mới. Như vậy cũng chưa đủ, ông ta còn làm cho các bà mẹ phải đau đớn (khi sinh đẻ), và qua lòng thương yêu của ông ta, sự chết sẽ đến với mọi người. Ông ta nguyền rủa cả thế giớ. (He cursed the world). Nhưng tất cả những cái này chỉ là bước mở đầu cho sự trả thù của một ông Thiên Chúa chí thiện (Good God). Quý vị có thể nói đến một cách không rõ ràng, nhưng không bao giờ có thể quan niệm nổi những sự khủng khiếp vô cùng tận của cái giáo lý gọi là “Sự sa ngã của con người”. (the infinite horrors of the doctrine called “The fall of man”).
Theo Thánh Kinh thì Thiên Chúa đã chọn lựa dân tộc Do Thái để loan báo một sự kiện vĩ đại: rằng ông ta là ông Thần duy nhất trên thế gian. Để đạt được mục đích này, ông ta hiện ra nhiều lần trước mặt Môi-se (Moses) – từ trên mây xuống núi Sinai, trong bụi cây bốc lửa, và làm hàng ngàn phép lạ để giáo dục và giữ dân Do Thái. Ông ta rẽ nước biển ngay trước mắt họ. Ông ta làm cho bánh rơi từ trên trời xuống để nuôi họ. Ông ta làm cho nước phọt ra từ tảng đá để cho họ uống cho đỡ khát. Những kẻ thù của ông ta đều bị tiêu diệt một cách rất lạ lùng; và trong 40 năm, cái ông Thiên Chúa này đích thân cai trị dân Do Thái. Tuy nhiên, sau tất cả những phép lạ này, một số người trong dân của ông ta lại vẫn cứ tin vào các Thần Cây, Thần Đá hơn là tin vào ông ta.
Cái ông Thiên Chúa này, với tất cả quyền năng và sự sáng suốt, lại không thể thuyết phục được một số dân du mục man rợ rằng ông ta thì mạnh hơn là các hình tượng của dân Ai Cập. Ông Thiên Chúa này không muốn cho dân Do Thái của ông ta có đầu óc suy tư và óc tìm hiểu. Đối với những người có đầu óc, sự trừng phạt là tử hình. Ở đâu mà ông Thiên Chúa này trị vì, sự tự do trí thức không được biết đến. Ông ta chỉ trông cậy vào bạo lực; đòi hỏi sự thờ phụng ông ta bằng gươm giáo và ngọn lửa thiêu đốt; ông ta xử sự như một điệp viên (spy), một phán quan của tòa án xử dị giáo (inquisitor), một quan tòa (judge), và một đao phủ (executioner).
Khi tôi đọc lịch sử của dân tộc Do Thái, từ nô lệ đến chết chóc, với những bạo chúa v..v.., tôi phải thú nhận là tôi thật thương xót họ. Họ bị gian lận, lừa dối và đối đãi rất tệ hại. Cái ông Thiên Chúa của họ rất dễ nổi nóng, vô lý, tàn ác, hận thù và bất lương. (Their God was quick-tempered, unreasonable, cruel, revengeful and dishonest). Ông ta luôn luôn hứa hẹn nhưng không bao giờ giữ lời. Ông ta phí thì giờ về những chi tiết nhỏ nhặt, trẻ con, và phóng đại những việc ông ta làm. Tôi không thể quan niệm được một cá tính nào đáng ghét hơn là cá tính của cái ông Thiên Chúa của người Do Thái. Ông ta long trọng hứa với dân Do Thái là mang họ ra khỏi Ai Cập đến một nơi tràn đầy sữa và mật ong.
Ông ta làm cho họ tin tưởng rằng trong tương lai gần, mọi khổ nạn của họ sẽ qua đi, và họ sẽ trở về vùng đất Canaan với vợ con, quên đi những sự cực khổ ở Ai Cập. Sau khi hứa hẹn đi, hứa hẹn lại (again and again) với đám dân du mục Do Thái khốn khổ là ông ta sẽ dẫn họ đến vùng đất hứa tràn đầy thực phẩm và vui sướng, cái ông Thiên Chúa này, quên hết mọi điều hứa hẹn của mình, và nói với đám dân khốn khổ đang ở dưới quyền ông ta: “Súc vật của các ngươi sẽ cùng các ngươi đi vào vùng sa mạc hoang dại và con cái các ngươi sẽ lang thang cho đến khi súc vật của các ngươi chết hết”. Lời nguyền rủa trên là kết luận của mọi vấn đề. Trong vùng sa mạc của thần chết và tối tăm, tất cả những lời hứa hẹn của Thiên Chúa đều phai nhạt. Trong sự cực khổ và thất vọng của đám dân du mục, tất cả những hi vọng về tự do và định cư đều biến mất [cho đến năm 1947. TCN]. Hàng triệu dân Chúa bỏ thây trong sa mạc, và mỗi xác chết là một nhân chứng của sự bất lương của Thiên Chúa (each corpse certified to the dishonesty of God). Những điều quá độc ác và vô tâm như vậy thật đã ra ngoài mọi ý niệm về công lý của tôi. [Theo ông Đỗ Mạnh Tri trong cuốn Ngón Tay Và Mặt Trăng thì tất cả những khổ nạn của dân Do Thái đều nằm trong chương trình giáo dục của Thiên Chúa. TCN]
Khi chúng ta nghĩ tới những người Do Thái khốn nạn, sợ hãi, giết nhau, bị giết chóc, rắn cắn, bệnh truyền nhiễm, lừa dối, lột hết của cải...chúng ta phải cám ơn trời đất là chúng ta đã không phải là dân tộc được Thiên Chúa chọn lựa (how thankful we should be that we are not the chosen people of God) [Việt Nam ta, trừ một số mất gốc, nhờ hồng phúc tổ tiên, cho nên không rơi vào số phận của những kẻ nô lệ tin tưởng và thờ phụng Thiên Chúa, một vị Thần độc ác ngoài sức tưởng tượng của con người tiến bộ ngày nay. TCN]. So sánh với Thiên Chúa (Jehovah), Pharaoh (vua Ai Cập) là kẻ nhân từ, và cách hành xử độc đoán của Ai Cập là sự giải thoát cho những người phải chịu đựng ý tưởng về tự do của Thiên Chúa.
Đọc Ngũ Kinh, tôi cảm thấy vô cùng phẫn nộ, ghê sợ và đầy sự thương hại. Không có gì đáng buồn thảm hơn là lịch sử của một dân tộc du mục thiếu ăn, lang thang trong sa mạc, làm mồi cho đói khát, bệnh tật. Cực kỳ ngu đần và mê tín, bị thống trị bởi sự lừa dối, đạo đức giả, họ là trò chơi của giới giáo sĩ. Thiên Chúa là kẻ thù lớn nhất của họ, và họ chỉ có một người bạn, đó là cái chết. Chúng ta không thể nào quan niệm nổi một sinh vật nào quá chừng đê tiện, đáng ghét, và kiêu căng hơn là vị Thần của người Do Thái. (It is impossible to conceive a more thoroughly despicable, hateful, and arrogant being, than the Jewish God) [Thảm thay, đây cũng lại là chính vị Thần mà những người Ki Tô Giáo Việt Nam, Ca Tô cũng như Tin Lành, gọi là Thiên Chúa và thờ phụng. TCN] Trong những huyền thoại của dân gian, không có Thần nào như hắn ta. Chỉ có hắn là chưa từng bị đau khổ cùng cực về thể xác cũng như tinh thần, chưa từng chảy nước mắt. Hắn chỉ thích thú với máu đổ và sự đau đớn của con người. Tình cảm con người không nghĩa lý gì đối với hắn. Hắn ta không biết gì là tình yêu thương, ca nhạc, hạnh phúc. Là một người bạn giả dối, một quan tòa bất công, một kẻ khoác lác (a braggart), đạo đức giả, độc đoán, hận thù, ghen tuông, ưa trả thù, hứa hão, ưa nguyền rủa, ngu đần, đồng bóng, đồi bại và ghê tởm (infamous and hideous) – đó là Thiên Chúa trong Ngũ Kinh. [Chúng ta không nên lấy làm lạ khi thấy trong Tân Ước, Thiên Chúa Con, alias Giê-su, cũng có không ít cùng những đặc tính được mô tả ở trên. Cũng giả dối, khoác lác, đạo đức giả, độc đoán, ác độc, hận thù, ưa trả thù, hứa hão, ưa nguyền rủa, ngu đần v..v.. Việc chứng minh rất dễ dàng. Chỉ cần mở cuốn Tân Ước ra là thấy ngay. Tôi sẽ trình bày chi tiết dẫn chứng từ Tân Ước trong một bài khác. TCN]
Trong nhiều năm, (trong thế giới Ki Tô) người ta đã cho rằng 10 điều răn trong Cựu Ước là nền tảng của mọi ý tưởng về công lý và luật pháp. Nhiều nhà luật học nổi danh đã phải cúi đầu trước thành kiến phổ thông, và đã méo mó nghề nghiệp đến độ cho rằng luật của Môi-se là suối nguồn của mọi ý tưởng về công chính. Không có gì sai lầm một cách ngu đần hơn. Hàng ngàn năm trước khi Môi-se sinh ra đời, dân Ai Cập đã có một bộ luật. Họ đã có những luật chống phỉ báng, giết người, ngoại tình, ăn trộm, ăn cướp, luật đòi nợ, tôn trọng hợp đồng, bồi thường, chuộc đồ, và hầu như về mọi khía cạnh của đời sống xã hội.
Họ thường bảo với tôi rằng, nếu không có cuốn Thánh Kinh thì không làm gì có nền văn minh nào. Người Do Thái có một Thánh Kinh. Người La Mã không có. Nhưng dân nào có một chính quyền tốt hơn? Chúng ta hãy lương thiện. La Mã không có Thánh Kinh, Thiên Chúa không quan tâm đến đế quốc La Mã. Ông ta không có thì giờ. Tất cả thì giờ ông ta để cho người Do Thái. Nhưng La Mã đã chinh phục thế giới, kể cả dân Thần lựa chọn. Dân tộc có Thánh Kinh bị dân tộc không có Thánh Kinh đánh bại. [Điều này cũng đúng trong thời hiện đại. Mỹ và Pháp đều có Thánh Kinh, Việt Nam không có Thánh Kinh, nhưng đã đánh bại cả hai]. Và chúng ta có thể nói gì về Hi Lạp? Không Thánh Kinh. Hãy so sánh Athens với Jerusalem. Athens là trung tâm nghệ thuật và trí thức của thế giới. [Có lẽ tác giả chỉ biết đến lịch sử Trung Đông và Tây Phương]. Hãy so sánh những huyền thoại của Hi Lạp với những huyền thoại của Do Thái. Huyền thoại Hi Lạp đẹp đẽ biết bao, còn huyền thoại Do Thái thì đầy những hận thù và bất công.
Do Thái đã trở thành thế nào vì có Thánh Kinh? Đền thờ Thần của họ bị phá hủy, thành thị bị chiếm cứ; và họ chưa bao giờ trở nên thịnh vượng cho đến khi họ bị Thần bỏ rơi.
Nền tảng văn minh của chúng ta đã khởi đầu từ nhiều thế kỷ trước khi Ki Tô Giáo xuất hiện. Tất cả những gì đóng góp cho nền văn minh: sự tiến bộ trí thức, lòng can đảm, tổ chức chính phủ, kỹ nghệ v..v.. không đến từ Ki Tô Giáo mà là do sự đóng góp của mọi quốc gia trên thế giới từ xưa.
Có nhiều người cho rằng chính phủ của chúng ta là một chính phủ Ki Tô, đặt nền tảng trên Thánh Kinh, và người nào coi Thánh Kinh như là sai lầm và điên rồ (false and foolish) là phá hủy nền tảng của đất nước. Sự thực là, chính phủ của chúng ta không đặt nền tảng trên quyền của Thiên Chúa mà là trên quyền của con người. Hiến pháp của chúng ta được đóng khung trên sự thiêng liêng của nhân loại chứ không tuyên bố và không ủng hộ tư cách thần thánh của Giê-su. Chính phủ của chúng ta là chính phủ đầu tiên do dân và vì dân. Đây là quốc gia duy nhất mà Thiên Chúa không có quyền gì trong đó. Tuy vậy mà cũng còn có một số người bất lương và hèn nhát đến độ (dishonest and cowardly enough) long trọng quyết định đây là một quốc gia Ki Tô, và định chế tự do của chúng ta được đặt căn bản trên những luật ô nhục của Thần Gia-vê (infamous laws of Jehovah).
Và ở đây, tôi xin nói dứt khoát, khi tôi nói đến Thiên Chúa có nghĩa là tôi muốn nói đến Thần mà Moses mô tả trong Thánh kinh, Thần Gia-vê của người Do Thái. Tôi muốn nói đến Thiên Chúa đã ngăn chận sự tiến bộ của con người; đã tăng gấp bội sự cực kỳ đau đớn về tinh thần cũng như thể xác của phái nữ; và trong cơn giận đã nhận chìm cả thế giới – Thiên Chúa mà trên bàn thờ hắn có đầy máu, Thiên Chúa đã phanh thây những trẻ sơ sinh, cưỡng hiếp gái trinh, nô lệ hóa con người và chất đầy thế giới với những tội ác và sự ác độc; Thiên Chúa đã lập lên thiên đường cho một số nhỏ và hỏa ngục cho tuyệt đại đa số nhân loại..
Sự thật là, Môi-se (Moses) coi bầu trời như là một vòm cứng, nơi Thiên Chúa trú ngụ, và nước được giữ ở trên đó. Đó là tại sao họ thường ngẩng mặt cầu nguyện cho trời mưa. Họ cho rằng có vài thiên thần nào ở trên đó mở ra những cánh cửa để cho lượng nước mà họ mong muốn rơi xuống.
Họ không có cách nào để biết thế nào là mưa. Nước từ đâu mà rơi xuống? Họ không biết gì về sự bốc hơi của nước. Họ không hề tưởng tượng ra được rằng, ánh sáng mặt trời đã âu yếm hôn (amorous kisses) những làn sóng biển, từ đó hơi nước bốc lên để gặp người yêu ở trên không, nhưng rồi thất vọng nên đã biến thành nước mắt rơi xuống thành mưa.
Tôi có thể bị đọa đầy xuống hỏa ngục, nhưng tôi không bao giờ tin là cây cỏ hoa lá trên trái đất lại có trước mặt trời [như đã được mạc khải trong Thánh Kinh] với những tia nắng lung linh, xua đi bóng tối của đêm trường.
Ngày nay, người ta thường cho rằng, trong khi Cựu Ước có nội dung man rợ của thời đại đó, Tân Ước thì hoàn toàn đạo đức, không có một tì vết nào trên những trang Tân Ước. Thật ra, Tân Ước còn ủng hộ chế độ nô lệ hơn là Cựu Ước. Về phần tôi, tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ có thể (I never will, I never can) thờ phụng một Thiên Chúa chấp thuận chế độ nô lệ. Một Thiên Chúa như vậy, tôi thật là ghét và không thèm đếm xỉa gì đến ông ta. Tôi chẳng muốn cái thiên đường của ông ta, cũng như chẳng sợ cái hỏa ngục của ông ta.
Chúng ta được bảo rằng, trong Ngũ Kinh, Thiên Chúa, vị Cha chung của chúng ta, đã trao hàng ngàn thiếu nữ còn trinh, sau khi đã giết cha mẹ anh em họ, để cho những con người man rợ thỏa mãn lòng dục của họ [Ingersoll quên rằng chính Thiên Chúa cũng có phần].
Đó là sự “tự do tôn giáo” (religious freedom) của Thiên Chúa; lòng khoan nhượng của Thần Gia-vê (Jehovah). Nếu tôi sống ở Palestine vào thời đại đó, và vợ tôi, mẹ của những con tôi, nói với tôi rằng: “Tôi chán cái ông thần Gia-vê này quá đi; ông ta luôn luôn đòi nợ máu; không bao giờ chán ghét sự giết chóc; luôn luôn nói về quyền năng của ông ta; luôn luôn khoe những việc ông ta làm cho người Do Thái; luôn luôn đòi hỏi sự hi sinh tế thần – chim cu và chiên non – máu, không có gì ngoài máu. Chúng ta hãy thờ Thần Mặt Trời. Thần Gia-vê đầy lòng hận thù, xảo quyệt và quá đòi hỏi. Chúng ta hãy thờ Thần Mặt Trời. Mặt trời soi sáng những vẻ đẹp của trái đất, giúp cho hoa tươi nở; nhờ có ánh sáng mặt trời mà em được thấy anh, thấy các con của chúng ta..”
Nếu tôi theo đúng lệnh của Thiên Chúa, tôi sẽ phải giết vợ tôi. Bàn tay của tôi là người đầu tiên, và rồi bàn tay của bao nhiêu người khác, sẽ phải ném đá vợ tôi cho đến chết. Về phần tôi, tôi không bao giờ giết vợ, ngay cả khi một ông Thiên Chúa thực sự của vũ trụ này ra lệnh.
Nếu Thần Gia-vê sống như những thần dân mà ông ta cai trị, và nếu ông ta theo đúng những luật mà ông ta đặt ra, thì ông ta sẽ là người nuôi nô lệ, là kẻ buôn bán trẻ con, đánh đập phụ nữ. Ông ta sẽ phát động những cuộc chiến tranh diệt chủng. Ông ta sẽ là người đa thê, và sẽ phanh thây (butchered) vợ ông ta nếu bà ta theo một tôn giáo khác với ông ta.
Nếu Gia-vê thực sự là Thiên Chúa toàn trí, ông ta phải biết những gì sẽ xảy ra về sau. Ông ta phải biết Thánh Kinh của ông ta là một công sự mà sự đạo đức giả và độc đoán sẽ nằm trong đó, nó sẽ được dẫn chứng bởi những bạo chúa; được dùng để biện hộ cho những tên ăn cướp gọi là Vua, những kẻ đạo đức giả gọi là linh mục hay mục sư v..v..
Ông ta phải biết là ông ta không bao giờ thực hiện lời hứa của ông ta đối với dân Do Thái.. Ông ta hứa hẹn cho họ cả thế giới nhưng chỉ cho họ có sa mạc. Ông ta hứa hẹn cho họ sự tự do nhưng lại cho họ sự nô lệ.. Khi chúng ta đọc xong Cựu Ước, chúng ta bắt buộc phải nói rằng: “Không có một dân tộc nào khốn khổ như là dân tộc mà vua của họ là Thần Gia-vê.”
Nếu chúng ta muốn xét đến những gì đã là ảnh hưởng của Thánh Kinh, chúng ta phải xét đến tình trạng ở Âu Châu khi mà Thánh Kinh được coi là tuyệt đối đúng và có ảnh hưởng nhiều nhất. Ki Tô Giáo là tôn giáo đã chiếm ngự Âu Châu trong thời Trung Cổ. Trong thời đó, nó có quyền lực tuyệt đối.
Sự thật là, trong thời đó, con người vì đã nghiên cứu kỹ Thánh Kinh nên đã giết vợ, giết con. Họ đọc Thánh Kinh rồi dùng những kìm cặp nung đỏ để hành hạ xác thịt con người. Họ đặt Thánh Kinh xuống để có thì giờ đổ chì nóng vào tai đồng loại. Họ ngưng đọc cuốn Thánh Kinh thiêng liêng đó để có thì giờ xâu xé đồng loại, trói chặt họ trong xiềng xíxh, và rồi lại trở lại để đọc Thánh Kinh, để mặc cho nạn nhân của họ chết rục trong ngục tù tối tăm với sự thất vọng. Họ ngưng đọc Cựu Ước để có thì giờ đóng cọc xuống đất, đi kiếm những bó củi và thiêu sống người lành và người lương thiện. Ngay cả những linh mục cũng đã ngưng đọc Thánh Kinh đủ lâu để nói lên những lời giả dối xuyên tạc về đồng bào của họ. Không có một tội ác nào mà những người đọc Thánh Kinh, tin Thánh Kinh, thờ phụng Thánh Kinh không làm. Không có một điều ác ôn nào mà một số người đọc Thánh Kinh, tin Thánh Kinh, và bảo vệ Thánh Kinh không làm. Những người tin Thánh Kinh và bảo vệ Thánh Kinh đã chất đầy thế giới này với những sự vu khống (calumnies and slanders).
Tôi không nói rằng đọc Thánh Kinh nhất định phải làm cho người đọc trở thành bất lương, nhưng tôi phải nói rằng, đọc Thánh Kinh không có ngăn ngừa họ khỏi phạm tội [những giáo hoàng, linh mục, mục sư cuồng sát, loạn dâm, và phạm đủ thứ tội là những người đọc và giảng Thánh Kinh nhiều nhất. TCN]. Tôi không nói rằng tin ở Thánh Kinh sẽ khiến cho con người trở thành trộm cướp, nhưng tôi phải nói rằng, vì tin ở Thánh Kinh nên con người đã bạo hành, cầm tù và thiêu sống đồng loại.
Hàng ngàn, hàng ngàn các bà mẹ đã đưa Thánh Kinh cho con cái mà không hề biết trong đó có những gì. Họ chỉ theo truyền thống, và như là một quy luật, con cái họ tiếp tục tôn kính cuốn Thánh Kinh, không phải là họ biết gì về cuốn đó nhưng vì đó là món quà của người mẹ.
Sự kiện là các bà mẹ giới thiệu cuốn Thánh Kinh với con cái không chứng minh được rằng đó là cuốn sách được viết ra do sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự kiện này chỉ có thể chứng minh một điều, đó là các bà mẹ đã tin rằng cuốn sách đó là do sự mạc khải của Thiên Chúa Ki Tô. Điều này cũng không chứng minh được những phép lạ trong đó là những sự thực. Dù tất cả các bà mẹ trên thế gian đều trao cho con cái cuốn Thánh Kinh cũng không chứng minh được là những chuyện giết mẹ, giết con, nô lệ hóa các bà mẹ, bán đi con cái, như được viết trong Thánh Kinh, là đúng.
Edmund About đã kể một câu chuyện minh họa niềm tin Chúa của một người Ý hiện đại. Một thanh niên ham mê đánh bạc và luôn luôn thua. Trong phòng hắn ta có một bức hình của bà đồng trinh bồng đứa con nhỏ. Quỳ trước tấm hình, anh ta đưa tay làm dấu cộng mà người ta thường gọi là làm dấu thánh giá, và cầu sự trợ giúp của đứa bé. Nhưng anh ta lại vẫn cứ thua. Trở lại trước tấm hình, anh ta nói với đứa bé là anh ta đã thua hết, chỉ còn lại đồng tiền cuối cùng, và cầu xin đứa bé hãy dùng quyền năng thần thánh giúp anh ta thắng trong canh bạc cuối cùng này. Nhưng rồi anh ta lại thua. Trở lại trước tấm hình, anh ta đưa nắm tay lên mặt đứa bé và hét: “Thằng bé khốn nạn, tao rất vui là mày đã bị người ta đóng đinh trên thập giá” (Miserable bambino, I am glad they crucified you).
Sự tin cậy vào một hình ảnh, một thánh tích, một cuốn sách, tất cả đều từ một nguồn gốc – thờ vật (fetishism) - Tin rằng một da con rắn, một hình ảnh, một cuốn sách có những thuộc tính siêu nhiên, về phương diện trí thức đều như nhau.
Đối với tôi, muốn thuyết phục những người có đầu óc là cuốn Thánh Kinh chỉ là sản phẩm của con người – những con người man rợ – là bảo họ hãy đọc nó. Hãy đọc nó như mọi cuốn sách khác, nghĩ tới nó như mọi cuốn sách khác, bỏ đi cái băng kính ngưỡng Thánh Kinh đang che mắt, dẹp bỏ mọi sự sợ hãi trong lòng, loại ra khỏi đầu óc sự mê tín, rồi hãy đọc cuốn Thánh Kinh, và các bạn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng là tại sao có một thời mình đã cho rằng một đấng siêu nhiên với trí tuệ siêu việt, lòng thiện vô tận, lại là tác giả của những điều ngu xuẩn và bạo tàn như vậy (the author of such ignorance and of such atrocity)? [Ingersoll đã nhận định rất đúng, xin đọc bài của Ruth Hermence Green kỳ tới. Lẽ dĩ nhiên, theo đúng những tiêu chuẩn đọc Thánh Kinh của Ingersoll không phải là dễ vì trước hết phải tẩy hết các độc tố Ki Tô ra khỏi đầu óc như Ingersoll đã đề nghị. TCN]
Trong hầu hết các nền thần học, các huyền thoại và tôn giáo độc thần, các con quỷ còn nhân đạo và nhân từ hơn các Thiên Chúa nhiều. Không có môt con quỷ nào đã ra lệnh cho thuộc hạ của mình giết trẻ con và phanh thây người đàn bà co mang. Tất cả những điều man rợ này đều luôn luôn là lệnh của Thiên Chúa chí thiện. Bệnh dịch cũng do Thiên Chúa nhân từ tạo ra. Nạn đói đáng sợ, với những trẻ sơ sinh bờ môi nhợt nhạt bú người mẹ hấp hối không còn sữa, cũng là tác phẩm của Thiên Chúa đầy lòng thương yêu. Không có một con quỷ nào đã bị lên án là tác giả của những sự tàn bạo ác ôn như trên (such fiendish brutality).
Thiên Chúa, theo Thánh Kinh, đã nhận chìm cả thế giới trừ tám người. Già, trẻ, lớn, bé đều bị sóng nước vô bờ nuốt chửng. Cái thảm họa đáng sợ này, trong sự tưởng tượng của đám linh mục ngu đần (ignorant priests), là tác phẩm không phải của quỷ, mà là của cái mà người ta gọi là Thiên Chúa, và tiếp tục thờ phụng một cách ngu đần cho đến ngày nay. (ignorantly worship unto this day).
Không có một người thông minh nào, không có một người nào mà đầu óc chưa bị nhiễm độc bởi mê tín, tê liệt bởi sợ hãi, có thể đọc Cựu Ước mà không bắt buộc phải đi đến kết luận: Thiên Chúa của chúng ta là một con thú hoang dại (that our God was a wild beast).
Cho tới bao giờ, than ôi! Cho tới bao giờ con người còn thờ phụng một cuốn sách? Cho tới bao giờ con người còn quỳ phục xuống đất trước những truyền thuyết ngu đần của cái quá khứ man rợ? (Hoaw long will they grovel in the dust before the ignorant legends of the barbaric past). Cho tới bao giờ họ còn theo đuổi những hồn ma trong sự tăm tối sâu thẳm hơn là cái chết.
Cho tới bao giờ, than ôi! cho tới bao giờ con người còn nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, nhắm mắt lại trước thiên nhiên huy hoàng ngoạn mục? Cho tới bao giờ con người còn là nô lệ, bám víu vào một giáo thuyết sai lầm và độc ác? (a false and cruel creed).
Ngày nay, cả thế giới nên biết rằng cuốn Thánh Kinh chân thật (the real Bible) chưa đã được viết ra mà còn đang viết, tiếp tục viết, và không bao giờ hoàn thành cho đến khi nhân loại không còn tồn tại nữa./.
Có thể có người, nhất là các tín đồ GiaTô giáo, không tin những tài liệu trên là đúng. Tôi khuyên họ hãy mở cuốn Thánh Kinh ra đọc từ dòng đầu tới dòng cuối, rồi đọc lại lịch sử CaTô LaMã giáo trên hoàn cầu đã được tóm lược trong chương II, họ sẽ thấy ngay sự tương quan giữa những điều dạy trong Thánh Kinh và hành động của giáo hội CaTô. Họ sẽ thấy ngay là những hành động của giáo hội CaTô trong suốt 20 thế kỷ nay là bắt nguồn từ những giáo lý trong Thánh kinh chứ không phải là do một vài giáo hoàng, như lời biện hộ gần đây của một đại trí thức CaTô Việt Nam, bị cái "chước cám dỗ làm điều thiện". Bản chất các giáo lý đã không thiện rồi và chính những giáo lý không thiện này đã đưa đến những hành động bất thiện. Khi đó họ có thể phối kiểm những điều mà những tác giả kể trên đã viết về Thánh kinh và sẽ thấy họ không viết sai sự thực, dù bản Thánh Kinh bằng tiếng Việt đã được lược bớt một số mâu thuẫn và những đoạn "không thể đọc được" so với bản tiếng Anh, King James.. Tôi cũng cần phải ghi ở đây là những tài liệu dẫn chứng trong bài viết này chẳng qua chỉ là một phần rất nhỏ của toàn bộ những tài liệu đã được xuất bản về lịch sử CaTô giáo và Thánh kinh CaTô, và trong phần tài liệu tham khảo ở cuối bài tôi cũng chỉ đưa ra một số tài liệu chọn lọc mà thôi.
Một câu hỏi được đặt ra: "Thế trong Thánh kinh không có đạo lý hay sao?" Câu trả lời là: "Hơn 90% cuốn Thánh Kinh là những chuyện thuộc vùng đất Do Thái, thuộc lịch sử Do Thái và là những chuyện chém giết, vô luân, độc ác v..v.. cùng những tín lý chứ không phải là đạo lý." Phần còn lại, như bài giảng trên núi, cũng không có gì đặc biệt, không có gì mới lạ, không có gì theo kịp, khoan nói đến chuyện vượt qua, được những tư tưởng, giáo lý của Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo. Tôi thách đố bất cứ ai có thể đưa ra bất cứ đạo lý nào, tôi xin nhấn mạnh: đạo lý chứ không phải là tín lý, trong Thánh Kinh mà ta không thể tìm thấy trong Nho, Thích, Lão, và có thể minh xác cho độc giả thấy cái đạo lý trong Thánh Kinh là cái đạo lý như thế nào, có nhất quán hay không, hay là mâu thuẫn với rất nhiều điều vô đạo ở trong cuốn Thánh Kinh?
Những tín đồ CaTô giáo thường không đọc Thánh Kinh, và thường là những người các linh mục "bảo sao nghe vậy", mà linh mục lại là những người Tòa Thánh "bảo sao nghe vậy", cho nên họ vẫn tin rằng Thánh Kinh là những lời mặc khải của Thượng đế, do đó không thể sai lầm và tất nhiên phải chứa những lời khuyên răn về tình thương, luân lý, đạo đức v...v...Ngoài ra, theo lời "Giáo hội dạy rằng", họ tin rằng CaTô giáo là cái đạo chân thật duy nhất, cao quý nhất trên hoàn cầu. Họ bị một cái guồng máy nhồi sọ tinh vi của Giáo hội đưa vào đầu óc họ từ lúc còn nhỏ tuổi những thông tin sai lầm thí dụ như: nền văn minh tiến bộ ở Âu Mỹ là nền văn minh KiTô giáo, và rằng giáo hội CaTô đứng đầu trong việc tôn trọng nhân quyền, bảo vệ tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, là bạn của dân nghèo, là quán quân trong các việc thiện, là tiền phong trong vấn đề giáo dục mở mang đầu óc con người. Các học giả nghiên cứu về Ca Tô Giáo Rô-ma đã coi những điều tuyên truyền trái ngược với sự thực của Giáo hội như trên là "Học Thuật Ca Tô" (Catholic scholarship).
Đây chính là chủ đề mà tôi muốn trình bày phần nào chi tiết trong chương tới. 

CHƯƠNG VI
HỌC THUẬT GIA TÔ
(Catholic scholarship)

Tới đây tôi đã trình bày sơ lược những sự kiện lịch sử không thể phản bác về lịch sử giáo hội GiaTô từ ngày đầu cho tới ngày nay. Tôi cũng đã chứng minh rằng, sở dĩ Giáo hội Gia Tô La Mã có một lịch sử đen tối như vậy là vì giáo hội đã reo rắc một niềm tin sai lạc, dựa vào quyền năng của Thánh Kinh, trong đó có rất nhiều điều sai lầm, phi luân lý, phi đạo đức, của thời bán khai, vào trong đầu óc của các tín đồ. Giáo hội đã vận dụng tối đa "học thuật Gia Tô" để cho thế giới quên đi lịch sử đen tối, đẫm máu của Giáo hội, đồng thời đưa vào đầu óc tín đồ một hình ảnh trái ngược hẳn với hình ảnh thực sự của Giáo hội. Học thuật Gia Tô (Catholic scholarship) bao gồm những lý thuyết Thần học mơ hồ để bảo vệ đức tin Gia Tô, chủ yếu nhằm vào giới trí thức; những sách lược tuyên truyền về "những cái hay" nhưng sai tự thực của Giáo hội để thu hút và giữ tín đồ; những tín lý vô căn cứ của Giáo hội đưa ra để duy trì quyền lực tự phong của giới lãnh đạo Gia Tô. Ngoài ra, Giáo hội cũng còn dùng mồi "phong Thánh" cùng tạo ra những cái gọi là "phép lạ" để khai thác triệt để lòng mê tín dị đoan của đám đông tín đồ đầu óc vốn yếu kém, mù mịt. Đề tài này sẽ được bàn tới trong một chương riêng biệt. Học thuật Gia Tô thành công vì Giáo hội đã đào tạo được một lớp cán bộ truyền giáo trung kiên (linh mục), kiến thức thực sự không có là bao, nhưng rất hữu hiệu trong vấn đề uốn nắn đầu óc giáo dân ngay từ lúc sơ sinh vào một niềm tin mù quáng, không cần biết, không cần hiểu, và nhất là tuyệt đối theo lệnh của Vatican, vì tin rằng Giáo hoàng nắm giữ chìa khóa mở cửa Thiên đường. Giáo hội vẫn tự nhận là một Hội Thánh "thánh thiện", và tín đồ cũng tin như vậy. Chúng ta có thấy trên thế gian một tôn giáo "không thánh thiện" nào khác mà có một lịch sử truyền đạo một cách tàn ác, bất nhân đối với nhân loại như là Giáo hội "thánh thiện" Gia Tô La Mã không? Một luận cứ Giáo hội thường dùng ngày nay để bào chữa cho cái lịch sử đen tối của Giáo hội và lạc dẫn dư luận thế giới là: "Đó là những chuyện lịch sử xa xưa, nhắc lại làm chi. Ngày nay Giáo hội đã văn minh, không còn những cuộc Thánh Chiến, đã bãi bỏ những tòa hình án xử dị giáo, đâu có làm gì xấu ác. Trái lại Giáo hội đã tham gia vào bao nhiêu việc thiện trên thế giới, tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ v...v.." Tôi đồng ý là giáo hội ngày nay không còn giết người như trong các cuộc Thánh chiến và các tòa hình án xử dị giáo. Nhưng cái tinh thần Thánh chiến và tòa hình án vẫn không thay đổi bao nhiêu, trong chính giáo hội mẹ, và trong những giáo hội con với sự đồng ý của giáo hội mẹ. Thực ra thì qua bao thế kỷ nhân loại đã văn minh hóa GiaTô giáo nên giáo hội không còn quyền lực và khả năng để giết người bừa bãi như trước nữa. Nhưng những việc làm của giáo hội cho tới ngày nay vẫn không sáng sủa chút nào, vẫn trực tiếp hay gián tiếp dính líu vào những chính sách độc tài với tinh thần Thánh chiến và Tòa hình án xử dị giáo của những chế độ độc tài, phát xít ở các nơi trên thế giới như ở Nam Mỹ, Croatia, Nam Việt Nam, Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, Đức, Ý v..v... Những vụ dính líu này càng ngày càng được phơi bày ra ánh sáng. Chúng ta hãy đọc vài sự kiện trong lịch sử thế giới cận đại (Joseph L. Daleiden, Ibid., trg. 61-62): "Cố gắng dập tắt mọi sự chống đối các giáo hoàng và cái điều ám ảnh họ về sự duy trì quyền thống trị của giáo hội GiaTô vẫn tiếp tục qua các thời đại. Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nó có tính chất của một hành động bảo toàn lực lượng mà giáo hội dùng để bảo vệ cái quyền lực đang suy giảm của mình bằng cách liên minh với bất cứ ai mà có lợi. Sự hợp tác của các giáo hoàng với những chính quyền phát xít ở Âu Châu và Nam Mỹ cho thấy những biện pháp cực đoan ô nhục mà các giáo hoàng dùng để bảo tồn địa vị của họ. Giáo hội chống cuộc chiến đấu giành độc lập của Mễ Tây Cơ và tuyệt thông các lãnh tụ của họ. Sau đó giáo hội chống lại sự thành lập hệ thống cộng hòa liên bang và phản đối mạnh mẽ nguyên tắc tự do tín ngưỡng trong hiến pháp Mễ Tây Cơ. Năm 1930 chính quyền hợp hiến ở Á Căn Đình bị lật đổ và một chế độ độc tài phát xít được thiết lập với tình trạng thiết quân luật. Vì chế độ mới tuyên bố trung thành với GiaTô giáo, họ được giáo hội ủng hộ mau chóng. Năm 1936 giáo hoàng nồng nhiệt liên minh với nhà độc tài phát xít Francisco Franco ở Tây Ba Nha trong nỗ lực dẹp quân phiến loạn Tây Ban Nha. Franco thưởng lại bằng cách thiết lập giáo hội GiaTô làm quốc giáo (Quyền lợi này bị bãi bỏ khi nhà độc tài Franco chết và một hiến pháp dân chủ được chấp thuận năm 1978.) Tuy nhiên, sự liên minh với Franco chỉ là một chuyện ngoài lề qua vai trò mà giáo hội sẽ đóng trong sự khởi giậy và củng cố quyền lực của Hitler và Mussolini, một vai trò mà các giáo hoàng muốn chúng ta đều quên đi. Giáo hoàng Pius XI ký một thỏa ước và hiệp định Lateran với Mussolini năm 1929, và gọi Mussolini là "người Thượng Đế gửi xuống". Bốn năm sau, đại sứ của giáo hoàng là Pacelli, sau trở thành giáo hoàng Pius XII, thúc giục đảng GiaTô bỏ phiếu cho Hitler trong cuộc bầu cử sau cùng, trước khi đảng quốc xã lên cầm quyền. Đối với giáo hoàng thì bất cứ những sự tàn bạo nào của một chính quyền đối với nhân loại cũng không thành vấn đề chừng nào mà chính quyền đó đủ khôn ngoan để cho giáo hoàng giữ được quyền lực. Khi Ante Pavelich dựng lên một quốc gia GiaTô Croatia và giết hại trên 600.000 người, hầu hết là những người thuộc Chính Thống giáo chống đối sự thống trị của Pavelich thì Giáo hội GiaTô giữ yên lặng." (The effort to stamp out any opposition to the popes and their obsession with maintaining the rule of the Catholic Church has continued down through the ages. In this century, however, it has been more of a rear guard action, with the Church seeking to protect its dwindling authority by making alliances with whoever would serve its interests. The collaboration of the popes with fascist governments in Europe and South America shows the shameful extremes the popes have been willing to go to, to preserve their position. The Church opposed the Mexican war of independence and excommunicated its leaders. Later the Church fought the establishment of the federal republic system and vigorously protested the inclusion of the principle of religious freedom in the Mexican constitution. ln 1930 the constitutional government was toppled in Argentina and a fascist dictatorship established, complete with martial law. Since the new regime proclaimed its allegiance to Catholicism, it was quickly supported by the Church. In 1936 the pope was eager to ally himself with Spain's fascist dictator Francisco Franco in his effort to squash the Spanish rebellion. As its reward the Catholic Church was established as the state religion. (With the approval of a democratic constitution in 1978 after the dictator's death the Church lost this privilege.) The Franco deal, however, was merely an aside to the role the Church would play in the rise of consolidation of power of Hitler and Mussolini, a role the popes would like us all to forget. Pope Pius XI signed a concordat and the Lateran Treaty with Mussolini in 1929, and called him "the man sent by Providence." Four years later, Papal Nuncio Monsignor Pacelli, who was soon to become Pius XII, urged the Catholic Party to vote for Hitler in the last German election prior to the Nazi takeover. It made no difference what atrocities a government committed against humankind as long as it was shrewd enough to let the pope retain his titular authority. When Ante Palevich set up the Catholic state of Croatia and slaughtered 600,000 persons, primarily those belonging to the Orthodox Church who opposed his rule, the Catholic Church was mute.) Không những Giáo hội Gia Tô yên lặng trước hành động tàn bạo giết người như trên của một chính quyền Gia Tô đối với những người khác tín ngưỡng, mà gần đây, tháng 10, 1998, Giáo hoàng John Paul II còn tôn vinh, sửa soạn phong Thánh cho Hồng Y Aloysius Stepinac, người có liên hệ mật thiết với chính quyền Gia Tô độc tài ở Croatia trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Lý do tôn vinh? Ông Hồng Y này đã từng cộng tác chặt chẽ với phát xít Đức để chống Cộng sản. Sự tôn vinh đượm màu sắc chính trị này, cũng như cuộc viếng thăm Croatia trước đây của John Paul II, chứng tỏ Tòa Thánh đứng hẳn về phe Gia Tô Giáo trong cuộc nội chiến đang tiếp diễn ở Bosnia, đã khiến cho báo chí thế giới lên tiếng phê bình , chỉ trích. Trong báo Chicago Tribune ngày 17 tháng 10, 1998, dưới đầu đề Lính chiến, không phải là Thánh (Soldier, not Saint), Jim Mantice viết như sau: "Tôi bảo đảm với quý vị rằng có nhiều bằng chứng về sự hợp tác chặt chẽ giữa Stepinac và Đức Quốc xã, thí dụ như: - Do sự bổ nhiệm của Giáo hoàng Pius XII, Stepinac là Tuyên úy danh dự của đoàn quân Ustache, đoàn quân này được đặt dưới quyền chỉ huy của Đức quốc xã . - Stepinac được ban huân chương Đại Thánh Giá và Sao, một mề đay của Ustache mà ông thường hãnh diện đeo trong những cuộc tụ họp của Đức quốc xã. - Hàng trăm linh mục dòng Francis, nằm trong quyền hạn và xét xử của Stepinac, là nhân viên cao cấp trong nhiều trại tập trung ở Croatia." (I assure you that much more telling evidence tying Stepinac to the Nazis. For example: - By appointment of Pope Pius XII, Stepinac served as honorary chaplain of the Ustache army, which was under Nazi command. - Stepinac was awarded the Grand Cross and Star, a Ustashe medal he proudly displayed at Nazi rallies. - Hundreds of Franciscan priests, under Stepinac's juridiction, staffed many of Croatia's concentration camps.) Tưởng chúng ta cũng nên biết, Ustasha là một tổ chức khủng bố do một số trong hàng giáo phẩm Gia Tô ở Croatia cầm đầu, gồm có cả Hồng Y, Giám mục, Linh mục. Tổ chức này đã tàn sát hơn 600.000 dân Serb (theo Chính Thống Giáo), dân Do Thái và Gypsies, và Vatican có liên hệ mật thiết với tổ chức này. (Chicago Tribune, July 23, 1997, Associated Press: "Ustashas who controlled Croatia during the war exterminated hundreds of thousands of Serbs, Jews and Gypsies and historians have denounced the Vatican for maintaining ties to the regime led by Ante Palevich). Một nhân vật có "thành tích" như vậy mà được tôn vinh để sửa soạn phong Thánh thì chuyện phong 117 Thánh ở Việt Nam cũng chẳng lấy chi làm lạ. Quý độc giả nào muốn biết thêm vế nhân vật Stepinac xin đọc cuốn Lò Thiêu Sống Của Vatican (The Vatican's Holocaust) của Avro Manhattan, trong đó có hình ảnh Stepinac, khi đó còn là Tổng Giám Mục, ngồi cạnh những lãnh tụ Đức quốc xã, cùng hình ảnh linh mục cắt cổ dân Serb, hoặc dồn một đám đông dân Serb vào trong giáo đường của họ rồi thiêu sống tập thể... Sau đây, tôi xin trích dẫn thêm một tài liệu, nói về vai trò của giáo hội trong lịch sử Việt Nam cận đại (Daleiden, Ibid., trg. 62): "Spelllman là người chủ chốt của giáo hoàng làm cho Mỹ tham chiến sâu đậm ở Việt Nam. Theo một bức thư chính thức của Vatican, giáo hoàng "dùng Spellman để khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam." Mọi viện trợ nhân đạo cho miền Nam đêu đi qua các cơ sở của giáo hội Gia Tô và chỉ có những người Gia Tô là được Diệm bổ nhiệm vào trong chính phủ. Tuy rằng những chính sách như vậy đưa đến việc cải đạo hàng loạt, số tín đồ Gia Tô chỉ chiếm vào khoảng từ 12 tới 13 phần trăm của dân số miền Nam. Không lạ lùng gì mà khối đa số Phật Giáo bất bình đưa đến việc công khai chống đối chính sách của Diệm. Tình trạng ngày càng suy kém, Diệm đã dùng đến biện pháp bắt giữ hàng loạt, đàn áp Phật tử, đóng cửa chùa chiền và tu viện. Qua kinh nghiệm quá khứ, Giáo hội chắc hẳn đã biết rằng sự đàn áp chỉ làm cho lý tưởng mạnh hơn. Trước sự quan sát kinh hoàng của thế giới, giới Phật tử đã phải dùng tới hành động chống đối tiêu cực rốt ráo và nhiều tăng sĩ đã tự thiêu. Trong những khoảng thời gian đáng sợ đó, tôi, một tín đồ GiaTô, không nhớ có một lời chỉ trích chính sách của Diệm từ một linh mục hay giám mục GiaTô nào. Tuy nhiên, sự việc đã lên quá mức đối với Tổng Thống John Kennedy, ông ta thôi không ủng hộ Diệm nữa. Ít lâu sau đó Diệm bị hành quyết trong một cuộc lật đổ chính quyền. Qua cái diễn tiến kinh khủng này vai trò của giáo hội đã theo đúng cái tiến trình lịch sử nhơ nhớp của giáo hội." (Spellman was the papal point man to lead America into deeper involvement in Vietnam. According to a Vatican official letter, the pope "turned to Spellman to encourage American commitment to Vietnam." All US relief to the South was funneled through the Catholic Church's agencies and only Catholics were appointed to government positions by Diem. Although these policies resulted in a wave of conversions, Catholics still made up only about 12 to 13 percent of the South Vietnamese population. Not surprisingly, the resentment among the Buddhist majority soon resulted in their open resistance to Diem's policies. As the situation deteriorated, Diem resorted to mass arrests and suppression of the Buddhists, closing shrines and monateries. As the Church should have known from its own early experience, persecution can only strengthen a cause. As a horrified world watched, the Buddhists resorted to the ultimate act of passive resistance and several monks set themselves ablaze. During these terrible times, when I, too, was a Catholic, I don't recall one word of criticism of Diem's policies from a Catholic priest or bishop. However, it finally became too much for President John Kennedy, who withdrew US support for Diem. Diem was soon executed in a coup. Throughout this dreadful ordeal the role of the Church followed true to the course of its sordid history.) Qua những tài liệu lịch sử sơ lược kể trên, có thể nào chúng ta tin được lời tuyên truyền của Giáo hội về hình ảnh "Thánh thiện" của Giáo hội hay không? Lịch sử đã chứng minh rằng, những điều mà Giáo hội tuyên truyền là xuất phát từ Ki Tô Giáo như nền văn minh Tây phương, ý niệm về tự do, nhân quyền v..v.. lại chính là những điều mà giáo hội chống đối và giật giải quán quân về vi phạm. Sau đây tôi xin đi vào chi tiết của vài điểm tự nhận của Giáo hội và chứng minh rằng những điểm tự nhận này chỉ là những lời tuyên truyền hoàn toàn sai với sự thực của giáo hội trong sách lược lừa dối giáo dân. 6.1. Giáo hội và nền văn minh Âu Mỹ. Giáo hoàng và giáo hội luôn luôn nhập nhằng lấy cái nền văn minh Âu Mỹ làm nền văn minh KiTô. Giáo hoàng John Paul II phát biểu là "Một nền văn minh xứng đáng với con người phải là nền văn minh KiTô." Hồng Y Spellman khi sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ cũng khẳng định họ "đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh KiTô Tây phương." Chúng ta đã thấy những chính sách đốt sách vở của GiaTô giáo, chính sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương, giết người ngoại đạo, bách hại dân Do Thái, và đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với Thánh Kinh v..v.. Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền văn minh hiện thời không? Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết gia tuyệt đối tin vào KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại và đóng góp những gì? Hay là nền văn minh hiện đại bắt nguồn từ Galilei rồi phát triển qua những khoa học gia, tư tưởng gia mà giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt giam nữa. Chúng ta cũng đã biết, khi Giáo hội Gia Tô La Mã nắm quyền thống trị ở Âu Châu thì đã kéo bức màn "man rợ và đen tối trí thức" phủ lên Âu Châu trong 10 thế kỷ. Sau thời đại hắc ám này, chúng ta thấy xuất hiện ở Âu Châu những thời đại Phục sinh (Renaissance), thời đại Khai sáng (the age of Enlightenment), thời đại lý trí (the age of reason), thời đại cách mạng khoa học (the age of scientific revolution), thời đại phân tích (the age of analysis), thời đại kỹ nghệ (the industrial age) v...v... Tất cả những thới đại này lập thành nền văn minh hiện nay của Tây phương, và lịch sử đã chứng minh rằng, Giáo hội Gia Tô đã hết sức ngăn chặn sự phát triển trí thức của nhân loại này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Các đại tư tưởng gia Tây phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Victor Hugo, Thomas Paine v...v.. là những người đi tiên phong trong vấn đề cải cách xã hội, đề xướng quyền tự do và nhân quyền của con người. Tác phẩm của họ đều bị Giáo hội giam chặt trong cái gọi là "danh sách những tác phẩm cấm tín đồ đọc" (Index of banned books). Những khoa học gia tiên phong của cuộc cách mạng khoa học như Copernicus, Kepler, Bruno, Galileo v...v... đều bị Giáo hội dùng "bạo quyền thắng sự thật" giam cầm hoặc thiêu sống. Vậy, có thể tin được chăng, nền văn minh Tây phương là nền văn minh Ki Tô? Có lẽ chúng ta nên duyệt qua vài tài liệu lịch sử để thấy thực chất của Gia Tô La Mã Giáo trong nền văn minh Tây phương như thế nào. Trước hết, chúng ta cần biết là nền văn minh Âu Mỹ được xây dựng trên những tư tưởng khai phóng về những quyền tự do căn bản của con người như tự do tín ngưỡng, tự do suy tư v..v.., những quyền mà giáo hội luôn luôn chống đối, và những thành quả khoa học với kết quả làm tăng mức sống thoải mái của con người. Giáo hội đã góp được những phần nào trong sự tiến bộ của con người qua các thời đại? Hàng giáo phẩm Gia Tô, với nhiệm vụ chăn dắt tín đồ, đã làm những gì để mở mang đầu óc của những tín đồ ngoài một số tác phẩm về Thần học mà mục đích chỉ để bảo vệ các tín lý giáo hội đưa ra, giữ tín đồ trong vòng mê tín, ngu muội. Điều này chúng ta có thể thấy rõ khi khảo sát về thực chất đào tạo những cán bộ lãnh đạo Gia Tô Giáo, các linh mục, giám mục, của Giáo hội Gia Tô, và từ đó suy ra sự đóng góp của họ trong nền văn minh Âu Mỹ. Linh Mục Joseph McCabe mô tả về sự đào tạo linh mục vào khoảng đầu thế kỷ 20 trong cuốn Sự Thực về Giáo Hội Gia Tô (The Truth About The Catholic Church, trang 89-90) như sau: "Các linh mục được tuyển mộ khi còn rất trẻ tuổi, và thường được tuyển trong giới ít học. Trong mọi quốc gia, hiện nay giáo hội gặp khó khăn trong việc tuyển mộ những người xứng đáng, và do đó phải hạ thấp nhiều tiêu chuẩn về khả năng. Như là một quy luật, được chọn vào làm nghề linh mục là những thanh niên trẻ, đối với họ việc tấn phong linh mục có nghĩa là được thăng lên một địa vị và uy tín mà với những khả năng của họ, họ không thể đạt được ở ngoài đời. Điều này đặt cái gánh nặng đào tạo họ hầu như hoàn toàn vào trong tay giáo hội, và sở học của họ thường rất nghèo nàn. Rất ít linh mục đọc được những tác phẩm của những tác giả viết bằng tiếng La Tinh (trừ Ceasar), hay là hiểu Horace, Tacitus, hay Juvenal. Về tiếng Hi Lạp, như là một quy luật, họ chỉ có một kiến thức sơ đẳng mà họ thường quên ngay. Về khoa học, lịch sử, và triết lý, theo cái nghĩa hiện đại, như là một quy luật, họ không có một kiến thức nào. Khoa học được dạy trong một số rất ít các trường huấn luyện Linh mục và cũng chỉ ở trình độ sơ đẳng và trong một thời gian ngắn. Sử học được trình bày trong vài bài về lịch sử Ca Tô, do các tác giả Ca Tô viết. Về khoa học và sử học, tôi không được học một bài nào trong suốt thời gian đào tạo, và, như tôi đã nói, cái "triết học" mà tôi học được chỉ liên hệ đến triết học hiện đại một cách ít ỏi như là sự liên hệ của khoa chiêm tinh học với thiên văn học. Cái nền giáo dục mà giáo hội ban cho tôi đã được chứng tỏ rõ ràng khi tôi "trở lại đời". Tôi không thể kiếm được một chân dạy học với đồng lương 10 đô la một tuần. Ông Forbes, bạn tôi, sau khi khảo sát kiến thức của tôi, rất tiếc mà bảo tôi rằng, sở học của tôi thật là vô dụng. 3 Linh mục đồng nghiệp của tôi lặng lẽ bỏ giáo hội ra kiếm sống ở ngoài đời. Cả 3 đều thất bại và phải quay trở lại giáo hội. Giáo hội chắc chắn là có nhiều linh mục như vậy." (Recruits are now sought at a very early age, and usually from the less educated class...The Church now, in all countries, has a difficulty in securing the proper type of recruits, and the theoretical qualifications have to be considerably lowered. As a rule, the priesthood is recruited by the adoption of young boys to whom ordination means promotion to a position and prestige which their personal merits would not otherwise obtain for them. This casts the burden of their training almost entirely upon the Church, and their education is generally very poor. Very few priests could read any Latin author (except Ceasar) at sight, or make much sense of Horace, Tacitus, or Juvenal. Of Greek they have, as a rule, received only an elementary knowledge, which they soon forget. Of science, history, and philosophy, in the modern sense, they, as a rule, know nothing. Science is taught in very few training-colleges for the clergy, and then only in the most elementary form and for a very short time. History is represented only by a few lessons, from Catholic writers, on Church history... In science and history I did not receive one single lesson in the whole course of my training; and, as I said, my "philosophy" had as little relation to modern philosophy as astrology has to astronomy. The value of the education given to me in the Church was made plain the moment I returned to "the world"...I could not get a position as a teacher at ten dollars a week. My friend Mr. Forbes, regretfully told me, after a short examination, that my "education" was quite useless...Three of my colleagues secretly left the Church and tried to earn their living. Each failed, and had to return..The Church must have a high proportion of such men.) Linh Mục James Kavanaugh, trong cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Nhận Xét về Giáo Hội Lỗi Thời Của Ông (A Modern Priest Looks at His Outdated Church", trg. 20-21), có kể về sự huấn luyện các linh mục như sau: "Sau Trung học tôi theo học 4 năm cho đến khi tôi được nhận là có đủ khả năng làm Linh mục. Trong học trình của tôi, rất hiếm khi bàn đến những nghi vấn hay quan niệm mà thường là hoặc trắng hoặc đen. Thí dụ như, trong môn triết học, chúng tôi học qua Berkeley, Hume, và Kant chỉ trong vòng 1 tuần lễ..Chúng tôi phải học thuộc lòng từng mỗi đề luận và định nghĩa và chứng minh rằng "lý trí" chỉ có thể dẫn một người lương thiện đến niềm tin. Chúng tôi là những người chân thật duy nhất vì chúng tôi đã bênh vực bằng "lý trí" tất cả những giáo lý về đạo đức của giáo hội. Giáo hội Gia Tô chống ly dị và kiểm soát sinh đẻ, chống tự do ngôn luận và tự do tư tưởng, chống sự giải thoát con người khỏi những cơn đau đớn, chống ngoại tình, tất cả đều là những kết luận hiển nhiên của một "lý trí" không bị che mờ bởi ham muốn và lòng kiêu hãnh. Sự hiện hữu của hàng triệu người "không có lý trí" có vẻ như là không quan trọng đối với giáo hội... Đó là một nền giáo dục không có sự đồng tình, một sự huấn luyện không có sự giúp đỡ. Tôi nghe những gì họ muốn tôi nghe, và nói những gì ban giám đốc mong muốn tôi nói như vậy. Người nào chống đối thì bị gạt ra ngoài. Chỉ có những người phục tùng luật lệ, hay những kẻ ngây thơ, tiêu cực mới tồn tại. Sáng kiến không được khuyến khích trừ phi đi theo đường lối đã được chấp nhận. "Tà đạo" là danh từ để chấm dứt mọi luận cứ, và "Giáo hội dạy rằng" là nghị trình nhỏ hẹp của mọi tranh luận. Tôi không được giáo dục mà được nặn thành. Tôi không được khuyến khích suy nghĩ mà chỉ được huấn luyện để bênh vực giáo hội. Người ta không muốn tôi suy tư mà chỉ muốn tôi học thuộc lòng. Chúa ơi! Tôi đã trở thành cái gì? Người đòi hỏi tôi dẫn dắt con chiên với sự yếu kém của xác thịt tôi, phục vụ những người đang vật lộn với tội lỗi, và tôi đã trở nên một người cứng rắn và thoải mái trong sự phục vụ chính mình. Tôi không phải là "một đấng Ki Tô khác", (Giáo lý Gia Tô nhét vào đầu những tín đồ có đầu mà không có óc cái giáo lý giáo hội bịa ra để ngự trị trên đám tín đồ là: "Cha cũng như Chúa". Chẳng thế mà gần đây ở trong nước, trước những lời than phiền của giáo dân về sự bê bối của các Cha thì có ông Giám mục răn rằng: "Các con đừng có nói hành các Cha mà mắc tội với Chúa." (xin đọc bức thư ngỏ của LM Nguyễn Hữu Trọng gửi Giáo Hoàng và Hồng Y Phan Đình Tụng, đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập 2; TCN)) và tôi cũng không hẳn là một con người. Tôi chỉ là một tù nhân, một mẫu mực được tổng hợp, một kẻ bênh vực cho một quá khứ mệt mỏi. Chúa ơi! Nếu tôi sẽ trở thành một linh mục thì trước hết hãy để cho tôi làm một con người đã. Đừng bắt tôi phải trốn đằng sau cái cô áo thày tu, chức tước, cái bề ngoài giả dối của tôi. Đừng bắt tôi phải đưa ra những câu trả lời mà chính tôi không còn tin, hoặc bắt tôi phải đúc nặn giáo dân thành những người không có nhân tính và những người đần độn chỉ biết tuân phục. Hãy để cho họ biết đến những nghi vấn do chính miệng tôi nói ra, và hãy để cho họ nói ra những nghi vấn của họ một cách thật thà. Đừng để cho tôi trói buộc họ vào giáo luật và địa ngục, hoặc làm họ sợ hãi với những câu chuyện về cái chết bất ngờ..." (I studied four years after college until I was declared ready to be a priest. My studies spoke seldom of doubts or opinions and most frequently of blacks and whites.. In philosophy, for example, we could handle Berkeley, Hume, and Kant in a single week... We memorized each thesis and definition and proved that "reason" could only lead an honest man to faith. We were the only honest men as we defended by "reason" all the moral teachings of the Church. Catholic opposition to divorce and birth control, to freedom of speech and thought, to mercy killing and adultery were all the obvious conclusions of a "reason" unclouded by passion and pride. It did not seem important that there were millions of "unreasonable" men...It was an education without sympathy, a training without recourse. I heard what I was supposed to hear, and said what the administration expected me to say. Rebels were weeded out. Only the strong and legal-minded, or the naive and passive, could last. Creativity was discouraged unless it pursued the accepted patterns wich cautious minds approved. "heresy" was a word which ended every argument, and "the Church teaches" was the narrow outline of every debate. I was not educated, I was formed. I was not encouraged to think, but trained to defend. I was not asked to reflect, but to memorize. ...My God! What have I become? You asked me to minister with the weakness of my flesh, to serve the struggling sinner, and I have grown rigid and comfortable in the service of myself. I am not "another Christ," I am not even a man, I am only a prisoner, a synthetic paragon, a defender of the tired past. O God! If I am to be a priest, first lat me be a man. Do not let me hide behind my collar, my titles, my false front. Do not make me give answers I do not believe, nor mold men into impersonal and uncomplaining dolts. Let them know my doubts from my own lips, and let them tell me honestly of theirs. Let me not bind them with law and hell, nor frigten them with tales of unexpected death...) Linh Mục Emmett McLoughlin mô tả thực chất giáo dục Gia Tô trong việc đào tạo Linh mục như sau, trong cuốn Văn Hóa Mỹ và các Trường Học Gia Tô (American Culture and Catholic Schools, trg. 36 -37): "Tôi không được học để suy nghĩ. Từ những năm của thời thơ ấu qua thời kỳ thiếu niên bối rối (trong nhà Dòng) cho đến khi thành người lớn, đầu óc tôi bị đúc trong một mô thức trí thức cũng như là được đúc trong bê tông. Sự tiếp cận khoa học của tôi trong 21 năm là một cua về vật lý sơ đẳng. Trong 12 năm, tôi chẳng học được gì về văn học nổi tiếng của hoàn cầu. Những ánh sáng trí thức này được giam chặt trong Danh Sách Những Cuốn Sách Cấm Đọc của Giáo hội. Nói ngắn gọn - tôi không được giáo dục - tôi chỉ bị tẩy não. Tôi đã đạt đến trình độ khô cứng của sự hiểu biết trí thức xoàng xĩnh. Tôi đã trở nên một người máy, một linh mục với những lễ nghi thiêng liêng không rõ ràng, vô nghĩa ở sự hiệu quả của chúng cũng như là những bài ca của các thầy Pháp Haiti. Tôi là một kỹ thuật viên của giáo hội được huấn luyện để đúc nặn những bộ óc trẻ, dễ uốn nắn... " (I did not learn to think. As the years of childhood slipped through a frustrated adolescence (in the seminary) into the days that were supposed to be those of manhood, my mind was molded in an intellectual pattern as effectively as though it had been cast in concrete. The closest approach to science that I experienced in those 21 years was that a non-laboratory course in elemental physics...Of the world's really great literature, in 12 years I learned practically nothing. Its greatest lights were locked in the prison of the Index of Forbidden Books. In short, I was not educated. I was merelyendoctrinated. I had achieved the level of the rigor mortis of intellectual mediocrity. I had become an automaton, a priest of sacred, half known rites as meaningless in the efficacy as the chants of a Puerto Rican woodoo priest. I was an ecclesiastical technician trained to mold other young, pliable minds...) Kiến thức của các giám mục, linh mục cũng được Linh Mục Trương Bá Cần nhận định như sau trong cuốn Nguyễn Trường Tộ: Con Người Và Di Thảo: "Về Tây học, thì ông (Nguyễn Trường Tộ) quả có được các linh mục thừa sai và, đặc biệt, Giám mục Gauthier dạy cho tiếng Pháp và truyền đạt một số kiến thức khoa học, chỉ có thể là, rất phổ thông...vì các thừa sai thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài (MEP) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình phổ thông, rồi vào các đại chủng viện học làm linh mục để gởi đến các nước truyền đạo". Từ những tài liệu trên, viết bởi các linh mục, chúng ta thấy rằng, mục đích đào tạo các linh mục là biến họ thành những cái loa phóng thanh của Tòa Thánh Vatican, chứ không phải để mở mang đầu óc con người, mà trái lại để tẩy não, gò bó đầu óc con người theo một chiều hướng nhất định và do đó, những linh mục sau khi tốt nghiệp cũng giống như những con ngựa bị che mắt, chỉ biết đi theo một hướng nhất định. Cái hướng nhất định này là dùng mọi thủ đoạn để thu nhặt tín đồ, vơ vét của cải thế gian, và bảo vệ những tín lý của Gia Tô Giáo qua những luận cứ Thần học mập mờ, ngoài khả năng phán đoán của đa số tín đồ ít họcư. Với phương cách giáo dục như vậy, các linh mục khó có thể rời bỏ giáo hội vì kiến thức của họ không thể dùng được ở ngoài đời. Địa vị, uy tín, và đời sống thoải mái về vật chất trong sự kính trọng, qụy lụy của giáo dân cũng là những yếu tố quan trọng để ngăn linh mục bỏ giáo hội. Phương cách huấn luyện và nắm giữ linh mục như trên đã tạo ra một mẫu người nô lệ giáo điều, giáo hoàng và tòa Thánh một cách hết sức mù quáng. Và chính giới linh mục này đã góp phần không nhỏ trong việc uốn nắn đầu óc tín đồ theo chủ trương của giáo hội, dù trong thâm tâm có thể có nhiều vị không tin ngay cả những điều mình rao truyền cho đám tín đồ kém hiểu biết. Tuy nhiên, không phải tất cả những linh mục được đào tạo như trên đều cam tâm tự nguyện làm nô lệ cho Tòa Thánh suốt đời. Nhiều vị, qua sự học hỏi cá nhân, vượt ra ngoài khuôn phép "Giáo hội dạy rằng", đã thấy rõ thực chất của tôn giáo và Giáo hội của mình, và đã dũng cảm thoát ra khỏi cái mà Tiến sĩ Barnado gọi là Bóng Tối Dày Đặc của Ý Thức Hệ La Mã (The Thick Darkness of Romanism), và cho ra những tác phẩm soi sáng sự thật cho nhân loại. Chính họ là những người biết rõ bản chất của Giáo hội và thực chất của những giáo điều, tín lý trong Gia Tô Giáo La Mã hơn ai hết, và nhờ những tác phẩm nghiên cứu nghiêm túc, cộng với những suy tư trí thức của ho, mà ngày nay chúng ta có thể biết rõ sự thực về mọi khía cạnh của đạo Gia Tô. Những tác phẩm của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, của Giám Mục John Shelby Spong, của các Linh mục Jean Mesnier, Joseph McCabe, Emmett McLoughlin, James Kavanaugh, Andrew M. Greeley, David Rice, Leonardo Boff, Ernie Bringas, Georges Las Vergnas Charles Davis v...v... cũng đủ để cho chúng ta biết khá tường tận về đạo Gia Tô, khoan kể đến những tác phẩm nghiên cứu của các nhà Thần học Hans Kung, Edwards Schillebeeckx v...v..., và của hàng trăm học giả, giáo sư đại học, chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo. Đã đành rằng, trong hàng giáo phẩm Gia Tô cũng có những vị đóng góp cho nền văn minh Âu Mỹ qua những công cuộc khảo cứu về khoa học và xã hội nhưng số này quả thật hiếm hoi, và Giáo hội đã hoặc khai trừ họ, hoặc thiêu sống họ (Bruno), vì những đóng góp của họ không phù hợp với những giáo điều Gia Tô, cho nên phải nói rằng, nền văn minh Âu Mỹ không phải là nền văn minh Ki Tô như Giáo hội thường nhập nhằng tự nhận. Vài tài liệu sau đây sẽ chứng tỏ điều trên. Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về cuộc cách mạng khoa học ở Âu châu, khởi điểm cuả nền văn minh Âu Mỹ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa-học ở Tây phương phát khởi từ thế kỷ thứ 16, phát triển mạnh trong thế kỷ thứ 17, mở đầu bằng những công trình khảo cứu và tư tưởng của NicolausCopernicus (1473-1543), Giordano Bruno (1548-1600), Galileo Galilei (1564-1642), Johannes Kepler (1571-1630) v...v...Người ta gọi đó là 1 cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Thời gian này thường được gọi là thời Trung Cổ và cũng còn được gọi là thời kỳ đen tối hay thời kỳ hắc ám (Dark Ages). Chính trong khoảng thời gian này, Tây phương đã bị thống trị bởi một ý thức hệ tôn giáo độc tôn. Những giáo điều, tín lý của Gia Tô La Mã Giáo cộng với quyền hành của hàng giáo phẩm Gia Tô ở địa vị nắm quyền, hay liên kết với những chính quyền đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là 'tà đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do đó, cũng chính trong khoảng thời gian này, Tây phương phải chịu đựng, như chúng ta đã biết, 8 cuộc Thánh Chiến (Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại; hoặc bị treo cổ, hoặc bị thiêu sống v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng ngược với Thánh Kinh. Cuộc cách mạng khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn trong giới khoa học và ngoài xã hội dân gian. Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của của các tiến bộ khoa học về sau. Trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, điển hình là cuộc cách mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo tôn giáo trong quần chúng. Muốn hiểu rõ những điều này, có lẽ chúng ta nên duyệt sơ sự diễn tiến của cuộc cách mạng khoa học, một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Tây phương được viết trong các sách giáo khoa mà bất cứ sinh viên đại học nào học về khoa học cũng phải biết. Trong thời Trung Cổ, tuy cũng có những tiến bộ về khoa học và toán học, nhưng về nhân chủng học và vũ trụ học, tất cả đều dựa trên Thánh Kinh, một cuốn sách tuy viết bởi nhiều người trong nhiều thế kỷ sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thánh giá, được coi chính là lời của Thượng Đế, do đó không thể sai lầm. Theo sự đoan quyết của các nhà thần học Thiên Chúa Giáo, dựa trên Thánh Kinh, thì trái đất là trung tâm của vũ trụ. Mặt trời và các hành tinh khác đều do các thiên thần quay xung quanh trái đất. Trên trái đất là một vòm trời cứng bằng đồng thau để giữ nước ở phía trên và có những cánh cửa mở để nước rơi xuống thành mưa theo hứng của Thượng Đế. Những sao trên trời là những ngọn đèn mà tối tối Thượng Đế mang ra treo. Vì là những lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh nên sự giải thích trên không thể sai lầm. Bất cứ quan niệm nào không phù hợp với quan niệm trên đều bị coi là "tà thuyết" và, theo Thánh Philastre, đương nhiên "sai lầm đối với tín ngưỡng Gia-Tô" (Any other view, St. Philastrius declared "false to the Catholic faith" ("Science and Theology" by Andrew Dickson White)). Nhưng vào đầu thế kỷ 16, Nicolaus Copernicus, một nhà thiên văn người Ba Lan, đã đưa ra một khám phá mới: đó là, không phải là mặt trời và các hành tinh quay xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các hành tinh quay xung quanh mặt trời. Copernicus không dám phổ biến khám phá này như là một sự thực khoa học. Nhưng cuối cùng ông cũng xuất bản một cuốn sách là "Chuyển động quay của các thiên thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong đó có ghi những khám phá của ông. Cuốn sách vừa được xuất bản thì Copernicus qua đời. Trong phần đề Tựa của cuốn sách, bạn của Copernicus là Osiander đã khéo léo trình bày công trình khảo cứu của Copernicus như là một giả thuyết (hypothesis) hay là một nghịch lý (paradox). Do đó Tòa Thánh cũng làm ngơ và cho phép các nhà thần học thỉnh thoảng được bàn tới "giả thuyết" của Copernicus. Sự chống đối trong giới khoa học tuy có nhưng chỉ ngấm ngầm, không ai dám lên tiếng coi thuyết của Copernicus là một chân lý, vì sợ bị kết án là tà đạo. Tuy nhiên, có một triết gia thuộc loại "uy vũ bất năng khuất", đó là Giordano Bruno, một ông linh mục dòng Đa Minh người Ý. Bruno không những đồng ý với Copernicus mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng ta đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Điều này trái với lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh: "Trái đất là trung tâm của thế giới duy nhất mà chúng ta đang sống." "Do đó, Bruno bị bắt giam trong 6 năm. Sau cùng, vì không chịu thay đổi quan niệm để được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án là có tội, tuyệt thông và bị tuyên án thiêu sống. Ông bị các Linh mục, những người được dạy phải yêu kẻ thù, dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình. Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi. Rồi các Linh mục, tín đồ của Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất từ xưa tới nay." (He believed in a plurality of worlds, in the rotation of this, in the heliocentric theory. For these crimes, and for these alone, he was imprisoned for six years. He was offered his liberty, if he would recant. Bruno refused to stain his soul by denying what he believed to be true. He was tried, condemned, excommunicated and sentenced to be burned. He was taken from his cell by the priests, by those who loved their enemies, led to the place of execution..He was chained to a stake and about his body the wood was piled. Then priests, followers of Christ, lighted the fagots and flames consumed the greatest, the most perfect martyr, that ever suffered death. ("Ingersoll The Magnificient" By Joseph Lewis)). Năm 1616, kính thiên văn đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng. Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của Copernicus như là một chân lý khoa học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều Giáo Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi khám phá khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất, và biệt giam ông tại nhà cho đến khi ông chết vào năm 1642. Vì trường hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng sự thật và bất khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người đã mở một kỷ nguyên mới cho nền khoa-học tân tiến Tây phương, nên tôi nghĩ kể lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích (B. S. Rajneesh, Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests and Politicians: Mafia of the Soul, trg. 27): "Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông rằng: không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của giáo hoàng Urban VIII. Khi đó ông đã già, gần chết. Giáo hoàng phán: "Trước khi chết, ngươì hãy sửa lại điều trên vì nó ngược lại với thánh kinh. Bất cứ điều nào ngược với thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh kinh là lời của Thượng Đế. Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi, sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói: Không thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng như lời Thượng Đế đã viết trong thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất. Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời đều không đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng. Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng phải đồng ý vì không ai có thể chống lại sự thực lâu dài." (Galileo was a great scientist who, even at the age of eighty, when he was dying, had such a beautiful sense of humor. He said: There is no problem. I will change it; I will write in my book exactly what God has written in the bible - that the sun goes around the earth. But one thing I must make clear to you: neither the sun reads my book nor the earth reads my book. As far as reality is concerned, the earth will continue going around the sun. And why should you insist? Because I have every proof; I have devoted my whole life to the search, and all those who have a scientific mind are in absolute agreement with me. Sooner or later you will have to agree because one cannot remain against truth for long.) Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết, năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm. 359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II, tuyên bố vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của toà thánh nghiên cứu trong 13 năm về vấn đề Galileo. 13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ mấy trăm năm nay, 13 năm tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền của giáo dân đóng góp để kiếm ra một kẽ hở hòng biện hộ cho Giáo hội trong vụ án Galilei nhưng không thành công, để cuối cùng phải thú nhận sự sai lầm của Giáo hội. Ngoài ra, cùng thời với Galilei còn có nhà thiên văn và toán học người Đức là Johannes Kepler. Không những Kepler đồng ý với Copernicus và Galilei mà ông còn đưa ra 3 định luật về cơ học các thiên thể (celestial mechanics) để mô tả một cách vô cùng chính xác sự chuyển động của các hành tinh, trong đó có trái đất, xung quanh mặt trời. Kepler cũng bị Tòa Thánh bắt bớ giam cầm trong nhiều năm, nhưng các khoa học gia khác như Descartes, Fermat, Newton v...v...tiếp tục phát minh ra những khám phá mới. Rút cục, giáo hội Gia Tô chỉ còn biết đưa ra sắc lệnh lên án các kết quả khảo cứu của Copernicus và Galilei là sai lầm thí dụ như: "Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung tâm và không quay xung quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai lầm theo thần học, và là tà thuyết vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ hai, nói rằng trái đất không phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời , là vô nghĩa, sai lầm theo triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch với chân tín ngưỡng" (The first proposition, that the sun is the centre and does not revolve about the earth, is foolish, absurd, false in theology, and heretical, because expressely contrary to the Holy Scriptures; and the second proposition, that the earth is not the centre but revolves about the sun, is absurd, false in philosophy, and from a theological point of view at least, opposed to the true faith. ("The Scientific Revolution" Edited by Vern L. Bullough.)) và cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus và Galilei. Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được Giáo Hoàng Pius VII thu hồi. Nhưng cấm thì cứ cấm, giới trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc. Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu Châu không còn địa vị độc tôn và giữ quyền sinh sát như trước nữa, vì cuộc cách mạng khoa học và các phát triển khoa học về sau trong mọi ngành, nhất là về vũ trụ học, nhân chủng học và di truyền học, và phương pháp định tuổi của vật chất bằng phóng xạ đồng vị Carbon v...v... đã làm sụp đổ tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản tín ngưỡng của Gia Tô giáo . Đó là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng khoa học trên xã hội Tây phương. Ngày nay, những người còn tin ở thuyết sáng tạo đều thuộc loại "tin là một cách sống, chết; không cần biết, không cần hiểu", hoặc thuộc loại, theo Linh mục Thiện Cẩm: "chỉ cần một bà lão Công giáo nhà quê, tin rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chính Người đã tạo dựng nên thế giới muôn loài ...cũng có dư khả năng để trả lời những thắc mắc của nhà học giả ...". Và có lẽ, nền văn minh Ki Tô là nền văn minh phát xuất từ những đầu óc như trên. Qua những tài liệu dẫn chứng ở trên chúng ta thấy rằng không có một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ văn minh mà có thể gọi là nền văn minh KiTô. Sự nhập nhằng vơ nền văn minh Tây phương vào làm nền văn minh KiTô là sách lược quen thuộc của GiaTô giáo để khuyên dụ những người kém hiểu biết trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì về lịch sử cũng như bản chất của GiaTô LaMã giáo. Để có một nhận định chính xác hơn về mối tương quan giữa nền văn minh Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của John E. Remsburg trong cuốn "Những lời tự nhận sai sự thực" ("False Claims", trg. 16-17 ): "KiTô giáo có liên quan gì tới nền văn minh của dân tộc này? Chắc chắn là không; và nếu không có đám mây thiên kiến trước mắt họ, những tín đồ KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên nền văn minh của chúng ta. Họ sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế giới, chính cái thế giới duy lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo hội. Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng tiến bộ như là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến bộ nào, ở trong hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhân mà giáo hội không kiểm soát được. Giáo hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn diện, chỉ là chân lý. Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo hội là sai sự thực, và, do đó, giáo hội chống đối. Giả thử giáo hội thành một đế quốc trên toàn thế giới, mọi tiến bộ sẽ phải ngưng ngay lập tức. Những Huxley và Haeckels của chúng ta sẽ bị diệt trừ thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và cái lòng tin mù quáng sẽ là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta. Giáo hội đã cho ta những bằng chứng quyết định về sự thực này. Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo hội ở Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi những thế kỷ đó là thời đại đen tối. Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt đầu phát triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló dạng. Lecky nói rằng: "Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh hưởng thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cãi để đo sự tiến bộ của chúng ta." Carlyle nói rằng: "Kiến thức càng tăng, lòng tin càng giảm." Strauss nói rằng: "Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ lệ thuận với sự ngu tối và man rợ. Tôn giáo và văn minh không ở cùng vị thế mà trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, Ki Tô giáo phải lui." ( Now did Christianity have aught to do with the civilization of this people ? Certainly not; and were it not for the cloud of prejudice before his eyes, the Christians would clearly see that it did not produce our civilization. He wvould see that instead of the church having civilized the world, the Rationalistic world has for centuries been slowly civilizing the church. The very nature of Christianity--I mean orthodox Christianity - precludes the possibility of progression as an inherent principle of itself; and whatever progress has been made, either in the church or outside of it, must be attributed to causes over which she has had no control. The church claims to have the truth, the whole truth, and nothing but the truth. Every proposed change, every new discovery, is to her a perversion of truth, and, hence, she opposes it. Were the church to sweep to universal empire, all progress would at once cease. Our Huxleys and Haeckels would be summarily disposed of, the torch of Reason would be extinguished, and the ignis-fatuus of Faith would become our only guide. Of the truth of this she has herself given conclusive evidence. For centuries her power in Europe was supreme, and even Christian writers denommate these centuries the Dark Ages. Not until Rationalism was born, not until science commenced her career, and Christianity began to decay, did our modern civilization dawn. "For more than three centuries, " says Lecky, "the decadence of theological influence has been one of the most invariable signs and measures of our progress." Says Carlyle, "Just in the ratio that knowledge increases, faith diminishes." "The Middle Ages were more religious than ours," says Strauss, "in proportion to their ignorance and barbarism. Religion and civilization accordingly occupy, not an equal, but an inverted position regarding each other, so that with the progress of civilization, religion retreats.") Để rọi thêm một tia sáng vào cái gọi là văn minh KiTô, chúng ta hãy đọc tiếp đoạn sau đây của Lloyd M. Graham (Ibid., trg. 448-449) về trí tuệ của các Thánh Kitô trong việc "mở mang đầu óc" và "văn minh hóa" con người: "Bất cứ người nào bị thống trị bởi tư tưởng tôn giáo đều bị đặt dưới ảnh hưởng của cái năng lực lý luận sai lầm. Đó chính là những nhà lập giáo KiTô lầm lẫn. Ngày nay chúng ta vinh danh những kẻ không xứng đáng về lòng dũng cảm của họ mà không ý thức được cái tội ác mà họ đã phạm phải -- sự phá hủy hoàn toàn khoa học và triết lý cổ xưa. Điều này đưa đến 1500 năm đen tối, trong thời gian này dân KiTô không biết ngay cả quả đất tròn. Trong thời đại đen tối, sự tối tăm có tính cách toàn diện - một ảnh hưởng khó hiểu của cái gọi là "ánh sáng của thế giới." (GiaTô giáo vẫn tự cho là ánh sáng của thế giới; TCN) Bây giờ chúng ta hãy so sánh những khoa học gia Hi Lạp (Tác giả muốn nói đến Pythagoras (thuyết trái đất tròn và quay xung quanh mặt trời, thế kỷ - 6 (6 thế kỷ trước thời đại này)), Aristarchus (thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ, thế kỷ -3, mà 19 thế kỷ sau Copernicus khám phá ra), Eratosthenes (đo chu vi trái đất, thế kỷ -3), Hipparchus (kinh tuyến và vĩ tuyến, thế kỷ -2), Democritus và Leucippus (thuyết nguyên tử của vật chất, thế kỷ 5) với các Thánh KiTô. Đối với vài khoa học gia còn sống sót người ta nói như sau: "cái tên điên này muốn đảo ngược cả hệ thống thiên văn, nhưng Thánh kinh thiêng liêng dạy chúng ta rằng Joshua ra lệnh cho mặt trời đứng yên lại chứ không phải là trái đất." - và 1300 năm sau một giáo hoàng cũng ra sắc lệnh với cùng ý như vậy. Một luận cứ nổi tiếng khác là "trong ngày phán xét những người ở phía bên kia của trái đất không thể thấy được Chúa từ trên không xuống." Về sự chuyển động của trái đất, Thánh Augustine (cha đẻ của nền thần học GiaTô và được GiaTô giáo tôn sùng coi như là có trí tuệ siêu việt) nói như sau: "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam" (Như vậy là Thánh kinh không biết tới dân Việt Nam và lẽ dĩ nhiên không làm gì có chuyện cứu rỗi dân Việt Nam. TCN) Và linh mục Incholer nói như sau: "Quan miệm về sự chuyển động của trái đất là quan niệm tồi tệ nhất, nguy hại nhất, xúc phạm nhất trong những quan niệm dị giáo; sự bất động của trái đất là điều thiêng liêng gấp ba lần." Và Lactantius kết luận: "Không thể có chuyện con người tin một cách vô lý đến độ cho rằng mùa màng và cây cỏ ở phía bên kia của trái đất lại mọc chổng đầu xuống và con người lại có chân cao hơn đầu." Làm sao chúng ta có thể áp dụng những lời trên vào con người đã thốt ra những lời đó. Ngày nay, chúng ta biết họ sai lầm về khoa học, nhưng chúng ta vẫn không biết họ sai lầm về thần học." (Anyone dominated by religious thought is under the influence of a reason-perverting power. Such were Christianity's Confounding Fathers. Today we honor these misbegotten for their courage without realizing the crime they committed--the complete destruction of ancient science and philosophy. This resulted in fifteen hundred years of darkness, in which the Christian people did not even know the earth is round. In the Dark Ages the 'blackout" was complete--a curious effect for "the light of the world." Now let us compare Greek scientists with Christian saints. Against some scientists still surviving one had this to say: " this fool wishes to reverse the entire system of astronomy; but sacred scripture tells us that Joshua commanded the sun to stand still and not the earth"--and some thirteen hundred years later a pope issued a bull to the same effect. Another famous argument was that "in the day of judgment men on the other side of a globe could not see the Lord descending through the air." Concerning the earth's motion, St. Augustine had this to say: "It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam." And Father Inchofer: "The opinion of the earth's motion is of all heresies the most abominable, the most pernicious, the most scandalous; the immobility of the earth is thrice sacred." And Lactantius concluded, "It is impossible that men can be so absurd as to believe that the crops and trees on the other side of the earth hang downward and that men have their feet higher than their heads." How peculiarly applicable are these words to those who uttered them. We know now these men were wrong scientifically, but we still do not know they were wrong theologically.) Một trong những quyền căn bản của con người ở trong các xứ văn minh tiến bộ là quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng v...v... Sau đây tôi sẽ luận về giáo hội và tự do của con người. Gần đây, ở các nước còn nghèo khổ, KiTô giáo nói chung (GiaTô & Tin Lành) đã khuyến dụ dân chúng theo đạo với luận cứ xuyên tạc sự thật: "Hãy nhìn vào các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, kinh tế mở mang, dân chúng sống sung sướng. Đó là những nước theo KiTô giáo và KiTô giáo là nguyên nhân chính của sự giàu sang và tự do dân chủ." Đây là một luận điệu nằm trong sách lược lừa dối những người kém hiểu biết. Sự thực là hiện nay hơn 70% dân GiaTô là thuộc các nước ở Nam Mỹ, Phi Châu, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân. Dưới sự chỉ đạo tinh thần và vật chất của GiaTô giáo, có nước nào giàu mạnh đâu. Phi Luật Tân là nước hầu như toàn tòng GiaTô giáo từ nhiều thế kỷ, nay Phi Luật Tân giàu sang như thế nào mà phải xuất cảng hơn 400 ngàn người đi làm đầy tớ ở nước ngoài, và tình trạng giáo dục, kinh tế có hơn gì Việt Nam ngày nay không? Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, mở mang tiến bộ như thế nào, nhưng đâu có phải là các nước theo KiTô giáo. Tại sao ở các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ tình trạng bỏ đạo càng ngày càng gia tăng. Thống kê mới nhất (ngày 20 tháng 7 năm 1996) của Vatican cho biết số người vào trường dòng học làm Linh Mục gia tăng trong các nước nghèo khổ (một nghề tương đối dễ sống trên sự ngu tối của con người) và kỹ nghệ kém mở mang trong khi giảm nhiều ở Âu Mỹ. (The statistics on seminary enrollment support a longtime trend: The demographic center of the faith is shifting to poorer and less industrialized nations.) Sự suy giảm ở Mỹ (nước giàu nhất, văn minh nhất, tự do nhất) rất trầm trọng: số tu sinh giảm từ 14,365 xuống còn có 5.692 (giảm hơn 60%) (The drop in North American was even greater: from 14,365 to 5,692). Một công cuộc nghiên cứu khác của Linh Mục dòng Dominic, David Rice, cho biết: Trong 20 năm qua có 100,000 linh mục rời bỏ giáo hội GiaTô LaMã - cứ 2 giờ đồng hồ lại có một linh mục bỏ giáo hội ra đi (100,000 Roman Catholic priests have walked out in the last twenty years - more than one in every two hours). Một công cuộc nghiên cứu trong 6 năm của hai nhà xã hội học, giáo sư Richard Schoenherr và Lawrence Young, đại học Wisconsin - Madison đưa ra kết luận: "Cho tới năm 2005, số linh mục ở Mỹ sẽ giảm 40%, từ 35.000 xuống còn 21.000. Vậy chúng ta không lấy làm lạ khi giáo hội đã tập trung sự tuyển mộ linh mục và giáo dân ở trong các nước nghèo vì ở các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, dân trí đã mở mang, không còn tin vào những lời giả dối đánh lạc dư luận nữa. Tôi sẽ trở lại vấn đề này khi bàn về tình trạng hiện thời của Ki Tô Giáo trong thế giới Âu, Mỹ. Và, cũng thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy trong những nước nghèo khổ, người dân sống trong thiếu thốn rất dễ bị lường gạt bởi những bả vật chất nhỏ nhoi và những hứa hẹn tinh thần huyền hoặc. 6. 2. Giáo hội và tự do của con người. Lịch sử chứng tỏ rằng, cho đến ngày nay, chưa bao giờ giáo hội GiaTô cổ võ tự do tôn giáo. Theo truyền thống của giáo hội mẹ, các giáo hội con cũng đi vào con đường chuyên chế tôn giáo: Pavelich ở Croatia, Franco ở Tây Ba Nha, Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, Marcos ở Phi Luật Tân v...v...tất cả đều chủ trương độc tôn và tìm cách tiêu diệt các tôn giáo khác. Hiện nay, GiaTô giáo và Chính Thống giáo còn đang giết nhau ở Bosnia, GiaTô Giáo và Tin Lành cũng đang giết nhau ở Bắc Ái Nhĩ Lan, GiaTô và Tin Lành đang tranh nhau ảnh hưởng ở các nước nghèo khổ. Trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi là giữa GiaTô và Tin Lành, tôn giáo nào hơn, Robert G. Ingersoll đã trả lời: "Tin Lành hơn vì ít Gia Tô hơn, nhưng sự khác biệt giữa Gia Tô và Tin Lành chỉ như sự khác biệt giữa một con cá sấu lớn và một con cá sấu nhỏ" (Protestantism is better than Catholicism because there is less of it. But the difference between Catholicism and Protestantism is as much as between an alligator and a crocodile). Ở nơi nào GiaTô giáo ở thế yếu hoặc thiểu số thì giáo hội đòi cho được tự do tôn giáo, khi nào ở thế mạnh hoặc đa số thì không bao giờ tôn trọng tự do tôn giáo. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, vào những thế kỷ 17, 18, 19, trong khi ở Âu Châu GiaTô giáo bắt giữ, tra tấn, và thiêu sống hàng trăm ngàn người mà họ kết tội là "dị giáo", nghĩa là những người không tin và không chấp nhận quyền lực của Giáo hoàng, thì ở Việt Nam họ lại đòi tự do tôn giáo cho những tín đồ GiaTô Việt Nam phản bội quốc gia qua sự liên kết với ngoại nhân để chống chính quyền, và lấy cớ bị đàn áp để thúc đẩy thực dân Pháp xâm chiếm đất nước Việt Nam. Chắc họ nghĩ rằng theo đạo Chúa thì có quyền đi giết người không cùng tín ngưỡng, còn những người khác tín ngưỡng thì không có quyền đụng đến con của Chúa, dù rằng trong phần lớn các cuộc gọi là cấm đạo, nguyên nhân không phải là lý do tôn giáo. Hiện nay, ngay trong nội bộ, giáo hội GiaTô cũng không tôn trọng nhân quyền và tự do tư tưởng. Giáo hội dành quyền diễn giảng Thánh Kinh và không chấp nhận bất cứ sự bất đồng ý kiến nào, dù lịch sư đã chứng minh giáo hội đã nhiều lần sai lầm trong quá khứ. Các nhà Thần học nổi tiếng như Hans Kung, Leonardo Boff, Charles Curran v...v... vì không đồng ý với giáo điều của Vatican nên đều bị Vatican đưa ra những biện pháp trừng phạt tinh thần như cấm dạy học, cấm viết sách v...v... Lẽ dĩ nhiên Việt Nam không có nhà Thần học nào nổi danh và "trưởng nữ" của giáo hội mẹ (ngày xưa là Pháp) đã nổi tiếng là ngoan ngoãn dễ bảo, và không bao giờ cần đến quyền tự do của con người, cho nên vẫn cho rằng Giáo hội GiaTô là thành trì bảo vệ tự do. Có lẽ chúng ta cũng nên đọc đoạn sau đây của John Remsburg (Ibid., trg. 24), để có một hiểu biết tổng quát về cái gọi là quan niệm tự do của giáo hội GiaTô: "Giáo hội tự nhận là hội bảo vệ tự do tôn giáo và dân sự. Thực ra là tự do của con người chưa bao giờ có một kẻ thù nào ghê gớm hơn. Nơi nào mà KiTô là thiểu số thì họ đòi cho được tự do tôn giáo, nơi nào đa số thì họ không bao giờ chấp nhận tự do tôn giáo. Mười ngàn lời tán tụng đã tặng cho những nhà lập Thanh Giáo (Một tông phái KiTô) ở New England, như họ tự nhận, là đã thiết lập tự do tôn giáo ở nước này. Nhưng quan niệm về tự do của Thanh giáo là như thế nào? Họ ủng hộ loại tự do nào? Tự do chỉ được là một tín đồ Thanh giáo! Chỉ đơn giản như vậy thôi. Rồi nữa, những ông tòa xử dị giáo Tây Ba Nha cũng ủng hộ tự do tôn giáo - cái tự do chỉ được là một tín đồ GiaTô ngoan đạo... Sự thật là nếu anh thấy bất cứ ở đâu một tông phái của giáo hội KiTô, tôi không cần biết nó mang cái tên gì - GiaTô hay Tin Lành, Luther hay Tân giáo, Trưởng lão hay Giám Lý - anh sẽ thấy đó là một kẻ thù của tự do. Trái đất của chúng ta đã bị bao phủ bởi tro bụi của nhiều triệu người bị giết, giết bởi giáo hội, chỉ vì họ dám có những quan điểm không được chính thống. "Nhưng bây giờ giáo hội không còn giết nữa," hình như tôi nghe nhà bảo vệ tín lý KiTô nói. Không, một con hổ yếu sắp chết càng ngày càng bớt dữ đi. Bây giờ Giáo hội không giết được nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội, và bây giờ giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí, thù hận và vu khống." (The Church claims to be the guardian of civil and religious liberty. Yet human liberty has never had a deadlier foe. If a Christian minority has pleaded for religious liberty, a Christian majority never failed to deny it. Ten thousand eulogies have been bestowed upon the Puritan Fathers of New England, for having, as it is claimed, established religious liberty in this country. But what was the Puritan conception of religious liberty? What liberty did they advocate? The liberty to be a Puritan! Simply this and nothing more. So, too, did the Spanish Inquisitors advocate religious liberty - the liberty to be a good Catholic. The fact is that wherever you find a fragment of the Christian Church, I care not what name it bears - Catholic, or Protestant, Lutheran or Episcopal, Presbyterian or Methodist - you find an enemy to liberty. Our earth is covered with the dust of murdered millions, murdered by the church, and for no other crime than having dared to entertain opinions that were not orthodox. "But the church does not kill now," methinks I hear the Christian apologist exclaim. No; a tiger weakened by the pangs of death grows less and less ferocious. The church does not kill now because it does not have the power to kill. The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now.) Với chính sách hủy diệt văn hóa của các hệ thống tín ngưỡng khác, với những cuộc Thánh chiến, với những tòa hình án xử dị giáo, với sự bách hại người Do Thái, chúng ta có thể tin được chăng những lời tự nhận của Giáo hội Gia Tô là tôn trọng tự do và nhân quyền của con người. Tôi cho rằng chỉ có những tín đồ đầu óc mù mịt mới có thể tin được những lời tuyên truyền sai sự thực như vậy. 6.3. Quan Niệm về Thánh Nhân, Từ Thiện... Trong Gia Tô La Mã Giáo Trong Gia Tô La Mã Giáo, Thánh là những người có công với Giáo hội trong việc củng cố hoặc truyền bá đức tin Gia Tô, chứ hầu hết không phải là những người đạo đức, thánh thiện như chúng ta thường tưởng. Chúng ta đã biết, Giáo hoàng John Paul II tôn vinh và sửa soạn phong Thánh cho Hồng Y Stepinac, người đã hợp tác chặt chẽ với Đức Quốc Xã và chế độ Gia Tô độc tài Croatia giết hại trên 600.000 dân Serb, Do Thái, và Gypsies ở Bosnia trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, và đã bị kết án tù, coi như một tội phạm chiến tranh. Chúng ta cũng đã biết, trong số 117 người được phong Thánh ở Việt Nam, có một số giáo sĩ ngoại quốc thực dân phạm tội khích động hoặc dính líu vào những cuộc nội loạn ở Việt Nam, như sẽ được trình bày trong chương tới, và một số người bản địa làm Việt Gian, hợp tác với Thực Dân Pháp để đưa Việt Nam vào vòng nô lệ. Nhưng chúng ta không biết rằng, ngay Abraham, Thánh Tổ Phụ của Gia Tô Giáo, cũng là một người loạn luân, lấy em gái làm vợ, hai lần dâng vợ cho các Vua Ai Cập để đổi lấy của cải, tiền bạc, gia súc v...v..., định ra tay giết đúa con trai "duy nhất" để tế Thượng đế, tỏ lòng trung thành với Thượng đế (xin đọc bài viết về Thánh Abraham trong phần Phụ Lục). Chuyện phong Thánh là chuyện nội bộ của Giáo hội và chỉ có giá trị đối với các tín đồ Gia Tô không hiểu thế nào là Thánh cả, chứ đối với những người ngoại đạo thì đó chỉ là một thủ đoạn của Giáo hội để khai thác lòng mê tín của tín đồ. Tôi không muốn đi vào những chuyện thuộc nội bộ của Giáo hội, cho nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài lời "Thánh phán" nổi danh trong Gia Tô La Mã Giáo để độc giả thấy rõ đầu óc của họ, những người giáo dân thường tôn thờ là Thánh . 1. Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536) (Người sáng lập dòng Tên: Xin đọc bài về Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e trong phần phụ lục): "Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy." (We should always be disposed to believe that which appears white is really black, if the hierarchy of the Church so decides.) 2. Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền Thần học Gia Tô và được Gia Tô Giáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Thiên Chúa (City of God)): a) "Nếu những đứa trẻ sơ sinh vô tội, không phải vì chúng thiếu ý chí làm hại mà chỉ vì chúng không đủ sức thôi." (If babies are innocent, it is not for lack of will to do harm but for lack of strength.) b) "Những kẻ thù như vậy (những người theo phái Tự Ngộ) , ta thật ghét chúng thậm tệ: Ôi, hãy giết chúng đi bằng gươm của ngươi." (The enemies thereof, I hate vehemently: O that thou wouldest slay them with thy two-edged sword.) c) "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất (không tin là trái đất có hình cầu), vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam." It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded bt Scripture among the descendants of Adam.) d) "Nếu dẹp bỏ hết gái điếm đi, thế giới sẽ bị rối loạn bởi sự ham muốn" (Do away with harlots, and the world will be convulsed with lust.) e) "Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Thượng đế.., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Thượng đế, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thượng đế." (The woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.) 3. Thánh Bernard (1090-1153): "Những lính chiến Ki Tô "phải tiến hành cuộc chiến tranh của Chúa Ki Tô mà không sợ phạm tội giết kẻ thù hay sợ bị kẻ thù giết, vì khi họ giết hay bị giết, họ không phạm tội ác nào, vì tất cả là để cho sự vinh quang của họ. Nếu họ giết, đó là cho sự lợi lộc của Chúa; nếu họ chết, đó là cho sự lợi lộc của chính họ." (Christian soldiers "are to wage the war of Christ their master without fearing that they sin in killing their enemies or of being lost if they are themselves killed, since when they give or receive the death blow, they are guilty of no crime, but all is to their glory. If they kill, it is to the profit of Christ, if they die, it is to their own.") 4. Thánh Fulgentius (467-533): "Những bào thai chết trong lòng mẹ, hoặc những trẻ mới sinh rs đã chết mà chưa chịu phép bí tích rửa tội ...phải chịu hình phạt đau đớn trong ngọn lửa không bao giờ tắt." (Little children who have began to live in their mother's womb and have there died, or who, having just been born, have passed away from the world without the sacrament of holy baptism...must be punished by the eternal tortures of undying fire.) 5. Thánh John Chrysostom (347-407): "Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như một người đàn bà" (Among savage beasts none is found so harmful as a woman) 6. Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.) Trên đây là vài tư tưởng "vĩ đại" của vài vị Thánh "vĩ đại" trong Gia Tô La Mã Giáo. Có lẽ chúng ta cũng nên biết rằng việc phong Thánh bừa bãi của Giáo hoàng John Paul II đã gây nên nhiều phản ứng bất lợi cho chính Giáo hội, đến nỗi Hồng Y Silvio Oddi cũng phải than phiền là: "Vatican đã trở thành một "Xưởng chế tạo Thánh"" (The Vatican has become a saint factory.) Điều hiển nhiên là 117 vị được phong Thánh ở Việt Nam cũng không nằm ngoài kế hoạch chế tạo Thánh cho những mục đích chính trị của Vatican. Một trong những sách lược tuyên truyền, quảng cáo của Giáo hội là thổi phồng việc làm của vài cá nhân trong Giáo hội, đánh bóng hình ảnh của họ và đưa đến tâm cảnh tôn sùng cá nhân giữa đám tín đồ. Gần đây, điều mà giáo hội GiaTô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội tôn là Thánh Mẫu (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận, làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, và tất cả tín đồ GiaTô đều như Mẹ Teresa cả. Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các công việc từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của GiaTô giáo trong những thế kỷ qua. Mở đầu là Đại Đế Constantine, người đã dùng mọi cách và đã bỏ của cải ra mua toàn thể các tỉnh, các thị trấn để cho dân chúng đi theo đạo mới (Malachi Martin: "The Rise and Fall of The Roman Church", trg. 36: "True, Contanstine had used every one of these means to propagate Christianity. He even bought up whole towns and cities to ensure they accepted the new belief." Và từ đó cho đến ngày nay, của cải vật chất với nhãn hiệu từ thiện đã là vũ khí hữu hiệu nhất của GiaTô giáo để thu nhặt tín đồ. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của Gia Tô Giáo. Dưới thời Ngô Đình Diệm, các Cha Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Cha được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo. Tôi không nói là các việc từ thiện của GiaTô giáo không có ích lợi gì, chúng góp phần rất nhiều để làm vơi bớt sự khó khăn mà con người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào. Trở lại trường hợp của Mẹ Teresa. Tại sao lại xảy ra phong trào bài Ki Tô Giáo mạnh mẽ ở Ấn Độ? Vì cả Tin Lành lẫn Ca Tô Giáo đều vẫn tiếp tục lợi dụng sự nghèo khổ của đám dân thấp kém trong xã hội, tiếp tục dùng những thủ đoạn phi tôn giáo như bài bác Ấn Độ giáo, dùng bả vật chất để truyền đạo, và nhất là xử dụng vũ khí hữu hiệu nhất của Ca Tô Giáo: bình phong “từ thiện” đi kèm với phương tiện truyền thông để tô hồng quảng cáo cho Ca Tô Giáo trong khi thực chất của việc từ thiện là để thu nhặt tín đồ và khai thác lòng nhân từ của quần chúng để vơ vét tiền bạc cho Vatican. Trường hợp điển hình là việc thành lập dòng “Thừa sai bác ái” của bà Teresa mà cái tên của nó đã nói lên thực chất sử dụng “bác ái” làm một vũ khí truyền đạo. Qua phương tiện truyền thông với những hình ảnh làm mủi lòng quần chúng, bà Teresa đã được thổi phồng lên như một thánh nhân, thực hiện chủ trương bác ái của giáo hội. Kết quả là tiền vào như nước nhưng chỉ có một phần nhỏ được chi dùng cho các hoạt động mang danh “từ thiện”. Những người đóng góp tin tưởng rằng tiền của mình đóng góp sẽ được dùng trong những công tác từ thiện vị tha của giáo hội. Nhưng sự thật đằng sau tổ chức “Thừa sai bác ái” để làm công việc “từ thiện” này ra sao, và thực chất con người của bà Teresa ra sao, ngày nay chúng ta đã biết rõ. Trong thế giới ngày nay, khó ai có thể che dấu được những việc mờ ám, nhất là khi người đó là một nhân vật nổi tiếng như bà Teresa. Muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Bà Teresa không ý thức được chân lý này nên kết quả là người ta đã phanh phui ra những chuyện động trời sau bức màn “Thừa sai bác ái” (sic) của bà Teresa. Một vài tài liệu nghiên cứu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David Gates có điểm cuốn sách Lập Trường Thừa Sai: Mẹ Teresa Trong Lý Thuyết Và Thực Hành (The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and in Practice) của Christopher Hitchens viết về bà Teresa. Theo Hitchens thì "Mẹ Teresa là một kẻ "mị dân" chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực thế gian.", thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Tòa Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đầy đủ lý lẽ , ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn cắp món tiền mà hắn đã biếu cho Mẹ, và đề nghị Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các "sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý"; Mẹ đã không hề hồi âm. Hitchens cũng ghi chú rằng Mẹ đã vào "điều trị ở một vài bệnh viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương." Hitchens lý luận rằng "Mẹ làm công việc từ thiện không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong một ngày nào đó được kể như một vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo hội." (Hitchens' Mother Teresa is an anti abortion "demagogue" and a "servant of earthly powers," cozying up to such a slime as S & L (Savings & Loans) swindler Charles Keating, on whose behalf she wrote to Judge Lance Ito during his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a deputy D.A. explained to her how Keating stole the money he'd donated and suggested she return it to "its rightful owners"; she never answered. ...Hitchens notes, she herself has "checked into some of the finest and costliest clinics and hospitals in the West." She does charitable work, he argues, "not for its own sake but...so that she may one day be counted as the beatific founder of a new order and discipline within the Church itself.") Ngoài ra, một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba, đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát những "cơ sở từ thiện" của bà Teresa và tìm hiểu sự thực về những "công cuộc từ thiện" của bà Teresa. Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm được viết thành cuốn Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Được Tạo Nên (Mother Teresa: Beyond The Image), Doubleday, New york, 1997, trong đó tác giả đã dùng hơn nửa cuốn sách dày gần 300 trang để viết về một số những sự thực về cái gọi là "công cuộc từ thiện" của bà Teresa mà chính tác giả đã đích thân đến tận nơi quan sát, tìm hiểu cùng qua nhiều cuộc phỏng vấn những nhân vật có thẩm quyền như bác sĩ, nữ tu, những người đứng đầu các cơ quan từ thiện, những nhân viên thiện nguyện và cả những cựu nữ tu trong dòng "Thừa Sai Bác Ái" (Missionaries of Charity) của bà Teresa (I am full of questions and have put as many as I can to people qualified to answer them including doctors, nuns, heads of charities, volunteers and former Missionaries of Charity). Sau đây là vài điểm chính mà tác giả, Anne Sebba, đã khám phá ra: * Về tiểu sử, bà Teresa không có gì đặc biệt, chúng ta thấy cùng một niềm tin tôn giáo đã hướng dẫn bà trong mọi việc. * Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính KiTô hóa quốc gia này trong 400 năm qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm "việc thiện", chứng tỏ "lòng nhân từ" của Bà. Bà không phải là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề ngoài. (Trong cái niềm tin của Bà Teresa, bà cố ý lờ đi chuyện những đau khổ, bất hạnh của con người cũng là do Chúa tạo ra. Cũng như gần đây GH John Paul II tuyên bố: Mẹ Teresa là quà của Thượng đế cho những người nghèo khổ (gift of God for the poor) nhưng Ngài không hề nói tới những người nghèo khổ là quà của Thượng đế cho ai? Chắc là cho Bà Teresa để Bà có cơ hội làm việc thiện vinh danh Chúa. Một mặt Chúa tạo ra những đau khổ, một mặt khác Chúa nhờ bà Teresa, qua dòng "Thừa sai bác ái", quảng bá lòng thương của Chúa qua những việc từ thiện chỉ có tính cách tượng trưng. Ấy thế mà vẫn có nhiều người ca tụng lòng yêu thương của Chúa đối với nhân loại, và lòng "bác ái" của bà Teresa. TCN) Tác giả Anne Sebba còn đưa ra nhiều hình ảnh của bà Teresa, trái ngược hẳn với những hình ảnh đã được bộ máy tuyên truyền của giáo hội trên thế giới đưa ra, thí dụ như: "đạo đức giả, ve vãn giới truyền thông, thân cận với một số lãnh tụ độc tài trên thế giới, bất minh về vấn đề tiền bạc, nhận tiền thụt két nhà băng của một tên lừa đảo (Charles Keating) và khi Tòa án viết thơ khuyên Bà nên trả lại số tiền đó thì lờ đi không trả lời, dùng tiền của thiên hạ đổ vào các tu viện thay vì nhà thương và để cho các cơ sở từ thiện rất thiếu thốn, mù quáng theo lệnh của Vatican chống mọi kế hoạch hóa gia đình v..v.." Đó là thực chất những công việc "từ thiện" của bà Teresa, người mà các tín đồ Ca Tô được nhồi vào trong đầu óc hình ảnh của một Thánh nhân. Ngày nay, đã có thêm nhiều tài liệu về bà Teresa do chính những người trước đây cộng tác với bà, như các sơ (soeur, sister), viết ra. Họ không phải là người ngoài mà là chứng nhân trong cái gọi là dòng tu "Thừa sai bác ái" của bà Teresa. Hình ảnh của bà Teresa mà họ đưa ra không thánh thiện như giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ mà thực ra là : đạo đức giả, lừa bịp, gian dối, tàn nhẫn, cuồng tín, lạc hậu v..v... như chúng ta sẽ thấy trong vài tài liệu sau đây. Để quảng cáo kiếm tiền, Giáo hội đưa ra hình ảnh bà Teresa đang bồng ru một em bé Ấn độ ốm yếu, làm mủi lòng nhiều người. Giáo hội cũng quảng cáo là dòng "Thừa sai bác ái" của bà Teresa đã thiết lập những "cơ sở từ thiện" trong hơn 25 quốc gia với những nhà thương, viện mồ côi, trường học v..v.. Việt Nam, có lẽ đã biết rõ thực chất những "hoạt động từ thiện" của bà Teresa nên đã từ chối, không chấp nhận đề nghị lập viện mồ côi tại Việt Nam của bà Teresa ngay khi Mỹ còn đang cấm vận. Đây là một quyết định khôn ngoan của chính quyền, không rơi vào cái bẫy "từ thiện để kiếm thêm linh hồn cho Chúa" của thế lực đen quốc tế. Ai cũng biết, công việc "từ thiện" của bà Teresa tập trung ở Calcutta, Ấn độ, và quảng cáo rầm rộ nhất cũng là những hoạt động của dòng "thừa sai bác ái" ở Ấn độ. Những tài liệu của Christopher Hitchens và Anne Sebba ở trên đã cho chúng ta thấy phần nào mặt trái của các cơ sở "từ thiện" đó. Sau khi bà Teresa chết thì có một số “sơ” trước đây đã cộng tác với bà trong tổ chức "Thừa sai bác ái" đã tiết lộ nhiều chi tiết thuộc loại động trời. Thí dụ, sơ Susan Shields đã viết trong tờ Free Inquiry, số mùa đông 1998, tiết lộ rằng: Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các sơ hàng ngày phải đi ăn mày (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa. (Judith Hayes trong The Happy Heretic, p. 66-67) Trước những tiết lộ trên của sơ Shields, một ký giả viết cho Knight Ridder, Clark Morphew, đã viết bài biện bạch cho bà Teresa, nhưng chính những lý luận biện bạch này lại càng làm sáng tỏ thực chất công cuộc "từ thiện" của bà Teresa. Morphew viết rằng bà Teresa tin rằng sự đau khổ của con người là một điều tốt, và ngừa thai bao giờ cũng sai. (..among Teresa's beliefs were the ideas that suffering is good and ..birth control is always wrong.); chủ tâm của bà Teresa không phải là xóa nghèo và nạn mù chữ. (wiping out poverty and illiteracy was not Teresa's focus). Morphew cũng còn viết là người ta sẽ tiếp tục chỉ trích bà Teresa cho đến khi có "một sự cải tiến sâu rộng" (criticism of Teresa will continue until "some serious reform comes about), và rằng sơ Nirmala, người thay thế bà Teresa điều hành dòng "thừa sai bác ái" có thể có những thay đổi rộng lớn. (Since Sister Nirmala had taken over the reigns as Teresa's successor, "grand changes could happen") Bình luận về những lời biện bạch trên của Clark Morphew, nữ học giả Judith Hayes đã đặt ra vài câu hỏi: Nếu những nhà thương của bà Teresa được tài trợ rộng rãi mà được điều hành một cách trôi chảy không có vấn đề gì, lương thiện và bác ái, thì tại sao lại cần phải có bất cứ sự cải tiến sâu rộng nào? và tại sao lại cần những thay đổi rộng lớn nếu không có sự sai lầm trong đó? Tác giả Judith Hayes còn phê phán: Tôi chưa từng nghe thấy một người nào có lòng bác ái mà nghĩ rằng sự đau khổ của con người là một điều tốt. Bác ái là đức tính tối thiểu của một người mà chúng ta cho là xứng đáng được phong Thánh. Nếu những điều Morphew viết là đúng thì chúng ta phải đặt bà Teresa đâu đó giữa sự tàn ác và ngu đần, mà hay thay, trong tự điển từ Thánh (Saint) nằm giữa 2 từ Tàn Ác (Sadistic) và Ngu Đần (Stupid). Tác giả đã chơi chữ ở đây: (If all of that is true, it places Teresa somewhere between "sadistic" and "stupid" which, interestingly, is where "saint" appears in the dictionary) Để hiểu rõ hơn con người của bà Teresa, sau đây là một số chi tiết trong cuốn The Missionary Position của Christopher Hitchens. Chúng ta hãy duyệt qua một số tư tưởng, quan niệm vĩ đại của Thánh Teresa. Trong khi ngồi trên hàng triệu đô-la ở trong các ngân hàng, bà Teresa bày tỏ quan niệm như sau: "Tôi nghĩ rằng thật là quá đẹp cho những người nghèo chấp nhận số phận của họ.. thế giới đang được phục vụ nhiều bởi sự đau khổ của những người nghèo" (Hitchens, p.11: Mother Teresa said: I think it is very beautiful for the poor to accept their lot...the world is being much helped by the suffering of the poor people). Tôi nghĩ đây là một quan niệm thần học tệ hại cần phải lên án trong một thế giới mà tất cả nỗ lực tập trung vào việc giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Đây là quan niệm, đúng hơn là sách lược ru ngủ của các thừa sai, tuyên dương sự nghèo khổ bảo đó là ý của Chúa. Tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề. 1. Khi được hỏi là bà có đồng ý là ở Ấn Độ có quá nhiều trẻ con hay không, bà Teresa đã trả lời: "Tôi không đồng ý vì Thiên Chúa bao giờ cũng cung cấp đầy đủ" (Ibid., p. 30: I do not agree because God always provides). Câu trả lời là một câu mạ lỵ những người có đầu óc và có tình thương thực sự. Thật vậy sao? Nếu thực sự là có một Thiên Chúa có thể cung cấp đầy đủ cho tất cả thì thực trạng thế giới đã chứng tỏ là Thiên Chúa không muốn làm như vậy. Bà Teresa không hề biết là trên thế giới mỗi ngày có khoảng 40 ngàn trẻ con dưới 5 tuổi chết đói. Nếu Thiên Chúa cung cấp đầy đủ cho tất cả thì tại sao ngay trên đất Ấn Độ mà bà làm công việc "từ thiện" cũng có 423 triệu người sống trong sự tuyệt đối nghèo khổ (living in absolute poverty), 73 triệu trẻ em dưới 5 tuổi thiếu dinh dưỡng, và 350 triệu mù chữ? Lẽ dĩ nhiên, đối với bà thì Thiên Chúa quả là đã cung cấp đầy đủ, quá đầy đủ, vì bà ngồi trên đống tiền của thiên hạ đóng góp để bà làm việc "từ thiện". 2. Bà Teresa huấn luyện những sơ dưới quyền bà hỏi những bệnh nhân sắp chết là có muốn một "vé lên thiên đường" hay không? Nếu họ trả lời muốn thì sẽ có ngay một lễ rửa tội cấp bách để kéo họ vào trong Ca Tô Giáo. Nếu chúng ta biết đến lời tuyên bố của giáo hoàng John Paul II là không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây thì thiên đường của bà Teresa đúng là một thiên đường mù. Đó không phải là thiên đường của những người mù mắt mà là của những người mù quáng tin vào một điều mà ngày nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ. 3. Có một bệnh nhân bị bệnh ung thư đang ở thời kỳ cuối, đau quằn quại, sắp chết, nhưng bà Teresa lại nhất định không cho họ thuốc đủ mạnh (tại sao??). Bà đến an ủi họ: "Con nên nghĩ rằng con cũng đang đau đớn như Chúa Giê-su đang bị đóng đinh trên thập giá; Chúa hẳn là đang hôn con đó" Bệnh nhân đó trả lời: "Vậy xin mẹ nói với ông ta là đừng hôn con nữa." ("You are suffering like Christ on the cross. So Jesus must be kissing you." To which the patient replied, "Then please tell him to stop kissing me"). Đối với tôi, trong vụ này, không những bà Teresa là một con người cuồng tín mà còn là ngu đần, tàn nhẫn, và sống xa thực tế. Bà thừa biết rằng không một người nào trên thế gian này lại muốn chịu khổ hình đau đớn như Chúa Giê-su trên thập giá và dù Giê-su có đang hôn thật đi chăng nữa thì cũng không làm cho bệnh nhân bớt đau hay khỏi bệnh. Bởi vậy cho nên bệnh nhân đã từ chối cái hôn của Giê-su. Nhưng hành động như trên của bà thực ra chỉ là một thủ đoạn ru ngủ lừa dối và hết sức đạo đức giả. Vì khi chính bà đau ốm thì bà lại vào những nhà thương Tây phương đắt tiền nhất để chữa trị. Năm 1989 bà đã được gắn một máy để cho tim đập điều hòa (pacemaker). Năm 1993 bà đã được thông một mạch máu bị tắc. Tại sao bà không chịu đựng những sự bất thường đau đớn trong cơ thể bà như là Chúa Giê-su chịu đựng trên thập giá. Tại sao bà không nghĩ rằng những khi bà bị bệnh đó chính là Chúa đang hôn bà? Tại sao bà phải vào những nhà thương đắt tiền nhất, có nhiều phương tiện tối tân nhất, để chữa trị cho bà, trong khi bà không chịu chữa trị đúng mức cho những bệnh nhân trong những nhà thương "từ thiện" của chính bà? Nếu bà muốn thì bà sẽ có đủ phương tiện trong các nhà thương "từ thiện" của bà, vì nhiều triệu đô la do những người hảo tâm đóng góp để cho bà làm việc "từ thiện" còn nằm ì trong các ngân hàng. Chúng ta nên nhớ, theo định chế của Ca Tô Giáo Rô Ma thì những chương mục này thuộc tài sản của Vatican. Chúng ta cũng đừng quên là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã đệ đơn lên chính quyền Việt Nam đòi lại những cơ sở của Ca Tô Giáo ở Việt Nam (phần lớn là do toa rập với thực dân Pháp, chiếm đất Chùa trong thời đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có đất của nhà thờ lớn Hà Nội, đất của nhà thờ Đức Bà ở Saigon, và đất của nhà thờ La Vang v..v.., và do thực dân Pháp trước kia và chính quyền Ca Tô Ngô Đình Diệm sau này ở Nam Việt Nam lạm dụng cường quyền cấp cho) với luận cứ đó là tài sản thuộc Vatican, một luận cứ đần độn, vong bản, phi lý, phản ánh tâm cảnh nô lệ của HĐGM Việt Nam. Với tâm cảnh này thì khi người Ca Tô lên cầm quyền ở Việt Nam tất nhiên mọi đất đai tài sản quốc gia sẽ đều thuộc Vatican hết. 4. Một ác cảnh khác trong các nhà thương "từ thiện" của bà Teresa không thể chấp nhận được là những sơ và những người thiện nguyện làm việc cho bà phải dùng đi dùng lại những ống chích không được tẩy trùng để chích những thuốc vô hiệu lực và thuốc trụ sinh không đủ mạnh cho các bệnh nhân khiến cho họ càng đau đớn trong cơn hấp hối. (Judith Hayes, p. 68: Her employees and volunteers used and reused unsterelized syringes to administer ineffective drugs and mild antibiotics to terminally ill people, who suffered the resulting agonies) Trước những sự thực phũ phàng về bộ mặt "từ thiện" thật của bà Teresa ở trên, tác giả Judith Hayes, người đã từng nổi tiếng với tác phẩm Chúng Ta Tin Thiên Chúa! Nhưng Là Thiên Chúa Nào? (In God We Trust! But Which One?), và cũng là người mà qua những phương tiện truyền thông của Giáo hội đã một thời tin rằng bà Teresa là một vị Thánh sống, sau khi biết rõ sự thực đã vạch trần mặt trái của bà Teresa trong cuốn The Happy Heretic. Sau đây là một số đoạn trong chương 2, trang 62-69, mục Một Khoa Học Gia Và Một Thánh (A Scientist And A Saint), bình luận về giới truyền thông trước cái chết của Carl Sagan (1996) và Teresa (1997). Tôi xin bỏ qua những đoạn viết về khoa học gia Carl Sagan vì tôi cho rằng không thể so sánh Teresa với Carl Sagan: Bà Teresa chỉ nhìn về quá khứ, thời mà người ta cho rằng các phù thủy là có thực, và những chuyện đuổi quỷ ám ra khỏi con người là có nghĩa. Chúng ta không thể tự cho phép nhìn về phía sau. Cảnh xun xoe tán tụng Mẹ Teresa trên khắp thế giới là cơn ác mộng của một người theo chủ nghĩa nhân bản. Ký giả chen lấn nhau để giành lấy máy vi âm và tìm những danh từ quá mức để mô tả cái người gốc Macedonie (Teresa) không có gì nổi bật, đầu óc ở trên mây, với tâm cảnh thuộc thế kỷ thứ 9 này... Thật là một sự tôn sùng nồng nhiệt không nhằm chỗ. Chút ít điều tốt bà làm chẳng đáng gì so với những số tác hại không thể tính được mà bà đã làm. Tài nguyên trên trái đất thì hữu hạn, bất kể đến lập trường đà điểu của Giáo hội Ca-Tô, và chúng ta phải nhìn về tương lai, xử dụng mọi phương tiện khoa học mà chúng ta có, để tránh tai họa đang đe dọa. Điều này gồm có việc ngừa thai một cách khá dễ dàng. Sự đau khổ mà chúng ta có thể phòng ngừa qua phương pháp ngừa thai này thật là vô lượng. Do đó chúng ta không được nhìn về dĩ vãng, cúi đầu trong những lời cầu nguyện vô vọng, trong khi con cháu chúng ta chết. Bà ta thường xuyên rao giảng chống kiểm soát sinh đẻ ngay cả khi xung quanh có những trẻ em chết đói. Khi người ta phỏng đoán về việc phong Thánh cho bà Teresa, người ta đã bàn cãi nhiều về bằng chứng của những phép lạ, một điều kiện để được phong Thánh. Nhưng tôi nói rằng có một bằng chứng rõ ràng về một phép lạ của bà Teresa. Đó là bà đã xoay sở thuyết phục được hàng triệu người tin rằng bà ta là món quà tốt cho nhân loại. Những hoạt động thuộc thời Trung Cổ của bà được gói ghém lại và bán cho nhân loại như là một lợi ích thế gian, thay vì thực chất của chúng là cản trở, ngăn chận sự tiến bộ của con người. Đối với những người theo chủ nghĩa nhân bản, chức vị Thánh thật chẵng có nghĩa gì. Riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ cái gì trong đời sống hoặc ký ức của bà Teresa để mà tôn kính, xét đến sự đau khổ mà bà ta đã tạo ra cho hàng triệu người. "Nhân danh Thiên Chúa" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la rồi vội vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông. "Nhân danh Thiên Chúa", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ tắt hơi... Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là bất cứ bà làm điều gì cho Thiên Chúa là để cho bà được điểm cao (như các em hướng đạo sinh đi bán bánh kẹo, ai bán được nhiều thì được đoàn trưởng gắn huy chương khen thưởng. TCN) trong đời sau. Có lẽ đối với bà ta thế giới này không hề có một ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là cái mê hồn trận thách đố của Thiên Chúa để quyết định xem ai chiếm được mẩu tốt nhất trên thiên đường. Nếu thật là như vậy thì chúng ta có thể giải thích, vì không có gì khác có thể giải thích được, tại sao bà ta có thể nhẫn tâm ngồi trên nhiều triệu đô la như vậy trong khi trẻ con, ngay cả ở nơi bà hoạt động ở Ấn Độ, đang chết đói. Điều này chống lại mọi giải thích hợp lý, và tôi thách đố bất cứ ai, từ Morphew cho đến chính giáo hoàng, có thể giải thích được sự kiện đó. Hiển nhiên là mục đích của bà ta là vơ vét tích tụ tiền bạc. Để làm gì, ai muốn đoán sao thì đoán.. Thật là lạ lùng, không có ai vạch trần những hoạt động đáng nghi ngờ của bà Teresa sớm hơn. Mà chúng ta ai cũng biết chuyện các linh mục hiếp dâm các trẻ em trai, có phải không - vậy tại sao mà những chuyện về bà Tewresa để quá lâu mới bị phanh phui? Câu trả lời thật là đơn giản, Giáo hội Ca Tô Rô Ma có những quyền lực hăm dọa thật đáng sợ. Cho đến khi tác phẩm có tác dụng mở mắt con người của Christopher Hitchen xuất bản năm 1995, cuốn The Missionary Position, tôi không hề biết gì về những hoạt động trong những "nhà thương" của bà Teresa. Cũng như mọi người khác, tôi nghĩ rằng bà ta là một Thánh sống. Tôi đã lầm. Bất kể động cơ hành động của người đàn bà ở Calcutta kia (Teresa) là như thế nào, tôi đã thấy quá đủ những sự đau khổ trong những người đã phải khủng khiếp trùn lại với tư tưởng của bà Teresa: đau khổ là một điều tốt. Đau khổ không bao giờ là một điều tốt. Nhất là ngày nay, khi chúng ta có khả năng làm giảm đi khá nhiều sự đau đớn, hình ảnh tâm thần của những người bất hạnh bị vào một "nhà thương" của bà Teresa thật là đáng buồn và đáng giận. Bộ mặt thật của bà Teresa đã bị phơi bày qua những tài liệu trích dẫn ở trên. Tuy vậy, giáo hoàng vẫn ra Tông Huấn, mục 7, dạy các giáo hội Á Châu phải “tuyên dương Mẹ Têrêsa quá cố của thành phố Calcutta, người nổi tiếng trên khắp thế giới vì đã chăm sóc những người nghèo nhất với lòng yêu thương và vị tha". Điều này chứng tỏ Giáo hoàng bất chấp những sự thực đã được phơi bày về bộ mặt thực của bà Teresa, vẫn tiếp tục tô hồng đánh bóng bà Teresa không chút ngượng ngập và dạy các con chiên thường xuyên sống trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết, do đó luôn luôn cúi đầu tuân phục những điều “đức thánh cha” dạy, phải tuyên dương ca tụng một nhân vật mà thực chất rất đáng khinh, không có gì đáng để ca tụng. Điều này cũng chứng tỏ là bất kể thực chất đạo đức của người Ca Tô như thế nào, chỉ cần người đó làm lợi cho giáo hội là giáo hội tuyên dương đánh bóng mà không cần đếm xỉa đến sự thật. Cũng vì vậy mà Vatican, xưởng sản xuất thánh, để đạt được những mục đích chính trị và mê tín tôn giáo, đã phong thánh bừa bãi cho các Hán gian, Việt gian v..v..dù rằng các thánh trong Ca Tô Giáo chẳng có ý nghĩa cao đẹp gì đối với tuyệt đại đa số nhân loại. Thực ra thì những hành động của bà Teresa được phanh phui ở trên cũng không lấy gì làm khó hiểu vì chúng nằm trong sách lược đi kiếm linh hồn cho Chúa của Giáo hội trên khắp thế giới. Nếu chúng ta theo rõi những vụ kiện các cơ sở từ thiện, viện mồ côi của Ca Tô Giáo ở Canada, Mỹ, Ireland,và Úc Châu v..v.. thì chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ trước những hành động "bác ái" của bà Teresa ở Calcutta. B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25: Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô (If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics). Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập “làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng đánh lừa được nhiều người, kể cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo. Trong vài bài báo người ta đã đặt ra nhiều nghi vấn về cái động cơ chính thúc đẩy bà làm việc thiện. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David Gates có điểm cuốn sách "The Missionary Mission" của Christopher Hitchens viết về Mẹ Teresa. Theo Hitchens thì: "Mẹ Teresa là một kẻ "mị dân" chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực thế gian.", thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Tòa Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đầy đủ lý lẽ , ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn cắp món tiền đểỵ biếu cho Mẹ, và đề nghi Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các "sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý; Mẹ đã không hề hồi âm." Hitchens cũng ghi chú rằng Mẹ đã vào "điều trị ở một vài bệnh viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương." Hitchens lý luận rằng "Mẹ làm công việc từ thiện không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong một ngày nào đó được kể như một vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo hội." (Hitchens' Mother Teresa is an anti-abortion "demagogue" and a "servant of earthly powers," cozying up to such a slime as S & L (Savings & Loans) swindler Charles Keating, on whose behalf she wrote to Judge Lance Ito during his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a deputy D.A. explained to her how Keating stole the money he'd donated and suggested she return it to "its rightful owners"; she never answered. ...Hitchens notes, she herself has "checked into some of the finest and costliest clinics and hospitals in the West." She does charitable work, he argues, "not for its own sake but...so that she may one day be counted as the beatific founder of a new order and discipline within the Church itself.") Đó là thực chất những công việc "từ thiện" của Mẹ Teresa, người mà các tín đồ Gia Tô được nhồi vào trong đầu óc hình ảnh của một Thánh nhân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Theo tài liệu trong cuốn Ba Ngôi Tội Lỗi (Unholy Trinity) của Mark Aarons và John Loftus, xuất bản năm 1990, thì trong số những tội phạm chiến tranh này chúng ta có thể kể Franz D. Paul Stangl, chỉ huy trưởng trại thủ tiêu tập thể Treblinka, trong đó tới 900000 người, phần lớn là Do Thái, bị giết bằng hơi độc; Gustav Wagner, chỉ huy trưởng trại diệt chủng khác, trại Sobibor ở Ba Lan; Aloi Brunner, một sĩ quan cao cấp tàn ác nhất trong chương trình "đem đi dầy và thủ tiêu" dân Do Thái; và nhất là Adolf Eichmann, người đứng đầu "một giải pháp cho dân Do Thái" (a solution for the Jews), nghĩa là, tận diệt dân Do Thái (extermination of Jews), cấp chỉ huy của Stangl, Wagner, và Brunner. Người đứng đầu tổ chức những đường "giây chuột" này mới đầu là Giám mục Alois Hudal ở Rô Ma (Rome), sau được tiếp nối bởi Linh mục Krunoslav Draganovic, có trụ sở ở Rome.. Franz Stangl bị Simon Wiesenthal săn lùng và cuối cùng bị bắt ở Ba Tây (Brazil) năm 1967. Ra tòa, Stangl khai rằng: "Trong thời gian chúng tôi ở trại tập trung (của quân đội đồng minh), chúng tôi đã biết là phải đi tới Rome...Những tín đồ Gia Tô phải liên lạc với Giám mục Hudal, người sẽ cho chúng tôi một thẻ căn cước của cơ quan Hồng Thập Tự quốc tế và rồi một giấy nhập cảnh. ... Sau nhiều tuần, Hudal gọi tôi tới và cho tôi một sổ thông hành mới - một sổ thông hành của cơ quan Hồng Thập Tự...ông kiếm cho tôi một giấy nhập cảnh vào Syria và một công việc trong một hãng dệt ở Damascus.." (During the time we were in the internment camps we knew that we should go to Rome... Catholics should go to Bishop Hudal who would give us an International Red Cross Identity card and then a visa.) ...After several weeks, Hudal called me in and gave me my new passport - a Red Cross Passport...he got me an entrance visa to Syria and a job in a textike mill in Damascus..) Wiesenthal tin rằng Eichmann được Hudal làm cho một căn cước giả, dẫn đi chui tới Genoa, ở trong một tu viện của Tổng Giám mục Siri, và rối trốn sang Nam Mỹ. Nhưng rồi Eichmann cũng bị tình báo Do Thái truy lùng và kiếm ra nơi ẩn náu. Hắn bị Do Thái bắt cóc ở Argentina, mang ra xử và bị hành quyết tại Jerusalem năm 1962. Điều làm cho Wiesenthal giận dữ là một cơ quan cứu trợ tù thiện Gia Tô, Caritas, "đã đài thọ mọi phí tổn để Eichmann đi chui tới Nam Mỹ." (What angers Wiesental is that a Catholic relief organization, Caritas, "paid all of the expenses for Eichmann" to reach South America.) Quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết về những cơ quan "từ thiện" của Gia Tô giáo xin đọc cuốn sách trên, một cuốn sách dày 372 trang mô tả chi tiết về những hoạt động của Vatican trong kế hoạch "từì thiện, bác ái" để "cứu" những phạm nhân chiến tranh Đức Quốc xã. Trong phần kết luận, hai tác giả Aarons và Loftus đã lên án Vatican phạm bốn tội đối với nhân loại, trg. 280-285: 1) Những tội ác chống hòa bình (Crimes Against Peace); 2) Ngăn Cản Sự Thực Thi Công Lý (Obstruction of Justice); 3) Thu nhận những đồ ăn cắp (Receiving Stolen Goods); và 4) Lạm dụng đặc quyền ngoại giao (Abuse of Diplomat privileges). Sau đây là một đoạn ngắn dưới đề mục 2): Ngăn Cản Sự Thực Thi Công Lý, trg. 282: "Những gì mà Giáo hoàng làm sau cuộc chiến còn tệ hơn là không làm gì cả. Thay vì đưa những người Do Thái vô gia cư sang Á Căn Đình, thì những đường giây chuột lại đưa lén Eichmann, Pavelic, Stangl và nhiều tội phạm khác sang đó. Thay vì tố cáo Giám mục Hudal thì Vatican lại thay thế ông bằng Linh mục Draganovic, một nhân vật ít bị người ta chú ý tới, nhưng lại hoạt động hữu hiệu hơn... Những gì mà Vatican làm sau Đệ Nhị Thế Chiến là một tội ác. Bằng chứng rõ rệt cho thấy: Tòa Thánh đã giúp những tội phạm chiến tranh trốn khỏi công lý quốc tế. Những đường giây chuột đã được cố ý tạo ra để giúp đỡ và tiếp tay cho những tội phạm chiến tranh Đức quốc xã đang bị truy lùng trốn thoát. Người ta đã biết từ lâu, trước năm 1945, là Hudal ủng hộ Đức Quốc xã, nhưng hắn vẫn ở tại vị thế có nhiều ảnh hưởng rất lâu sau khi bị công luận phanh phui. Người kế vị Hudal, Linh mục Draganovic, được nhiều cơ sở tôn giáo giúp đỡ, in những thẻ căn cước giả, dùng sổ thông hành của Hội Hồng Thập Tự với những lý do gian dối, và cung cấp phương tiện chuyên trở dưới những tên giả. Những việc trên không phải là những hoạt động từ thiện Ki Tô. Sự đưa lén những tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã đi trốn là sự lạm dụng vô luân những cơ quan từ thiện hợp pháp của Giáo hội." (What the Pope did after the war was worse than doing nothing. Instead of smuggling homeless Jews to Argentina, the Ratlines smuggled Eichmann, Pavelic, Stangl, among many others. Instead of denouncing Bishop Hudal, the Vatican replaced him with a less conspicuous, but far more efficient and effective operative in the form of Father Draganovic. What the Vatican did after World War II was a crime. The evidence is unequivocal: the Holy See aided the flight of fugitives from international justice. The Rat lines were intentionally created to aid and abet the escape of wanted Nazi war criminals. Hudal was known for his Nazi affinitieslong before 1945, yet retained his influential position long after he was publicly exposed. His successor, Father Draganovic, was assisted by several religious orders which printed false identity cards, procured Red Cross passports under false pretences, and provided transport under false names. These were not acts of Christian charity. The clandestine Nazi-smuggling immorally misused the Church's legitimate charitable organizations.) Tới đây, hẳn chúng ta đã thấy thực chất những công việc "từ thiện" cỡ quốc tế của Tòa Thánh Vatican. Điều hiển nhiên là ở trên trái đất này không phải chỉ có Gia Tô Giáo mới làm việc từ thiện. Bất cứ nơi nào có những cảnh khổ trong xã hội bất cứ vì lý do gì, thiên tai, lụt lội, đói kém, bệnh tật v..v.. lòng con người lại mở để góp phần làm vơi bớt những nỗi đau khổ của đồng loại. Trong hầu hết các xã hội khác, tôn giáo khác, việc từ thiện bao giờ cũng phát xuất từ những tấm lòng, thương người vị tha. Chỉ có Gia Tô giáo làm việc thiện cho những mục đích bất thiện: dùng bả vật chất để khuyên dụ người đi đạo, làm việc thiện để lấy tiếng, kiếm thêm tín đồ cho Chúa, hoặc với mục đích chính trị nhơ nhớp như vừa được trình bày ở trên. Ở đây tôi chỉ nói đến sách lược chung của Giáo hội chứ không nói đến cá nhân tín đồ Gia Tô trong đó chắc chắn có nhiều người có lòng bác ái thuần túy không thua gì những người trong các tôn giáo khác. Ai cũng biết Giáo hội Gia-Tô La Mã là một tổ chức giàu có nhất thế giới với đầy đủ các phương tiện truyền thông để tạo nên một hình ảnh theo ý Giáo hội về các công cuộc "từ thiện" mà giáo hội muốn cho quần chúng, và nhất là những tín đồ ở các nước kém mở mang, phải tin và tôn thờ. Nhưng ở thế giới văn minh Âu Mỹ này thì không gì có thể qua mắt được những chuyên gia đầy đủ khả năng về mọi vấn đề, những người có tinh thần tôn trọng tuyệt đối sự thực và quyền tự do phát biểu ý kiến. Cho nên, thường thường trước sau gì rồi cái mặt trái của một chiếc mề đay cũng phải phơi bày. Cổ nhân đã dạy: muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Chân lý này không bao giờ thay đổi. 6.4. Chiêu Bài "Hòa Hợp Tôn Giáo" của Giáo Hội Gia Tô. Như chúng ta đã biết, sau Đệ Nhị Thế Chiến, với mặc cảm tội lỗi, và trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Gia Tô không còn chọn lựa nào khác, vì quyền lực thế tục đã mất, không còn khả năng bách hại những người ngoại đạo bằng những hành động bất nhân tàn ác, là phải đưa ra chiêu bài hòa hợp tôn giáo qua Công Đồng Vatican II. Thực ra, phong trào "hợp tác tôn giáo" đã do Giáo Hội Tin Lành đề xướng và phát triển từ lâu. Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong cuốn Tài Liệu Vatican II Với Những Ghi Chú, Bình Luận của Những Giới Chức Có Thẩm Quyền Gia Tô, Tin Lành và Chính Thống Giáo (The Documents of Vatican II: With Notes and Comments by Catholic, Protestant and Orthodox Authorities) , Walter M. Abbott làm Tổng Chủ Bút (General Editor): "Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Gia Tô La Mã để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất giáo hội. Cho đến năm 1959, ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 tháng Giêng, là hi vọng giáo dân Tin Lành sẽ "trở lại" giáo hội chân thật duy nhất (nghĩa là Gia Tô La Mã) và Chính Thống Giáo sẽ dẹp tiệm. Cũng trong những thập niên này, những tín đồ Tin Lành đã tham gia vào cái về sau đư/ợc gọi là "phong trào hợp tác tôn giáo". Sự phát triển thành hình Công Đồng Giáo Hội Toàn Cầu, sự gia tăng trong việc tập hợp các giáo hội Tin Lành địa phương trên hoàn cầu, sự kết hợp của các giáo hội, tất cả những hoạt động trên biểu thị một đư/ờng hư/ớng thống nhất. Giáo hội Gia Tô La Mã vẫn đứng ở ngoài xa. Ở Âu Châu có những trung tâm điều nghiên Gia Tô quan sát canh chừng những sự phát triển này, nhưng đại cương thì giáo hội chỉ canh chừng và cầu nguyện, chứ không tham gia cuộc đối thoại hay cầu nguyện của các giáo hội Tin Lành. Thế rồi Giáo Hoàng John XXIII lên ngôi và ngày 25 tháng 7 năm 1959 ngài loan báo ý định triệu tập một công đồng hợp tác tôn giáo." (Each year in January, for many decades, Roman Catholics have offered eight days of prayer for Church unity. Until 1959, the general idea behind those days of prayer, January 18-25, was the hope that the Protestants would "return" to the one true Church, and that the Orthodox schism would end. Throughout those same decades, Protestants became more and more involved in what had come to be called the "ecumenical movement." The development of the World Council of Churches, the growth of national and world-wide groupings of Protestant Churches, the merges of Churches - all these expressed the groping toward unity. The Roman Catholic Church remained aloof. There were Catholic centers of study in Europe that watched developments, but, in general, the Church watched and prayed without joining in the dialogue and prayer of the Protestant Churches. Then came Pope John XXIII and, on January 25, 1959, he announcement of his intention to call an Ecumenical Council.) Vậy, căn bản thì phong trào hợp tác tôn giáo là để thống nhất các giáo hội Thiên Chúa Giáo: Gia Tô, Tin Lành, và Chính Thống. Thật vậy, "bản dề nghị sắc lệnh hòa giải hòa hợp tôn giáo (conciliar Decree on Ecumenism) gồm có 5 chương. 3 chương đầu nói về nguyên tắc và cách thực hành hòa hợp tôn giáo và những giao hệ với các giáo hội Tinh lành và Chính Thống. Chương thứ tư nói về sự giao hệ với người Do Thái; chương thứ năm về tự do tôn giáo." (There were five chapters. The first three covered principles and practices of ecumenism and relations with Protestant and Orthodox Churches. The fourth chapter was on the relations with the Jews; the fifth was on religious freedom.) Ngày 21 tháng 11 năm 1964, sắc lệnh được chấp thuận với 2107 phiếu thuận và 11 phiếu chống. Giáo hội Gia Tô La Mã đã chính thức tham gia phong trào hợp tác tôn giáo Trong sắc lệnh này, chương thứ tư nói về Do Thái đã được Hồng Y Bea mở rộng để thêm vào đó một bản tuyên ngôn liên hệ đến các tôn giáo phi-Ki-Tô (non-Christian religions). Tuy nhiên, đọc toàn bộ văn kiện chúng ta không thấy một văn kiện nào nói về sự hợp tác tôn giáo với các tôn giáo phi-Ki-Tô mà chỉ có một "Bản Tuyên Ngôn về Mối Giao Hệ của Giáo Hội với các Tôn Giáo phi-Ki-Tô" (Declaration on the Relationship of the Church to non-Christian Religions). Và ngay trong bản tuyên ngôn này, tòa Thánh vẫn khẳng định là Thượng đế đã tạo dựng giống người và con người chỉ có thể có một đời sống tôn giáo đầy đủ nhất trong Chúa Ki-Tô v..v.. (For all people comprise a single community, and have a single origin, since God made the whole race of men dwell over the entire face of the earth... Indeed, she (the church) proclaims and must ever proclaims Christ, "the way, the truth, and the life", in whom men find the fullness of religious life, and in whom God has reconciled all things to Himself.) Một khi đã chấp chặt quan niệm chân lý chỉ có một thì mọi đối thoại để đi đến sư hòa giải và hợp tác tôn giáo trở nên vô ích, và bản chất của cái gọi là "hợp tác tôn giáo" chỉ ở trên đầu môi chót lưỡi. Đầu môi chót lưỡi đã mở nhưng tâm thức vẫn còn khép kín trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc của Ý Thức Hệ La Mã" (The thick darkness of Romanism). Muốn hiểu rõ hơn, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu thêm một chút về lý do tại sao tòa Thánh Vatican lại đột nhiên đưa ra chiêu bài "hợp tác tôn giáo" Lý do chính là, nhân loại càng ngày càng văn minh tiến bộ, nhất là ở các phương trời Âu Mỹ, cho nên con người không còn chấp nhận sự hẹp hòi của Gia Tô Giáo nữa, như Linh Mục dòng Tên Malachi Martin đã nhận định trong cuốn "The Keys of This Blood": "The sophisticated West can take Catholicism's narrowness no longer. The Pope realizes that.", và trước sự phát triển của Tin Lành và nhất là Hồi Giáo nên tòa Thánh bắt buộc phải dùng lá bài "hòa hợp tôn giáo" để chỉnh trang lại cái bộ mặt của mình trong cái cộng đồng thế giới đa nguyên này. Thực chất của những sách lược này ra sao, chúng ta phải nhìn kỹ vào những gi Giáo hội đã làm chứ không nên chỉ nghe những gì Giáo hội nói. Trước hết là vài nhận xét. Bản tuyên ngôn của Giáo hội về vấn đề hòa hợp tôn giáo thực tế chỉ có trên giấy tờ, vì cho tới ngày nay, hơn 30 năm sau, Giáo hội vẫn không có hành động hòa hợp tôn giáo nào cụ thể. Thực chất sách lược hòa hợp tôn giáo của Giáo hội Gia Tô La Mã ra sao? Vài tài liệu sau đây hi vọng sẽ làm sáng tỏ vấn đề. Avro Manhattan viết trong cuốn "The Vatican's Holocaust", xuất bản năm 1986, như sau: "Giáo hội Gia Tô đột nhiên tham gia hợp tác tôn giáo là một sách lược cổ điển để làm cho người ta quên đi cái bản chất bất khoan dung vẫn tồn tại trong giáo hội. Chúng ta phải nhớ rằng nếu các tòa án xử dị giáo đã được bãi bỏ từ giữa thế kỷ trước thì cái Văn Phòng Thánh, nguồn cảm hứng và công cụ của các tòa hình án mới chỉ được "dẹp bỏ" mới vài năm naỵ Thực ra, Văn phòng này còn đang hoạt động dưới một cái tên hoa mỹ ở giữa những bức tường kín đáo trong Vatican. (Cơ quan truyền bá đức tin (Congregation for the Propagation of Faith). TCN) Một trong những nhiệm vụ chính của văn phòng này là làm sao cho cái lò sát sinh ở Croatia và cái chế độ gia tô độc tài ở Việt Nam được quên đi, và trở thành một mẩu ghi chú của lịch sử xa xôi. Sách lược này đã thành công một phần...Không như những trại tập trung kinh khủng của Hitler và Stalin, các trại tập trung ở Croatia và cảnh Phật tử tự thiêu ở Việt Nam, một hình thức phản đối sự can thiệp khủng bố tôn giáo của Vatican, đã trở thành những cấm kỵ trong diễn đàn truyền thông thế giới. (Bây giờ chúng ta đã hiểu tại sao ở ngoại quốc có cả một chiến dịch phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm cũng như xuyên tạc và bôi nhọ các cuộc tự thiêu chống Diệm của Phật Giáo) Những đoan quyết căn bản của Gia Tô chưa bao giờ thay đổi tí nào. Cho đến nay cũng như tự bao giờ, sự chấp chặt của Giáo hội Gia Tô trên tính chất duy nhất của giáo hội vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì những chấp chặt này mà đã xảy ra tòa án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Gia Tô ở Việt Nam. Nếu quá khứ là một dấu hiệu về những việc xảy ra trong tương lai thì, khi nắm được cơ hội và ở trong một bối cảnh chính trị thích nghi, những tòa án xử dị giáo mới, những Croatia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi nào, ở đâu và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được." (The Catholic Church's sudden espousing of Ecumenism was a classic device to make people forget that her basic spirit of intolerance is still with her. It must be remembered that if the Inquisition was banned, against her will, only during the middle of the last century, the Holy Office, its inspirer and instrument was "abolished" only a few years ago. In fact, that it is operating, disguised under a specious name, in the silent walls of the Vatican of today. One of its main current tasks is to make sure that the Croatian Holocaust and the Catholic dictatorship of Vietnam are forgotten, and become a mere footnote of remote history. It has partially succeeded...Unlike Hitler's and Stalin's horrigic concentration camps, the Croatian ones and the Buddhist self-immolation in Vietnam, as a protest against the Vatican's religious terroristic interference, have already become taboos to the mass media of the World. ...The Basic Catholic claims have never changed one single iota. The Catholic Church's insistence about her own uniqueness has remained as granitically firm now, as it has always been. These are the same claims which produced the Inquisition, Croatia and the Catholic Dictatorship of Vietnam. If the past be an indication of the shape of things to come then, given the right opportunities and appropriate political climate, New Inquisition, New Croatias and New Vietnams will be created again and again. When, where and how, only the future will tell) Trong cuốn "Letters to an Ex-Priest", linh mục Emmet McLoughlin viết như sau: "Chủ nhân của sự chuyên chế tư tưởng con người" trong nhiều thế kỷ (nghĩa là, Giáo Hội Gia Tô) nay đã khoác cái áo huynh đệ hợp tác tôn giáo, được bảo vệ bởi cái khẩu hiệu "khoan dung" để quyến rũ những nhà cầm quyền cao cấp.." (The centuries-old mistress of "tyranny over the mind of man" (i.e., the Catholic Church) clothed now in the robe of Ecumenical Brotherhood, protected by the slogan of "tolerance", seduces the rulers in high places) Giáo sĩ (Rabbi) David Polish thì cho rằng: "Bản tuyên ngôn của Công Đồng Vatican có vẻ kênh kiệu và thiếu tinh thần hòa giải. Giáo sĩ cho đó là "một thông cáo đơn phương của một phe tin tưởng rằng có thể chỉnh trang bộ mặt theo ý mình về một sự sai lầm không được thú nhận"" (Rabbi David Polish finds the Vatican Council Declaration condescending and lacking the spirit of reconciliation. He refers to it as "a unilateral pronaoncement by one party which presumes to redress on its own terms a wrong which it does not admit.) Và, Giám Mục Emile de Smedt, phát ngôn viên của ủy ban soạn về đề mục tự do tôn giáo đã đưa ra nhận xét sau đây trước Công đồng linh mục ngày 19 tháng 11 năm 1963: "Nhiều người phi-Gia-Tô đã nuôi sự thù ghét đối với giáo hội, hay ít ra cũng nghi ngờ đó là một loại chủ thuyết Machiavelli (nghĩa là chỉ cần đạt được mục đích bất kể đạo đức. TCN), vì đối với họ chúng ta có vẻ như là khi ở thế thiểu số trong quốc gia nào thì chúng ta đòi hỏi phải được tự do tôn giáo nhưng cùng lúc lại từ chối hay tước bỏ cùng sự tự do tôn giáo đó của họ nếu chúng ta ở thế đa số. Tại sao lại nói đến đối thoại với các người Ki-Tô khác, với người Do Thái, với tất cả những người phi-Ki-Tô (non-Christians) khi thực ra về lý thuyết cũng như thực hành, giáo hội Gia Tô La Mã không tôn trọng cái tự do của những người phi-Gia-Tô. Bất cứ kế hoạch hòa hợp tôn giáo nào của giáo hội Gia Tô cũng sẽ hoàn toàn vô hiệu quả và hoàn toàn vô nghĩa trừ phi giáo hội tuyên bố rõ ràng và với thẩm quyền rằng giáo hội sẽ tôn trọng sự tự do của các tín ngưỡng khác, dù rằng giáo hội có quyền hành hay cơ hội có thể làm khác, và rằng giáo hội phải dựa trên căn bản tự do tôn giáo, lên án sự bất khoan dung, bách hại và kỳ thị ." (Many non-Catholics harbor an aversion against the Church, or at least suspect it of a kind of Machiacellianism, because we seem to them to demand free exercice of religion when Catholics are in a minority in any nation and at the same time refuse and deny the same religious freedom when Catholics are in the majority. Why speak about dialogue with other Christians, with Jews, with all non-Christians, if, in theory or in fact, the Roman Catholic Church does not respect the freedom of non-Catholic religions? Every ecumenical "move" of the Catholic Church will be completely fruitless and devoid of any real meaning unless the Church states clearly and authoritatively that it will respect the liberty of other believers, even if it has the power or the occasion to do otherwise, and that it condemns intolerance, persecution and discrimination on grounds of religious liberty.) Đó là thực chất của sự "hợp tác tôn giáo" mà Vatican phát động từ năm 1965. Bây giờ đến một vấn đề thực tế nhất là sau khi cho phổ biến bản tuyên ngôn về hòa hợp tôn giáo thì giáo hội đã đạt được những thành quả nào trong việc thực thi hòa giải hòa hợp tôn giáo? Chúng ta không mấy quan tâm đến những việc thuộc các tông phái Ki Tô Giáo nhưng có những sự kiện sau đây cần biết: Gia Tô La Mã, Chính Thống Giáo, và Hồi Giáo vẫn tiếp tục giết nhau ở Bosnia. Gia Tô và Tin Lành vẫn giết nhau ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Đối với các tôn giáo phi-Ki-Tô thì, ở Thái Lan, lợi dụng tinh thần khoan dung tôn giáo của dân Thái, giáo hội Gia Tô ở Thái, tuy chỉ chiếm khoảng 1% dân số, đã có những hành động xâm nhập phá Phật Giáo và phổ biến những tài liệu có tính cách hạ thấp dân Thái và Phật Giáo. Theo tài liệu trong cuốn "Một Âm Mưu Phá Ngầm Phật Giáo" của Viện Đại Học Mahakamut, Thái Lan ("A Plot to Undermine Buddhism", Mahakamut University, Thailand, 1987) thì ngày 10 tháng 5, 1984, Hiệp Hội Bảo Vệ Đạo Pháp Thái Lan đã gửi cho Giáo hoàng John Paul II một kháng thư nhân dịp ông tới Thái Lan. Sau khi phàn nàn về việc Giáo hội Gia Tô La Mã tại Thái Lan xâm nhập Phật Giáo với nhiều hành động sai trái, theo chỉ thị của Vatican, có bằng cớ dẫn chứng (The Roman Catholic Church in Thailand has intruded Buddhism with many injust actions as shown in the attached Protesting Memorandum), Hiệp Hội yêu cầu John Paul II ra lệnh cho các tín đồ Gia Tô hãy chấm dứt xuyên tạc và phá Phật Giáo (To stop the Catholics here in Thailand from distorting and subverting Buddhism). Ngoài ra, năm 1994, John Paul II đã viết cuốn "Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng" (Crossing the Threshold of Hope) trong đó Ngài đã xuyên tạc và hạ thấp một số tôn giáo phi Ki Tô, đặc biệt là Phật Giáo. Những sự kiện vừa nêu trên chứng tỏ bản chất của Gia Tô La Mã giáo không hề thay đổi, đúng như nhận định của Avro Manhattan. Điều này cũng làm cho các quốc gia nghèo khó, chậm tiến, phi Ki Tô luôn luôn phải đề phòng những âm mưu, hành động phi dân tộc và tất nhiên phản dân tộc của một số không nhỏ tín đồ Gia Tô nội trùng. Đó là khi ở thế yếu mà Gia Tô Giáo địa phương còn làm càn như vậy, nếu họ ở thế mạnh, nắm trong tay chính quyền, thì không biết họ còn lộng hành tới đâu. Những biện pháp bóp nghẹt tự do, tiêu diệt các tôn giáo khác của Palevich ở Croatia, của Franco ở Tây Ba Nha, và Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam là những sự kiện lịch sử tương đối mới mẻ, quốc gia nào mà không biết đến những sự kiện này và do đó không lưu tâm đề phòng thì những cảnh trên rất có thể lại tái diễn. Tại sao phải đề phòng? Vì những tín đồ Gia Tô ở các nước nghèo khổ, chậm tiến, vẫn còn tinh thần nô lệ Vatican cao độ và cuồng tín hơn những tín đồ Gia Tô ở bất cứ quốc gia văn minh tiến bộ nào trên thế giới. Cho nên, muốn giảm thiểu cái hiểm họa Gia Tô, cách tốt nhất là mở mang dân trí, cho người dân biết những sự thực về tôn giáo nói chung, Gia Tô Giáo nói riêng. Mở mang dân trí phải được coi như là một quốc sách, một sách lược mà các quốc gia tân tiến Âu Mỹ đã thi hành. Một khi dân trí đã mở mang như ở các nước văn minh tiến bộ thì sự cuồng tín của các tín đồ Gia Tô sẽ bớt đi và nguy cơ lộng hành của Gia Tô Giáo cũng bớt đi, và người dân nói chung không dễ bị lường gạt bởi những thông tin, hứa hẹn hão huyền, sai sự thực. Lịch sử cho thấy, Giáo hội rất sợ giáo dân biết tới những sự thực về Gia Tô Giáo. Điển hình là gần đây ở Việt Nam, Giáo hội đã cho tín đồ đi thu mua cuốn "Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II", Giao Điểm xuất bản, để ngăn chặn sự phổ biến tác phẩm có giá trị này nơi quần chúng. Đây là chính sách ngu dân của Giáo hội đã được thi hành qua nhiều thế kỷí nhưng đã trở thành vô hiệu ở bên phương trời Âu, Mỹ kể từ đầu thế kỷ 20. Tại sao lại vô hiệu? Vì càng thu mua thì dân chúng càng tò mò muốn đọc, và các con buôn lợi dụng tình trạng này, lại càng in thêm ra nhiều nữa để kiếm lời. Rút cục, mục đích ngăn chặn không đạt được mà lại còn giúp cho sự phổ biến rộng rãi hơn. Vì vậy, ngày nay Giáo hội hoàn toàn làm ngơ trước những tác phẩm thuộc loại trên, vì càng lên tiếng thì càng có nhiều người biết, và điều này có ảnh hưởng đến các tín đồ không ít. Một mặt khác, việc thu mua và tiêu hủy những tác phẩm trong đó có những tài liệu vạch ra những sự sai trái của Giáo hoàng và Giáo hội đã có phản ứng ngược lại: đó là Giáo hội thú nhận và sợ những sự thực viết trong những tác phẩm kể trên, đồng thời chứng tỏ sự yếu kém và thiếu tự tin của Giáo hội về những giáo điều Giáo hội đưa ra, không còn có tính cách thuyết phục con người văn minh tiến bộ nữa. Cũng như không ai có thể lấy bàn tay che nổi mặt trời, Giáo hội Gia Tô không thể nào bưng bít sự thật bằng những hành động thu mua phản trí thức, phản tiến bộ. Với quyền lực về chính trị và tiền bạc như Giáo hội Gia Tô toàn cầu mà còn làm không nổi, thử hỏi Giáo hội Gia Tô nhỏ nhoi như ở Việt Nam làm sao có thể ngăn chặn được chiều hướng mở mang trí óc người dân, và ngăn chặn được đến bao giờ?

0 nhận xét:

Đăng nhận xét