đăng ngày 21 tháng 10, 2007 |
Lời Nói Đầu
Người được gọi là Đức Mẹ Mary của Công Giáo, trong lịch sử Công Giáo, đã hiện thân ra rất nhiều nơi, tùy theo sự dàn dựng của Giáo hội Công Giáo Mẹ ở Vatican, thí dụ như ở Fatima, hay của các giáo hội Công Giáo địa phương, thí dụ như La Vang, Lộ Đức, Guadalupe v..v.., hoặc tùy theo sự tưởng tượng của con người, thí dụ như hình vết nước rỉ trên bức tường dưới gầm cầu ở Chicago, vết loang lổ trên một vựa chứa thóc, trên một chiếc bánh “Pancake” mà một thực khách đang ăn trong một tiệm ăn, và hàng trăm nơi khác trên thế giới. Có một câu hỏi là, Mary hiện ra để làm gì, có ích gì cho nhân loại, và đã thực hiện được những gì cụ thể những điều mà người ta cho là bà ta nói, và không nói, ở những nơi hiện ra? Câu hỏi như trên thường không được mấy người, kể cả giáo hội Công Giáo bàn đến. Giáo hội chỉ quan tâm đến sự kiện là, mỗi lần hiện ra ở những nơi như vậy lại có nhiều tín đồ đổ xô đến chiêm bái, cầu nguyện, mà không bao giờ quan tâm đến chuyện Mary hiện ra để làm gì? Người ngoại đạo và cũng không thiếu gì những người có đầu óc trong đạo thường cảm thấy sửng sốt và ngỡ ngàng khó hiểu trước những hoạt cảnh như vậy trong thời đại nguyên tử ngày nay.
Phân tích những vụ hiện ra, các học giả ngày nay đã cho rằng các trường hợp hiện ra của Mary không nằm ngoài chuyện làm công cụ cho giáo hội Công Giáo trong những mục đích chính trị hoặc nuôi dưỡng, đẩy mạnh thêm sự mê tín, sùng tín của các tín đồ, và lẽ dĩ nhiên, không thể tách rời mục đích kinh tế. Để chứng minh điều trên, trong loạt bài này, tôi sẽ viết về hai nơi hiện ra của Mary nổi tiếng nhất trên hoàn cầu là Lộ-Đức [Lourdes] ở Pháp vào năm 1858, và Fatima ở Bồ Đào Nha vào năm 1917, do Giáo hội dựng lên. Nhưng vì là người Việt Nam nên tôi không thể bỏ qua một nơi khác, không nổi tiếng như hai địa danh trên, nhưng người Công giáo Việt Nam đã coi như là một linh địa, linh địa La Vang ở gần Quảng Trị, một linh địa rất ít được thế giới biết đến và không có mấy ai đến hành hương ngoại trừ những tín đồ Công Giáo bản địa, và chỉ bắt đầu từ thời Phán Quan Tây Ban Nha Ngô Đình Diệm, ông Tổng Thống có tham vọng Công Giáo hóa miền Nam, đưa cả khối dân 93% Việt Nam không Công Giáo vào vòng mê tín dị đoan, nô lệ Vatican. Ngày nay, La Vang dược dùng làm nơi biểu dương lực lượng Công Giáo, một thách đố chính trị nấp sau chiêu bài tôn giáo đối với chính quyền, và rất có thể dùng làm bàn đạp để tiến tới những thách đố chính trị khác. Để có thể nhận rõ giá trị của các vụ hiện ra của bà Mary, tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta phải biết rõ vài sự thật về nhân vật Mary là ai. Cho nên, trong phần sau đây, tôi sẽ viết về bà Mary trước.
Sự Thật Về Mary Là Ai?
Trước hết, phần nghiên cứu về Mary này không có mục đích phá đổ sự sùng tín Mary của các tín đồ Ki Tô Giáo, mà chỉ có mục đích giáo dục, mở mang kiến thức, qua sự tìm hiểu về nhân vật Mary trong Ki Tô Giáo thực sự là như thế nào, qua chính Kinh Thánh của Ki Tô Giáo và các tác phẩm nghiên cứu của chính những người trong Ki-Tô Giáo, từ các bậc lãnh đạo tôn giáo cho đến các nhà thần học, học giả, giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo trong các truyền thống Ki Tô Giáo. Vì như Friedrich Nietzche đã viết: “Những gì mà quần chúng được dạy để mà tin không cần đến lý lẽ, vậy thì ai là người có thể bác bỏ niềm tin đó bằng những lý lẽ.” (What the populace learned to believe without reasons, who could refute it then by neans of reasons?) Hơn nữa, tôi hiểu rõ rằng, theo H. L. Mencken thì “Đức Tin là một kiểu tin phi lô-gíc vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực” (Faith is an illogical belief in the occurence of the improbable), và theo tự điển thì “Đức tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” (Faith is the firm belief in something for which there is no proof). Đức tin trong Ki Tô Giáo là như vậy, do đó sự sùng tín Mary dựa trên những sự kiện lịch sử hay trên những huyền thoại, truyền thuyết, không phải là vấn đề đối với những người tin. Cái mà họ chọn để mà tin, hay đã được cấy vào đầu từ nhỏ để mà tin, thì không cần thiết phải dựa trên những bằng chứng lịch sử, bằng chứng khoa học. Không có một công thức nào, một lý luận trí thức nào, hay một bằng chứng khoa học nào có thể mang ra để xác định hay thử nghiệm một đức tin. Cũng vì vậy mà Giáo Hoàng John Paul II đã viết trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” : “Chúng ta chỉ có thể hoặc tin, hoặc không tin.” Và con chiên của ông ta, Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, trong cuốn Ngón Tay Và Mặt Trăng cũng khẳng định: “Tin là một cách sống chết, không liên quan gì đến cái biết, cái hiểu.”
Nhưng do sự tiến hóa của nhân loại, con người không thể tự cho phép sống mãi trong bóng tối của sự vô minh. Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các vấn đề rành rọt, nhìn sự việc như chúng đúng là như vậy, là nỗ lực của giới trí thức Tây Phương trong mấy trăm năm nay. Cũng vì vậy, trong vòng mấy trăm năm nay, các trí thức Tây phương đã thoát ra khỏi gọng kìm của Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng. Họ đã gỡ bỏ được những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, đã vứt bỏ được cái vòng kim cô đã xiết chặt đầu óc họ, và cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo mà trước đây đã được áp đặt trên đầu óc của tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, với sự độc quyền diễn giải Kinh Thánh và thêm thắt ngoài Kinh Thánh của các giáo hội Ki Tô Giáo, do đó họ chỉ có quyền nghe chứ không có quyền đặt nghi vấn, nay đã được mang ra nghiên cứu, mổ sẻ, phân tích chi tiết hơn bất cứ cuốn sách nào khác.
Theo đường hướng mở mang kiến thức này, vì Mary là mẹ của Giê-su trong Tân Ước, cho nên nguồn tài liệu đầu tiên mà chúng ta phải tìm đến chính là cuốn Tân Ước. Nhưng trong cuốn Tân Uớc, Mary được nhắc đến rất ít, và không có chỗ nào nói bà là “Mẹ Thiên Chúa” (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate Conception) [Xin đứng nhầm là thụ thai Giê-su], “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual Virginity), “Đồng Công Cứu chuộc” (Coredemptrix) v..v... Tất cả những danh hiệu này là do Giáo Hội Công Giáo cưỡng đặt ra về sau và bắt các tín đồ phải tin, không tin thì không được lên thiên đường, lẽ dĩ nhiên phải qua ngả Vatican, vì Vatican nắm trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường. Trong Thánh Đường Phê-rô ở Vatican có bức tượng Phê-rô tay cầm chiếc chìa khóa mở của thiên đường, và các giáo hoàng đều là những người thừa kế Phê-rô.
Trong Tân Ước, ngoài huyền thoại về sự sinh ra của Giê-su, bà Mary chỉ xuất hiện có vài lần: cùng với chồng là Joseph đi kiếm ông con Giê-su 12 tuổi tưởng là bị lạc nhưng thực ra là trốn cha mẹ ở lại trong một giáo đường (Luke 2: 41-49); trong một bữa tiệc cưới có Giê-su dự và tại đây Giê-su đã trổ tài làm phép lạ biến nước thành rượu (John 2: 1-5); cùng với các con khác [4 con trai và ít nhất là 2 con gái] đến thăm Giê-su khi Giê-su đang giảng đạo nhưng Giê-su không tiếp và còn lên tiếng hỏi: “Ai là mẹ ta? Ai là các em ta”” (Matthew 12: 48); có mặt khi Giê-su bị đóng đinh chết trên thập giá (John 19:25-26); và cầu nguyện cùng những người theo Giê-su sau khi Giê-su thăng thiên (Acts 1:14). Và tất cả chỉ có vậy. Vì tất cả chỉ có vậy trong Tân ước, nên tất cả những gì Giáo hội Công Giáo nói về Mary và bắt các tín đồ Công Giáo phải tin chỉ là những sản phẩm thần học của Công Giáo để đưa tin đồ vào những niềm tin không cần biết không cần hiểu. Nền thần học về Mary (Mariology) của Công Giáo chỉ có mục đích dựng Mary lên thành một hình tượng để cho tín đồ sùng bái (Mariolatry) và từ đó khai thác sự mê tín của tín đồ để thu về những nguồn lợi vật chất khổng lồ về thương mại và kinh tế.
Tất cả những danh hiệu mà Giáo hội Công Giáo đưa ra về Mary qua nền thần học Công Giáo đều dẫn xuất từ huyền thoại Giêsu sinh ra từ “Mary đồng trinh” và rồi sau đó nâng Giê-su từ một người thường thành đấng Ki-Tô cứu chuộc, cho nên, trước hết chúng ta hãy đọc trong Tân Ước về huyền thoại Giê-su sinh ra đời. Trong Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về chuyện này, hai Phúc Âm này viết sau khi Giê-su chết từ 50 tới 70 năm. Ngày nay, người ta đã kiếm được một số tài liệu nói về Giê-su còn sót lại, không bị thiêu hủy bởi Công Giáo, vì trong những tài liệu này có những chứng tích không phù hợp với nền thần học của Công giáo. Thí dụ như tài liệu mang tên Sepher Toldoth Jeshu, viết vào khoảng cuối thế kỷ đầu, mà cuối thế kỷ 19 mới được dịch ra tiếng Anh là The Jewish Life of Jesus, có nghĩa là Cuộc Đời Do Thái Của Giê-su.
Muốn tìm hiểu về Mary, chúng ta không thể tách rời Mary ra khỏi vai trò của Giê-su trong Ki Tô Giáo, và không đâu rõ bằng chuyện Mary sinh ra Giê-su. Phúc Âm Matthew (Mã-Thi-Ơ) kể như sau, Matthew 1: 18-24, xin đặc biệt chú ý những đoạn chữ đậm:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.
Việc xảy ra đúng như lời Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo] tiên đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”.
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Chúng ta hãy phân tích đoạn trên trong Tân Ước. Phân tích Kinh Thánh với đầu óc tỉnh táo, không mê mẩn, và với một chút lô-gíc, là một nghệ thuật. Thật vậy, chỉ bằng vào một đoạn ngắn như trên, chúng ta có thể khám phá ra nhiều điều kỳ thú để mà thưởng thức, nếu chúng ta có khả năng đọc giữa những giòng chữ để có thể thưởng thức những chuyện cấm đọc, cấm hiểu trong Công Giáo.
Thứ nhất, chuyện Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật của Do Thái. Randel Helms viết trong cuốn Những Chuyện Giả tưởng Trong Phúc Âm (Gospel Fictions), trang 48: “Có lẽ Matthew không biết là theo luật Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn phải hợp pháp và công khai” (Matthew was perhaps unaware that this (the marriage contract set aside quietly) was not possible under Jewish law; the process had to be legal and public.) Câu Joseph là người tốt bụng, không muốn nàng bị nhục trước công chúng ... cũng chứng tỏ là Joseph biết rõ là cái thai trong bụng Mary không phải là của mình.
Nghiên cứu cổ sử Do Thái, các học giả đã khám phá ra rằng, ngay từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái đã cho rằng khuôn mặt thần thánh của Giê-su thật ra chỉ là một đứa con hoang. Họ dựa vào chính Tân Ước vì Tân Ước viết rằng Joseph là chồng của Mary nhưng lại không phải là cha của Giê-su. Và ngay trong thời đại này, có nhiều học giả nghiên cứu Tân Ước cũng nghĩ như vậy.
Thí dụ, Jane Schaberg trong cuốn The Illegitimacy of Jesus, xuất bản năm 1987, còn cho rằng “rất có thể Mary bị hiếp, và Matthew đã dựng lên một khung thần học tinh vi để biến đổi thực tế ô nhục trên thành một huyền thoại mà ông ta có thể xây dựng một truyền thống trên đó.” (Jane Schaberg, in her 1987 book The Illegitimacy of Jesus, argues that Mary was most likely raped, and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition).
Trong tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, có bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now). Tác giả viện dẫn Phúc Âm James và viết như sau:
Chuyện người ta cho rằng Giê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6, “Đây có phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường. Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời của Giê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai.
(Reynolds Price, Time, Dec. 6, 1999: The suggestion that Jesus' childhood may have been dogged by the accusation of bastardy is perhaps implicit in his townspeople's question in Mark 6, "Isn't this Mary's son?" To be called one's mother son, as opposed to one's father's, was often an implication of bastardy, or at least a sign that one's paternity was unknown, whether divine or not. Early opponents likewise suggested that Mary had conceived Jesus with a Roman soldier, Panthera. His childhood may well be clouded by questions about his paternity.)
Và Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:
Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ .
(John Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.)
Như vậy, xưa cũng như nay, ngoài các tín đồ Công Giáo, không có mấy ai tin Thánh Linh là tác giả cái thai trong bụng Mary. Tôi xin nhắc lại là phần phân tích khảo cứu này có mục đích giáo dục, mở mang kiến thức, chứ không phải là để phỉ báng bà Mary, đối tượng sùng tín của các tín đồ Ki-Tô Giáo. Và những kết quả nghiên cứu phân tích đều là của các tác giả Tây phương trong các xã hội Ki Tô Giáo và trong chính Ki Tô Giáo chứ không phải là của tôi.
Một vấn đề được đặt ra là, tại sao lại có nhiều học giả ngày nay cũng nghĩ như những tác giả Do Thái khi xưa, cho rằng Giê-su chỉ là một đứa con hoang? Vấn đề thực sự không lấy gì là khó hiểu. Nếu chúng ta đọc kỹ đoạn trên trong Tân ước của Matthew (Mat.1: 18-24) thì chúng ta có thể thấy rằng dư luận Giê-su là đứa con hoang từ xưa cho tới ngày nay không phải là không có cơ sở.
Thật vậy, tại sao Matthew, một người tuy không phải là tông đồ của Giê-su nhưng rất tin Giê-su là một Messiah của Do Thái, lại viết ra chuyện “Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn..” Vì ông ta không thể bịt đi dư luận Mary “không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường” đã đồn đãi rộng rãi trong thời đó, và rồi ông ta giải thích bằng cách cho một thiên thần đến báo mộng cho Joseph biết là chính Thánh Linh đã làm cho bụng của Mary to, một chuyện mà ngày nay nếu người nào còn tin thì gõ vào đầu họ sẽ nghe thấy một tiếng vang. Nhưng Matthew không phải là người có trình độ nên đã để lộ ra nhiều sơ hở rất mâu thuẫn và vô lý trong đoạn trên. Chứng minh?
Matthew viết: “Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.” (King James Version, Mat.1: 18: After His mother Mary was betrothed to Joseph, before they came together, she was found with child of the Holy Spirit). Người ta ở đây là ai? Tất nhiên phải là những người ở quanh vùng Mary sống. Nhưng làm sao “người ta” lại có thể biết là Mary có mang với Thánh Linh, ngay cả trước khi thiên sứ báo mộng cho Joseph? Rồi câu tiếp theo: “Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.” (Joseph her husband, being a just man, and not wanting to make her a public example, was mind to put her away secretly). Câu này cho thấy hiển nhiên là Joseph không biết là Mary có mang với Thánh Linh như “người ta”, cũng không biết là Mary có mang với ai, và tin rằng Mary đã lăng nhăng với người nào khác, nhưng không muốn làm to chuyện để tránh cái nhục cho cả mình lẫn Mary. Rồi đến câu tiếp theo: “Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.”
Chúng ta thấy đây rõ ràng là một khung thần học do Matthew dựng lên, đúng như nhận xét của Jane Schaberg trong cuốn The Illegitimacy of Jesus ở trên. Vì chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc mộng của Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và trong Tân ước không hề có chỗ nào viết là Joseph kể chuyện này cho ai. Matthew viết phúc âm Matthew khoảng 60 năm sau khi Giê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Giê-su sinh ra đời. Lúc này, cả Joseph lẫn Mary có thể đã chết cả rồi. Matthew không thể là một nhân chứng trong giấc mộng của Joseph. Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của Giê-su. Kết luận? Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần thánh hóa người mình sùng tín: Giê-su, theo niềm tin riêng của mình. Và câu của thiên sứ: Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi cho thấy mục đích của Thánh linh làm cho Mary mang thai để sinh ra Giê-su là Giê-su chỉ có nhiệm vụ cứu dân của nó, nghĩa là dân Do Thái mà thôi. Khi Giê-su sinh ra đời thì Do Thái đang ở trong vòng nô lệ của La Mã. Chúng ta thấy ngay, từ cứu dân [Do Thái] của nó trở thành đấng cứu thế cho cả nhân loại chẳng qua chỉ là mánh mưu thần học của Công Giáo để phát triển, kéo con người vào vòng mê tín, chứ không phải là theo đúng Tân Ước, những lời mạc khải không thể sai lầm của Chúa. Còn nữa, Công Giáo dựa vào câu trong Tân ước, Matthew 28: 19, cho là lời của Giê-su dạy để đi truyền đạo bằng bạo lực, cưỡng bách, và những thủ đoạn bất minh, trên khắp thế giới: “Hãy đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần... “ Nhưng câu này là câu mà Giê-su nói sau khi...đã chết. Thử hỏi ngày nay có còn ai tin được chuyện thân xác Giê-su sống lại? Các nhà thần học ngày nay cũng phải giải thích khác đi sự sống lại (resurrection) của Giê-su và coi đó chỉ là sự sống lại về tâm linh (spiritual resurrection). Câu trên cũng được Tin Lành tận dụng để đi truyền đạo trên khắp thế giới, vì đối với Tin Lành, họ tin rằng Kinh Thánh không thể sai lầm, do đó tuyệt đối tin theo từng câu từng chữ.
Chuyện Thánh Linh có thể làm cho Mary mang thai là chuyện của 20 thế kỷ trước, trong thời đại mà con người có thể tin vào bất cứ điều gì, dù hoang đường và vô lý đến đâu. Trong thời đó, người ta cho rằng sinh con đẻ cái là do hạt giống trong tinh khí của đàn ông, đàn bà chỉ là một miền đất để gieo hạt. Giáo sư thần học Công giáo Uta Rake-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị giáo sư thần học Công Giáo trong giáo hội, trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things), đã cho rằng chuyện Thánh Linh làm cho Mary mang thai trở thành vô nghĩa từ khi khoa học khám phá ra buồng trứng của phụ nữ.
Để hỗ trợ cho sự bịa đặt của mình, Matthew đã viện dẫn một câu trong Cựu Ước để chứng minh là sự sinh ra của Giê-su từ một nữ trinh phù hợp với một lời tiên tri trong Cựu ước. Ông viết tiếp: “Việc xảy ra đúng như lời God [của Ki Tô Giáo] tiên đoán qua nhà tiên tri: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”.”
Nhưng chính cái chuyện Matthew định chứng minh sự sinh ra của Giê-su đúng với lời tiên tri trong Cựu Ước này lại chứng tỏ Matthew không được thông minh cho lắm, vì ông ta chỉ để hở ra cái đầu còn dấu đi cái đuôi. Ông ta lấy một câu trong Cựu Ước, Isaiah 7: 14, để chứng minh rằng Giê-su sinh ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước. Ông ta biết rằng dân thường thời đó chẳng bao giờ đọc Cựu Ước, cũng như ngày nay, các linh mục lấy những đoạn trong Thánh Kinh, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context), để giảng cho tín đồ vì biết tín đồ không bao giờ đọc Thánh Kinh. Thật vậy, câu trong Isaiah 7:14, “Cho nên, chính Chúa sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” (Therefore the Lord Himself will give you a sign: Behold, the virgin shall conceive and bear a son, and shall call his name Immanuel.) chẳng phải là lời tiên tri chuyện Giê-su sinh ra đời mà là Isaiah nói ra trong một trường hợp khác hẳn. Đây là trường hợp vua Ahaz của xứ Judah (Nam Do Thái) đang bị hai kẻ thù, Syria và Israel (Bắc Do Thái) tấn công. Nhà “tiên tri” Isaiah của xứ Judah thời đó trấn an nhà vua bằng một lời “tiên tri”, rằng hai kẻ thù kia sẽ bị đánh bại. Khi nào? Lời “tiên tri” của Isaiah đã nói lên rõ ràng, Isaiah 7: 14-16, nhưng Matthew đã chỉ viện dẫn Isaiah 7:14 và dấu đi hai câu sau, Isaiah 7: 15,16::
Isaiah 7: 14: Cho nên, chính Chúa sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một một người đàn bà trẻ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.
7:15: Đứa trẻ đó sẽ ăn bơ và mật cho đến khi biết bỏ điều ác chọn điều thiện.
7:16: Nhưng trước khi đứa trẻ ấy biết bỏ điều ác, chọn điều thiện, thì đất nước của hai vua mà ngài đang sợ hãi sẽ bị hoang vu.
Chúng ta thấy ngay chủ đích của Matthew trong việc trích dẫn chọn lọc trên từ Cựu Ước với mục đích truyền bá niềm tin riêng của mình. Truyền thống này kéo dài trong giáo hội Công Giáo cho tới ngày nay với những câu thêm thắt, ngụy tạo trong Tân Ước, cùng những lời diễn giảng cắt xén chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề. Thủ đoạn này cũng thấy xuất hiện đầy trong bản Tông Huấn cho các Giáo hội Á Châu của Giáo hoàng John Paul II. Mặt khác, Isaiah thường được coi như là một nhà đại tiên tri trong Cựu Ước. Nhưng thực ra, Isaiah chỉ “tiên tri” láo, vì lời “tiên tri” trong Isaiah 7: 14-16 ở trên hoàn toàn sai với sự thực nếu chúng ta đọc II Sử Ký 28 (2 Chronicles 28) kể chuyện Ahaz xứ Judah bị hai nước đánh bại thê thảm như sau:
Ahaz được 20 tuổi khi lên ngôi, trị vì 16 năm tại Jerusalem.. God phó mặc Ahaz trong tay của vua Syria. Quân đội Syria đánh bại Ahaz, bắt vô số tù binh giải về Damascus. God cũng phó mặc Ahaz trong tay của vua Israel. Quân đội Israel đánh bại Ahaz qua một cuộc tàn sát lớn. Vì Pekah, con của Remaliah, đã giết một trăm hai mươi ngàn (120000) người Judah trong một ngày, tuy họ đều là dũng sĩ.. Và quân đội Israel cũng bắt đi hai trăm ngàn (200000) tù binh gồm đàn bà, con trai, con gái, và cướp đi hầu hết của cải và mang về Samaria.
Còn nữa, trong văn bản gốc Thánh Kinh bằng tiếng Do Thái, Isaiah nói trong Isaiah 7: 14 là “Này, một người đàn bà trẻ đang mang thai..” (a young woman is with child) chứ không phải là một trinh nữ sẽ mang thai. Isaiah dùng chữ “almah”, có nghĩa là “người đàn bà trẻ” (young woman), có chồng hoặc chưa có chồng. Còn trinh nữ, tiếng Do Thái là “betulah”. Nếu Asaiah muốn nói đến một trinh nữ thì phải dùng chữ “betulah”. Trong thời điểm mà người Do Thái càng ngày càng đông ở Hi Lạp, các dịch giả đã dịch chữ “almah” thành “parthenos” trong tiếng Hi Lạp. Parthenos có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa này là trinh nữ. Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu trên từ Cựu Ước ra và diễn giảng lệch lạc rằng đó là lời tiên tri về sự sinh ra của Giê-su tuy sự thực câu trên chẳng liên quan gì đến sự sinh ra của Giê-su, như tôi vừa chứng minh ở trên.
Cuối cùng, câu cuối của Matthew nói lên một sự kiện rõ ràng nhất: “Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.” Câu này hàm ý Giê-su chỉ là đứa con đầu lòng của Mary, con của ai không rõ, vì nếu thực sự Giê-su là đứa con duy nhất của Thánh Linh thì không thể gọi là con đầu lòng, và Mary còn nhiều đứa con khác nữa. Vì Joseph chỉ không giao hợp với Mary cho đến khi Mary sinh ra Giê-su. Sau đó thì Joseph tha hồ làm bổn phận người chồng. Do đó, một đoạn khác trong Thánh Kinh mới kể rằng Giê-su có 4 người em trai và ít nhất là 2 em gái (Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon? And are not his sisters here with us?). Vậy mà màng trinh của Mary vẫn còn nguyên vẹn (perpetual virginity) cho tới bây giờ, đầu thế kỷ 21, và chắc chắn sẽ còn nguyên vẹn vĩnh viễn trên sách vở Công Giáo. Giáo hội tìm cách giải thích quanh co: đó là những em họ của Giê-su, hoặc là những con riêng của Joseph, để thuyết phục đám tín đồ thấp kém, nhưng thật ra chỉ làm trò cười trong giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội. Học thuật Công Giáo (Catholic scholarship) quả thật là tuyệt vời trong việc làm tê liệt đầu óc tín đồ. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong một “tác phẩm” của Tổng Giám Mục Nguyễn văn Thuận, trước khi ông ta được phong chức Hồng Y.
Áp dụng thủ đoạn diễn giải Thánh Kinh lắt léo điển hình trong giáo hội, trong cuốn Chứng Nhân Hy Vọng: Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Cho Đức Thánh Cha Và Giáo Triều Roma của TGM Nguyễn Văn Thuận, Công Đoàn Đức Mẹ xuất bản năm 2000, tác giả mở đầu cuốn sách bằng Bài Suy Niệm Dẫn Nhập: Gia Phả Đức Giêsu Kitô Đứng Trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa, trang 25-34. Tác giả Nguyễn Văn Thuận chỉ nhắc đến gia phả Giê-su trong Matthew mà thôi và đặc biệt là, để biện minh cho những sự kiện được viết trong Thánh Kinh là trong gia phả của Giê-su có nhiều người đàn bà vô đạo đức, phi luân, tác giả đã đưa ra một luận điệu thần học có tính cách ngụy biện để biện minh cho những sự kiện không mấy tốt đẹp này. Tác giả viết, trang 28:
Danh sách những người [đàn bà] tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa
Những người tội lỗi đó là ai? Toàn là những phụ nữ mà ông Thuận gọi là “bất hợp lệ” như Tamar, chồng chết, ngủ với em chồng, em chồng chết, “làm gái ăn sương” ngồi bên đường chờ bố chồng rồi ngủ với bố chồng sinh con; Bathsheba, vợ của Uriah, gian dâm với David mà Giê-su thuộc giòng giõi v..v.. Theo Tổng Giám Mục Thuận thì tất cả những chuyện phi luân như trên đều là sự mầu nhiệm của Thiên Chúa cả. Mang cái bình phong “mầu nhiệm Thiên Chúa” ra để che đậy những điều có thể gây thắc mắc trong đầu óc tín đồ, TGM Thuận đã thể hiện sự bất lương trí thức của mình, đặc sản của những cấp lãnh đạo Công Giáo Việt Nam do Vatican đào tạo và phong chức. Phải chăng vì không đếm xỉa gì đến sự lương thiện trí thức, dùng lý luận thần học ngụy biện để lừa dối đám tín đồ thấp kém qua những điều giải thích hoang đường, phi lý trí v..v.. mà Tổng Giám Mục đã được thăng lên chức Hồng Y trước khi chết ít lâu?
Thật vậy, đoạn văn trong Matthew ở trên chẳng có gì là gương mù như ông Thuận đã nghĩ, và cũng chẳng có gì là “mầu nhiệm Thiên Chúa”. Vì ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã hiểu tại sao Matthew lại nêu tên những người phụ nữ tội lỗi trong gia phả của Giê-su. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn Sự Thực Phúc Âm của Russell Shorto:
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái, khi quan sát sự phát triển nhanh chóng của Ki Tô Giáo, đã ghi nhận rằng khuôn mặt thần thánh trong trọng điểm của Ki Tô Giáo (nghĩa là Giê-su. TCN) thực ra chỉ là một đứa con hoang. ..Về phương diện kỹ thuật, ngay cả khi đọc Phúc Âm theo truyền thống, điều trên đúng là sự thực, vì Joseph, chồng của Mary, không phải là cha thực của Giê-su. Đọc thật kỹ Matthew chúng ta có thể thấy điều trên rõ ràng...và Matthew đã đưa ra một kiến trúc thần học tinh vi để biến đổi một sự thật xấu xa thành một huyền thoại..
Một vấn đề trong gia phả của Giê-su đã làm bận tâm những nhà thần học không ít trong nhiều thế kỷ là tên của các phụ nữ trong gia phả của Giê-su. Tại sao chúng ta đọc thấy rằng: “Abraham là cha của Isaac, Isaac là cha của Jacob” v..v.. mà không thấy tên một phụ nữ nào xen vào, nhưng rồi chúng ta thấy “Judah là cha của Perez và Zerah, sinh ra bởi Tamar”, và “Salmon là cha của Boaz, sinh ra bởi Rahab,” và Boaz là cha của Obed, sinh ra bởi Ruth”, và David là cha của Solomon, sinh ra bởi “vợ của Uriah”?
Một nhóm học giả đã tìm hiểu trong 20 năm qua để tìm ra giải đáp cho điều thắc mắc này và họ đã khám phá ra rằng tất cả những phụ nữ được nêu tên trong gia phả của Giê-su đều là những người mang tai tiếng về vấn đề tình dục. Nói cách khác, Matthew đã cố ý làm nhẹ bớt vấn nạn Giê-su là đứa con hoang bằng cách vạch ra rằng trong nhiều đời tiền nhân của Giê-su, đây là điều cần thiết để tiếp nối dòng dõi các vua Do Thái qua những nhân vật khác thường.. Là đứa con hoang, điều này có thể là một biểu hiện của sự danh giá (badge of honor).
(Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, N.Y., 1997, pp. 36-41: From the early second century, Jewish writers observing the rapidly spreading Christian religion noted with a sneer that the supposed divinely inspired figure at its center was in fact a bastard. Swirling around the gospel stories, according to some scholars, are whispered cries of “illegitimate”... Technically, even by the traditional reading, this charge is true, for according to the accepted interpretation, Joseph, Mary’s betrothed, is not the actual father of the child. But a careful reading of Matthew’s account may suggest a more mundane kind of illegitimacy..and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition on... One thing about the genealogy that has bothered theologians for centuries is the mention of several women among the men who, in the ancient view, carry the bloodline. Why we are told that “Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob”, and so on, with no mention of the women involved, but then learn that Judah was the father of Perez and Zerah “by Tamar”, and Salmon the father of Boaz b”by Rahab”, and Boaz the father of Obed “by Ruth”, and that David was the father of Solomon “by the wife od Uriah”..? A solution to the puzzle has been worked up over the two past decades by a group of scholars who realized that all of the women mentioned are associated with scandalous sexual behavior. In other word, Matthew is softening the blow of Jesus’ questionable legitimacy by indicating that in several previous instances it was necessary for the royal bloodline of Israel to be passed on via less-than-ordinary means. Bastardy, it may even be suggested, was a badge of honor...)
Trên đây là vài điều chúng ta biết về Mary như được viết trong Tân Ước, qua sự phân tích của một số học giả chuyên gia về Ki Tô Giáo. Còn các tín đồ Ki-tô Giáo muốn tin Mary như thế nào, đó không phải là chuyện đáng bàn cãi. Chúng ta biết rằng, qua thời gian, Mary đã được Giáo hội Công Giáo, qua rất nhiều thủ đoạn, từ những sắc lệnh của Giáo Hoàng cho đến những văn kiện ngụy tạo v..v.., dựng lên từ một người đàn bà Do Thái bình thường thành một biểu tượng sùng bái vô tiền khoáng hậu cho các tín đồ vốn lười suy nghĩ hay không có đầu óc thuộc loại có thể suy nghĩ. Sự sùng bái Mary được đẩy mạnh qua rất nhiều thủ đoạn mánh mưu của Giáo hội Công Giáo với sự góp sức của giới chăn chiên để bảo vệ quyền lợi của Giáo hội và giới chăn chiên, và nhất là để vơ vét của cải. Một trong những thủ đoạn này là dựng lên những chuyện hiện thân của Mary, không phải là sự hiện thân của một người đàn bà Do Thái bình thường, sinh ra đứa con hoang Giê-su như chúng ta thấy trong phần phân tích ở trên, mà là dưới các danh hiệu do Giáo hội đặt ra như Mẹ Thiên Chúa (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate Conception), “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual Virginity), “Đồng Công Cứu chuộc” (Coredemptrix) v..v... Điều này thật là dễ hiểu. Vì Giáo hội Công Giáo đã nâng Giê-su lên từ một đứa con hoang, tầm thường, xấu tính lên làm Chúa thì tất nhiên Mẹ của Chúa cũng phải có một vai vế đặc biệt để hấp dẫn tín đồ. Thật vậy, Russell Shorto viết trong cuốn Sự Thật Phúc Âm, trang 14, như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
(Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth... Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)
Và Giám Mục John Shelby Spong,, cũng viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Kinh Thánh Ra khỏi Phái Ki-Tô Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21) như sau:
Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.
Một người như Giê-su như trên, một anh thợ mộc con bà Mary [không phải là con của chồng là Joseph], mà được nâng lên làm Chúa của Ki-Tô Giáo thì một người như Mary, Mẹ của Giê-su, mà chúng ta vừa biết qua vài điều như trên được gán cho những danh hiệu thần thánh và hoang đường như trên đâu có phải là chuyện lạ. Đến đây, chúng ta hãy sang phần phân tích những vụ hiện thân của Mary.
Chúng ta đã biết, Giáo Hoàng John Paul II và đa số tín đồ Gia Tô rất sùng tín đức Mẹ Maria. Đó là quyền tự do tín ngưỡng cá nhân. Nhưng lợi dụng lòng sùng tín này cho những mục đích chính trị và kinh tế thì Giáo hội đã đi vào con đường thế tục, không phải con đường tâm linh tôn giáo. Chúng ta hãy tìm hiểu về thực chất những màn ảo thuật như đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha, ở Lourdes, Pháp, và nhiều nơi khác trên thế giới. Trong cuốn sách này tôi chỉ bàn đến hai địa danh nổi tiếng nhất là Fatima và Lourdes, nơi đây tín đồ Gia Tô tin rằng đức Mẹ Maria đã hiện thân và phó thác những "thông điệp siêu nhiên" (supernatural messages) cho một vài trẻ em thất học. Còn chuyện Đức Mẹ hiện thân ở La Vang, gần Quảng Trị, chỉ là những lời truyền khẩu vô căn cứ, không hợp lý và chứa nhiều mâu thuẫn, cho nên tôi sẽ không đi sâu vào vấn đề.
7.1. Huyền Thoại Fatima.
Chúng ta có thể đọc huyền thoại Fatima trong nhiều cuốn sách đã xuất bản. Sau đây là một đoạn trong cuốn Vietnam: Why Did We Go của Avro Manhattan, trg. 26-27:
" Năm 1917, cũng là năm của cuộc cách mạng Nga sô, Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha, trước 3 em nhỏ chăn cừu mù chữ, (lên 10, 9, và 7 tuổi. TCN).
Đức Mẹ hiện ra kèm theo một hiện tượng lạ lùng: Mặt trời quay tít ba lượt, rồi nhảy ra khỏi quỹ đạo, tiến gần đến trái đất theo một đường gẫy khúc, ngưng lại, rồi trở về vị trí cũ.
Hiện tượng này được nhiều người đứng gần các em nhỏ trông thấy và kéo dài trong 12 phút. Thông điệp của Đức Mẹ trao cho mấy em nhỏ là: "Giáo hoàng phải hiến dâng thế giới cho trái tim vô nhiễm của mẹ," và rồi "phải hiến dâng Nga Sô cho Mẹ." Mẹ tiên đoán, "Nga Sô sẽ cải đạo theo Gia Tô La Mã Giáo," và Đức Thánh Cha sẽ "hiến dâng Nga sô cho Mẹ." Mẹ cảnh cáo, nếu những điều Mẹ rao truyền không thực hiện được thì "những sai lầm của Nga Sô sẽ lan ra khắp hoàn cầu, gây nên chiến tranh và bách hại giáo dân, và nhiều quốc gia sẽ bị tàn phá." Cuối cùng Mẹ an ủi rằng "Giáo hội Gia Tô sẽ thắng, sau đó Giáo hoàng sẽ hiến dâng Nga Sô cho Mẹ, Nga Sô sẽ cải đạo, và thế giới sẽ được hưởng một thời kỳ hòa bình."
Những lời trên đây là những thông điệp chân thực của Maria đồng trinh, như một em nhỏ kể lại và được giáo hội Gia Tô hoàn toàn chấp nhận như là điều mặc khải xác thực của "Mẹ Chúa"."
(Our Lady of Fatima had first appeared to three illiterate children in Fatima, a desolate locality in Portugal, during the fateful year of 1917, which was also the year of the Russian Revolution.
Her apparition had been accompanied by a somewhat strange miracle: "The sun turned speedily on itself three times..At the end of these convulsive revolutions it seemed to jump out of its orbit and come forward towards the people on a zig-zag course, stopped, and returned again to its normal position. This was seen by a large crowd near the children and lasted twelve minutes.
The Virgin's messages had been to induce the pope to bring about "the consecration of the World to her Immaculate Heart," to be followed by "the consecration of Russia". "Russia will be converted," she foretold. "The Holy Father will consecrate Russia to me." But, she warned, should this not be accomplisshed, "her (Russia's) errors will spread throughout the world, causing wars, and persecutions...different nations will be destroyed..." In the end however, the Virgin promised by way of consolation, that the Catholic Church would triumph, after which "the Holy Father will consecrate Russia to me. Thereupon she (Russia) shall be converted and a period of peace will be granted to the world."
These quotations are from the authenticated messages of the Virgin Mary herself, as related to one of the children and fully accepted by the Catholic Church as a genuine revelation by the "Mother of God".)
Nghiên cứu về hiện tượng Fatima ở trên, các học giả đã kiếm ra nhiều điều vô lý, không hợp với ngay cả một sự hiểu biết thông thường.
Thứ nhất, Đức Mẹ là mẹ của Chúa, mà Chúa thì "toàn năng", "sáng tạo" ra vũ trụ bao la và muôn loài, vậy thì tại sao Đức Mẹ lại cần đến một ông Giáo hoàng rất thế tục để dâng hiến thế giới vô cùng nhỏ nhoi của con người cho Mẹ? Mẹ có lẩm cẩm không?
Thứ nhì, Mẹ tự khoe là mình có trái tim vô nhiễm, như vậy là Mẹ đã cùng với những tín đồ vô học chỉ nhắc lại một tín lý của Giáo Hoàng Pius IX mới đưa ra năm 1854 và bắt mọi tín đồ phải tin. Vậy trước năm 1854, nghĩa là trước khi Giáo Hoàng Pius IX đưa ra tín lý "vô nhiễm" thì Mẹ có vô nhiễm không?
Thứ ba, những từ như "Giáo hoàng" hay "Đức Thánh Cha" là những từ Giáo hội đặt ra về sau để thần thánh hóa vai trò của Giáo chủ Gia Tô, chứ thời của Mẹ cách đây 2000 năm không làm gì có những từ này. Bảo rằng Mẹ có quyền phép vô biên, cái gì cũng biết, thì lại đưa đến một mâu thuẫn. Nếu đã quyền phép vô biên thì tại sao phải nhờ đến một ông Giáo hoàng chống Cộng cho Mẹ? Mẹ chỉ cần phù phép một cái là cả nước Nga bỏ Chính Thống Giáo đi theo Gia Tô Giáo, hay là giáng họa cho dân Nga chết hết là hết Cộng. Sau khi Mẹ đã khẳng định là "Đức Thánh Cha" sẽ dâng hiến Nga sô cho Mẹ và Nga sô sẽ cải đạo theo Gia Tô Giáo, Mẹ lại phải cảnh cáo: "Nếu không thực hiện những thông điệp của Mẹ thì....". Tại sao lại có vụ dọa dẫm này? Mẹ không tin ở quyền phép của Mẹ, hay là không tin ở khả năng của Giáo hoàng, cho nên Mẹ phải dọa như vậy để giáo dân sợ mà hồ hởi chống Cộng? Nói tóm lại, nội dung những "thông điệp siêu nhiên" của Mẹ chẳng qua chỉ là những lời bịa đặt của những người trong hàng Giáo phẩm không được thông minh cho lắm vì nghe rất rẻ tiền, vô lý và mâu thuẫn, nhưng lại có tác dụng khích động đám tín đồ đầu óc chắc chắn là kém thông minh hơn các vị trong hàng Giáo phẩm nhiều.
Thứ tư, thông điệp của Đức Mẹ rao truyền cho mấy em nhỏ thất học là một thông điệp, như đã nói ở trên, sặc mùi...chống Cộng. Trí tuệ của mấy em nhỏ mù chữ lên 10, 9, và 7 tuổi đã phát triển chưa, và các em đã hiểu gì về Cộng Sản? Trí nhớ của các em như thế nào? Phải chăng các thông điệp của Đức Mẹ thật ra là của Giáo hội đưa ra? Tại sao Đức Mẹ lại phải chống Cộng vì Cộng cũng là do con Mẹ sinh ra? Bảo rằng Mẹ chống vì CS tàn ác thì tại sao trước những hành động tàn bạo của Giáo hội Gia Tô đối với nhân loại như tiêu diệt các nền văn hóa khác, gây ra những cuộc Thánh Chiến, các tòa hình án xử dị giáo, làm chết hại bao nhiêu triệu người v...v.., Mẹ không hiện ra mà chống? Hay là Mẹ về phe Giáo hội đã vinh danh Mẹ qua những hành động tàn ác kể trên?
Thứ năm, những lời tiên đoán của Mẹ sai bét. Hai cuộc Thế Chiến không do Nga Sô gây ra mà do các con Mẹ ở Tây phương gây ra tàn sát lẫn nhau. Và ngày nay, tuy chế độ Cộng sản ở Nga đã sụp đổ, Nga sô cũng không cải đạo theo Gia Tô Giáo. Trái lại, cơ quan lập Pháp của Nga sô còn đưa ra nghị viện điều luật "đặt Gia Tô La Mã Giáo" ra ngoài vòng pháp luật (nhưng lại công nhận Phật Giáo là một trong những tôn giáo chính thức ở Nga) khiến cho John Paul II hoảng sợ, phải cầu cứu với Tổng Thống Nga là Yetsin để hoãn thông qua đạo luật này.
Thứ sáu, hiện tượng lạ lùng về mặt trời kể trên hoàn toàn phản khoa học. Mặt trời không thể nào nhảy ra ngoài quỹ đạo như vậy mà không làm nhiễu loạn cả Thái Dương Hê, và không ai có thể nhìn thẳng vào mặt trời trong 12 phút mà không bị hư hẳn đôi mắt, trường họp này đã xảy ra ở vài nơi trên thế giới khi tín đồ tin vào lời tiên đoán "Đức Mẹ hiện ra" tương tự như ở Fatima và nhìn thẳng lên mặt trời, của vài tên lái buôn tôn giáo, chưa kể là hơn hai tỷ người trên thế giới khi đó không hề nhìn thấy hiện tượng mà Giáo hội cho rằng đã xẩy ra. Chỉ có những người không biết gì về khoa học, nhất là về môn Cơ học các thiên thể (Celestial mechanics) mới dám bịa ra cái hiện tượng không thể nào xẩy ra này.
Nhưng những điểm vô lý kể trên cũng chẳng làm cho Giáo hội bận tâm, Giáo hội chỉ cần tín đồ tin là được rồi, như Monsignor Sheen đã tuyên bố năm 1947, sau một diễn văn chống Cộng (Blanshard, Ibid., trg. 228):
"Chúng tôi không quan tâm đến việc chứng minh tính cách xác thực của những hiện tượng xẩy ra ở Fatima, vì những ai tin ở cảnh giới tâm linh và Mẹ của Chúa thì không cần đến chứng minh, còn những ai bác bỏ Thánh Linh thì đằng nào cũng không chấp nhận rồi."
(We are not concerned about proving the authenticity of these phenomena at Fatima, for those who believe in the realm of the spirit and the Mother of God need no proof, and those who reject the Spirit would not accept it anyway.)
Tại sao con người lại có thể tin vào những chuyện vừa hoang đường, vừa phi lý, vừa phản khoa học một cách ấu trĩ như vậy? Chúng ta nên nhớ rằng, ở Việt Nam, sau hiệp định Geneva, 1954, thì khoảng 6, 7 trăm ngàn giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm v..v.., đã cho chúng ta thấy cảnh: "giám mục, linh mục chạy trước, con chiên chạy sau." Chạy đi đâu? Chạy vào Nam theo Đức Mẹ và Chúa Giê su, vì theo kế hoạch tuyên truyền của Lansdale, tin Đức Mẹ và Chúa Giê su đã di cư vào Nam trước rồi, được tung ra một cách rất ngoạn mục và thành công. Vậy thì đầu óc của những tín đồ Gia Tô, nhất là những tín đồ Gia Tô ở Việt Nam, thuộc loại có thể tin vào bất cứ điều nào mà Giáo hội nói, bất kể những điều này phi lý đến đâu. Giáo hội biết rõ như vậy cho nên mới có thể khai thác triệt để những đầu óc thuộc loại này. Về sự việc này, Linh mục Trần Tam Tĩnh có viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm, về cuộc di cư vào Nam của người Gia Tô miền Bắc như sau, trg. 103-104:
"Trước tiên, họ sử dụng Đức Mẹ Fatima, mà việc tôn sùng mấy năm gần đây đã được tăng cường, qua việc thành lập Đạo Binh Đức mẹ, Đạo Binh Xanh, Hiệp Hội Chiến Sĩ Đức Mẹ. Tất nhiên Đức Mẹ được giao cho chức năng chính trị để giải thoát những kẻ tôn sùng Người. Người ta đồn rằng Đức Mẹ hiện ra ở Ba Làng, Thanh Hóa, để ra lệnh cho giáo dân đi vào Nam, bởi vì Mẹ cũng bỏ miền Bắc Việt Nam. "Việc hiện ra" hình như đã được dàn dựng tài tình bởi một linh mục, ông đã mặc áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã cho em đứng vào sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima. Trước mấy cây nến tung ánh lung linh, một vài nhà "đạo đức" coi đó là Đức Mẹ hiện ra, nói với họ một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rằng (trước khi hiện ra ở La Vang rồi Ba Làng, Đức Mẹ người Do Thái đã đi học một cua tiếng Việt VSL (Vietnamese as a Second Language) ở trường thuộc địa Pháp tại Hà Nội; TCN), phải từ bỏ đất Cộng Sản bất cứ với giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự do. Đức Mẹ sắp sửa bỏ miền Bắc. Từ miệng qua tai, tin đồn được loan ra như một vết dầu loang được thêm thắt những nét chấm phá mới, kèm theo những lời tiên tri mới, hoặc những điềm gở tiên báo tai ương sắp đổ tới..
"Chạy trốn để cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin", "Chúa Ki Tô đã đi vào Nam", "Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt", những khẩu hiệu phi lý dó làm cho người Ki Tô hữu phương Tây phải cười, nhưng lại có tác dụng rất lớn nơi một cộng đồng Ki Tô hữu đã từng bị giam nhốt xưa nay trong sự ngu dốt và trong một niềm tin đạo nói được là thới Trung cổ. Trong cái ốc đảo khép kín đó của giáo dân, những gì gọi là "Bí Mật của Đức Mẹ Fatima" đều được coi như là tín điều bắt buộc, đang khi nó chỉ dựa vào một mớ tài liệu tuyên truyền nhảm nhí."
Nhảm nhí như thế nào? Nghiên cứu về sách lược của Giáo hội Gia Tô và những sự kiện xảy ra sau hiện tượng Fatima, các học giả đã tìm ra nhiều điều thậm phi lý, phản khoa học, không thể giải thích nổi, và hiện tượng Fatima đã được Giáo hội đưa ra, ngoài mục đích tôn giáo còn có những mục đích chính trị và kinh tế, . Thật vậy, trong cuốn Vietnam: Why Did We Go, Avro Manhattan viết như sau, trg. 28...:
"Sự sùng bái ở Fatima, đặt nặng trên lời hứa của Maria đồng trinh là Nga Sô sẽ cải đạo theo Gia Tô La Mã Giáo, đã được Vatican thổi phồng đến tột đỉnh. Năm 1938, Giáo hoàng phái một sứ giả tới Fatima để loan báo cho gần một triệu tín đồ đang hành hương nơi đó là Maria đồng trinh đã phó thác cho ba đứa trẻ ở Fatima ba bí mật lớn. Và rồi, tháng 6 năm đó, đứa trẻ duy nhất còn sống, được ông linh mục nghe xưng tội cố vấn, linh mục này luôn luôn tiếp xúc với hệ thống quyền lực Gia Tô và do đó với Vatican, nên tiết lộ nội dung của hai trong ba điều bí mật trên.
Điều bí mật thứ nhất là cảnh tượng của hỏa ngục (cái mà thế giới hiện đại đã biết rõ)
Điều bí mật thứ hai đi thẳng vào trọng điểm: nhắc lại là Nga Sô sẽ cải đạo theo Gia Tô La Mã Giáo.
Điều bí mật thứ ba để trong một bao thư niêm kín và đặt dưới quyền xử dụng của hàng Giáo phẩm Gia Tô, không được tiết lộ cho tới năm 1960.
Sự lập lại điều bí mật mặc khải thứ hai về sự cải đạo của Nga Sô có một ý nghĩa chấn động tôn giáo và chính trị. Giáo hội đã chọn một thời điểm rất đúng lúc để tiết lộ bí mật này. Những lực lượng độc tài Phát xít cũng đang chủ trương tiêu diệt Nga Sô.
Năm sau, 1939, Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Năm 1940, Pháp bại trận. Toàn thể Âu Châu rơi vào quyền thống trị của Phát xít. Năm 1941, Hitler xâm lăng Nga Sô. Sau cùng, lời hứa của Maria đồng trinh hầu như sắp sửa thành tựu. Tại Vatican, mọi người đều hồ hởi, Pacelli đã trỏ thành Giáo hoàng Pius XII (1939)..
Pius XII khuyến khích tín đồ Gia Tô tình nguyện đi chiến đấu ở mặt trận Nga Sô. Tín đồ Gia Tô - hầu hết là những người sùng tín Maria đồng trinh - từ Ý, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Bỉ, Hòa Lan, Châu Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ và Bồ Đào Nha, đầu quân vào những đoàn quân của Đức Quốc xã. Tây Ban Nha tham gia một sư đoàn có tên là Sư Đoàn Gia Tô Xanh Lơ .
Tháng 10, 1941, trong khi những đoàn quân Đức quốc xã tiến gần tới Moscow (thủ đô Nga Sô), Pius XII, trong một huấn thị ở Bồ Đào Nha, thúc đẩy tín đồ Gia Tô hãy cầu nguyện dể cho lời hứa của Maria ở Fatima mau thực hiện.
Năm sau, 1942, sau khi Hitler tuyên bố rằng Cộng Sản Nga Sô đã "dứt khoát" bị đánh bại, Pius XII, trong một thông điệp hồ hởi, theo huấn thị thứ nhất của Maria đồng trinh, "dâng hiến cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm của Maria"
...Đế quốc Phát xít tan biến với sự sụp đổ của Hitler. Năm 1945 Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt. Trước sự kinh ngạc và đau buồn của Pius XII, Nga Sô đã trở thành cường quốc thứ nhì trên trái đất."
(The cult of Fatima, with emphasis on the Virgin's promise to Russia's conversion, had been given immense prominence by the Vatican. In 1938, a papal nuncio was sent to Fatima, and almost half a million pilgrims were told that the Virgin had confided three great secrets to the children. Thereupon, in June of that year, the only surviving cvhild - advised by her confessor, always in touch with the hierarchy and hence with the Vatican - revealed the contents of two of the three great secrets.
The first was the vision of Hell (something well known to the modern world).
The second was more to the point: a reiteration that
Soviet Russia would be converted to the Catholic Church. The third was sealed in an evelope and put in custody of the ecclesiastical authority not to be revealed until 1960.
The dramatic reiteration of the revelation of the second secret about Soviet Russia immediately assumed a tremendous religious and political significance. The timing of the "disclosure" could not have been better chosen. The fascist dictatorship were talking the same language: the annihilation of Soviet Russia.
The following year, 1939, the Second World War broke out. In 1940, France was defeated. The whole Europe had become fascist. In 1941, Hitler invaded Russia. The Virgin's prophecy at long last was about to be fulfilled. At the Vatican there was rejoicing, since by now Pacelli had become pope under the name of Pius XII (1939).
Pius XII encouraged Catholics to volunteer for the Russian front. Catholics - most of them devotees of the Virgin of Fatima - joined the nazi armies, from Italy, France, Ireland, Belgium, Holland, Latin America, the US and Portugal. Spain sent a Catholic Blue Division.
In October 1941, while the nazi armies rolled near Moscow, Pius XII, addressing Portugal, urged Catholics to pray for a speedy realization of the Lady od Fatima's promise.
The following year, 1942, after Hitler had declared that communist Russia had been "definitely" defeated, Pius XII, in a Jubilee Message, fulfilled the first of the Virgin's injunction and "consecrated the whole world to her Immaculate Heart."
...The fascist empire vanished with the collapse of Hitler. In 1945, World War II ended. And Soviet Russia, to the chagrined surprise of Pope Pius XII, emerged the second greatest power on earth.)
Đó là thực chất hiện tượng Fatima, một "phép lạ" mà đại đa số tín đồ Gia Tô ít học trên toàn thế giới rất tin. Họ không hề để tâm suy nghĩ là lời hứa của Maria đồng trinh (thực ra là của Giáo hội) giao phó cho những em bé thất học, rút cục chỉ là những điều mơ ước không thành của Giáo hội. Nhưng đa số tín đồ Gia Tô hoàn toàn không biết gì về những mưu đồ chính trị đằng sau hiện tượng Fatima, cho nên họ vẫn tin rằng Đức Mẹ đã thực sự hiện ra ở Fatima, và tâm cảnh sùng tín Đức Mẹ ngày càng gia tăng. Khai thác sự "ngu dốt trong những ốc đảo khép kín đó của giáo dân", Giáo hoàng Pius XII bèn đi thêm một bước ngoạn mục khác.
Năm 1950, Giáo hoàng Pius XII tiết lộ rằng chính đức Mẹ đã đích thân đến thăm viếng ông tại Vatican. Năm sau, 1951, Ông tổ chức một cuộc hành hương vĩ đại tại Fatima gồm hơn 1 triệu tín đồ. Rồi ông phái một vị Hồng y thân cận nhất, Tedeschini, đến Fatima với nhiệm vụ loan báo cùng các tín đồ đi hành hương ở Fatima là đức Mẹ đã đến thăm ông. Avro Manhattan mô tả sự việc trên như sau (Ibid., trg. 39):
"Thế rồi một ngày trong tháng 10, 1951, Hồng Y Tedeschili, đứng trước đám đông tín đồ, với một giọng nói đầy xúc cảm, long trọng tiết lộ với những tín đồ đi hành hương Fatima rằng: "Một người khác đã chứng kiến cùng một phép lạ" (nghĩa là phép lạ khi Maria đồng trinh hiện thân trước ba đứa trẻ năm 1917, mặt trời đi theo đường gẫy khúc ở trên trời). Hồng Y nói tiếp: "Ông ta (Giáo hoàng Pius XII) đã nhìn thấy hiện tượng đó, không phải ở Fatima. Thật vậy, ông ta đã nhìn thấy hiện tượng đó nhiều năm sau, ở La Mã. Giáo hoàng, chính Pius XII, đã nhìn thấy thế." Rồi Hồng Y kể thêm vài chi tiết liên hệ đến phép lạ trên: "Một buổi chiều ngày 30 tháng 10, 1950, hồi 4 giờ, Đức Thánh Cha từ khu vườn trong Vatican nhìn lên mặt trời (chỉ có người không biết gì về mặt trời mới nhìn thẳng lên mặt trời; TCN) và thấy hiện tượng kỳ lạ ở thung lũng Fatima tái diễn. Hiện tượng kỳ lạ nào? Sau đây là nguyên văn lời của vị Hồng Y, người được Giáo hoàng Pius XII đặc phái tới Fatima để tiết lộ cho thế giới biết như sau:
"Giáo Hoàng Pius XII đã đích thân nhìn thấy đời sống của mặt trời (Tác giả xin nhắc độc giả rằng: Mặt trời là một khối cầu lửa vĩ đại, đường kính vào khoảng 1 triệu 3 trăm 85 ngàn cây số (866.000 miles)) trong tay của Maria. Mặt trời dao động, rối loạn và biến đổi thành một hình ảnh sống trong một chuyển động ngoạn mục trên trời.. trao truyền cho vị đại diện của Chúa những thông điệp thầm lặng nhưng hùng hồn.
Hiện tượng này không chỉ xảy ra một lần, mà trong ba ngày liên tiếp, ngày 30, 31 tháng 10, và 1 tháng 11, 1950."
(And so it came to pass that one October day, Cardinal Tedeschili faced the massive crowd, and in a voice filled with emotion, solemnly disclosed to the astonished pilgrims that "another person has seen this same miracle..." (namely the miracle of the Virgin Mary appearing to the three children in 1917, when the sun zig-zagged in the sky). "He saw it outside Fatima," the Cardinal went on to say. "Yes, he saw it years later. He saw it at Rome. The pope, the same our pontiff, Pius XII...yet he saw it." The cardinal then gave a few relevant details concerning when and how the miracle occurred. "On the afternoon of October 30th, 1950, at 4 p.m.," said the cardinal, (that is three months after Catholic Mathews delivered this preventive atomic war speech), "the Holy father turned his gaze from the Vatican gardens to the sun, and there...was renewed for his eyes the prodigy of the Valley of Fatima." And what was the prodigy?
Here are the exact words of the cardinal, sent there specifically by Pope Pius XII himself to disclose the story to the world:
"Pope Pius XII was able to witness the life of the sun (author's reminder: a huge burning sphere 866,000 miles in diameter)..under the hand of Mary. The sun was agitated, all convulsed, transformed into a picture of life...in a spectacle of celestial movements...in transmission of mute but eloquent messages to the Vicar of Christ."
This did not occur once, but on three successive days: October 30 and 31 and November 1, 1950.)
Khi nghe tin trên, hầu như cả thế giới, trong đó có một số trí thức Gia Tô, mỉm cười lắc đầu, vì chuyện này cũng tương tự như chuyện trong Thánh Kinh: trăng sao là những ngọn đèn mà tối tối Chúa sai thiên thần mang ra treo trên vòm trời. Nhưng đám tín đồ "tin ở một vị Giáo hoàng, người tự nhận là không thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao", thì lại cảm thấy rất hồ hởi khi nghe tin trên, vì đó là dấu hiệu nhắc lại lời hứa của bà Maria khi xưa ở Fatima về Nga sô cải đạo thành Gia Tô La Mã,ỵ đã sắp sửa thành tựu. Tôi thì tôi cho rằng mấy ngày đó Đức Thánh Cha uống rượu lễ hơi nhiều, nếu thực sự ông nhìn thấy hiện tượng kỳ lạ trên, trong khi mấy tỷ người trên thế giới không ai nhìn thấy. Thật ra, chuyện Giáo hoàng bày đặt ra chuyện hoang đường để dụ dỗ đám tín đồ đầu óc vốn mù mịt, và chuyện các tín đồ tin vào những chuyện phi lý như trên, là những chuyện thuộc về tín ngưỡng trong Gia Tô giáo. Đối với tôi, những tín đồ thuộc loại trên đáng thương chứ không đáng trách. Chúng ta không thể trách họ vì sự thiếu hiểu biết của họ. Đáng trách chăng là những thủ đoạn khai thác sự thiếu hiểu biết của quần chúng tín đồ mà Giáo hội dùng trong những mục đích chính trị nhơ bẩn, và trong những mục đích kinh tế để làm giầu cho Giáo hội trong khi quần chúng tín đồ vẫn nghèo khổ mà lại tiêu phí vào những việc không đâu, vì tin vào những lời tuyên truyền giả dối của Giáo hội. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn sau đây của học giả Paul Blanshard (Ibid., trg. 225-226):
Đức Ông John L. Belford, một trong những vị lãnh đạo Gia Tô nổi tiếng ở Brooklyn, phàn nàn về sự kiện là một vài đền thờ (ở những chỗ Giáo hội cho rằng Maria đã hiện ra) đã "gợi lòng tham, một trong những đặc tính điên rồ của con người" và lên án "tính cách thương mại xung quanh những đền thờ." Ông nói: "Thật là khó phân biệt giữa sùng đạo và mê tín, nhưng có những nơi trong quốc nội cũng như ở ngoại quốc mà sự sùng đạo được thực hành và quảng cáo như là một cách làm tiền... Những tín đồ Gia Tô lấy làm xấu hổ, và những người phi-GiaTô cảm thấy kinh tởm...Sự dùng những Thánh tích, lẽ dĩ nhiên, được giáo hội chấp thuận. Trong việc xử dụng những Thánh tích, chúng ta dạy về một đức tin hoàn toàn, nhưng chúng ta cũng ghê tởm, khinh miệt và lên án cách hành nghề kiểu một tay đưa ra Thánh tích, còn tay kia thì vơ tiền.."
Trong những năm gần đây, giáo hội đã đem mục dích chính trị thêm vào những sắc thái khác mà giáo hội quảng cáo về những đền thờ Maria. Trong hai đền thờ Maria lớn nhất trên thế giới ngày nay, đền thờ ở Lourdes trên nước Pháp và ở Fatima, Bồ Đào Nha, được dựng lên như là các nơi thiêng liêng vì Maria đồng tring đã viếng thăm trái đất tại các nơi này, đền thờ nổi tiếng hơn, Fatima, ngày nay được giáo hội xủ dụng chính yếu như là một biểu tượng xúc cảm trong cuộc chiến chống Cộng. Đền thờ nổi tiếng nhất ở Tây Bán Cầu, ở Guadalope, nay được dùng như là một vũ khí chống các trường học công cộng ở Mễ Tây Cơ (Giáo hội phản đối các trường công, muốn rằng nền giáo dục Mễ Tây Cơ phải do các trường Gia Tô chỉ đạo; TCN)
... Gần đây, những pho tượng "Đức Mẹ ở Fatima" đã được mang đi diễn hành ở Âu Châu và Mỹ châu, phô trương rầm rộ và được các báo Gia Tô tường thuật chi tiết. Mỗi pho tượng đi tới đâu đều có những "phép lạ" hiện ra tới đó.
Hầu như mọi thông tin quảng cáo về những pho tượng này đều kết hợp phép lạ ở Fatima với chiến dịch chống Cộng của Giáo hội. Giới trí thức Gia Tô cảm thấy hổ nhục vì sự khai thác chính trị này. Trí thức Gia Tô không bắt buộc phải tin những chuyện Maria hiện thân mà giáo hội đưa ra chừng nào mà họ không công khai bác bỏ những truyền thuyết có tính cách linh cảm này."
(Monsignor John L. Belford, one of Brooklyn's most noted Catholic leaders, deplored the fact that some shrines "have appealed to the greed which is one of the foul characteristics of human nature," and condemned the "commercialism which surrounds shrines." He said: "It is not easy to draw the line between devotion and superstition, but there are places at home and abroad where devotion are practiced and promoted as a mean to gather money...Catholics are ashamed and non-Catholics are horrified...The use of relics is, of course, approved by the Church. In that use we profess unqualified faith, but we do loathe, despise and comdemn the contemptible practice of applying the relic with one hand and collecting money with the other."
...In recent years the hierarchy has added political purpose to other features of its shrine promotion. Of the two greatest shrines in the world today, the French Lourdes and the Potuguese Fatima, made sacred by visits of the Virgin Mary to the earth, the more fmous one, Fatima, is now used by the Church chiefly as an emotional symbol in the war against communism. The most famous shrine in the Western hemisphere, Guadalope, is being used as a weapon against Mexican public schools.
...Recently "Fatima statues" have been circulated in Europe and America with enormous public fanfare and detailed report in the Catholic press. Each statue during its journey has had many "miracles reported along its path."
...Virtually all publicity about the statue has coupled the miracle of Fatima with the Church's drive against communism... Many Catholic intellectuals are shame-faced about this political exploitation of apparition...Catholic intellectuals are not bound by the rules of their Church to take the apparition stories seriously as long as they do not repudiate the inspiring legends publicity.)
7.2. Huyền Thoại Lourdes.
Sự thật về "phép la" ở Fatima là như vậy, thế cònì sự thật về "phép lạ" ở Lộ Đức (Lourdes) ra sao? Chúng ta có thể tìm thấy chi tiết trong cuốn Lộ Đức: Sự thật về những cái thấy của Bernadette. Tính cách thương mại của hang đá (Lourdes) (Lourdes: La Vérité sur les Visions de Bernadette. Le mercantilisme de la Grotte), của André Lorulot . Sau đây tôi xin trích dẫn những đoạn quan trọng về cái gọi là "phép lạ" ở Lourdes.
"Giáo hội có những phương tiện quyền thế để truyền bá những chuyện không tưởng. Giáo hội phát hành hàng triệu cuốn sách chứa đầy những lời dối trá trắng trợn và những sai lầm cố ý.
Thí dụ, cuốn sách nổi tiếng của Henri Lasserre viết về Đức Mẹ ở Lộ Đức đã được phát hành tới một triệu cuốn. Thực ra, văn phẩm thuộc loại đó chỉ nhằm những người trí tuệ thô thiển. Đó là tác phẩm của một tín đồ mù quáng và cuồng tín.
Một Linh mục dòng Tên, ông Cros, thú nhận rằng"cái mớ tài liệu đưa cho Henri Lasserre ngày trước " thực sự trống rỗng. "Không có gì trong đó có thể dùng để viết một cách xác thực về câu chuyện hiện thân của Đức Mẹ."
Larrerre giới thiệu Francois Soubirous (cha của Bernadette) như là một con người gương mẫu. Trái lại, Linh mục Cros biết rõ rằng, đó chỉ là một tên nghiện rượu, mang tiền của gia đình đi la cà tửu quán uống rượu, vào tháng 3, 1858, đã bị tù vì tội ăn cắp.
Em nhỏ Bernadette Soubirous, con gái tên nghiện rượu kể trên, cùng với vài đứa bạn đi kiếm củi.
Khi tới gần cái hang, em nhìn thấy một người đàn bà đẹp "không giống người nào trên trái đất" mỉm cười. Em quỳ xuống. Người đàn bà kia tay làm dấu Thánh giá.
Chủ nhật tới, em trở lại cái hang trên cùng mấy đứa bạn. Tất cả đều quỳ xuống cầu nguyện. Sau một hồi, mặt Bernadette rạng rỡ lên. Em lại thấy người đàn bà áo trắng kia xuất hiện. Các bạn em không ai thấy cả nhưng xúc động trước cảnh tượng ngây ngất xuất thần của em bé chăn cừu (Bernadette).
Người đàn bà mà Bernadette nhìn thấy trong hang cũng đọc riêng cho em ba điều bí mật. Người ta đã không tiết lộ ba điều bí mật này.
Làm sao mà Bernadette có thể nhớ được những điều trên (giả thử có người thực sự đọc cho em điều gì đó)? Trí nhớ của em nhỏ đáng thương kia rất kém cỏi đến độ em không thể nhắc lại cho đúng hai tiếng "Immaculée Conception" (Thụ thai vô nhiễm).
Bernadette đã mang tới một mảnh giấy và một cái bút chì để Đức Mẹ đồng trinh viết. Nhưng "Bà" đã lẩn tránh, không viết và thật là đáng tiếc. Chúng ta đã có thể có được một văn kiện tỉ mỉ, chắc chắn là đáng tin cậy hơn là những lời tả lại của em bé nhà quê. Nhưng Bernadette không biết viết, và đó là lý do, lý do duy nhất, bắt em phải trình lại mảnh giấy còn trinh nguyên.
"Hãy nói với những Linh mục là phải xây một nhà thờ ở đây và mọi người phải diễn hành đến đó."
Những lời trên, theo Bernadette, là của người đàn bà đã xuất hiện, không thể làm các ông Linh mục phật ý. Tới đây, âm mưu đã rõ rệt.
Khi người ta làm cho Đức Mẹ phát ngôn thì, do một sự trùng hợp khó xử, bao giờ cũng là để phục vụ quyền lợi của giới giáo sĩ.
Tất cả cái trò hề đó đã được Linh mục Peyramale ở Lourdes (Lộ đức) dàn dựng và sau đó được giám mục Laurence ở Tarbes khuyến khích và ủng hộ.
Bernadette đã được hai linh mục khác, LM Ader và LM Ponian chuẩn bị tư tưởng và mớm lời.
Người ta đã đem cô gái nhỏ bệnh hoạn tới một làng nhỏ, Bartrès, để săn sóc.
Thật là khá châm chọc khi ta nhận xét là Bà đồng trinh luôn luôn chọn những tâm hồn mộc mạc để giao phó riêng những bí mật.
Tại sao Bà đồng trinh lại chỉ xuất hiện trước em nhỏ bệnh hoạn đó?
Ngoài Bernadette ra còn có hàng trăm, hàng ngàn người. Bà đồng trinh có thể làm cho sự thổ lộ của mình có một giá trị nổi bật hơn nếu xuất hiện trước tất cả mọi người một cách không ai có thể nghi ngờ và để lại một vài văn kiện vô hiệu hóa mọi sự phản đối? Tại sao chỉ chọn những đứa trẻ mắc bệnh tâm thần?
Vậy thì, những ảnh tượng Bernadette nhìn thấy đã được sắp xếp một cách hoàn toàn từ trước bở Linh mục Ader, vì, ít lâu sau những việc làm vụng về đó (mang Bernadette đi xa để chuẩn bị; TCN), Bernadette trở lại Lourdes để phóng mình vào những cơn hoang tưởng cuồng loạn.
Thật ra, ngày 28 tháng 12, 1857 (45 ngày trước lần xuất hiện đầu tiên) bộ Tư Pháp đã biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra. Quan Trưởng Tòa ở Pau, ông Falconnet, đã gửi cho ông Tòa ở Lourdes một văn thư báo trước chuyện này.
"Tôi được biết rằng có những biểu lộ về một nhân vật siêu nhiên và mang tính chất của phép lạ, đã được sửa soạn để đưa ra vào dịp cuối năm. Tôi yêu cầu ông hãy để ý canh chừng sự thực về những việc này.""
( L'Église possède des moyens puissants pour répandre ses récits fantastiques. C'est par million d'exemplaires qu'elle diffuse des publications remplies de mensonges flagrants et d'erreurs voulues.
Le fameux livre d'Henri Lasserre, par exemple, Notre Dame de Lourdes, a été répandu à un million d'exemplaires...Ce genre de littérature est, en effet, tout désigné pour des intellects rudimentaires...C'est l'oeuvre d'un partisan aveugle et fanatique.
Un Jésuite, le P. Cros, avoue que la "liasse des documents confiés autrefois à M. Henri Lasserre" était vide. "Rien n'y pouvait servir à une histoire vérédique des apparitions."
...Lasserre présente Francois Soubirous (le père de la voyante Bernadette) comme un homme modèle. Le P. Cros reconnait, au contraire, que c'était un alcoolique, qui buvait au cabaret l'argent de la famille et qui avait été emprisonné, en Mars 1857 pour vol.
...La petite Bernadette Soubirous, fille de l'alcoolique précité, s'en va ramasser du bois mort, avec quelques compagnes.
En arrivant auprès de la grotte, elle apercoit une belle et souriante dame "qui ne ressemblait à personne de la terre". Elle tombe à genoux. La dame fait le signe de la croix...
...Elle retourne, le dimanche suivant, à la Grotte, avec d'autres enfants. Tous s'agenouillent et se mettent à prier. Bernadette, au bout d'un moment, se transfigure. Elle apercoit de nouveau la dame blanche. Ses compagnes ne voient rien, mais sont émues au spectacle de la petite bergère en extase.
...La vision de la Grotte dicta aussi à Bernadette trois secrets confidentiels. On ne les a pas divulgués.
Comment Bernadette est-elle été capable de s'en souvenir, du reste? (en supposant qu'on lui eut vraiment dicté quelque chose) La pauvre gosse avait si peu de mémoire qu'elle ne parvenait même pas à répéter ces deux mots: Immaculée Conception.
...Bernadette avait apporté à la Vierge, pour qu'elle écrive, un crayon et du papier. Mais la "dame" se déroba et c'est dommage. Nous aurions possédé là un document curieux, plus original sans doute que les descriptions de la jeune paysanne. Mais...Bernadette ne savait pas écrire - et c'est la raison, la seule raison, qui la contraignait à rapporter son papier vierge (comme la "dame".)
"Allez dire aux prêtres qu'il doit se bâtir ici une chapelle et qu'on y doit venir en procession".
Ces paroles, attribuées par Bernadette à sa radieuse "apparition", ne pouvaient déplaire à ces messieurs prêtres, on les concoit. La trame est ici bien visible.
Lorsqu'on fait parler Madame la Vierge-Mère, c'est toujours, par une coincidence inquiétante, pour servir les intérêts du clergé.
...Toute cette farce a été combinée par l'abbe Peyramale, curé de Lourdes, encouragé et soutenu ensuite par l'évêque de Tarbes, M. Laurence.
Bernadette avait été savamment préparée et suggestionnée par deux autres prêtres, l'abbé Ader et l'abbé Ponian.
On avait envoyé la gamine, malade, se soigner dans un tout petit village de la montagne: Bartrès.
... Il est assez piquant de remarquer que la Vierge choisit toujours des simples d'esprit pour confidents. Cà aussi, c'est une indication précieuse.
...Pourquoi la Vierge ne voulait-elle se montrer qu'à cette petite malade?
Aux côtés de Bernadette il y avait des centaines, puis des milliers de personnes. La Vierge pouvait donner à sa manifestation une valeur plus éclatante en se montrant à tout le monde, d'une facon indiscutable - et laisser quelque document qui aurait réduit à néant toutes les objections. Pourquoi choisir toujours des petits enfants névropathes?
....Les visions de Bernadette étaient donc parfaitement combinées à l'avance par l'abbé Ader, car, peu de temps après qu'il eut tenu ces imprudents propos, l'enfant rentrait à Lourdes et se livrait à ses hallucinations hystériques.
En effet, le 28 Décembre 1857 (45 jours avant la première apparition), la justice était déjà au courant de ce qui allait se passer. Le Procureur Général de Pau, M. Falconnet, envoyait ce jour-là une note de service au Procureur de Lourdes, pour le prévenir.
"Je suis informé que les manifestations affectant un caractère surnaturel et prenant un aspect miraculeux, se préparent pour la fin de l'année. Je vous prie de veiller à ce que ces faits soient exactement surveillés...")
Đó là đại cương về hiện tượng Lourdes. Trong cuốn sách của Lorulot có đầy đủ chi tiết về những sự dàn dựng của giới Linh mục về hiện tượng Lourdes, dựa theo rất nhiều tài liệu nghiên cứu về hiện tượng này cũng như những tài liệu của chính quyền địa phương. Nhưng tất cả những sự thực này đều không làm giáo hội lo ngại vì "giáo hội đã quá thông thạo phương cách bóp nghẹt những vụ gây tai tiếng" (...sans inconvénient de l'Église: elle est si experte à étouffer les scandales.)
Một mặt khác, ở Lourdes, "người ta" đã khai thác triệt để sự mê tín của quần chúng để thu vào những nguồn lợi khổng lồ. Giáo hội không làm gì để ngăn cản, trái lại còn khuyến khích.
Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của André Lorulot (Ibid., trg. 7):
" Cái xí nghiệp Lourdes cung cấp cho giáo hội những nguồn lợi vật chất mà giáo hội dùng trong chính trị nhơ bẩn và mờ ám.
Cái hang đá (Lourdes) không chỉ mang những lợi tức đến cho công đoàn. Nó còn là một phương tiện để duy trì và phát triển sự cuồng tín, gia tăng cường độ ngu xuẩn, đẩy sự tin vào siêu nhiên đến cực độ.
Chúng ta thấy ở đó mọi dạng khai thác. Mới đây giáo sư A. Chide chứng tỏ rằng đĩ điếm rất phát triển ở Lourdes. Và tôi không nói đến vô số thày dòng tới đây "như là một hỏa tiễn" với các cô "cháu gái" hay tệ hơn nữa.
Nếu các bạn có đi tới Lourdes thì hãy cẩn thận và đừng tin ở đám người cuồng tín đó, những người này thực sự là những con vật hung hăng, đầu óc ngu đần bị thống trị bởi giáo hội và không đủ khả năng để hiểu một lý lẽ có ý nghĩa.
Chúng ta phải đi tới Lourdes - và biết quan sát một cách bình tĩnh với óc phán đoán - mới nhận ra tầm rộng lớn của căn bệnh tôn giáo."
(L'entreprise de Lourdes fournit à l'église d'incalculables resources matérielles, qu'elle emploie à sa politique malsaine et obscure.
La Grotte ne fournit pas seulement des revenus à la congrégation. Elle constitue un moyen excellent d'entretenir et de développer le fanatisme, d'exacerber la bêtise, de pousser au paroxysme la croyance au surnaturel.
...Toutes les formes d'exploitation sont du reste représentées. Le professeur A. Chide a montré naguère que la prostitution était très developpée à Lourdes... Et je ne parle pas des innombrables curés qui viennent ici "en bombe" avec leur "nièce" ou pis encore..
...Si vous allez à Lourdes, soyez prudent et méfiez-vous de ces fanatiques, véritables bêtes furieuses, cerveaus inintelligents dominés par l'Église et incapables de comprendre un raisonnement sensé.
... Il faut aller à Lourdes - et savoir observer avec calme et discernement - pour saisir l'étendue du mal religieux.)
Và sau đây là một đoạn trong cuốn Cái nhìn của một linh mục hiện đại về giáo hội lỗi thời của ông ta (A Modern Priest Looks at his Outdated Church,trg.31,) tác giả là Linh Mục James Kavanaugh:
"Tôi đã đi tới Lourdes ở miền Nam nước Pháp. Tôi đứng trong cái công trường rộng lớn đằng trước thánh đường và quan sát những tín đồ GiaTô ở khắp nơi trên thế giới chờ đợi một ân sủng đặc biệt của cái đền thờ thiêng liêng này. Tôi bị các bà người Ý đầu đội khăn xô đẩy, những người Đông Âu to tiếng thì thầm những lời cầu nguyện làm cho tôi sao lãng. Tôi thấy những người bệnh hoạn nằm trên cáng, những nhà kinh doanh Mỹ với những chiếc sơ mi trắng. Tôi thấy những linh mục trong những bộ áo thầy tu của thế giới, những người Phi Châu hồ hởi trong các bộ quần áo sặc sỡ. Nhưng phần lớn là tôi thấy những bộ mặt nhăn nheo, nói lên một cách thành thực sự đau đón của họ. Họ đã tới để xin một ân huệ, giống như những đám người Hồi Giáo tại nơi hành hương, và để hưởng một sự tiếp xúc đặc biệt với Thần của họ. Họ uống nước ở đó, nổi tiếng về những tác dụng lạ lùng. Họ mua nước đựng trong những chai plastic để mang về nhà (và để biếu. TCN). Họ mua từng rổ tràng hạt và mề đay và nhờ những bàn tay mập mạp nhễ nhại mồ hôi của các linh mục ban phúc lành cho những thứ này. Họ đông như châu chấu, cúi xuống ngấu nghiến từng cọng ân sủng đặc biệt. Họ mi-mi chân các ngôi tượng và rên rỉ trong những đền thờ mốc mếch. Họ thú tội bằng đủ mọi thứ tiếng và nhai nhóp nhép phó mát của miền núi. Rồi, giống như một đàn cừu vĩ đại đã no nê hài lòng, họ về nhà đi ngủ. Và tôi cũng về nhà đi ngủ, cũng khó chịu và rối răm bởi sự mê tín như là tôi đã chứng kiến vào một ngày mùa thu đó khi đội banh Spartans thắng đội banh Rome. (Đội banh Rome, theo lời kể của Linh Mục Kavanaugh, trước khi ra quân, quỳ trước nhà thờ yêu cầu được Linh Mục ban phép lành và cho ăn bánh Thánh, hiệp thông với Thượng đế để Thượng đế phù hộ cho thắng trận đấu, nhưng rút cuộc bị thảm bại. TCN). Tôi không những chỉ khó chịu và rối răm mà tôi còn cảm thấy thật là xấu hổ. Đó là giáo hội của tôi, và họ là những tín đồ mà tôi góp phần đào tạo, những con số thống kê mà chúng tôi cộng vào khi chúng tôi đếm số người theo đạo. Đầu óc tôi đầy những tư tưởng làm tôi ngủ không được...Tôi nghĩ đến những con người GiaTô sợ sệt, lo lắng cầu nguyện trong mọi giáo xứ mà tôi đã phục vụ. Tôi nghĩ đến con người mà là tín đồ Gia-Tô và một lần nữa tôi lại nghĩ đến họ."
(I took a trip to Lourdes in southern France. I stood in the giant square in front of the Basilica and watched the Catholics of the world await the special blessing of this sacred shrinẹ I was jostled by the Italian ladies in their shawls, distracted by Eastern Europeans who whispered their prayers out loud. I watched the sick on their litters, the American businessmen in their clean white shirts. I saw priests wrapped in the cassocks of the world, excited Africans in their multi-colored native garb. But most of all I saw the wrinkled faces, speaking out the sincerity of their pain. They had come to ask a favor, like the Moslem hordes at Mecca, and to know a special contact with their God. They drank the water there, which is noted for its miraculous effects. They bought the plastic bottles to bring the water homẹ They bought rosaries and medals by the basketful and had them blessed by the pudgy hands of sweating priests. They covered the grounds like locusts, bent on devouring each shred of special grace. They kissed the feet of statues and groaned in mildewed shrines. They confessed in every language and munched their mountain cheese. Then, like a giant, content herd, they went home to bed. And so did I, as sick as confused by superstition as I had been on that autumn day when the Spartans conquered Rome.
Not only was I sick and confused, I was deeply ashamed as well. This was my Church and there were the Catholic men I had helped to form, the statistics we added up when we counted the catholicity of our Church. My mind was crowded with thoughts that refused to let me sleep. I thought of the frightened catholics who worried and prayed in every parish I had served. I thought of the man who is a Catholic and I think of him once again....)
Qua những tài liệu mà tôi trích dẫn ở trên, chúng ta đã thấy rõ thực chất những "phép lạ" Gia Tô ở Fatima, ở Lourdes ra sao. Nhưng đối với số tín đồ Gia Tô tin vào những phép lạ của Giáo hội thì có thể họ sẽ đưa ra câu hỏi: "Phép lạ Fatima? Phép lạ Lộ Đức? Tại sao không? Đã có nhiều bằng chứng cho thấy có người đi hành hương các nơi này rồi về khỏi bệnh v...v..."
Y khoa đã chứng minh rằng, nếu con người tin tưởng mãnh liệt vào bất cứ một cái gì, có khả năng chữa "bách bệnh tiêu tan, vạn bệnh tiêu trừ", thì có thể trong vài trường hợp cơ thể con người tiết ra những chất kháng độc và làm lui hay khỏi một số bệnh, và họ cho đó là những "phép lạ". Trong những công cuộc nghiên cứu y khoa, người ta đã cho nhiều bệnh nhân uống thuốc giả (placebo), nghĩa là không phải thuốc thật mà chỉ là bột thường chế tạo giống viên thuốc, mà một số bệnh nhân cũng khỏi bệnh như thường. Vậy thì tác dụng của nước ở Lộ Đức nhiều nhất là tương đương với "tàn hương, nước giải", đôi khi cũng làm cho nhẹ bớt hay khỏi bệnh. Trong Gia Tô Giáo cũng có chuyện sau đây: "Những mẩu xương của Thánh Rosalia, được gìn giữ ở Palermo (miền Nam nước Ý; TCN), đã "chữa khỏi" cho nhiều người, ngay cả sau khi người ta khám phá ra rằng đó chỉ là xương của một con dê" (The bones of St. Rosalia preserved at Palermo "cured" many people even after they were discovered to be the bones of a goat; Daleiden, Ibid., trg 113). Những sự kiện này chứng tỏ không có phép lạ nào dự phần trong đó.
Nhưng vấn đề ở đây không phải là phép lạ, vì phép lạ, nếu thực sự là phép lạ, có tính cách nhỏ giọt này có bao nhiêu giá trị cho nhân loại? Bảo rằng phải có lòng tin phép lạ mới ứng. Như vậy là cho rằng trong cả triệu người đến Lộ Đức mỗi năm, lâu lâu mới có một người tin. Vấn đề ở đây là giáo hội đã khai thác lòng mê tín của quần chúng để kiếm tiền cho những mục đích chính trị nhơ bẩn và tối tăm như André Lorulot đã viết ở trên.
7.3. Sự Thật Về Ngụy Tích La Vang:
Sau đây là chuyện Mary hiện ra ở La Vang, Việt Nam, được cho là vào cuối thế kỷ 18, năm 1798, theo truyền thuyết, nhưng thực ra không ai biết ngày nào, năm nào. Theo các tín đồ Công Giáo Việt Nam thì La Vang là nơi mà họ cho rằng Mary đã hiện ra đánh đuổi Phật Thần, chiếm đất giành dân, cướp Chùa để xây nhà thờ [Xin đọc vài câu thơ trong cuốn Linh Địa La Vang của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc mà tôi sẽ trích dẫn trong một đoạn sau]. Nhà thờ La Vang đã được Vatican nâng lên thành một Vương Cung Thánh Đường Thứ Yếu [hay ít quan trọng, hay hạng nhỏ] ở La Vang [a minor basilica in La Vang] ngày 22 tháng 4, 1961, trong thời của chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, tuy Vatican đã biết rõ là Mary không hề hiện ra ở La Vang như trong tờ Tuần-báo “L'Osservatore Romano”, tiếng nói chính-thức và có thẩm-quyền nhất của Tòa Thánh Vatican, trong số 32/33, tuần lễ 12-19/8/1998, đã xác định là: “Bất hạnh thay, không có một văn-bản tài-liệu nào về những lần hiện ra (ở La Vang) này” [Unfortunately, there is no written documentation of these apparitions [in La vang]].
Với sự thú nhận của Tòa Thánh như trên, và đối chiếu quá nhiều mâu thuẫn và phi lý trong những tài liệu về La Vang do các giám mục, linh mục, và giáo dân Công Giáo Việt Nam viết về La Vang, chúng ta có thể nói ngay rằng, vụ Mary hiện ra ở La Vang là một ngụy tích bịa đặt của Công Giáo Việt Nam với hai mục đích: phóng đại và bi thảm hóa cuộc cấm đạo ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, và nuôi dưỡng sự mê tín, đẩy mạnh lòng sùng tín Mary theo sách lược của Giáo hội. Phần khảo luận sau đây hi vọng có thể làm sáng tỏ vấn đề.
Điều đầu tiên chúng ta cần biết về hiện tượng bà Mary hiện ra ở La Vang là sự hiện thân này rất khác với sự hiện thân của Mary ở các nơi nổi tiếng khác như Fatima và Lộ-Đức. Ở Fatima và Lộ-Đức, sự hiện thân của Mary đều có nhân chứng, thiệt hay giả, chúng ta hãy khoan nói, nhưng là có nhân chứng bằng xương bằng thịt, có tên tuổi hẳn hoi, do giáo hội Công Giáo đưa ra. Ở Fatima, bà Mary hiện ra trước ba em bé chăn cừu mù chữ lên 10, 9, và 7 tuổi: Lucia dos Santos, Francisco Marto và Jacinta Marto. Ở Lộ-Đức, Mary hiện ra trước cô gái bệnh hoạn Bernadette Soubirous 14 tuổi [Có một chuyện thuộc loại khó hiểu: Nước thánh ở Lộ Đức, được giáo hội tuyên truyền là có thể chữa lành nhiều bệnh, do đó giáo dân đã đổ xô đến hành hương, biến miền Lourdes thành một trung tâm buôn bán mang lợi nhuận khổng lồ đến cho giáo hội. Ngoài ra, giáo dân trên khắp thế giới cũng có thể gửi mua “nước thánh Lộ-Đức” dưới hình thức “cúng dường” [donations], vì giáo hội không bán, nhưng chính Bernadette Soubirous, người mà bà Mary ưu ái chọn để hiện ra trước mặt, lại bị lao xương trong nhiều năm và chết khi mới có 35 tuổi (Dr. Joe Nickell in Examining Miracle Claims: Despite “multitudinous failures” over the intervening years (one such failure being Bernadette herself, who suffered for many years from tuberculosis of the bone and died at age thirty-five)]. Ở cả hai nơi, sự hiện ra đều có ghi rõ ngày tháng hẳn hoi. Còn ở La Vang thì không hề có một nhân chứng nào, tên tuổi ra sao, làm gì, và hiện ra ngày nào, hiện ra bao nhiêu lần, không ai biết, tất cả chỉ là nghe đồn, nghe nói lại, theo truyền thuyết v..v.., và chỉ ở trong nội bộ Công Giáo Việt Nam, và thường là rất mâu thuẫn với nhau và đượm nhiều chất hoang đường “không thể tin được”. Những chuyện thuộc loại nghe đồn, nghe nói lại, truyền khẩu, truyền thuyết, thường không chính xác và thường được đặt ra với một mục đích nào đó. Theo định nghĩa thì truyền thuyết là những chuyện được kể lại qua nhiều thế hệ nhưng không thể kiểm chứng được (An unverified popular story handed down from earlier times.) Do đó, đây là những chuyện ai muốn tin thì tin, không tin thì thôi. Nhưng những chuyện thuộc loại này trong Ki Tô Giáo thường được đưa ra với một mục đích. Chúng ta sẽ thấy rõ trong phần phân tích sau đây.
Vì hiếm có tài liệu ngoại quốc nào về biến cố La Vang đáng tin cậy, vì vài tài liệu của Vatican là dựa theo tài liệu của Việt Nam và có khi vô lý đến độ ngớ ngẩn, như sẽ được chứng minh về sau, sau đây là vài tài liệu Việt Nam về sự cố bà Mary hiện ra ở La Vang:
1. Báo Hiệp Nhất, cơ quan ngôn luận chính thức của Công Giáo Việt Nam hải ngoại, số 28, tháng 4, 1995, đăng bài "Tài Liệu về La Vang", trích từ Hiệp Thông Mục Vụ số 3, Italia, trong đó có vài đoạn như sau:
"1798.- Truyền khẩu nói rằng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng hiện ra nhiều lần để an ủi các giáo dân trốn chạy những cuộc bách hại của Triều đình Tây Sơn vào trong rừng sâu Lá Vàng, thuộc địa hạt Dinh Cát, nay là Quảng Trị...
...1811.- Sau khi Gia Long thống nhất, người bên Lương cũng nghe biết có Bà Linh Thiêng hiện ra ở vùng Lá Vàng...
...1823.- Đầu đời Minh Mạng, 3 làng Thạch Hãn, Cổ Thành và Ba Trừ chung nhau làm một cái miếu trên nền đất cao nơi cây đa chỗ Đức mẹ hiện ra nhưng gặp nhiều dấu lạ (mộng mị, tượng bi lật đổ) họ đành thôi và truyền tụng nhau rằng "Bà ấy là Bà bên Lương mà bên Giáo đã giành đi đó". Ngày nay có người cho rằng dân bên Lương gọi Bà Linh Thiêng đó là Phật Bà Quan Âm cứu đời. Ba làng đồng lòng nhường đất và chùa lại cho bên công giáo. Cha bổn sở Dinh Cát đồng ý cho người công giáo biến chùa thành nhà thờ. Đó là nhà thờ đầu tiên tại La Vang.
...1830.- Một giai thoại kể rằng Đức Mẹ đã mua vải để trang hoàng bàn thờ..."
2. Sau đây là vài đoạn trong cuốn Rơi Mặt Nạ, Văn Sử Địa 1998 của Chu Văn Trình và Ban Tu Thư Tự Lực, trg. 205-112, dưới đề mục "Chùa Lá Vàng ở Quảng Trị bị Gia Tô Cướp Đổi Thành Nhà Thờ La Vang":
"La Vang tên gốc là làng Cổ Vưu có từ thời Nhà Lê, đến thời Gia Long đổi là phường Lá Vàng nằm phía Tây đồn Dinh Cát, thủ phủ địa đầu của Việt Nam từ năm 1307, khi Vua Chiêm Thành Chế Mân hiến dâng Nhà Trần hai châu Ô và Lý làm lễ cưới Huyền Trân Công Chúa. Hiện nay La Vang (Lá Vàng) thuộc xã Hải Phú, quận Mai Lĩnh, tỉnh Quảng Trị, cách nam Quảng Trị 6 km, cách bắc Phú Xuân (Huế) 58 km.
...Ngày 17-8-1798, vua Cảnh Thịnh ra sắc dụ cấm đạo Gia Tô kể từ Phú Xuân (Huế) đến Bắc Hà, vì đây chỉ là "đạo dạy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã hội" [Tạ Chí Đại Trường: Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, 1991, trg. 309].
...Năm 1823, dưới triều Minh Mạng, Chùa Lá Vàng thờ Phật Bà Quan Âm bị những người Gia Tô cướp phá và đổi thành nhà thờ La Vang, Phật Bà Quan Âm đổi thành Maria đồng trinh.
Dữ kiện trên tương tự hành vi của Caesars nặn ra Tôn Giáo Giả (Religious Costumes) tức Gia Tô La Mã Giáo hiện nay.
"Chúng đơn giản gắn tên cho các tượng thần cũ bằng những tên mới...
- Tượng thần Jupiter trở thành Tông Đồ Peter
- Tượng thần Vệ Nữ (Venus) trở thành Maria đồng trinh...
[They simply gave their old Gods and Idols new names... Jupiter became the Apostle Peter and Venus became the Virgin Mary etc...]
(Chick Publications: The Big Betrayal, p. 15; Fifty Years in the "Church of Rome" by Chiniquy, p. 51, Chick Publications; The Godfathers, p. 7, by J. T. C.., Chick Publication)
...Gần đây có tác giả Hồng Phúc, một Linh mục Gia Tô Việt Gian cuồng tín, chủ ý lừa dối công luận, cố tình viết xuyên tạc sự thật lịch sử để chạy tội quá khứ cho cha ông chúng can tội phá hoại văn hóa bản địa như cuốn "Đức Mẹ La Vang", trg. 35:
"Trong những năm đầu 1820-1840, các người Phật Giáo và Công Giáo thuộc các làng Ba Trừ, Cổ Thành và Thạch Hãn có chung nhau xây một ngôi chùa ngay tại nơi Đức mẹ hiện ra , gọi là Chùa Ba Làng.
Nhưng sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng thuận rằng Đức Bà hiện ra là "bên Giáo", nên đã nhường ngôi chùa lại cho bên Công giáo và các gia đình Công giáo tu sửa "ngôi chùa thành nhà Chúa"
Nhưng lịch sử đã chứng minh không bao giờ có chuyện Phật Giáo và Gia Tô chung nhau xây một ngôi chùa. Lịch sử hình thành Công Giáo La Mã từ thời Jesus đã cho biết:
Công Giáo đi đến đâu thì ở đó chúng tìm mọi cách đập phá tất cả công trình kiến trúc có trước để xây trên nền đất cũ nhà thờ Gia Tô của chúng..
...Ngày 4-8-1885, cách mạng Văn Thân nổi giậy thiêu hủy nhà thờ La Vang đòi lại đất cho Chùa Lá Vàng. Cũng dịp ấy, Cố đạo gián điệp Caspar ở nhà thờ Kim Long (Huế) đã tiến cử Nguyễn Hữu Độ, Hoàng cao Khải, Phan Đình Bình...lên Thống Tướng thực dân De Courcy đem quân tàn sát Văn Thân, cướp lại đất Chùa Lá Vàng cho Gia Tô.
Năm 1886, cố Tây gián điệp Caspar xây lại nhà thờ La Vang lần thứ hai, đến 15 năm sau mới xong, ngày 8-8-1901, nhà thờ thứ hai có tên là Thánh Đường La Vang.
Năm 1923, cố Tây thực dân Allys xây lại nhà thờ lần thứ ba bằng gạch, ngói, 5 năm mới xong.
Năm 1959, thời Gia Tô phản quốc Ngô Đình Diệm ...nhà thờ La Vang được Diệm trùng tu, xây ba cột trụ xi măng cốt sắt, tới 1961 mới xong.
Năm 1972, nhà thờ La Vang bị bom Mỹ oanh tạc, chỉ còn lại ba cột xi măng.
Các ngày 13-15 tháng 8 -1998, đạo đồ Gia Tô kỷ niệm 200 năm cướp chùa Lá Vàng ngụy tích là hồn ma Mary hiện hình.
...Với những nguồn sử liệu kể trên, nhà thờ La Vang chỉ là một chứng tích đại nhục cho dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời kỳ nô lệ - Việt Nam làm nô lệ cho Gia Tô - Thực Dân Da Trắng. Giáo hội Gia Tô thuộc địa kế thừa hiện nay là Giáo hội Gia Tô Việt Gian bán nước."
3. Sau đây là vài đoạn trong cuốn Linh Địa La Vang của Linh Mục Xitanilaô Nguyễn văn Ngọc, ấn bản 1978, Hoa Kỳ. Đầu tiên là lời tuyên ngôn của tác giả: “Là một linh mục tuyệt đối phục tùng hội thánh [xin hiểu là Vatican], chúng tôi trân trọng tuyên bố không hề bao giờ muốn đi trước hội thánh, trong khi kể lại những sự tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang và những sự kiện được gọi là phép lạ.” Tôi xin miễn phê bình về lời tuyên ngôn này. Nhưng chúng ta cần hiểu là nếu Vatican chưa đi thì các linh mục Công giáo Việt Nam không dám đi, vì truyền thống tùng phục Vatican là bao giờ cũng phải đi sau Vatican, và nếu Vatican chưa viết về La Vang thì các linh mục Việt Nam cũng không dám vượt quyền mà viết về La Vang. Chỉ có điều, Vatican đã khẳng định là không có một tài liệu nào viết về những lần hiện ra của Mary ở La Vang, nên linh mục Nguyễn Văn Ngọc có đi trước hay đi sau và viết về La Vang thì cũng vậy thôi, vì tất cả chẳng qua chỉ là những chuyện “phịa”. Linh mục Ngọc không hiểu như vậy nên vẫn phải ra tuyên ngôn sợ là mang tội đi trước hội thánh. Thật tội nghiệp.. Không sợ tội phịa mà chỉ sợ tội đi trước hội thánh. Ở trang 36, tác giả Nguyễn Văn Ngọc viết:
Một điều đáng tiếc là không ai biết Đức Mẹ đã hiện ra tại La Vang vào năm nào cho đích xác. Nhưng theo cổ truyền mà nhận xét thì Đức Mẹ đã hiện ra vào thời kỳ nước nhà đang quằn quại giữa cảnh: trăm họ lầm than, từ 1765-1802 như đã nói trên...Có người nói Đức Mẹ đã hiện ra năm 1798, năm Cảnh Thịnh bắt đạo, đó cũng là nói theo sự phỏng đoán mà thôi.
4. Charlie Nguyễn, một trí thức Công giáo thuộc một gia đình gốc nhiều đời, đã tỉnh ngộ, và với lương tâm của người trí thức chân chính Việt Nam, ông ta đã vạch rõ cho chúng ta thấy những bộ mặt thật của Công Giáo hoàn vũ cũng như Công giáo Việt Nam trong mấy cuốn sách quý: “Công Giáo: Huyền Thoại Và Tội Ác”, “Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, “Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo Chúa “. Đây là những tiếng nói trung thực của một trí thức Công Giáo, một người biết rõ hơn ai hết về thực chất của Công Giáo.
Trong cuốn “Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, Charlie Nguyễn có viết một chương về Trách Nhiệm Của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam với lời mở đầu như sau: “Để dẫn chứng về trách nhiệm của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú ý đến sách "Linh Địa La Vang" của Linh Mục Xitanio Nguyễn Văn Ngọc, được xuất bản lần đầu tại Việt Nam với sự chuẩn y của Tổng Đại Diện Tòa Giám Mục Huế ngày 13.4.1970, và được tái bản năm 1978 tại Hoa Kỳ do Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ, thuộc Dòng Đồng Công ở Missouri (P.O. Box 836 – Carthage MO. 64838). Sách LĐLV đã được viết ra một cách rất tự nhiên, bộc lộ nguyên vẹn tim gan sâu kín của giới tu sĩ Công Giáo Việt Nam. Cuốn sách này đã được giới chức có thẩm quyền theo giáo luật cho phép và đã được Dòng Đồng Công hải ngoại cho tái bản. Ngoài việc sách này cho biết thêm chi tiết về hội đồng san định các kinh nguyện, nó còn cho chúng ta biết rất nhiều điều đáng ghi nhận về trách nhiệm của Hội đồng Giám mục Việt Nam.”
Sau đây là vài đoạn liên hệ đến ngụy tích La Vang mà Charlie Nguyễn đã nêu ra:
Năm 1885, triều đình Huế thất thủ. Năm 1886, Giám mục Sohier ỷ vào thế lực thực dân Pháp trưng đất của dân làng Thanh Tấn và Ba Trục thuộc tỉnh Quảng Trị để mở mang linh địa La Vang (LĐLV trang 48). Tại đây có một ngôi chùa dưới gốc cây đa trong rừng Lá Vằng đã được dân làng xây dựng từ đầu đời vua Minh Mạng. Dân Công Giáo đến phá chùa để cướp đất và họ đã làm những bài vè khá dài kể về việc này. Có điều là họ cho rằng người phá chùa là Đức Mẹ linh thiêng chứ không phải người thường. Bài vè này đến nay vẫn được giáo dân La Vang truyền tụng,
Ngôi chùa đã được biến thành nhà thờ Công Giáo từ đó. Đây là thánh đường đầu tiên tại La Vang nơi chính Đức Mẹ đã hiện ra . [ Người ta phao tin như thế.]
(Tên cũ Lá Vằng được đổi thành La Vang có lẽ do các giáo sĩ người pháp viết như vậy trong các văn kiện nói về Lá Vằng – Ghi chú của Charlie Nguyễn). Từ khi ở linh địa La Vang có nhà thờ đầu tiên thì sự tích Đức Mẹ hiện ra được thông báo đi khắp nơi bằng giấy mực của giáo quyền và chính quyền thực dân.
Năm 1939, Đức Khâm Mạng Tòa Thánh Drapier gửi thông báo cho toàn thể Đông Dương chọn ngày 30 tháng 6 Dương lịch là ngày lễ hai thánh Phê-rô và Phao-lô làm lễ cầu an khắp nơi và sẽ tổ chức một cuộc rước kiệu thật lớn tại đền thờ Đức Mẹ La Vang. Phủ Toàn Quyền cũng thông sức khắp nơi cho các công nhân (viên chức nhà nước) phải đi lễ vào ngày nói trên (LĐLV, tr. 81). Mọi cuộc lễ tại La Vang bị tạm ngưng do Thế chiến 1939-1945. Sau khi Pháp trở lại Việt Nam, ngày 12.9.1946, lễ kính Đức Mẹ La Vang lại được cử hành. Hôm đó có bà Vĩnh Thụy tức Nam Phương Hoàng Hậu đi xe hơi từ Huế ra tận La Vang để dự lễ cầu an (LĐLV, tr. 82)
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) được chính thức thành lập do Sắc chỉ ngày 24.11.1960 của Giáo Hoàng Gioan XXII. Ngày 18.12.1960, HĐGMVN tổ chức đại lễ tạ ơn Tòa Thánh tại nhà thờ lớn Saigon với sự tham dự của toàn bộ các giới chức cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Chính hôm ấy, HĐGMVN và chính phủ Diệm đã quyết định việc dâng hiến tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ (mà đại diện độc quyền chính thức của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ trên trái đất này là Vatican – chú thích của Charlie Nguyễn) đồng thời khấn hứa sẽ xây dựng một đền thờ dâng kính Trái Tim Đức Mẹ tại La Vang. Nhà thờ La Vang sẽ được gọi là "Đền Thờ Toàn Quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và "Linh Địa" La Vang” sẽ được gọi là "Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc". Ngày 8.8.1961, HĐGMVN họp tại Đà Lạt đã quyết định như sau:
Bàn thờ chính tại nhà thờ La vang sẽ được gọi là "Bàn thờ dâng hiến giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam, cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và 3 bàn thờ phụ để dâng kính Các Thành Tử Đạo của 3 miền Việt Nam.
Ngày 20.7.1961, TGM Ngô Đình Thục viết lời phi lộ trên tờ Nguyệt San Đức Mẹ La Vang số 1 nhấn mạnh: "La Vang là của chung toàn thể quốc dân Việt Nam, cả lương lẫn giáo". Ngày 1.6.1961, TGM Ngô Đình Thục thay mặt HĐGMVN gửi hiệu triệu đi toàn quốc như sau: "Ta vui mừng ban phép và dạy tổ chức Đại Hội kính Đức Mẹ La Vang năm 1961". Nha Chiến Tranh Tâm Lý của chính phủ VNCH được lệnh quyên tiền của đồng bào từ Nam chí Bắc không phân biệt lương giáo. Linh Địa La Vang, tr. 103-109).
Hơn một thế kỷ qua kể từ khi Đức Mẹ "hiện ra" tại La Vang, linh địa La Vang vẫn khiêm tốn nằm giữa cảnh rừng hoang núi vắng không mấy ai được biết. Trong thời gian lâu dài trên, đoàn con của Đức Mẹ sống quằn quại giữa những kỳ cấm đạo liên tiếp và bao biến cố chính trị xáo trộn. Vì thế, các Đức Giám mục Bề trên của địa phận Huế lúc bấy giờ như Đức Cha Labarlette, Đức Cha Tabert, Đức Cha Á Thánh Cuénot, Đức Cha Pellerin, Đức Cha Sohier và Đức Cha Ponviane phải im hơi lặng tiếng đối với Linh Địa La Vang.
Trái lại, trong thời gian việc đạo được bằng an phồn thịnh từ 1886 đến 1963, La Vang được lớn hơn, được đẹp hơn và được sùng mộ hơn. Trước tiên là do sự lo lắng của các Đức Cha Địa phận như Đức Cha Gaspar, Đức Cha Allys, Đức Cha Chobanon, Đức Cha Lemasle, Đức Cha Urritia và Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục... Các đấng vì lòng thành kính Đức Mẹ La Vang đã nỗ lực tô điểm La Vang bằng tinh thần và bằng vật chất để Linh địa La Vang trở thành giáo đô của một dân tộc. Các Đức Giám Mục gốc Bình Trị Thiên rất sùng kính Đức Mẹ La Vang như Đức Cha Đominico Hồ Ngọc Cẩn, Đức Cha Phêrô Ngô Đình Thục, Đức Cha Anselmo Lê Hữu Từ, Đức Cha Simon Hòa Hiền và Đức Cha Phancixô Xavie Nguyễn Văn Thuận... (LĐLV 143-144 – xin lưu ý danh từ "Giáo Đô" Ch. N.)
Mấy trang sách nói trên cũng cho chúng ta nhận thức được vai trò hết sức quan trọng của HĐGMVN đối với vận mệnh đất nước như thế nào. Vai trò của HĐGM lại càng trở nên quan yếu hơn nữa trong một quốc gia có chính quyền nằm trong tay người Công Giáo. Những trang sách này cũng là những bằng cớ lịch sử không thể chối cãi chứng tỏ HĐGMVN và chế độ Diệm đã có quyết tâm biến Công Giáo thành quốc giáo. Đó là ước mơ sâu kín và mãnh liệt nhất của hàng giáo phẩm và giáo dân cuồng tín Việt Nam. Ước mơ thấy được thể hiện thường xuyên trong các lời kinh cầu nguyện. Xin quý độc giả cứ lật mấy cuốn sách kinh nguyện Công Giáo Việt ngữ ra đọc sẽ thấy nhan nhản những bằng cớ cụ thể. Trong suốt thời gian Pháp thuộc, các giáo sĩ Tây Phương vẫn cố gieo vào đầu óc các tu sĩ và giáo dân Việt Nam một "châm ngôn nô lệ" nổi tiếng: "Nước Pháp là trưởng nữ Hội Thánh và là Mẹ Việt Nam" (France, fille ainée de l’Eglise, mère du Việt Nam). Nhiều tài liệu lịch sử đã chứng minh TGM Ngô Đình Thục rất trung thành với thực dân Pháp. Tổng giám mục Ngô Đình Thục và HĐGMVN đã cố gắng hết sức mình để thực hiện "châm ngôn nô lệ" nói trên trong suốt thời gian Ngô Đình Diệm làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
5. Ngoài ra chúng ta còn thấy một bài viết bằng tiếng Anh của Kim-Oanh Nguyen-Lam và một bài của Vatican nhưng nội dung không có gì mới, phần lớn là dựa theo cuốn Linh Địa La Vang của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc. Nhưng Linh mục Nguyễn Văn Ngọc cũng chỉ viết theo những lời đồn, nghe nói lại, truyền thuyết, truyền tụng v..v.. cộng với óc tưởng tượng phong phú của Linh mục với mục đích kết tội Văn Thân và đề cao đức tin của giáo dân mà thôi, chứ tuyệt đối không có điều gì đáng tin cậy. Cái nghề của mấy ông linh mục Công Giáo Việt Nam vốn vẫn là như vậy.
Qua tài liệu phân tích của Charlie Nguyễn ở trên, chúng ta thấy rõ bản chất của Công Giáo Việt Nam, một tổ chức tuyệt đối nô lệ tòa thánh Vatican. Theo đúng khuôn mẫu của Giáo hội Mẹ khi xưa, bất cứ khi nào mà Công Giáo có cơ hội lên cầm quyền thì họ sẽ không ngần ngại làm những việc thương luân bại lý để truyền đạo và cưỡng ép cả dân tộc phải theo Công Giáo. Trong thời dựa thế thực dân Pháp và dưới thời Ngô Đình Diệm, với 5-7% dân số Việt Nam theo Công Giáo mà họ đã huênh hoang áp đặt trên đất nước những điều trịch thượng, vô lối, ngu xuẩn dựa vào cường quyền nhất thời v..v.., khiến tuyệt đại đa số người Việt khinh ghét như : Linh Địa La Vang là “giáo đô” của Việt Nam, "La Vang là của chung toàn thể quốc dân Việt Nam, cả lương lẫn giáo", "La Vang là Bàn thờ dâng hiến giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ", “dâng hiến tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ, “La Vang là Đền Thờ Toàn Quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và "Linh Địa" La Vang là "Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc" trong khi thực ra Đức Mẹ của họ chỉ là một người đàn bà nhà quê Do Thái có một tiểu sử bất minh, sinh ra một đứa con với một nguồn gốc bất minh như trong chính Tân ước và kết quả nghiên cứu của các học giả Ki Tô Giáo ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội đã vạch rõ. Chừng nào mà Vatican và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chưa lên tiếng chính thức vứt bỏ những danh xưng vô lối, đầy chia rẽ sâu đậm giữa lòng dân tộc trên, thì chừng đó Công Giáo cũng chỉ là một đứa con hoang của dân tộc với đặc tính “hễ đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân tộc.”
Trở lại vấn đề Mary “hiện ra” ở La Vang. Thật ra thì bà Mary đã hiện ra ở đâu, nếu thực sự là bà ta đã hiện ra. Đọc thêm vài tài liệu chúng ta thấy Giám mục Hồ Ngọc Cẩn thì bảo nơi Mary hiện ra là La Vang, vì đêm nào dân vùng đó cũng la lối om xòm, đánh mõ, đánh thùng để đuổi thú dữ về phá khoai, sắn, lúa của làng (Linh mục Lê Văn Thành: Đức Mẹ La Vang, 1955, trang 15-16). Theo Linh mục Nguyễn Văn Ngọc: Linh Địa La Vang, trang 33, thì nơi đó gọi là phường Lá Vằng, vì có nhiều cây lá vằng, có hột đen ăn được và lá cây có thể dùng làm thuốc. Mãi về sau người ta đọc Lá Vằng thành La Vang và nay trở thành La Vang. Theo Chu Văn trình thì làng Cổ Vưu, đến đời Gia Long đổi là phường Lá Vàng. Và theo báo Hiệp Nhất thì nơi đó là rừng sâu Lá Vàng. Còn Kim-Oanh Nguyen-Lam thì giải thích La Vang là lời kêu cứu của giáo dân khi bị bạo hành (It was also said that its name came from the Vietnamese meaning of the word "Crying Out" to denote the cries for help of people being persecuted.). Vậy La Vang là để đuổi thú dữ (Hồ Ngọc Cẩn) hay là tiếng kêu cứu của giáo dân (Kim-Oanh Nguyen-Lam). Xin để quý độc giả thích món nào thì xài món đó.
Vậy thì bà Mary hiện ra ở đâu, nếu có? La Vang, Lá Vằng, hay Lá Vàng? Và tại sao lại chọn tên La Vang? Dập theo khuôn những nơi nổi tiếng trên thế giới như Fatima, Lourdes v..v.. mà bà Mary thường hiện ra, thì rất có thể ở Việt Nam, bà Mary đã hiện ra ở một nơi rất Lạ Vắng. Đây là một nơi rất Lạ và rất Vắng cho nên không có mấy người biết và cũng không có mấy người thấy. Tất cả chỉ là truyền khẩu, truyền tụng nhau, giai thoại, hay nghe biết. Cũng vì vậy mà năm 1998, Vatican đã thú nhận là: “Bất hạnh thay, không có một văn-bản tài-liệu nào về những lần hiện ra (ở La Vang) này” [Unfortunately, there is no written documentation of these apparitions [in La vang]].
Đúng vậy, những chuyện thuộc loại truyền khẩu, nghe biết, truyền tụng nhau, hay giai thoại thì không thể gọi là “tài liệu”. Nếu không phải là những tài liệu thành văn đã được kiểm chứng là xác thực, thì chuyện bà Mary hiện ra ở La Vang không phải là một sự kiện lịch sử và không có lý do gì để cho chúng ta tin đó là sự thực. Nói khác đi, chuyện bà Mary hiện ra ở La vang chỉ là một chuyện bịa đặt. Ai bịa đặt. Câu trả lời nằm trong câu hỏi.
Đọc vài tài liệu trên về biến cố La Vang chúng ta có thể tóm tắt sự việc trong hai điều mà người Công Giáo đề ra. Thứ nhất, Công Giáo bị đối xử khắc nghiệt và bị bạo hành, truy sát ở Việt Nam cho nên nhiều lần giáo dân phải trốn chạy, và một số giáo dân đã chạy đến vùng La Vang ẩn náu. Thứ nhì, Bà Mary đã hiện ra trước số giáo dân ở La Vang đó để an ủi họ và đến năm 1830, theo giai thoại, còn nói tiếng Việt đi mua vải để trang hoàng bàn thờ của chính bà [tuy bà chưa hề học cua VSL (Vietnamese as a Second Language) nào. TCN].
Bây giờ chúng ta hãy đi vào phần bình luận và phân tích. Trước hết, theo truyền thống văn hóa Việt Nam thì Việt Nam rất khoan nhượng với Công Giáo như lịch sử đã chứng minh. Truyền thống văn hóa tôn giáo của của Việt Nam có tính chiết trung, có nghĩa là không đặc biệt theo một tôn giáo duy nhất nào, mà là phối hợp những cái hay trong mỗi tôn giáo để áp dụng vào bản thân. Tư tưởng về một tôn giáo duy nhất, độc quyền, rất xa lạ với Việt Nam. Do đó Việt Nam chưa bao giờ cấm đạo vì lý do tôn giáo. Trong thời đại Lý, Trần, Phật Giáo cực thịnh: “Thiên hạ Lý Trần bán vi tăng”, từ Vua tới Quan đều theo Phật Giáo, nhưng triều đình đã mở khóa thi Tam Giáo và quảng bá tư tưởng Tam Giáo Đồng Nguyên. Cho nên, việc cấm đạo hay bách hại giáo dân dưới thời Tây Sơn, hay đúng hơn, dưới thời Vua Cảnh Thịnh, thực ra không có gì là quá khắc nghiệt và là chuyện không dính dáng gì tới đạo mà là liên hệ đến vấn đề chính trị và quyền lực như ta thấy trong các tài liệu sau đây:
Theo Linh mục Nguyễn Văn Ngọc thì, Ibid., trang 36:
“Nhưng theo sử liệu, đối với giáo dân Thiên-Trị-Bình, vua Cảnh Thịnh và các quan Tây Sơn chỉ bắt bớ khuấy nhiễu họ trong một thời gian ngắn, vào những tháng cuối năm 1798, vì năm đó không có chiến tranh...”
Theo Đỗ Quang Hưng trong cuốn Một Số Vấn Đề Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam, trg. 43, thì:
"Lúc đầu nhà Tây Sơn không ngăn cản truyền đạo. Nhưng rồi khi bắt được thư của Nguyễn Ánh nói rõ có Giám mục Bá Đa Lộc bên cạnh nên đã ra lệnh cấm. Thư nói rõ gửi cho thày Dương (chỉ giáo sĩ Pháp) ở Phú Xuân, thư cũng nói khả năng dùng lực lượng Thiên Chúa Giáo làm nội ứng cho Nguyễn Ánh."
Linh Mục Trần Tam Tĩnh cũng viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm, trang 31:
"Sự bách hại, vốn chưa hề dứt từ 30 năm qua, đã tái phát dữ dội hơn vào năm 1798. Thực ra, đây chẳng phải chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc chắn. Vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đã có lần chận bắt được một bức thư Nguyễn Ánh gửi cho Giám mục Laberlette, xin đức cha tổ chức một đạo quân gồm người tín đồ Ki Tô giáo tại chỗ, hầu hỗ trợ cho lực lượng quân Pháp chỉ huy đánh từ ngoài vào."
Qua vài tài liệu trên, chúng ta thấy rằng, việc "cấm đạo" hay "bách hại giáo dân" trong thời Tây Sơn không phải là vì lý do tôn giáo, mà vì giáo dân đã làm nội ứng cho Nguyễn Ánh và cho những tên lính đánh thuê Pháp do Giám mục Bá Đa Lộc cầm đầu. Chúng ta cũng biết rằng Giám mục Laberlette có mặt thường xuyên ở vùng Bình-Trị-Thiên trong 50 năm, từ 1773 đến 1823, (Nguyễn Văn Ngọc, Ibid., tr.37) và đặc biệt là ông ta không hề gửi về Vatican một tài liệu nào về vụ La Vang, một biến cố rất quan trọng cho đức tin Công Giáo mà ông ta, cũng như mọi giám mục linh mục ở hải ngoại, phải có bổn phận báo cáo thường xuyên về tình hình giáo dân trong địa phận của mình. Thật vậy, Linh mục Nguyễn Văn Ngọc viết trong cuốn Linh Địa La Vang trang 33:
“Trong bản phúc trình lên Thánh Bộ Truyền Giáo đề ngày 17-2-1791, Cha Lôsensô Long (lân), Linh mục quản xứ Tiên-khởi Dinh Cát (vùng La Vang. TCN) đã ghi như sau: “...Ngày 08-1-1791 trong cuộc viếng thăm các họ đạo vùng Dinh Cát, tôi đã tới thăm họ Cổ Vưu. Số giáo dân ở đây gồm có 120 người. Phần đông giáo hữu họ này đi làm rú, không có mấy người ở nhà...”
Chỉ một cuộc viếng thăm một họ đạo mà Linh mục cũng phải phúc trình về Vatican, huống chi là một biến cố tối quan trọng cho đức tin của giáo dân là vụ bà Mary hiện ra ở La Vang. Vậy tại sao, giám mục Labarlette lại không hề có một phúc trình nào về vụ này? Đơn giản là chẳng làm gì có chuyện bà Mary hiện ra ở La Vang, vì nếu có, Giám mục Labarlette không thể không biết, và không thể không phúc trình về Tòa Thánh. Vậy chúng ta có thể kết luận là: Ngụy tích La Vang đã được đặt ra sau năm 1823, nghĩa là sau năm đó Giám mục Labarlette không còn ở trong vùng Bình-Trị-Thiên nữa.
Nói tóm lại, ngụy tích Đức Mẹ hiện lên ở La Vang để an ủi những kẻ theo Tây phản bội quốc gia này là chuyện lẩm cẩm, vô lý, chứng tỏ rằng Mẹ chẳng biết gì về thực chất việc cấm đạo cả, một hành động có thể nói là đồng lõa với những tội đồ của Việt Nam. Hơn nữa lệnh cấm đạo không chỉ thu hẹp ở vùng La Vang, tại sao Bà Mary lại chọn La Vang làm nơi hiện thân? Còn nữa, Mẹ Thiên Chúa quyền phép vô biên mà chỉ có thể hiện lên an ủi suông mà không thể làm gì khác cho giáo dân hay sao, ngoài việc đích thân đi mua vải để trang hoàng bàn thờ của chính mình? Còn nữa, đây là một sự kiện không ai có thể phủ nhận: Năm 1972, nhà thờ La Vang bị bom Mỹ oanh tạc, chỉ còn lại ba cột xi măng. Phép lạ của bà Mary đâu, sao không mang ra thi thố, mà lại để cho nơi mình hiện ra, có nhà thờ thờ phụng mình bị phá hủy như vậy? Đây chỉ là vài nghi vấn trí thức có pha đôi chút khôi hài để cho các tín đồ Công Giáo suy nghĩ, nhưng không phải chỉ có vậy.
Chúng ta đã biết, ở bên Nhật, chính sách cấm đạo và bách hại giáo dân quyết liệt và tàn nhẫn hơn ở Việt Nam rất nhiều, với biện pháp đóng đinh ngược đầu xuống đất các thừa sai và giáo dân trên cây thập giá, đến nỗi không còn một mống thừa sai hay giáo dân nào, mọi nhà thờ Ki Tô giáo đều bị phá hủy, trong suốt thời gian 200 năm, sao không thấy Mẹ tới đó mà an ủi, mà lại hiện thân ra an ủi vài giáo dân chạy trốn tới vùng Lá Vàng?
Còn nữa, chỉ mới có vài năm trước năm 1798 mà người ta cho là bà Mary đã hiện ra ở La Vang, Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Công Giáo La Mã, trong cuộc cách mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, tàn sát 47 Giám Mục, trên 17000 Linh Mục (Cha cũng như Chúa, Con cưng của Mary), và 30000 Nữ Tu, dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Công Giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội Công Giáo Pháp v..v.. [Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”], sao không thấy Mẹ hiện ra mà an ủi?
Năm 1954, 72% số Giám mục, linh mục ngoài Bắc chạy vào Nam với hơn 700 ngàn con chiên theo sau, sao không thấy Mẹ hiện ra an ủi mà Mẹ lại cùng Chúa phải chạy vào Nam trước theo lệnh của Lansdale để cho các con chiên phải chạy theo?
Chừng đó cũng đủ để thấy chuyện hiện ra của Mary ở La Vang hoàn toàn không có căn bản thuyết phục, vì sự bách hại một số giáo dân ở Việt Nam vào năm 1798 không có gì đáng kể và không phải vì lý do cấm đạo.
Còn chuyện dân ba làng ở Dinh Cát không lập được miếu vì Đức Mẹ đã giành miếng đất đó của bên Lương và phá không cho làm miếu (mộng mị, tượng bị lật đổ), do đó dân ba làng phải "đồng lòng nhường đất và chùa" cho bên công giáo làm nhà thờ.. là một chuyện lố bịch chưa từng thấy, không những mạ lỵ Đức Mẹ mà lại còn vô lý về phương diện lịch sử. Nếu thật như vậy thì Đức Mẹ quá hẹp hòi vì chơi cái trò giành dân chiếm đất của thực dân và tay sai. Người Công Giáo, mỗi khi cắm được cây thánh giá lên đất của tôn giáo khác, bất kể bằng thủ đoạn nào, thì rất lấy làm hồ hởi, hãnh diện, cho rằng đã làm "vinh danh Thiên Chúa trên trời". Họ không biết rằng như vậy là làm nhục Chúa, hạ thấp Chúa xuống hàng cướp cạn. Chúa dạy đi truyền bá "tin mừng" chứ đâu có dạy đi cướp đất chiếm dân? và nay, ở La Vang, họ cũng hạ Đức Mẹ của họ xuống hàng cướp cạn, cũng như họ đã từng làm với Chúa của họ. Chứng minh?
Đúng như Chu Văn Trình đã viết ở trên: Chùa Lá Vàng thờ Phật Bà Quan Âm bị những người Gia Tô cướp phá và đổi thành nhà thờ La Vang, và như Charlie Nguyễn viết trong sách Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm: “Năm 1885, triều đình Huế thất thủ. Năm 1886, Giám mục Sohier ỷ vào thế lực thực dân Pháp trưng đất của dân làng Thanh Tấn và Ba Trục thuộc tỉnh Quảng Trị để mở mang linh địa La Vang (LĐLV trang 48). Tại đây có một ngôi chùa dưới gốc cây đa trong rừng Lá Vằng đã được dân làng xây dựng từ đầu đời vua Minh Mạng. Dân Công Giáo đến phá chùa để cướp đất và họ đã làm những bài vè khá dài kể về việc này”, chúng ta hãy đọc vài câu thơ có tính cách thú nhận của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc hãnh diện viết lại trong cuốn Linh Địa La Vang, trang 41:
Rằng Phật rằng Thần lao đao
Có bà bên đạo (chích. TCN) phép cao lạ lùng
Bà vào bà đánh tứ tung
Bao nhiêu Thần Phật đều tung ra ngoài
Tiếng bà thật đã linh oai
Lư hương bát nước đền đài đều hư...
Thật là đẹp mặt bà Mary. Thật là đẹp mặt Công Giáo Việt Nam. Chỉ bằng vào mấy câu thơ này chúng ta cũng có thể quyết đoán là chính giáo dân Công Giáo đã đánh phá Chùa ở La Vang, phá hủy các bàn thờ, tượng thờ trong Chùa, theo đúng lời dạy của Chúa Jehovah trong Cựu Ước, nghĩa là cướp Chùa để xây nhà thờ La Vang trên đó, tương tự như đã cướp Chùa Báo Thiên ở Hà Nội để xây lên Nhà Thờ Lớn, hoặc đất Chùa ở Saigon để xây lên nhà thờ Đức Bà trước Ty Bưu Điện v..v.. Đất ăn cướp của Chùa đã trở thành Linh Địa của Công Giáo, giống như tiền nhơ bóc lột được của người Do Thái và Chính Thống đã được Vatican rửa thành tiền sạch để trong ngân hàng.
Mặt khác, lịch sử thế giới từ xưa tới nay chưa có trường hợp nào mà nhà Chùa "nhường" Chùa cho bên "Giáo" làm nhà thờ. Đây rõ ràng là một chuyện phi lý, được bày đặt ra để che dấu tội cướp cạn. Nhưng trường hợp bên Giáo, tuân theo những lời Chúa dạy trong Thánh Kinh, đi phá Chùa, cướp Chùa hay những nơi thờ tự của tôn giáo khác rồi cắm cây Thập Ác lên đó thì nhiều vô kể. Ở Việt Nam không thiếu những trường hợp này.
Trước những nguồn thông tin kể trên, chúng ta biết tin nguồn nào? Báo Hiệp Nhất, cơ quan ngôn luận chính thức của Công Giáo Việt Nam hải ngoại, và sách của Linh mục Hồng Phúc chứa những thông tin mâu thuẫn nhau, phi lý, không hợp với giáo điều của Công Giáo, và không phù hợp với những sự kiện lịch sử trong xã hội Việt Nam. Hiệp Nhất thì nói rằng: vì Đức Mẹ phá, không cho dân địa phương lập miếu thờ Phật Bà Quan Âm nên dân ba làng đã "đồng lòng nhường đất và chùa lại cho bên Công Giáo." Linh mục Hồng Phúc thì bảo: hai bên Lương Giáo chung nhau xây một ngôi Chùa, nơi Đức Mẹ hiện ra, nhưng rồi bên "Lương" đã nhường ngôi Chùa lại cho bên "Giáo" tu sửa chùa thành nhà thờ. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc thì cho rằng “Bà vào bà đánh tứ tung” để cướp Chùa. Vậy thì ai đúng, ai sai? Nếu chúng ta không có căn bản nào để quyết định ai dúng, ai sai thì chúng ta phải đi đến kết luận là loại bỏ tất cả, vì chuyện Đức Mẹ giành dân chiếm đất là chuyện hoang đường cũng như chuyện Đức Mẹ đã di cư vào Nam, và chuyện tín đồ hai bên Lương, Giáo chung nhau xây chùa vào đầu thế kỷ 19 cũng là chuyện hoang đường, khó tin, vì nếu sự thực là như vậy thì số tín đồ Công Giáo này đã bị Chúa Cha của họ vật chết tươi ngay, nếu chúng ta tin vào những lời mặc khải không thể sai lầm trong Cựu Ước. Thông tin trong Văn Sử Địa, tuy văn phong có vẻ hơi mạnh vì đi thẳng vào trọng điểm (to the point), nhưng có vẻ hợp lý hơn, nếu chúng ta xét đến sách lược truyền bá đạo Công Giáo trên thế giới. Chúng ta cũng nên biết rằng, hiện tượng Đức Mẹ hiện ra đã càng ngày càng bị lạm phát trên khắp thế giới, lý do đơn giản là Công Giáo đang suy thoái trên khắp thế giới nên phải cho Đức Mẹ hiện ra để vớt vát phần nào đức tin trong đám giáo dân.. Theo truyền thống của Giáo hội mẹ, giáo hội con muốn bắt bà Mary hiện ra ở đâu thì bà ấy phải hiện ra ở đó. Chúng ta còn nhớ, năm 1975, một Linh mục Việt Nam cũng cho bà Mary hiện ra ở Bình Lợi, nhưng không ăn khách, nên sự vụ bị xẹp như quả bóng xì hơi.
Về sự hiện ra của bà Mary ở La Vang, có lẽ bài biên khảo “Sự Thật Về Đức Mẹ La Vang” của Đức Cố Lê là đầy đủ và chi tiết nhất. Chúng ta có thể đọc toàn bài này trên Internet. Tuy nhiên, có một tài liệu mà tác giả lấy từ tờ L’osservatore Romano, trong đó có một chi tiết rất khôi hài, chứng tỏ Vatican cũng mù mờ, chỉ dựa trên những tài liệu, báo cáo láo của giáo hội Công Giáo Việt Nam. Đoạn của tác giả Đức Cố Lê nguyên văn như sau:
Báo “L'Osservatore Romano”, cơ-quan truyền-thông chính-thức của Tòa Thánh Vatican ở La Mã, số ra ngày 12/19-8-98, có đăng bài “Ky-Tô-Hữu Việt-Nam Sùng Kính Đức-Mẹ La-Vang: Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Đến Với Giáo-Dân Trong Rừng La-Vang Ở Việt-Nam”, trong đó có đoạn:
“Vào cuối thế-kỷ 18, lãnh-thổ Việt Nam bị chia thành 2 vương-quốc: Đàng Ngoài thuộc quyền chúa Trịnh đóng đô ở Hà Nội; và Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn đóng đô ở Huế. Các chúa trong Nam muốn đánh ra Bắc nên nhờ người Pháp giúp đỡ. Nhưng có một nhóm trí-thức, gọi là Văn Thân, chống lại sự can-thiệp của người Pháp và đã thành-công trong việc giúp vua Quang Trung lên ngôi. Ông này chiếm được miền Bắc, nhưng từ-trần sớm, để lại ngai vàng cho con là vua Cảnh-Thịnh, tuổi mới lên mười...”
Cái chuyện khôi hài và mù mờ của Vatican ở đây là viết về Văn Thân trong thời đại của Vua Quang Trung và giúp Vua Quang Trung lên ngôi. Đây là “giết sử” chứ không phải là “viết sử”. Bởi vì 82 năm sau khi Vua Quang Trung băng hà (1792) thì dưới triều Vua Tự Đức mới có phong trào Văn Thân (1874) đưa ra khẩu hiện “Bình Tây, Sát Tả”. Thời Vua Quang Trung đã làm gì có Tây mà Bình Tây? Mới chỉ có tên Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), việc đạo không lo, đi lo việc tuyển mộ lính đánh thuê (mercinaries) để giúp Nguyễn Ánh. Một sự kiện lịch sử rõ ràng như vậy mà các “cha cũng như Chúa’ ở Vatican còn viết sai bét sai be như vậy, huống chi là những chuyện hoang đường như bà Mary hiện ra ở nơi Lạ Vắng, không ai biết, không ai thấy. Thật ra thì chuyện Vatican phịa sử Việt Nam cũng đâu lấy gì làm lạ vì, thiên tài quân sự Nguyễn Trường Tộ cũng được Thần Khí Đức Ki Tô mạc khải (theo LM Thiện Cẩm) để phịa sử Việt Nam giống như Vatican vậy thôi. Nguyễn Trường Tộ viết trong những bài “Điều Trần” Hòa Từ (1861) và Thiên Hạ Đại Thế Luận (1863) là “...Nếu quân Pháp cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương...thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng.” trong khi hịch Cần Vương chống Pháp của Tôn Thất Thuyết được phát ra hơn 20 năm sau khi Nguyễn trường Tộ viết điều trần, vào năm 1885.
Chúng ta biết rằng, cái gọi là “Linh địa La Vang” chỉ khởi sắc từ năm 1955 khi ông Công Giáo Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống ở miền Nam và có người anh là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục. Tôi còn nhớ, năm 1955 tôi đang phục vụ tại Trung Đoàn 1, đóng tại Quảng Trị. Năm đó các quân nhân công chức hầu như đều bị bắt buộc phải tham gia cuộc lễ ở La Vang. Quân đội được huy động để cung cấp mọi phương tiện cho cuộc lễ này. Tôi là sĩ quan cấp nhỏ nên không tham dự cuộc lễ ở La Vang cũng chẳng có ai để ý. Nhưng những sĩ quan từ cấp tá trở lên ở hậu phương mà không tham dự thì cũng hơi phiền với Cần Lao Công Giáo. Đức Cố Lê dưa ra nhận xét:
“Sau khi ông Ngô Đình Diệm chấp chính (1955-1963), chính quyền họ Ngô nói chung và giáo hội Công Giáo Việt Nam nói riêng đã nhắm ít nhất là hai chủ đích: giúp cho tổng giám mục Ngô Đình Thục (anh của ông Diệm) được phong hồng y bằng cách gia tăng tín đồ; và phát triển tầm quan trọng của La Vang, vì một cảnh trí Đức Mẹ hiện ra chắc hẳn sẽ làm cho quốc gia sở tại nổi tiếng khắp thế giới và lôi cuốn đông đảo tín hữu cũng như du khách từ xa đến hành hương.”
Nhận xét trên rất đúng, nhưng thiên bất dung gian, cả hai chủ đích trên đều không thực hiện được, chính quyền Ngô Đình Diệm đã phải chịu một kết cục bi thảm, và người dân Việt Nam đã biết rõ bản chất của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng như ngày nay, càng ngày càng biết đến bộ mặt thật của Công Giáo. Trong thời đại ngày nay, Công Giáo không còn quyền lực để mà ngăn chặn hay bịt đi những thông tin chính xác về Công Giáo, về mặt đạo cũng như mặt đời. Và chúng ta phải hi vọng rằng, sau cùng thì Sự Mê Tín Cuối Cùng (dịch theo tên cuốn The Final Superstition của học giả Công Giáo Joseph L. Daleiden) cũng không thể còn chỗ đứng trong sự tiến bộ trí thức của nhân loại.
Qua lô-gíc và sự phân tích và bình luận trí thức những tài liệu về sự hiện ra của bà Mary ở La Vang, chúng ta có thể kết luận là, và đây cũng là kết luận của Đức Cố Lê: Xin thưa: Thật ra không hề có việc Đức Mẹ (của Công Giáo) hiện ra tại La Vang. La Vang chỉ là một ngụy tích như hàng trăm các ngụy tích khác do các Giáo hội Công Giáo trên thế giới dựng ra chứ không phải là những sự kiện lịch sử, nhất là La Vang, vì tất cả về La Vang chỉ là nghe nói, truyền khẩu, nghe biết, truyền tụng nhau, hay giai thoại. Tuy nhiên tôi không phản đối bất cứ ai vẫn tiếp tục tin và cho rằng bà Mary thực sự đã hiện ra ở La Vang, vì như trên tôi đã viết: Cái mà con người chọn để mà tin, hay đã được cấy vào đầu từ nhỏ để mà tin, thì không cần thiết phải dựa trên những bằng chứng lịch sử, bằng chứng khoa học. Không có một công thức nào, một lý luận trí thức nào, hay một bằng chứng khoa học nào có thể mang ra để xác định hay thử nghiệm một đức tin..
Chúng ta cũng nên biết rằng, hiện tượng Đức Mẹ hiện ra đã bị lạm phát, trên dưới 250 vụ trên khắp thế giới, nhưng Tòa Thánh chỉ "chấp thuận" có 6 vụ mà thôi, đặc biệt là không có vụ nào ở cái xứ Mỹ văn minh tiến bộ nhất này được chấp thuận.
Cho tới ngày nay, phần lớn tín đồ Gia Tô vẫn được dạy rằng các tôn giáo khác đều sai lầm và thuộc loại mê tín dị đoan. Luận điệu thời Trung Cổ này cũng được các chức sắc Gia Tô địa phương với đầu óc của những con cừu ngoan ngoãn, hoặc những con vẹt, phụ họa. Gia Tô Giáo thường cho rằng Phật Giáo, một tôn giáo mà điều căn bản Đức Phật dạy là không được tin vào bất cứ điều gì, dù điều đó do chính Đức Phật nói, hay từ một Thánh Thư, từ một vị Thầy nổi tiếng, từ những truyền thống lâu đời, nếu chưa chứng nghiệm vào chính bản thân điều đó thực sự thánh thiện, giúp ích cho mình, cho người v..v..(Kinh Kalama), là mê tín và thờ hình tượng. Các học giả nghiên cứu tôn giáo đã kết luận rằng Gia Tô La Mã Giáo mới chính là một tôn giáo mê tín và thờ hình tượng nhất thế gian. Họ thờ hình tượng Giê-su và Maria khắp nơi và họ có thể tin vào những điều vô lý, phản khoa học v..v.. mà không một người ngoại đạo nào có thể tin được: tin vào một vị Thần toàn năng sáng tạo ra muôn loài trong khi không có bất cứ một bằng chứng nào chứng minh sự hiện hữu của vị Thần đó; tin vào một người chết sống lại sau ba ngày và bay cả hồn lẫn xác lên trời sau 40 ngày (Giê-su), trái với tất cả những định luật khoa học và thiên nhiên; tin vào một người đàn bà Do Thái đã s_inh nhiều con mà vẫn còn đồng trinh; tin ở Đức Mẹ hiện ra ở nhiều nơi, nói đủ thứ tiếng để chống Cộng v...v... Vậy mà Giáo hội vẫn dạy con chiên đấy không phải là mê tín dị đoan, mà chỉ là "thiên khải", và con chiên rất lấy làm hãnh diện được làm tín đồ của một tôn giáo tự nhận là "văn minh, tiến bộ" nhất.
THIÊN CHÚA GIÁO VÀO VIỆT NAM
Trong cuốn Việt Nam Giáo Sử, Linh mục Phan Phát Huồn viết:
"Giáo hội (Ca-Tô Rô-ma ở) Việt Nam cũng như bất cứ giáo hội (Ca-Tô Rô-ma ở địa phương) nào, là một giáo hội xây đắp bằng xương máu. Xương máu ấy là lý do của sự sống dồi dào mãnh liệt của giáo hội.."
Linh mục Phan Phát Huồn có ý nói là giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo tại Việt Nam, cũng như các giáo hội ở các địa phương khác, đều được xây đắp bằng xương máu của những tín đồ bị các chính quyền địa phương giết qua chính sách bài đạo, nhất là những tín đồ sẵn sàng "tử vì đạo" mà họ gọi là “thánh tử đạo”. Nhưng với kiến thức của con người ngày nay về Ca-tô Rô-maGiáo thì “thánh tử đạo” là những kẻ cuồng tín ngu xuẩn nhất trên đời. Chết vì một cái “bánh vẽ trên trời” hay vì những điều lừa dối, mê hoặc của giáo hội thì quả thật đúng là ngu xuẩn, không có đầu óc, và những tín đồ bị chính quyền giết tuyệt đối không phải chỉ vì họ theo đạo. Những điều này sẽ được chứng minh trong một phần sau.
Thật vậy, Chales Caleb Cotton, Giáo sĩ người Anh, nhận định rằng:
Một số thánh nổi tiếng đã được phong thánh thì phải mang ra bắn bằng súng đại bác.
(Some reputed saints that have been canonized ought to have been cannonaded.)
Heinrich Heine, Thi sĩ Đức, nhận định rằng:
Nếu mắt phải của ngươi xúc phạm ngươi, hãy móc nó ra / Nếu tay phải ngươi xúc phạm ngươi, hãy chặt nó đi [Lời Giê-su dạy tín đồ] / Và nếu lý trí của ngươi xúc phạm ngươi, hãy trở thành một tín đồ Ca-tô giáo.
(If your right eye offends you, pluck it out / If your right arm offends you, cut it off / And if your reason offends you, become a Catholic.)
Điều này ngụ ý là những tín đồ Ca-tô giáo thuộc loại mù lòa tin bướng tin càn, không đếm xỉa gì đến lý trí.
Richard Lederer, nhà ngữ học Mỹ, cũng phát biểu tương tự:
Có một thời mà mọi người [ở Âu Châu] đều tin vào Thiên Chúa, và giáo hội [Ca-tô] thống trị. Thời đại đó được gọi là Thời Đại Tăm Tối.
(There once was a time when all people believe in God and the Church ruled. This time was called the Dark Ages.)
Francis Crick, Nhà sinh học, cùng khám phá ra DNA với James Watson, nhận xét:
Nếu những tôn giáo mạc khải đã mạc khải ra những điều gì, thì chúng thường là sai lầm. (If revealed religions have revealed anything it is that they are usually wrong)
Nếu một số điều trong cuốn Kinh Thánh rõ ràng là sai lầm, vậy thì tại sao những điều còn lại lại phải được tự động chấp nhận. (If some of the Bible is manifestly wrong, why should any of the rest of it be accepted automatically)
Và, Robert Anton Wilson, Triết Gia Mỹ, nói:
Kinh Thánh bảo chúng ta là hãy giống như Thiên Chúa, và rồi từ trang này đến trang khác, mô tả Thiên Chúa như là một tên giết người hàng loạt. (The Bible tells us to be like God, and then on page after page it describes God as a mass murderer.)
Đó là những niềm tin sai lầm mà người Ca-tô Rô-maGiáo sẵn sàng chết cho trong vài thế kỷ trước. Ngày nay, không còn ai muốn “tử vì đạo” như trên, dù giáo hoàng đã xách động con chiên bằng lệnh ”đừng sợ” trong khi ông ngồi an toàn trong chiếc popemobile, và các bề trên ngồi an toàn ở hải ngoại đôi khi cũng khuyến khích con chiên trong nước hãy sẵn sàng tử vì đạo, một nhiệm vụ cao cả như Alexandre de Rhodes đã mê hoặc giáo dân Việt Nam khi xưa, như đã viết rõ trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo của ông ta, do Hồng Nhuệ và Nguyễn Khắc Xuyên dịch.
Sau đây là vài thủ đoạn thuộc loại lừa dối mê hoặc đám dân Việt Nam thấp kém trong thời đại mà con người dễ dàng sa vào vòng mê tín của Alexandre de Rhodes viết trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo. Chúng ta sẽ thấy Rhodes nói láo đến mức nào.
Trang 74: Với thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt lành đã thông thường đuổi ma quỉ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho uống 4,5 giọt nước thánh mà chữa được người mù và cho 2 người chết sống lại. Họ ra đi, cắm thánh giá ở đầu, ở giữa và cuối xóm. Họ đến thăm bệnh nhân, đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép. Không đầy 5 ngày đã chữa khỏi 272 người.
Trang 77: Họ rất quí trọng nước phép, cứ 5,6 ngày họ lại đến lấy.. Họ cho bệnh nhân uống với những thành quả lạ lùng. Mỗi chủ nhật, tôi buộc lòng phải làm phép với 5 vại lớn, để thỏa mãn lòng sốt sắng của họ.
Nước phép hay nước thánh là nước thường đã được ông linh mục bi bô đọc vài câu tiếng La-Tinh để biến nó thành nước phép hay nước thánh. Rhodes đã thông thạo môn thần học bịp bợm dân ngu, nhưng chính ông ta cũng lại ngu không thể tả được mới viết lên được những đoạn trên. Chỉ với 4,5 giọt nước phép là có thể chữa được người mù, người chết sống lại, và chữa khỏi mọi bệnh tật. Nhưng mỗi chủ nhật ông ta phải phù phép biến 5 vại nước lớn thành nước thánh hay nước phép để thỏa mãn nhu cầu của giáo dân. Một vại lớn có bao nhiêu lít nước? Một lít nước có bao nhiêu giọt nước. Nếu tính ra thì 5 vại nước phép đó có thể chữa cho cả nước Pháp của ông ta khỏi mù, vì trong thế kỷ 17, cả nước Pháp đang mù vì là toàn tòng Ca-Tô Giáo. Nhưng ngày nay, chẳng cần đến nước phép hay nước thánh (holy water) gì đó mà Pháp cũng đã ra khỏi cảnh mù rồi, do đó số giáo dân Pháp đi xem lễ ngày Chủ Nhật chỉ còn dưới 5%. Giáo dân Việt Nam dùng loại nước phép đó đã mù lại càng mù thêm vì cái đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ bịp bợm hoang đường quá lố lăng chẳng có ai có thể tin được.. Ngày nay, thử hỏi có ai có thể mang “thánh giá” (sic) hay nước phép để đuổi ma quỉ hay chữa lành các thứ bệnh tật. Ca-tô Rô-maGiáo mở các nhà thương để làm gì, tại sao không dùng thánh giá và nước phép để chữa bệnh?
Một thủ doạn bịp bợm khác mà Rhodes đã tự thú trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo như sau:
Trang 143: Vào tháng 6 năm 1644 tôi bị một cơn sốt nặng và tưởng không sao qua khỏi. Tôi cho mời lương y có tiếng tới. Ông cho tôi uống thuốc ta, dặn cách xắc và uống. Tôi uống trong 2 ngày và ngày thứ ba tôi hết sốt, sau đó ít lâu hoàn toàn bình phục.
Rhodes đã lòi cái đuôi bịp bợm ra ở đây. Nước phép của ông ở đâu sao không uống? Có thể ông ta không biết cách chữa sốt. Cứ mang 5 vại nước phép ra đổ lên đầu thì may ra nước lạnh sẽ làm hạ cơn sốt. Ông ta cũng chẳng thèm cầu nguyện Chúa nữa? Nhưng ông ta chỉ lừa bịp người khác để truyền giáo chứ ông ta đâu có dại. Sốt thì ông ta mời lương y, và thuốc ta có hiệu quả hơn nước phép hay nước thánh mà chính tay ông ta phù phép làm ra nhiều. Đó là sự gian manh bịp bợm trong sách lược truyền giáo của Alexandre de Rhodes. Mặt khác trong cuốn sách, có nhiều đoạn Rhodes ca tụng “phúc tử đạo”, nhưng khi bị lùng bắt thì ông ta hết sức tìm các trốn tránh hay bị bệnh thoát chết thì ông ta biện minh bằng lý luận xảo quyệt:
Trang 193: “Tôi đã quá táo bạo tưởng mình đáng được triều thiên quí hóa, mặc dầu chưa xứng đáng” (được phúc tử đạo); Trang 256: Chúa tìm cách ách tôi lại bằng một cơn bệnh hiểm nghèo, làm tôi tưởng đến đại hành trình về thiên quốc; nhưng thực ra tôi chưa xứng đáng.
Có lẽ từng đó cũng đủ để cho cho chúng ta thấy rõ bộ mặt truyền giáo gian manh của Alexandre de Rhodes: bịa đặt những chuyện hoang đường mà ngày nay không ai có thể lập lại được những màn phép lạ của nước thánh, phóng đại sự việc một cách quá lố lăng, dụ những người dân thấp kém vào con đường mê tín. Ngày nay thử hỏi có ai mang thánh giá hay dùng nước thánh để chữa bệnh, thí dụ như bệnh run rẩy tay (Parkingson disease) của Giáo hoàng John Paul II, hay bệnh tim của Mẹ Teresa, người đã dùng tiền thiên hạ để chữa bệnh cho mình trong những nhà thương đắt tiền nhất.
Thật ra thì, từ những thủ đoạn truyền đạo có tính cách lừa bịp và mê hoặc ở trên, và lịch sử cũng đã chứng minh rằng, giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã được xây đắp bởi xương máu của những tín đồ kém hiểu biết, không phải là "tử vì đạo", mà vì bị mê hoặc bởi giới giáo sĩ thừa sai tư cách và đạo đức thấp kém, cho nên hầu hết đã nhắm mắt nghe lời họ, tin vào một cái bánh vẽ trên trời, để bị trừng phạt vì phạm tội chống lại nền văn hóa dân tộc, không tôn trọng luật pháp quốc gia, nổi loạn, làm tay sai cho giặc ngoại xâm, phản bội quê hương v...v.... Vậy nếu họ không phải là "tử vì đạo", thì xương máu nào đã xây đắp thành giáo hội? Qua những tài liệu về lịch sử Ca-Tô Rô-maGiáo toàn cầu, câu viết trên của Linh Mục Huồn có thể đúng nhưng theo một nghĩa khác, nếu chúng ta hiểu rằng xương máu trên là xương máu của những người ngoại đạo, của những người "dị giáo", những người không có cùng tín ngưỡng với Ca-Tô Rô-maGiáo, những người bỏ mình trong những cuộc Thánh Chiến, trong các Tòa Hình Án xử Dị Giáo, trong những cuộc chiến tranh xâm lược của Thực Dân v...v... mà vai trò chủ chốt của Ca-Tô Rô-maGiáo trong đó đã là những sự kiện lịch sử.
Riêng ở Việt Nam, chúng ta có thể nói rằng giáo hội Ca Tô tại Việt Nam đã được xây đắp bằng xương máu của những người Việt Nam yêu nước, những người không chịu từ bỏ truyền thống luân lý, đạo đức gia đình và dân tộc của mình, do đó đã phải hi sinh để bảo vệ, gìn giữ những truyền thống cao đẹp của đất nước, trước cuộc xâm lược song hành của thực dân và Ca-Tô Rô-maGiáo, và trước chính sách kỳ thị tôn giáo tàn bạo của Ngô Đình Diệm và tay sai trong 9 năm cai trị ở miền Nam, riêng trong thời gian này số người ngoại đạo bị giết hại lên tới trên 300000 người. Đúng vậy, những núi xương, sông máu của những người ngoại đạo vô tội trên khắp thế giới chết dưới cây "thập giá và lưỡi gươm" đã xây đắp đời sống dồi dào của các giáo hội Ca Tô, và người Ca Tô không có cách nào có thể cất bỏ được những đống xương máu đó trên bờ vai lương tâm của họ, dù Giáo hoàng John Paul II đã dạy con chiên của ông phải ăn năn thống hối về những tội ác Ca-Tô Rô-maGiáo đã mang đến cho nhân loại, và đã chính thức xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội Ca-tô toàn cầu đối với nhân loại..
Người Ca-tô Việt Nam, vì trình độ quá thấp kém cho nên đã hoàn toàn tuân phục các giáo sĩ thừa sai đến Việt Nam truyền đạo. Họ không đủ trình độ để nhận ra thực chất các giáo sĩ thừa sai là như thế nào. Những trường hợp hống hách của các giáo sĩ thừa sai, những sự khúm núm phi nhân vị của đám con chiên, chẳng qua chỉ là kết quả của lòng tự ty và thiếu hiểu biết về thực chất của giới giáo sĩ thừa sai.
Họ không biết rằng, từ nhiều thế kỷ trước, các học giả Tây phương đã nhận định khá chính xác về các linh mục như thế nào. Sau đây chỉ là một số nhận định điển hình về giới linh mục Ca-tô Rô-maGiáo của một số danh nhân trên thế giới.
Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa Lan: Người nào đọc lịch sử giới linh mục không đọc gì khác ngoài sự gian giảo và điên rồ của các giám mục và linh mục. (He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and folly of bishops and churchmen.)
John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh: Ca-tô Rô-maGiáo có ít tính cách của một tôn giáo hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the command of Christ himself.)
Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia Anh: Trong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới Linh mục là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)
Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh: Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin (Priests can lie, and the mob believe, all over the world).
Đại Văn Hào Voltaire (1694-1778): Lời của Chúa là lời của các linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa là xúc phạm các linh mục; tin vào Chúa là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)
Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh: Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của các Linh Mục thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than their virtues.)
Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ: Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do. (In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty).
James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ: Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới Linh mục, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ; sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial. What has been its fruits? More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)
Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp: Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức: Ca-tô Rô-maGiáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it. The priest are the brokers for it)
Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp: Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.)
Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Ca-tô Giáo, chỉ còn lại Vatican ngày nay): Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.)
Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ: Một thầy giáo giỏi có giá trị bằng1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.)
William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ái Nhĩ Lan: Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Linh mục Ca-tô hay Mục sư Tin Lành, đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)
Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên tên linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.)
Có lẽ luận án Tiến Sĩ Quốc Gia về "Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914” của Cao Huy Thuần ở Đại Học Paris là nguồn tài liệu phong phú và chính xác nhất về mối liên hệ giữa Ca-Tô Rô-maGiáo và chủ nghĩa thực dân, cùng thực chất vai trò của các giáo sĩ thừa sai Ca Tô cùng con chiên bản địa trong cuộc xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Độc giả nên tìm đọc thiên khảo cứu này cùng với hai cuốn sử rất có giá trị khác, cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh Mục Trần Tam Tĩnh, và cuốn Bước Mở Đầu của sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ, để thấy rõ những thảm họa do những giáo sĩ này mang tới đất nước Việt Nam. Qua ba tác phẩm này và nhiều tác phầm khác của các sử gia ngoại quốc, chúng ta có thể thấy rõ rằng, đạo Ca-Tô Rô-ma đã mang tới Việt Nam bao bất hạnh xui xẻo chứ không phải là đã gặp bao bất hạnh xui xẻo khi tới Việt Nam như linh mục Kim Định đã viết. Điều này sẽ được chứng minh trong phần trình bày sau đây.
Vấn nạn Ca Tô ở Việt Nam là một vấn đề rộng lớn, cần có một công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về mọi khía cạnh. Trong cuốn sách này, tôi chỉ xin luận về hai điểm mà các "sử gia" Ca Tô Việt Nam thường đưa ra:
1. Các thừa sai Ca Tô tới Việt Nam để rao giảng "tin mừng Phúc Âm" và "khai sáng dân tộc Việt Nam"; và 2. Các triều đình nhà Nguyễn ngu dốt cùng với bọn quan lại Tống Nho thủ cựu cấm đạo và bách hại giáo dân chỉ vì họ theo một đạo mới.
Các "sử gia" này không bao giờ nhắc đến những hành động phá hoại, gây chia rẽ v...v..., của các giáo sĩ thừa sai đối với dân tộc Việt Nam, và cũng không bao giờ nhắc tới những nguyên nhân của sự cấm đạo.
Đọc những cuốn sử viết về những hành động của các giáo sĩ và giáo dân tân tòng ở Việt Nam chúng ta thấy các tác giả thường chia làm hai khuynh hướng: khuynh hướng của các nhà viết sử thực dân, của các giáo sĩ và tay sai viết theo những quan điểm chủ quan, gian dối, đầy thiên kiến và sai lạc; và khuynh hướng của các sử gia, học giả vô tư, xét đoán sự việc dựa theo những tài liệu hiện hữu, sau khi cân nhắc, phân tích kỹ càng, cặn kẽ những tài liệu này.
Hai khuynh hướng trên đã được sử gia Mark W. McLeod, Giáo sư đại học, viết trong phần dẫn nhập của cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 như sau:
"Những tiểu luận sống động về lịch sử của Milton Osborne và Jean Chesneaux đã mô tả sự phát triển về một truyền thống học thuật Pháp mà đặc tính của nó là "quy-Pháp và thiên Pháp". Chúng ta có thể xét sự thiên vị này theo những giá trị đã gây cảm hứng và thấm nhập vào sự nghiên cứu lịch sử, sự chú trọng vào những chủ đề chính của tác phẩm, và sự chọn lựa những nguồn tài liệu. Giá trị của những tác giả Pháp, đặc biệt là những người viết về thế kỷ 19, đều bị ảnh hưởng bởi những thái độ thực dân thịnh hành, tự tôn, về nền văn hóa ưu việt Tây phương, và đi cùng với "nhiệm vụ văn minh hóa" của nước Pháp. Để ra ngoài những biệt lệ xuất sắc của Charles Maybon và Leopold Cadière, những binh sĩ Pháp, nhân viên hành chánh thuộc địa, và những giáo sĩ thừa sai, những người mở đầu cho cuộc nghiên cứu của Tây phương về lịch sử Việt Nam, thường thường đặt mình vào trọng tâm của những câu chuyện do chính mình viết ra.
...Cũng như ở trong những quốc gia đã được giải phóng khỏi ách thực dân gần đây, Việt Nam đã làm sống lại việc viết lịch sử sau khi lấy lại được nền độc lập chính trị. Tuy rằng sự phân chia chính trị sau thời kỳ thuộc địa đã tạo nên hai trường phái nhìn lịch sử đối ngược nhau mà chúng ta có thể gọi một cách thuận tiện là trường phái "Hà Nội" và "Sài Gòn", nhưng những sử gia Việt Nam mới này đều nhất trí bác bỏ những luận điệu "quy Pháp" đã chi phối và còn đang là những đặc tính của hầu hết các tác phẩm viết về sử Việt Nam.
Những sử gia này đã phát động một sự phân tích vấn đề những giá trị thuộc địa trong những tác phẩm của các tác giả Pháp trong thời xưa, họ nhấn mạnh vào cách tiếp cận "quy - Á Châu" khi xét về lịch sử Việt Nam, và họ dựa vào sự nghiên cứu những tài liệu bản xứ cũng như của Pháp. Một vài học giả Pháp và Tây phương đã theo những sử gia Việt Nam trên đường hướng mới này.
... Tác phẩm nghiên cứu này có mục đích sửa lại một phần vấn đề diễn giải lịch sử về một thời kỳ quyết định mà các tác giả Tây phương hiện đại thường không để ý tới. Trọng tâm của cuộc nghiên cứu này là Phản Ứng của Việt Nam Trước Sự Can Thiệp của Pháp trong những năm 1862-1874, nghĩa là, trong thời kỳ mà Pháp thiết lập địa vị của mình ở Nam Kỳ (1862, 1867), rồi tiến đến việc bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1873-1874).
Cuộc khảo cứu này phản bác lập trường "quy Pháp và thiên Pháp" của những thừa sai Pháp, những tác giả và giới chức thực dân, và của những tác giả Tây phương về sau, bằng cách đối chiếu sự diễn giải lịch sử của họ với những bằng chứng trong các tài liệu chính của Việt Nam, hầu hết những tài liệu này đều chưa được các nghiên cứu gia Tây phương sử dụng khi viết về giai đoạn lịch sử Việt Nam này. Những tác phẩm của hai tác giả Ca Tô Việt Nam - Phan Phát Huồn và Nicole Dominique Le, cũng sẽ được phê bình khi hiển nhiên là họ đã dựa vào nguồn tư liệu của giới thừa sai Pháp, và không cân nhắc tài liệu cẩn thận đến độ lập lại những sai lầm của những tác giả Pháp thời xưa; điều này rõ rệt nhất khi họ thảo luận về cách đối xử của triều đình Huế đối với các tín đồ Gia Tô sau khi ký hiệp ước 1862." 1
Cùng một chiều hướng khảo cứu dựa trên những tài liệu chỉ mới xuất hiện sau khi chế độ thực dân ở Việt Nam cáo chung, Tiến sĩ Cao Huy Thuần cũng đã viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam, bản dịch đầu của luận án tiến sĩ "Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914”, trg. 502, như sau:
"Những người viết sử "thực dân" và những người viết sử của Phái Bộ Truyền Giáo đã cho xuất bản rất nhiều sách về điểm mà họ gọi là "sự đàn áp tôn giáo ở Việt Nam". Một tác giả Thiên Chúa Giáo Việt Nam cũng đã có viết một tập giáo khoa - được giải thưởng Hàn Lâm Viện Pháp - để dùng cho các học sinh trung học Pháp, trong đó y giải thích cho các độc giả trẻ rằng các Vua Việt Nam, vào thế kỷ thứ 19, đã "đàn áp" các tín đồ đạo cao quý của phương Tây như thế nào. Chúng tôi hi vọng rằng các tài liệu công bố trong thiên khảo cứu này cũng đủ khá hùng hồn để chấm dứt các ngụy tạo đó. Thật vậy, cái gọi là "đàn áp tôn giáo" đó sự thực chỉ là những biện pháp tự vệ mà mọi nước bị ngọai xâm và nội loạn đe dọa đều bị buộc phải dùng đến nếu không muốn nhận chịu nguy cơ sụp đổ. Nếu đạo Thiên Chúa Việt Nam bị bài xích, thì việc đó, chính yếu là do các người đại diện cho đạo. Những người này, bằng những hoạt động tai hại và ý muốn thống trị của họ, rút cục đã làm cho người Việt Nam thấy Chúa Christ là tay sai của xâm lăng thuộc địa và văn hóa".
Để đánh giá những nhận định như trên của Giáo sư McLeod và của Tiến sĩ Cao Huy Thuần, chúng ta cần trở lại lịch sử, bắt đầu từ khi các giáo sĩ thừa sai Ca Tô đầu tiên tới Việt Nam và rồi sau đó họ đã làm những gì cho xã hội và đất nước Việt Nam.
"Trong khi các dân tộc Đông Phương khác coi người Âu Châu như là đáng ghê tởm và lánh xa khi những người này tới gần họ, thì ở Đàng Trong lại ngược lại. Họ niềm nở bắt chuyện với chúng tôi. Họ rất tò mò và hỏi chúng tôi đủ chuyện. Rất lịch sự và văn minh, họ mời chúng tôi về nhà dùng bữa cùng họ. Vì sự hiền hòa và thoải mái trong vấn đề giao tiếp này nên chúng tôi có thể nói chuyện với họ, coi họ như là bà con trong nhà vậy, ngay cả trước khi biết rõ họ." 2
Nhưng rồi sau đó các giáo sĩ thừa sai Ca Tô, trước chính sách bài đạo rất khắc nghiệt và tàn bạo của Nhật Bản nên đã không còn có thể hành nghề xúi dục và gián điệp ở Nhật Bản, phải trốn chạy và đã kéo tới Việt Nam, lợi dụng tính hiền hòa và hiếu khách của dân tộc Việt Nam, không phải để rao giảng tin mừng Phúc Âm, vì thật ra, theo nhận định của học giả David Voas, cũng như của Giáo sư Schwartz, người đã từng dạy Thánh Kinh trong 20 năm tại hai đại học lớn ở Hoa Kỳ, trong Phúc Âm không có chân lý mà cũng không có tin mừng, trái lại, các giáo sĩ thừa sai chỉ chỉ mang đến những tin dữ, những chuyện hoang đường để đưa con người vào vòng nô lệ tâm linh, mê tín dị đoan, tin vào một cái bánh vẽ huyền hoặc trên trời và trong một đời sau, của một tôn giáo ngoại lai mà lịch sử nhơ nhớp của nó là một sự kiện không ai có thể phủ nhận.
Trước khi đi vào chi tiết, chúng ta cần nhớ kỹ trong đầu: sách lược truyền giáo của Ca-Tô Rô-maGiáo là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để thu nhặt và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc đầu óc con người v...v... Sách lược này đã được áp dụng trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Thật vậy, một trong 7 núi tội ác của Ca-Tô Rô-maGiáo mà Giáo hoàng John Paul II cùng bộ tham mưu của ông đã xưng thú cùng thế giới ngày 12.3.2000 như sau:
Núi tội ác thứ 5: Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.
Trong những giáo sĩ thừa sai có tên tuổi trong lịch sử Ca-Tô Rô-maGiáo ở Việt Nam, trước hết chúng ta phải kể Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). Ở đây, tôi sẽ không bàn tới vấn đề Rhodes có phải là người sáng lập ra chữ Quốc Ngữ hay không. Vấn đề này nay đã được giải quyết dứt khoát qua những tác phẩm như: "Ki-Tô Giáo: Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại", Nhiều Tác Giả, Văn Hóa, 1996; "A. De Rhodes: Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ", Nhiều Tác Giả, Giao Điểm 1998; "Gián Điệp Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ", Chu Văn Trình, Văn Sử Địa, 1996.
Tuy nhiên, để độc giả có một khái niệm về chữ Quốc Ngữ mà giáo sĩ Rhodes dùng để viết cuốn "Phép Giảng 8 Ngày...", tôi xin trích nguyên văn một đoạn như sau:
"Ngày thứ nhít. Ta cầu cừ đức Chúa blời giúp fưc cho ta biét tó tuầng đạo Chúa là nhuầng nào vì bậy ta phải hay ở thế nầy chẳng có ai fòú lâu; vì chưng ké đến bảy tám mươi tuếi chảng có nhiềo. Vì bậy ta nên tìm đàng nào cho ta được fòú lâu, thật là viẹc người cuên tử, khác phép thế gian nầy, dù mà làm cho người được phú quí; fâũ le chẳng làm được cho ta ngày fau... (Diễn Đàn số 8, 1992, Hoài Văn). "
Đó là chữ Quốc Ngữ của Alexandre de Rhodes, người được các tín đồ Gia Tô Việt Nam tôn vinh là có công với nền văn hóa Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, trong cuốn "Phép Giảng 8 Ngày...", giáo sĩ Rhodes đã mạ lỵ cả ba tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo. Ông gọi đức Phật và đức Khổng Phu Tử bằng những danh từ thiếu văn hóa, phản ánh tư cách của một con người vô giáo dục, vô đạo đức tôn giáo, và cuồng tín. Ngoài những hoạt động truyền giáo "thiếu văn hóa" để xâm lăng văn hóa như trên, và sự "đóng góp" cho nền văn hóa Việt Nam bằng một tác phẩm truyền đạo hạ cấp như cuốn "Phép Giảng 8 Ngày...", và một cuốn tự điển Việt-Bồ-La Tinh, vốn là sự đóng góp của nhiều người, Rhodes đã làm những gì cho dân tộc Việt Nam? Sau đây là vài tài liệu về những hoạt động của ông khi ông xâm nhập hợp pháp cũng như bất hợp pháp vào đất nước Việt Nam. Rhodes bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1630, trở lại Việt Nam bất hợp pháp năm 1640, và rồi lại bị trục xuất năm 1645.
Trong cuốn Vietnam's Will To Live, trg. 11, Helen B. Lamb viết như sau:
"Cha Alexandre de Rhodes, một thừa sai dòng Tên khác, cũng đã đã để lại cho hậu thế một bản ghi chép lời tường thuật về những kinh nghiệm của ông ở miền Bắc (người Tây phương gọi là Bắc Kỳ) cũng như ở Nam Kỳ trong thế kỷ 17. Là người có đầu óc thực tế, những ấn tượng tốt của ông về Việt Nam không phải là sự duyên dáng của người dân Việt mà là về những cái khác. Ông lấy làm kinh ngạc trước mức độ buôn bán trong những thị trấn ở Việt Nam, và giải thích như sau: "Họ rất giầu vì đất đai màu mỡ. Có 24 con sông chảy qua khắp nơi, rất thuận tiện cho việc di chuyển bằng đường thuỷ đi tới nhiều nơi, rất dề dàng cho việc buôn bán." 3
Trong cuốn Catholic Imperialism Against The Asiatic Continent, trg. 352, Avro Manhattan đã viết về những hoạt động gián điệp của giáo sĩ Đắc Lộ như sau:
"Cha Alexandre de Rhodes, một giáo sĩ dòng Tên, tới Đông Dương vào năm 1610, và chỉ 10 năm sau ông đã có thể gửi về một phúc trình mô tả chính xác những khả năng của Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Những giáo sĩ thừa sai dòng Tên được tuyển mộ ngay và phái sang Việt Nam để giúp Alexandre de Rhodes trong hai nhiệm vu: cải đạo người dân ở hai miền vào tín ngưỡng Gia Tô và thăm dò những tiềm lực thương mại của các miền này cho vương quốc Pháp. Những sứ mạng này, theo quan điểm của La Mã và Ba Lê (Paris), không thể tách rời nhau được vì chúng là những bước đầu quan trọng nhất dẫn tới sự xâm chiếm chính trị và quân sự những xứ này." 4
Tiến sĩ Cao Huy Thuần đã trích dẫn một tài liệu như sau trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam..., trg. 48, vạch rõ ý đồ thực dân của Rhodes:
"Tôi tin rằng nước Pháp," ông (Rhodes) viết, " vì là nước ngoan đạo nhất trên thế giới nên sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh lính để đi chinh phục toàn thể phương Đông, ở đó tôi sẽ kiếm ra cách để có những giám mục vốn là những Cha và Thầy của chúng ta trong những giáo hội đó. Tôi rời La Mã ngày 11 thàng 9, 1652 với ý định đó." 5
Câu văn trên phân biệt rõ ràng lính chiến, binh lính (soldats) với các giám mục (évêques) thế mà vẫn có người cho rằng "soldats" chỉ các thừa sai. Ngoài ra, nếu đã dùng các thừa sai để đi chinh phục toàn thể phương Đông thì thừa sai đã có sẵn đó rồi, việc gì phải nói là "tôi sẽ kiếm ra cách để có các giám mục thừa sai"? Dịch "soldat" là thừa sai một cách gượng gạo như trên để chạy tội cho một tên giáo sĩ chủ mưu xâm chiếm Việt Nam bằng võ lực mà cũng có người viết ra được thì chúng ta phải hiểu cái di sản Thiên La - Đắc Lộ đã để lại cho một số người dân Việt Nam nó tệ hại như thế nào..
Và Yoshiharu Tsuboi viết trong cuốn Catholicism et Sociétés Asiatiques, trg. 136, về "nghệ thuật" phóng đại sự việc để lừa dối chính quyền Pháp cũng như Tòa Thánh Vatican của Rhodes như sau:
"Vào khoảng 1650, Alexandre de Rhodes tuyên bố rằng, người Việt Nam cải đạo theo Gia Tô giáo với nhịp độ 15000 một năm, con số mà khoảng hai mươi năm sau, những thừa sai Pháp cho rằng đã phóng đại, vì họ chỉ thấy có độ 60000 thay vì 200000 tín đồ Ki Tô như các giáo sĩ dòng Tên đã tuyên bố." 6
Qua bốn tài liệu vừa trích dẫn ở trên, chúng ta có thể rút tỉa những gì?
Thứ nhất, Alexandre de Rhodes đến Việt nam để làm công việc của một gián điệp: nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế, địa thế, dân tình v...v... của Việt Nam để hoạch định kế hoạch xâm chiếm Việt Nam bằng võ lực và sau đó dùng bạo lực để truyền bá đạo.
Thứ nhì, Rhodes, tối mắt bởi đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú của Việt Nam, là giáo sĩ Ca Tô đầu tiên tích cực vận động chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam bằng hai cách: gợi lòng tham của Pháp và báo cáo sai sự thực, phóng đại về tình hình cải đạo của dân chúng Việt Nam.
Thứ ba, với một đầu óc cuồng tín của những sản phẩm xuất thân từ cái lò đào tạo dòng Tên, Rhodes đã xuyên tạc sự thật, cũng có thể là ngu đần không biết đến sự thật, nên đã viết cuốn Phép Giảng 8 Ngày.... trong đó ông mạ lỵ cả ba tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, cũng như mạ lỵ những truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Rhodes đã thành công trong ý định xâm chiếm Việt Nam bằng võ lực của mình, nhưng thành công nhất là Rhodes đã để lại cho giáo dân Việt Nam một nền đạo lý mà giáo sư sử Nguyễn Mạnh Quang, trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, 1954-1963, (1998), gọi là nền đạo lý Thiên La - Đắc Lộ. Nền đạo lý Thiên (Chúa Giáo) La (Mã) - Đắc Lộ này, theo định nghĩa của Giáo sư Quang, là "sự tổng hợp của sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo hội Công giáo và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng ngôn từ hạ cấp của giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes)."
Thật là khó hiểu, một giáo sĩ ngoại quốc thuộc loại cuồng tín, đạo đức kém cỏi, đã hai lần bị trục xuất khỏi Việt Nam vì những hành động gián điệp, phá hoại, mạ lỵ tôn giáo và nền văn hóa Việt Nam như vậy mà ngày nay vẫn còn những người có đầu mà không có óc muốn tôn vinh ông, dựng bia đá tượng đồng thờ phụng, đặt tên ông trên đường phố cùng hàng với tên của các danh nhân lịch sử Việt Nam, những anh hùng liệt sĩ Việt Nam đã bỏ mình vì nước. Với một tâm cảnh cuồng tín, vọng ngoại, nô lệ như vậy, thử hỏi những người này làm sao có thể tạo một chỗ đứng trong lòng đại khối dân tộc?
Nối nghiệp Alexandre de Rhodes là hai Giám mục Francois Pallu và Lambert de la Motte, được Giáo hoàng bổ nhiệm cai quản hai địa phận truyền giáo đàng ngoài và đàng trong tại Việt Nam, năm 1658. Theo tài liệu trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam của Cao Huy Thuần và cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh mục Trần Tam Tĩnh thì hai Giám mục Pallu và Lambert đã quan tâm nhiều đến việc thành lập các công ty buôn bán, ngụy trang giáo sĩ dưới dạng lái buôn, để xúc tiến việc rao giảng "tin mừng Phúc Âm" qua "tham vọng và óc xâm lăng của các nhà truyền giáo muốn bành trướng, xây dựng các hãng buôn khắp nơi, nhất là ở Bắc Kỳ để thiết lập các phái bộ truyền giáo của họ"; Cao Huy Thuần, Sđd., trg. 49.)
Trong cuốn Việt Nam: Một Lịch Sử Chính Trị (Vietnam: A Political History), Joseph Buttinger viết:
"Đặc biệt, Francois Pallu, một thừa sai, là một tên chủ mưu chính trị đã đi quá những huấn thị trao cho hắn. Người ta có thể gọi hắn là người sáng chế ra thủ đoạn thực dân tạo chính sách ở Paris bằng phương pháp "đặt chính quyền Pháp trước sự đã rồi." 7
Xét lịch sử, chúng ta có thể nói, Ca-tô Rô-maGiáo chỉ phát triển mạnh ở Việt Nam từ khi Giám Mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, và sau đó, các giáo sĩ thừa sai Pháp thuyết phục thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam. Sau đây, tôi sẽ trình bày phần nào chi tiết vai trò của các Giáo sĩ thừa sai xâm nhập Việt Nam để truyền đạo, thường được các giáo sĩ và đám nô lệ bản địa cho rằng để rao giảng "tin mừng Phúc Âm" cùng khai sáng, văn minh hóa dân tộc Việt Nam, kể từ Giám mục Bá Đa Lộc trở về sau.
Trước hết, chúng ta hãy xét đến bản chất của Giám mục Bá Đa Lộc qua vài tài liệu sau đây:
1. Helen B. Lamb, Ibid., trg. 63:
"Bá đa Lộc biết rõ rằng người mà hắn bao che giúp đỡ (Nguyễn Ánh) không được sự ủng hộ của dân chúng. Năm 1791 Giám mục viết: "Hiện nay hắn (Nguyễn Ánh) đã chồng chất trên dân tộc hắn gánh nặng thuế má và cưỡng bức lao động, và có vẻ như đám dân nghèo khổ quá đau khổ bởi đói kém này mong muốn sự tiến tới của nhà Tây Sơn.
Giám mục đã góp những gì cho cuộc chiến thắng sau cùng của Nguyễn Ánh? Ông ta là một chiến thuật gia giỏi với một kiến thức sâu rộng về binh bị và một tinh thần kiên trì, và ông ta đã xin được tiền của các thương gia Viễn Đông để cung cấp cho Nguyễn Ánh những tàu chiến, vũ khí, và vài trăm lính đánh thuê Tây phương, hầu hết là dân Pháp." 8
2. Harry Hass & Nguyen Bao Cong trong Vietnam: The Other Conflict, trg. 3:
"Năm 1787 Giám mục thừa sai (Bá Đa Lộc), nhân danh Nguyễn Ánh, ký một hiệp ước ở Versailles, theo đó Pháp hứa sẽ dùng những lợi thế thương mại để giúp (Nguyễn Ánh). Khi những lời hứa của triều đình Pháp chỉ là những lời hứa suông, Giám mục Bá Đa Lộc đã vận dộng những thương gia Pháp ở Mauritius và Pondicherry giúp đủ tiền để ông thành lập một đoàn quân lính đánh thuê nhỏ. Những tên lính đánh thuê và cố vấn này đã giúp Nguyễn Ánh rất nhiều trong việc đánh bại nhà Tây Sơn.
Một tác giả người Anh đã gọi cái xí nghiệp này là "bộ truyền giáo quân sự Tây phương đầu tiên, chỉ huy bởi một Giám mục Ca Tô."
..Cũng cần phải nói thêm rằng một loại trợ giúp quân sự khác của các nhà truyền giáo cho các phe đánh nhau ở Việt Nam là: súng ống và nghệ thuật chế tạo cùng sử dụng chúng." 9
3. Hal Dareff trong The Story of Vietnam, trg. 28:
"Điều đặc biệt là vị hoàng tử 16 tuổi, Nguyễn Ánh, đang chạy trốn nhà Tây Sơn và được Giám mục Gia Tô Bá Đa Lộc che trở, cung cấp cho chỗ ăn chỗ ở. Kể từ khi Giám mục có hành động ban ơn huệ này, đời sống của vị hoàng tử trẻ tuổi đã thay đổi và có một ý nghĩa mới. Đứng về một phe trong một cuộc nổi loạn là một hành động chính trị, và Bá Đa Lộc hiểu rõ như vậy. Ông đã chọn đứng về phe Nguyễn Ánh và bây giờ ông phải tiếp tục dù thắng hay bại. Có một khía cạnh cá nhân trong quyết định của Bá Đa Lộc, vì Giám mục, một người với nhiều tham vọng, có những kế hoạch riêng để chinh phục môt vương quốc. Suốt 20 năm còn lại của cuộc đời, ông đã theo đuổi hai mục tiêu chính: giúp cho Nguyễn Ánh lên làm vua, và chiếm Nam Kỳ cho nước Pháp.
Những thành quả của Bá Đa Lộc thật là đáng kể, nhưng ông đã thất bại trong mưu đồ thực hiện hai điều mà ông mong muốn nhất: thiết lập một vương quốc cho Pháp và làm cho Nguyễn Ánh cải đạo theo Ki Tô Giáo, do đó Nam kỳ sẽ đặt dưới quyền cai trị của một ông Vua theo đạo Gia Tô.
.. Thật là khôi hài khi chúng ta thấy rằng, dưới những triều Nguyễn xây dựng bởi Nguyễn Ánh khi ông thực sự lên làm Vua, những tín đồ Gia Tô lại bị bạo hành dữ dội như chưa bao giờ từng bị như vậy." 10
Qua những tài liệu vừa trích dẫn, chúng ta không thể không tự hỏi: Cái thứ Giám mục Gia Tô như Bá Đa Lộc ở trên là thứ Giám mục gì vậy? Bá Đa Lộc là một Giám mục, nhưng bản chất của ông, cũng như của nhiều giáo sĩ thừa sai khác, là một tên lính đánh thuê chuyên nghiệp (professional mercenary). Ông biết Nguyễn Ánh không được lòng dân, và đám dân nghèo đang chịu đựng những cảnh bất công trong xã hội, nhưng ông lại gây quỹ, tuyển mộ lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh, đi ngược lại lòng dân. Vậy ông đến Việt Nam để "giải thoát" người nghèo, như các "sử gia" Gia Tô thường ca tụng, hay là mưu đồ dựng lên một vị Vua theo Gia Tô Giáo để dễ dàng việc truyền đạo, dù vị vua đó không được lòng dân?
Sau Giám mục Bá Đa Lộc là những Linh mục, Giám mục tới Việt Nam với mục đích rõ rệt là phá hủy nền văn hóa Việt Nam, và vận động chính phủ Pháp xâm chiếm Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Trong số này chúng ta phải kể đến những Giám mục Huc, Retord, Pellerin, Gauthier, Puginier v..v.. Tất cả đều có những hoạt động gián điệp với sự tiếp tay của một số không nhỏ tín đồ Gia Tô bản xứ. Hiện nay, những sử liệu về hoạt động gián điệp và gian ác thế tục của họ không thiếu. Sau đây tôi chỉ đưa ra vài tài liệu để cho chúng ta thấy bộ mặt thật của những người đi rao giảng "tin mừng Phúc Âm" .
Trong cuốn Vietnam's Will to Live, trg. 79, Helen B. Lamb viết châm biếm như sau:
"Những công tác của những giáo sĩ như là Cha Retord gồm có thu thập tin tức về vùng bờ biển, sông ngòi, và sự phòng vệ Huế. Ngoài việc là một nguồn tin tức chủ yếu cho hải quân Pháp, những giáo sĩ còn làm những xách-động viên, nhân danh 450,000 giáo dân mà họ tuyên nạp vào giữa thế kỷ thứ 19, sẵn sàng đưa một quốc gia 10 triệu người vào vòng chết chóc và tàn phá toàn diện - lẽ dĩ nhiên là để cứu quốc gia này." 11
Trong cuốn Việt Nam Pháp Thuộc Sử, Giáo sư Phan Khoang viết:
"Những người đề xướng cuộc chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan hải quân của hạm đội Pháp ở biển Trung Quốc..nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để làm cho chính phủ Pháp quyết định là các giáo sĩ, nhứt là giáo sĩ Huc, Giám mục Retord, Giáo sĩ Libois và Giám Mục Pellerin..
Vậy thì, những lời hoa mỹ như "rao giảng tin mừng Phúc Âm", "văn minh hóa" dân tộc mọi rợ Việt Nam v...v... của các giáo sĩ thừa sai chẳng qua chỉ là những lời tuyên truyền giả dối để che đậy thực chất nhơ bẩn, đồi bại của những kẻ cuồng tín mà lịch sử đã chứng minh rằng, một tay cầm cuốn Thánh Kinh, còn tay kia cầm gươm giáo hoặc súng ống để "thuyết phục" những người đần độn , thường thuộc giai cấp cùng đinh, đầu óc mù mịt, tin theo những điều hoang đường nhất trong những điều hoang đường, như những nhà nghiên cứu tôn giáo đã chứng minh.
Sau đây, tôi sẽ đi vào vấn đề cấm đạo và bách hại giáo dân mà các giáo sĩ thừa sai và những "tôi tớ hèn mọn" của họ thường xuyên tạc, phóng đại để thuyết phục chính phủ Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Luận cứ của các giáo sĩ thừa sai Gia Tô và những tay sai bản địa là: sở dĩ có những cuộc bách hại giáo dân là vì, từ Vua tới quan cho tới hàng sĩ phu và dân thường ở Việt Nam đều thuộc loại ngu dốt, không chịu chấp nhận "tin mừng Phúc Âm", nghĩa là chấp nhận làm tôi tớ hèn mọn cho Chúa Giê-su, một người Do Thái đã khẳng định rằng: "Ta được sai đến đây để cứu giúp đàn chiên đi lạc của nhà Israel (nghĩa là dân Do Thái) mà thôi - chứ không phải để lo cho người nước ngoài" (Mã-Thi 15: 24, Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước, Nguồn Sống, 1994), nhưng thực ra chỉ làm tôi tớ hèn mọn cho Tòa Thánh Vatican, cho Giáo hoàng và các Giám mục, Linh mục, những kẻ tiếm vị Chúa trên trần, tự cho mình những thần quyền hoang đường phi lý như đại diện của Chúa trên trần, hay “Chúa thứ hai”, có quyền thay Chúa để tha tội cho con chiên... trong khi lịch sử đã chứng minh trong số những Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục này không thiếu gì những kẻ sát nhân, vô luân, vô đạo đức, trí tuệ đần độn, tư cách hèn hạ v...v... Luận cứ này phản ánh những tâm cảnh cuồng tín, trí tuệ kém cỏi, kiến thức hẹp hòi, xuyên tạc sự thật và không có gì xa sự thật hơn.
Chúng ta biết rằng, việc cấm đạo dưới thời Tây Sơn không phải vì lý do tôn giáo. Trước khi đi sâu vào vấn đề cấm đạo với nhiều chi tiết đầy đủ hơn, tôi muốn đưa ra dây hai nhận định điển hình.
Ông Lý Chánh Trung, một nhà trí thức Gia Tô, trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc nhận định rằng:
"Tuy nhiên lịch sử đã cho thấy rằng từ khi Giáo hội (La Mã) đã trở thành quốc giáo thì cây gươm tinh thần của Thánh Phao-Lồ đã luôn luôn bị cám dỗ để biến thành cây gươm thép thực sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, giáo hội đã không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "Tà Thần", đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo" nếu không chịu sửa sai.
...Ngày nay mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo dưới các Vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các vị Vua ấy, và cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn" (Ông Lý Chánh Trung đã không xét đến những khung cảnh xã hội, chính trị đã tạo ra cái khung cảnh tâm lý đó. So với những hành động cấm đạo, diệt đạo rất quyết liệt và tàn nhẫn của Nhật Bản thì sự cấm đạo ở Việt Nam không thể gọi là bất nhân hay sai lầm. Đó là biện pháp cực chẳng đã để đối phó với những kẻ phản bội quốc gia và rất là nhân nhượng vì các triều Nguyễn luôn luôn chủ trương giáo dục trước khi dùng đến bạo hành như những tài liệu trong một phần sau chứng tỏ. TCN)
Và, Tiến sĩ Cao Huy Thuần cũng viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam, trg. 502, như sau:
"... cái gọi là "đàn áp tôn giáo" đó sự thực chỉ là những biện pháp tự vệ mà mọi nước bị ngọai xâm và nội loạn đe dọa đều bị buộc phải dùng đến nếu không muốn nhận chịu nguy cơ sụp đổ. Nếu đạo Thiên Chúa Việt Nam bị bài xích, thì việc đó, chính yếu là do các người đại diện cho đạo. Những người này, bằng những hoạt động tai hại và ý muốn thống trị của họ, rút cục đã làm cho người Việt Nam thấy Chúa Christ là tay sai của xâm lăng thuộc địa và văn hóa".
Nhận định của ông Lý Chánh Trung cho chúng ta biết sách lược truyền đạo man rợ của Gia Tô La Mã Giáo, và nhận định của Tiến sĩ Cao Huy Thuần cho chúng ta thấy những biện pháp tự vệ của Việt Nam trước sách lược truyền đạo trên. Xét theo bối cảnh lịch sử thế giới trong những thế kỷ 16-19 thì chúng ta phải nói rằng, căn bản căm phẫn của các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc và tay sai bản địa về việc cấm đạo và bách hại giáo dân ở Việt Nam thật là yếu ớt một cách lố bịch: "Vì chính trong những khoảng thời gian này, Gia Tô Giáo đang tàn sát những tín đồ Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân Huguenots ở Pháp, và Văn Phòng Thánh Xử Dị Giáo (Holy Office of the Inquisition = Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo) còn đang bận thiêu sống những kẻ dị giáo từ Granada tới Goa." (Dennis Bloodworth)
Như vậy, căn bản căm phẫn của họ thực ra là đặt trên cái lý lẽ đầy bất công và man rợ của kẻ mạnh, mạnh vì gươm giáo, súng ống, chứ không phải mạnh về tinh thần hay đạo đức: là con Chúa thì có quyền đi tra tấn, tàn sát, thiêu sống người ngoại đạo vì họ không có cùng một niềm tin như các con Chúa, còn người ngoại đạo thì không có quyền đụng tới con Chúa ngay cả khi những con Chúa này thuộc loại phản quốc.
Sau đây chúng ta hãy thử phân tích vấn đề cấm đạo và bách hại giáo dân ở Việt Nam qua một số tài liệu. Một trong những tài liệu có tính cách tổng hợp về sự du nhập của Gia Tô Giáo vào Việt Nam là của Helen B. Lamb, trong cuốn Vietnam's Will to Live. Sau đây là vài đoạn trong đó, xin độc giả để ý đến những lời văn châm biếm rất ý nhị của tác giả..
"Những sự giao tiếp giữa Pháp và Việt Nam từ thế kỷ 17 trở đi đều theo một mô thức cổ điển xâm nhập Á Châu của Tây phương. Mới đầu là các thừa sai và con buôn. Rồi các nhà ngoại giao đến can thiệp, nhân danh cả hai, và cuối cùng, quân lính tiến vào, áp đặt sự thống trị của ngoại quốc - lẽ dĩ nhiên là để làm tốt cho dân bản xứ.
Động cơ chính để một nước đi chiếm thuộc địa và những vùng ảnh hưởng là sự chiếm hữu một cái gì đó, quyền lực, uy tín, của cải, hay những thứ cưỡng đoạt được...Trong trường hợp nước Pháp, họ đặt nặng vấn đề tôn giáo. Là những người cầm đuốc soi sáng cho những người khác về chủ thuyết Gia Tô, người Pháp đã lao mình vào một cuộc Thánh chiến để mang tới cho dân Việt Nam món quà vô giá, cơ hội để sống đời đời, bất tử.
Chỉ khi nước Pháp trở thành thế tục hơn trong thế kỷ 19, họ mới đặt nặng chiêu bài "nhiệm vụ văn minh hóa" - trong những quốc gia mà niềm tự hào về nền văn minh cổ của họ rất là chính đáng.
...Dù các con buôn bị đối đãi lạnh nhạt đến đâu thì các thừa sai Tây phương còn bị nghi ngờ hơn nữa. Sau năm 1645, khi Alexandre de Rhodes bị bắt cầm tù và rồi bị trục xuất, theo những con buôn người Anh tới giao thương ở Việt Nam thì các thừa sai phải ngụy trang dưới dạng con buôn.
...Một triết gia Đông phương hiện đại, khi giải thích về sự đối kháng của Á Châu đối với những nhà rao bán Phúc Âm Ki Tô Giáo (truyền giáo), đã nhấn mạnh đến thái độ kiêu căng điển hình của thừa sai Ki Tô như sau:
"Cái óc Tây phương của các ông thường quá bị ám ảnh bởi ý tưởng chinh phục và chiếm hữu, cái thói quen dụ người khác vào đạo đã ăn sâu trong đầu óc các ông cũng là một hình thức chinh phục và chiếm hữu... Rao giảng về giáo thuyết của các ông chẳng phải là một sự hi sinh, mà là đắm mình trong một sự xa xỉ nguy hiểm hơn mọi xa xỉ vật chất rất nhiều. Nó nuôi dưỡng trong tâm các ông một ảo tưởng là các ông đang làm bổn phận - rằng các ông khôn ngoan hơn và giỏi hơn đồng loại của các ông.."
...Ngay cả khi chính quyền Việt Nam cho ra những đạo dụ chống sự truyền đạo Gia Tô, họ vẫn cho phép những Thánh nhân Phật giáo từ Trung Hoa vào truyền đạo ở Việt Nam. Điều này chứng tỏ giới quan lại không chống đối bản thân sự truyền đạo.
Sự phỉ báng tất cả những gì của Á Châu được thấy rõ, ngay từ lúc đầu, trong thái độ của những thừa sai Pháp đối với những tôn giáo ở Việt Nam, như chúng ta đã thấy trong những thư từ liên lạc và tác phẩm của họ.
...Trước khi những người Ki Tô Giáo tới, Việt Nam có ba tôn giáo lớn: Phật Giáo, Lão Giáo, và Khổng Giáo. Ba tôn giáo của Việt Nam này sống chung hòa bình với nhau hầu như trong suốt giòng lịch sử. Theo một mức độ nào đó, các tôn giáo này hòa hợp làm một, một nơi thờ tự tôn giáo có thể được dựng lên để thờ cả ba vị giáo chủ của ba đạo sống khác nhau. Về vấn đề tôn giáo, Việt Nam là một xã hội đa tôn giáo, điều này có thể giải thích sự kiện các thừa sai Tây phương thành công ở Việt Nam hơn là ở những nơi khác tại Đông Nam Á.
...Bất kể là những sự khác biệt giữa các tôn giáo ở Việt Nam như thế nào, chúng thật không đáng kể so với cái vực thẳm ngăn cách những tôn giáo này với giáo hội hiếu chiến Gia Tô.. Các Vua Việt Nam coi chủ thuyết Gia Tô như là một sự đe dọa đến quyền hành của họ, và coi những người Việt Nam theo đạo như thuộc hạng chót trong một hệ thống quyền lực tôn giáo chặt chẽ dưới quyền những giám mục ngoại quốc. (Bị ngoại nhân hoàn toàn thống trị đến độ giáo hội Gia Tô Việt Nam không có một giám mục Việt Nam nào được bổ nhiệm cho tới thập niên 1930, 400 năm sau khi những giáo sĩ thừa sai Gia Tô đầu tiên tới Việt Nam) Ở trên những giám mục ngoại quốc là một giáo hoàng ngoại quốc ở tận La Mã xa xôi, và những tín đồ Việt Nam này trung thành và tuân lệnh giáo hoàng thay vì hoàng đế Việt Nam.
Những thừa sai thì hoàn toàn xa lạ với Việt Nam và với ý tưởng hòa hợp giữa các lý tưởng tôn giáo khác nhau. Đối với dân ngoan đạo Gia Tô thời đó thì chỉ có hai quan điểm đối ngược, hoặc đúng hoặc sai, không thể có một sự thỏa hiệp hay đối thoại nào giữa hai quan điểm trên. Các thừa sai coi thường tín ngưỡng và cách hành đạo địa phương, cho chúng là sai lầm...
Nhiều bản báo cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang vào Việt Nam một số lượng lớn Âu dược chữa bệnh cho dân chúng để "chiếm lòng họ." (Linh mục de Courtaulin, trích trong tác phẩm của Taboulet, trg. 42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào đạo, các thừa sai Gia Tô đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám dân ngu dốt và nhẹ dạ cả tin. Những kẻ tân tòng coi Ki Tô Giáo như là một hệ thống ma thuật mới. Nước thánh Gia Tô được dùng với hi vọng có thể đuổi được quỷ ám, cứu người chết sống lại, làm cho người mù sáng mắt trở lại v...v..
Tin vào sự không thể sai lầm của Gia Tô Giáo, những hội viên trong Hội Truyền Giáo Hải Ngoại đã tấn công Phật Giáo, coi Phật Giáo như là vô thần và thờ hình tượng, và chỉ trích nặng nề Khổng giáo về tục lệ thờ cúng tổ tiên.
...Đối với những nhà lãnh đạo Việt Nam, toàn thể giáo thuyết Ki Tô bị coi là không thực. Theo quan điểm của Nho gia thì bản chất con người là tốt; chỉ cần được huấn luyện cho tốt để có thể sử dụng lý trí của mình mà phân biệt giữa tốt và xấu. Con người không cần phải được "cứu rỗi" bởi sự can thiệp của Chúa Ki Tô với Thượng-đế, và nếu cho rằng Chúa Ki Tô có khả năng như vậy thì đối với giới Nho sĩ, đó cũng không khác gì một sự mê tín.
Giáo điều Ki Tô, ngoài tính chất thô thiển và không hợp lý, còn bị coi như là thật sự nguy hiểm, vì nó làm cho con người xa cách với gia đình để tìm sự giải thoát cho riêng mình.
... Bằng sự đe dọa hỏa ngục và sự đày đọa đời đời, các giáo sĩ thừa sai bắt buộc những đàn chiên Việt Nam của họ phải theo đuổi ly rượu Thánh cho sự sống đời đời của mình trong một thế giới sau thay vì làm những bổn phận hiếu thảo trong đời này. Những nhà cấm quyền Việt Nam đặc biệt lo ngại về giáo điều xưng tội của Gia Tô Giáo, coi đó như là một cách áp đặt quyền lực trên giáo dân. (Không những thế, đây cũng là một cách lấy tin tức tình báo quân sự rất hữu hiệu. TCN).
...Như là một sự thách đố đối với thiên tài của Khổng giáo trong việc hòa hợp các tín ngưỡng khác nhau, Gia Tô Giáo đã chứng tỏ là một tôn giáo hoàn toàn không thể tiêu hóa nổi. Trong bốn thế kỷ, Gia Tô Giáo vẫn còn như là một lực lượng chia rẽ trong xã hội Việt Nam. Để tăng cường cái vực thẳm ý thức hệ giữa những tín dồ Gia Tô và đại khối dân tộc, những tín đồ Gia Tô thường sống trong những làng mạc riêng biệt, dưới quyền thống trị của các linh mục, y như những làng mạc trong thời Trung Cổ ở Âu Châu cách đây 500 năm. [Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc riêng biệt này là những “ốc đảo ngu dốt”]
Về mặt văn hóa cũng vậy, những người Việt Nam tân tòng Gia Tô trở thành cô lập với nền văn hóa chủ đạo. Để phổ biến giáo lý Gia Tô, các thừa sai đã nghĩ ra một dạng chữ mới theo mẫu tự La Mã gọi là Quốc Ngữ, một cách phiên âm tiếng Việt họ dùng để dạy những đàn chiên của họ. Họ dịch những sách cầu nguyện hay kinh sách Gia Tô khác ra loại chữ mới này, nhưng không dịch văn chương Việt Nam. Điều này có nghĩa là những tín đồ Gia Tô Việt Nam, vì không còn học ở các trường làng do các thầy Nho dạy, không thể đọc được tiếng Việt, gọi là chữ Nôm, hay chữ Hán được dùng trong mọi văn kiện công cộng. Chữ Quốc Ngữ là một trong vài đóng góp có ảnh hưởng lâu dài vào nền văn minh Việt Nam của Tây phương, nhưng ảnh hưởng tức thời của nó là chia rẽ quốc gia và đánh thẳng vào gốc rễ văn hóa của Việt Nam.
Đối với một quốc gia mà lý tưởng là sự hòa đồng trong cộng đồng và lối sống theo những qui định giao thiệp giữa con người với nhau, sự xâm nhập của Gia Tô Giáo biểu thị cho sự xáo trộn và bất hòa trong xã hội.
Ngay từ ngày đầu, những người xây dựng Gia Tô Giáo ở Việt Nam đã cố ý coi thường chính quyền Việt Nam và đã dùng đến phương cách hối lộ và gian lận để đạt được những mục đích của họ." 12
Trên đây chỉ là một cái nhìn đại cương về một vài khía cạnh của vấn đề Ca-Tô Rô-maGiáo xâm nhập vào Việt Nam. Muốn biết rõ thực chất của sự xâm nhập này, chúng ta cần đi thêm vào một số chi tiết để tìm ra nguyên nhân của việc cấm đạo ở Việt Nam.
Các nhà khảo sử không ai phủ nhận việc cấm đạo và chính sách khắc nghiệt của các triều Nguyễn đối với Gia Tô Giáo, nhưng tất cả đều đồng ý ở một điểm: Việt Nam là một dân tộc hiền hòa, hiếu khách, dễ dãi, và có tinh thần khoan dung tôn giáo rất cao, do đó không có truyền thống cấm đạo hay bách hại giáo dân vì lý do tôn giáo. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong tài liệu của Helen Lamb vừa trích dẫn ỏ trên, và trong vài tài liệu sau đây.
Trong cuốn “L'Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine", bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Đình Đầu, Yoshiharu Tsuboi viết như sau:
"...lập luận ấy đã cho biết sự thật lịch sử: tại Việt Nam, nơi mà tinh thần hòa đồng tôn giáo đã thấm sâu vào xã hội, không có lý do gì, nhất là khi vẫn có trật tự xã hội, lại đi bách hại đạo công giáo với tính cách là một đạo giáo."
Trong cuốn French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914. A Documentary Survey, Patrick J. N. Tuck nhận xét như sau, trg. 28:
"Động cơ của sự bách hại đạo Ki Tô ở Việt Nam chưa bao giờ vì những vấn đề siêu hình (tôn giáo). Truyền thống tôn giáo Việt Nam thường mang đặc tính chiết trung (không bị thu hẹp vào một nguồn tư tưởng nào; TCN) và chấp nhận rộng rãi các tín ngưỡng khác.
Xét về toàn bộ, truyền thống tôn giáo Việt Nam là một truyền thống dễ hấp thụ, pha trộn, để cho con người có thể theo nhiều con đường khác nhau đi đến chân lý." 13
Vậy tại sao lại xẩy ra chuyện cấm đạo và bách hại giáo dân? Tất nhiên những biện pháp khắc nghiệt, trái với truyền thống khoan nhượng tôn giáo của Việt Nam, phải có nguyên nhân. Những nguyên nhân này không bao giờ được các nhà viết sử thực dân hay tay sai Gia-Tô bản địa nhắc tới. Những nguyên nhân này là gì, hiện nay tài liệu có khá đầy đủ, tôi có thể tóm tắt những nguyên nhân đó trong ba điều sau đây:
i). Các giáo sĩ thừa sai Gia Tô Giáo khi tới Việt Nam truyền đạo đã không giữ đúng vai trò truyền giáo thuần túy của mình. Họ có những thái độ ngạo mạn, khinh rẻ chính quyền địa phương vì tự cho là văn minh tiến bộ trong khi bản chất của họ, ít ra là về phương diện tâm linh, luân lý, và đạo đức, thật là hẹp hòi và chậm tiến. Với tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt và huênh hoang, cộng với sự kiêu căng lố bịch, cho rằng đạo của mình là đạo "thiên khải" chân thật duy nhất, họ đã dùng những phương pháp truyền đạo gian xảo, xuyên tạc sự thật để mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức, và cấu trúc văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam. Họ đã trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa, xáo trộn trong xã hội Việt Nam.
ii). Các giáo sĩ thừa sai Gia Tô đã giữ những vai trò then chốt trong việc thực hiện âm mưu phá hủy nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, vận động chính quyền Pháp xâm lược Việt Nam, tích cực đóng góp cho việc xâm lược Việt Nam, và đào tạo một đạo quân thứ 5 bản địa, biến những kẻ tân tòng đần độn trong tầng lớp cặn bã của xã hội Việt Nam thành một đám nô lệ cho Vatican, coi thường luật lệ quốc gia và không ngần ngại phản bội quê hương.
iii). Bản chất của các giáo sĩ thừa sai và các linh mục bản xứ họ tạo nên phần lớn là vô đạo đức tôn giáo, tham lam, thích vơ vét tài sản của cải, lạm quyền để ăn cướp hay phá hủy chùa chiền làm đất xây nhà thờ, điển hình là nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ La Vang, nhà thờ Đức Bà ở Saigon v..v… đều được xây trên những đất ăn cướp của Chùa. Sách lược này theo đúng lời dạy trong Cựu ước: “Ngươi không được thờ thần nào khác, phải phá hủy tượng thần của dân gian.” Một số tài liệu trong phần sau sẽ chứng minh điều này.
iv) Một số không nhỏ giáo dân Việt Nam đã hợp tác, tiếp tay với thực dân Pháp, đem nước ta vào vòng nô lệ Pháp để được hưởng những quyền lợi đặc biệt tôn giáo của một thiểu số cam phận làm thân trâu ngựa, phục tùng tuyệt đối các giáo sĩ ngoại quốc, bất kể đến sự đau thương của cả một dân tộc bị nô lệ ngoại bang.
v) Chúng ta hãy đọc “Kiến nghị của các sĩ phu do thượng thư bộ hình, dâng lên vua Minh Mạng, Huế, tháng 8 năm 1826.” để thấy rõ bản chất của Gia Tô Giáo là như thế nào:
Đó là những gì mà các thừa sai Gia Tô La Mã Giáo đã mang đến cho dân tộc Việt Nam với kết quả là, sau khi chế độ thực dân cáo chung, là để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản nghi kỵ nhức nhối giữa đại khối dân tộc và khoảng 7% dân số theo Gia Tô Giáo, trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, từ Công trường Phê-rô đến Bolsa ở Little Saigon, một di sản không biết tới bao giờ mới xóa sạch được, như linh mục Kim Dịnh đã nhận định. Di sản này, Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang gọi là “Di sản của nền đạo lý Thiên-La Đắc-Lộ, nền đạo lý Thiên (Chúa Giáo) La (Mã) - Đắc Lộ này, theo định nghĩa của Giáo sư Quang, là "sự tổng hợp của sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo hội Công giáo và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng ngôn từ hạ cấp của giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes).".
Sau đây là phần chứng minh 3 nhận định nêu trên qua các tài liệu.
Chúng ta đã biết sách lược truyền đạo thiếu văn hóa của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, chúng ta đã biết việc dính vào chính trị nội bộ của Việt Nam cùng việc tuyển mộ, chỉ huy một đoàn quân lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh của Giám mục Bá Đa Lộc, và chúng ta cũng đã biết những hoạt động gián điệp của các Giám mục Gauthier, Retord, Huc, Pellerin, Puginier v..v.. Những tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ thực chất những hoạt động "truyền giáo" của các thừa sai Gia Tô ngoại quốc, tâm cảnh và hoạt động tiếp tay cho giặc của những giáo dân Việt Nam, và từ đó chúng ta có thể suy ra những nguyên nhân cấm đạo hay bách hại giáo dân.
1. Trong cuốn “L'Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine", bản dịch ra tiếng Việt, Nước Đại Nam Đối Diện Với Pháp và Trung Hoa, của Nguyễn Đình Đầu, Yoshiharu Tsuboi viết như sau:
"Linh mục Louvet gợi lại việc phái bộ Montigny đã tới Đà Nẵng năm 1847 để diệu võ dương oai rồi thảm bại rút lui để lại bao khó khăn cho thừa sai và tín hữu. Theo Louvet, phái bộ Montigny đã gây chuyển hướng trong tính cách của sự bách hại như sau: "...từ phạm vi tôn giáo chuyển sang phạm vi chính trị, người công giáo không chỉ nguyên thuần là một kẻ theo tà đạo, tự mình tách rời ra khỏi đời sống công dân và gia đình do chối từ việc thờ cúng tổ tiên, mà còn là bạn bè của người ngoại quốc, là kẻ phản bội và phản nghịch từng kêu gọi quân xâm lăng đến chiếm lĩnh nước mình." Sự thật Louvet chỉ nhắc lại một lập luận mà giám mục Pellerin đã quảng diễn từ trước...
Một lập luận như vậy đánh dấu thật rõ ràng sự thay đổi trong não trạng các thành viên hội Thừa Sai của Paris, vì lập luận ấy đã cho biết sự thật lịch sử: tại Việt Nam, nơi mà tinh thần hòa đồng tôn giáo đã thấm sâu vào xã hội, không có lý do gì, nhất là khi vẫn có trật tự xã hội, lại đi bách hại đạo công giáo với tính cách là một đạo giáo. Đã từ lâu, điều làm cho người ta e ngại là sự hiện diện và hoạt động của các thừa sai bị coi như là những điệp viên của Tây phương có nhiệm vụ phá hại nền đạo đức và chính trị của nước Việt Nam. Chúng tôi đã xem xét kỹ hoạt động của các thừa sai, bởi vì chúng tôi tin là hội thừa sai Paris và các giáo sĩ của hội này đã là những kẻ "dẫn đường" chính cho chính quyền Pháp tại Việt Nam"
2. Trong cuốn Những Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Sự Xâm Nhập của Pháp Vào Việt Nam (Les Missions Étrangères et la Pénétration Francaise au Viet-Nam), Nicole-Dominique Lê viết:
"Theo quan điểm của những nhà lãnh đạo Việt Nam thì các thừa sai đã phạm tội thúc đẩy giáo dân bất tuân luật lệ quốc gia. Từ bỏ những thờ phượng tôn giáo, những giá trị xã hội đã khiến cho họ sống ở ngoài lề của xã hội truyền thống. Nhưng nghiêm trọng hơn là, người ta trách cứ các giáo sĩ và giáo dân đã tạo nên sự phân chia quốc gia thành 2 khối tôn giáo đối nghịch nhau." 14
"Được thành lập một cách cuồng tín, những người Ki Tô Giáo Việt Nam đã có một ý thức giai cấp; họ tự cảm thấy tách biệt khỏi đại khối dân tộc, khác biệt và cao quý hơn, vì họ đã nhận được "ánh sáng của Thượng Đế." Họ khinh miệt những người phi-Ki Tô, những người đã theo những nghi lễ "mọi rợ và mê tín". Nhưng những người phi-Ki Tô cũng khinh miệt không kém những kẻ theo đạo, thường là xuất thân từ giai cấp hạ tiện, những người chẳng mất mát gì khi theo một tôn giáo khác, một tôn giáo từ chối gia tài của xứ sở. Nhất là giai cấp văn thân càng ghét họ hơn, vì, không những họ từ bỏ những truyền thống tổ tiên, mà tệ hơn nữa, kêu gọi ngoại nhân đến với họ, xin ngoại nhân che trở và cho họ việc làm, hầu hạ và phục tùng ngoại nhân như là các ông chủ duy nhất. Về phía Gia-Tô giáo, họ không làm gì để xóa bỏ hay ít ra là làm giảm bớt cái tiếng xấu của họ, trái lại, khi chắc rằng người Pháp sẽ ngự trị ở ngoài Bắc, và tin rằng thời cơ của họ đã tới, họ đã phạm nhiều sự lạm dụng không thể tha thứ được." 15
3. Trong cuốn Trung Kỳ - Bắc Kỳ 1885-1896 (Annam-Tonkin 1885-1896), Charles Fourniaux viết:
"Căn bản của lực lượng này (với mục đích đồng hóa toàn phần dân chúng để tạo một "Đông Dương của Pháp", bằng cách phá hoại văn minh cổ truyền và những văn thân gìn giữ nền văn minh này) nằm trong 600,000 giáo dân Thiên Chúa Giáo mà các thừa sai là những ông chủ tuyệt đối. Họ sống trong các làng mạc hoặc phần làng mạc riêng biệt, vì các thừa sai nhất định bảo vệ họ để khỏi bị ảnh hưởng xấu của người "Lương" và người Âu châu. Nhưng nhất là vì niềm tin và tác phong của họ đã làm cho đồng bào của họ coi họ như là những kẻ bội giáo và phản bội quốc gia. Họ không còn trung thành với sự thờ cúng tổ tiên, không tôn trọng những lễ lạc cổ truyền và phong tục tập quán. Thật vậy, có phải là từ những năm 70 họ đã chẳng là những "nội ứng của Pháp", làm tình báo cho kẻ thù và giúp đỡ kẻ thù, và cung cấp đa số trợ quân cùng những kẻ phản bội quốc gia khát máu như tên Trần Bá Lộc?" 16
(Trần Bá Lộc là tên tay sai Gia-Tô đắc lực nhất của Pháp trong sự đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở miền Nam, nổi tiếng là tàn bạo và tham lam. Leo từ lính cơ của Pháp lên tới tri phủ (1886) hắn đã "chặt nhiều đầu" kháng chiến quân, chính hắn viết như thế, và còn bắt bớ những người có liên hệ với kháng chiến để tống tiền dưới hình thức "bồi thường", được Pháp khen thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh hạng 3: theo tài liệu A30 (75), hộp 19, Thư Khố Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại.)
4. Trong cuốn Việt Nam Chiến Sử, tác giả Phạm Văn Sơn viết:
"Dưới mắt Vua Minh Mạng các tu sĩ Tây phương ngoài việc truyền giáo còn là những gián điệp lợi hại nhất của đế quốc và các tàu buôn cùng sứ thần của họ cũng có những công tác bí mật, vậy "kính nhi viễn chi" là hơn."
5. Trong cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 của Mark W. McLeod, chúng ta có thể đọc được những đoạn sau đây:
"Nguyên tắc của Vua Minh Mạng để đối phó với những người Gia Tô Việt Nam như sau: trước hãy giáo dục sau mới dùng đến hình phạt. Như vậy, các viên chức trước hết phải khuyên hóa những người Gia Tô để cho họ tỉnh ngộ và hối cải những tội ác của họ.." "Sau đó, những đạo dụ khắc nghiệt hơn được ban hành mỗi khi Vua Tự Đức phải đối diện với bằng chứng là các giáo sĩ Gia Tô và các giáo dân dính líu vào những cuộc nội loạn hay đứng về phía một quyền lực ngoại quốc." 17
6. Trong cuốn La Place du Catholicisme dans les Relations Entre la France et le Vietnam, de 1851 à 1870, nhà trí thức Gia Tô Étienne Võ Đức Hạnh viết:
"Dưới triều Vua Tự Đức, một số lớn tín đồ Gia Tô Việt Nam làm tình báo cho Pháp...Dưới triều Tự Đức, do sự xúi dục của các giáo sĩ, người Ki Tô Giáo và phi-Ki Tô, âm thầm hoặc công khai, chống đối lại vị Vua tại vị hơn là nhà Nguyễn vì nhiều lý do...Chỉ có một điều khác biệt: người Ki Tô Giáo có cùng chung mục tiêu với nước Pháp, còn người phi- Ki Tô thì không." 18
7. Trong cuốn French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914, Patrick J. N. Tuck viết, trg. 28:
"Xét về toàn bộ, truyền thống tôn giáo Việt Nam là một truyền thống dễ hấp thụ, pha trộn, để cho con người có thể theo nhiều con đường khác nhau đi đến chân lý.
Đối ngược với điều trên, những điều tự nhận của Ki Tô Giáo về một tâm linh duy nhất thật là phi lý và kỳ cục đối với người Việt Nam. Ngoài ra, chiến thuật dụ người vào đạo của các thừa sai có tính cách xâm nhập độc chiếm. Ảnh hưởng xã hội và chính trị của sự truyền đạo này có tính cách phá hại cao độ. Chính điều này đã gây nên thái độ thù nghịch trong giới sĩ phu cũng như trong đại chúng"
"Theo quan điểm của người Việt Nam, những sự tàn sát tín đồ Ki Tô Giáo không chỉ là một biểu thị của sự hoang mang chính trị. Nó có một mục đích thực tế là đánh thẳng vào một chiều kích đáng kể trong nỗ lực quân sự của Pháp. Về phần Pháp, sau những do dự ban đầu (Tài liệu 106), đã tận dụng những tín đồ Ki Tô Việt Nam như là các trợ quân trong cuộc chiến. Những tín đồ Ki Tô Việt Nam được sử dụng làm cu-li, thông ngôn và lính chiến đấu; và giáo dân Việt Nam đã góp tiền tổ chức những lực lượng riêng thí dụ như "đoàn quân Joseph" khoảng 7000 người.. Thật vậy, như Giám mục Puginier đã vạch rõ, Giáo dân rất hữu dụng trong việc lấy tin tức tình báo quân sự về những sửa soạn của kháng chiến quân Việt Nam và về sự chuyển quân của quân Trung Hoa (Tài liệu 116). Một đạo luật chống Ki Tô mà Thuyết (Tôn Thất) ban ra năm 1885 xác nhận là chính cái nhiệm vụ lấy tin tức tình báo này của những cộng đồng Ki Tô mới thật là đáng sợ (Tài liệu 113)." 19
Những tín đồ Gia Tô Việt Nam hợp tác và làm tay sai cho quân xâm lăng Pháp, ngay từ ngày đầu cho tới ngày cuối, nay đã là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn viết về giai đoạn lịch sử Việt Nam trên của Mark L. McLeod, Ibid., trg. 45-47:
"Vai trò của những tín đồ Gia Tô trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha là gì?..Sự thực là, theo những tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp thì, ngay từ tháng 9, 1858, nhiều toán tín đồ Gia Tô Việt Nam đã tới liên lạc với những đoàn quân chiến đấu của Tây phương. Rigauld de Genouilly (tướng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng; TCN) đã họp họ lại thành hai chi đội và huấn luyện họ trong một doanh trại ở Tiên Trà. Một trong hai chi đội trên chiến đấu sát cánh với quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng, còn chi đội kia di chuyển xuống miền Nam, dự phần chiếa đấu trong cuộc xâm lược "lục tỉnh" và họ đã dự trận Kỳ Hòa. Sau trận Kỳ Hòa, những lính chiến đấu Gia Tô Việt Nam đã phục vụ những người Tây phương ở Đà Nẵng tiếp tục phục vụ người Pháp, làm lính chiến, thông ngôn, cu-li và thám báo, trong những vùng chiếm được ở miền Nam. Vì những dịch vụ này, họ được Đô Dốc - Toàn Quyền de la Grandière ban thưởng cho một số đất quanh vùng Sài-gòn.
Trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha từ 1858 đến 1862, những biện pháp cấm đạo của Vua Tự Đức càng ngày càng khắc nghiệt và dễ hiểu. Đó chính là vì Triều đình Huế tin rằng những tín đồ Gia Tô Việt Nam đã hỗ trợ những đoàn quân xâm lăng. Những đạo Dụ trong thời chiến này thường nhằm mục đích ngăn cản những tín đồ Gia Tô Việt Nam liên lạc với những lực lượng Pháp - Tây Ban Nha. Thí dụ, một đạo Dụ ban hành vào tháng 5, 1859, nêu rõ rằng, khi nghe tin thành Saigon thất thủ, những tín đồ Gia Tô Việt Nam ở miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố người "lương" hay "tốt" (nghĩa là, người phi- Gia Tô) và đi làm "tay sai và mật thám cho Tây Dương "
.. Theo quan niệm của Vua Tự Đức thì sự khắc nghiệt của những đạo Dụ cấm đạo trong thời chiến rất là chính đáng, vì những tín đồ Gia Tô Việt Nam "đã mang người Tây Dương vào trong xứ sở."
...Với những tài liệu hiện hữu, chúng ta chỉ có thể kết luận là triều đình nhà Vua tin rằng những tín đồ Gia Tô đã giúp đỡ quân đội Pháp và Tây Ban Nha, và triều đình không hẳn là hoàn toàn sai lầm trong nhận thức này. Do đó, những đạo Dụ chống Gia Tô quá khắc nghiệt của Vua Tự Đức trong thời chiến chỉ nhằm mục đích ngăn ngừa tín đồ Gia Tô bản xứ khỏi phối hợp cới những lực lượng xâm lược." 20
Đọc lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm thành Hà Nội và các tỉnh lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v.. chúng ta sẽ thấy sự thực về vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của giáo dân Gia Tô Việt Nam cho những đoàn quân xâm lăng ngoại quốc như thế nào. Mark W. McLeod, Ibid., trg. 114-122:
"Bản chất và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Gia Tô là như thế nào?
Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand. được Garnier phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Gia Tô bao gồm - nhưng không chỉ giới hạn ở - những nhiệm vụ hành chánh và quân sự. Những nguồn tài liệu này cũng cho chúng ta thấy một kiểu xoay sở lẫn nhau giữa các sĩ quan Pháp và các thừa sai Gia Tô với kết quả là những kẻ "tình nguyện" thường cũng được lợi bằng hay hơn những sĩ quan Pháp.
... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Gia Tô và các lực lượng quân sự Pháp. Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Gia Tô Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Gia Tô dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Gia Tô đã dùng sức lao động (của tín đồ Gia Tô bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi-Gia Tô, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Gia Tô thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ." 21
Trong cuốn sách của Mark W. McLeod và trong nhiều cuốn khác, có rất nhiều chi tiết về sự cộng tác của những tín đồ Gia Tô Việt Nam với đầy đủ tài liệu. Tôi không thể đưa hết vào trong cuốn sách này vì nó quá chi tiết và dài, cho nên chỉ có thể đưa ra những nét đại cương. Tuy nhiên, chúng ta có thể nêu ra đây một thí dụ điển hình: nguyên nhân thất thủ trung tâm kháng chiến Ba Đình, do Linh Mục Trần Tam Tĩnh viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm:
"Cho tới khi chết ngày 25 tháng 4/1892, giám mục Puginier đã hoạt động không ngưng nghỉ ngày nào để củng cố địa vị của nước Pháp tại xứ ông đã nhận là quốc gia mới. Người ta còn giữ được mấy chục bản ghi chú và những tin tức tình báo có mang chữ ký của ông trong những Văn Khố của Bộ Thuộc Địa. Một phần nhờ vào các tin tức tình báo của giám mục mà quân Pháp có thể dẹp tan quân đội kháng chiến của Việt Nam. Trung tâm kháng chiến khốc liệt nhất là ở Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Đó là một làng được tăng cường bởi một vòng đai lũy tre, những ụ kháng chiến, những hầm trú ẩn, và một hệ thống hầm giao thông được xếp đặt một cách tinh vi. Để "bình định" làng này, quân đội Pháp đã kéo tới 2,250 binh sĩ với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến dưới sự chỉ huy của đại tá Metzinger. Cuộc tấn công của Pháp ngày 18 tháng 12/1886 bị đẩy lui. Quân Pháp bao vây để tìm kiếm một chiến thuật mới. Sung sướng thay cho họ, một sĩ quan trẻ, đại úy Joffre (sau này trở thành thống chế nổi tiếng của Pháp trong đệ nhất Thế Chiến), đã nghĩ đến việc cầu sự trợ giúp của Trần Lục, cha xứ Phát Diệm và là Phó Tướng đặc trách bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tịnh. Trần Lục, được giám mục Puginier ban phước lành, và mang 5000 giáo dân Gia Tô đến giúp quân Pháp. Và Ba Đình bị thất thủ."
Từ những tài liệu dẫn chứng ở trên, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa là, nếu không có những hành động nội ứng, tiếp tay với một mức độ đáng kể của tín đồ Gia Tô Việt Nam thì chưa chắc Pháp đã lập nổi nền đô hộ ở Việt Nam trong gần 100 năm. Điều này, chúng ta có thể thấy rõ ràng trong một văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:
"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại." 22
Trên đây chỉ là vài tài liệu trong kho tàng tài liệu rất phong phú hiện hữu. Từ những tài liệu trích dẫn trên chúng ta có thể thấy rõ nguyên nhân của việc cấm đạo trong thế kỷ thứ 19 tại Việt Nam, tuyệt đối không phải vì lý do tôn giáo, không phải vì những tín đồ Gia Tô Việt Nam theo một đạo mới, mà cũng chẳng phải vì Vua, Chúa cùng các sĩ phu ganh ghét hay đố kỵ những thừa sai Gia Tô ngoại quốc hay những kẻ tân tòng bản địa. Một số trí thức Gia Tô luôn luôn có luận điệu cho rằng các Vua triều Nguyễn đã bách hại những tín đồ Gia Tô chỉ vì họ đã theo một cái đạo cao quý, hoặc những người ngoại đạo ganh ghét hay đố kỵ Gia Tô La Mã Giáo. Thí dụ, Linh mục Phan Phát Huồn, viết cuốn Việt Nam Giáo Sử với tất cả những sự gian manh trong đó mà ngay từ 1993, Karen Bui đã phê bình cuốn Gian Sử trên như sau trên diễn đàn SCV, ngày 10 tháng 8, 1993:
LM Phan Phát Huồn viết quyển sách này chẳng với một chủ đích nào khác là xuyên tạc lịch sử để chạy tội đã giúp quân Pháp xâm chiếm Việt Nam của các thừa sai Pháp và Giáo hội Thiên chúa giáo Việt Nam.
Bằng giọng điệu hận thù, ganh ghét, ngạo mạn, kiêu căng, LM Huồn đã nhục mạ Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, vu khống bôi nhọ các tu sĩ Phật Giáo và đồng bào lương giáo, lên án phong trào “Bình Tây Sát Tả” của giới sĩ phu Văn Thân, xuyên tạc cuộc cách mạng của những anh hùng áo vải Tây Sơn…
Kể lại hàng trăm câu chuyện người TCG bị bách hại, nhiều chỗ còn bi thảm hóa câu chuyện đến độ khó tin, nhưng tuyệt nhiên không hề tiết lộ một mảy may những hành động phản quốc của người TCG, đã cấu kết với thực dân Pháp, bán nước cho giặc ngoại xâm, áp bức dân lành, mở mang nước Chúa một cách hung hãn, nô lệ hóa cả dân tộc dưới bàn chân sắt của quân viễn chinh Pháp hòng thực hiện tham vọng biến Việt Nam thành một nước TCG, con dân nước Pháp tại phương Đông.
Đọc lịch sử Gia Tô Giáo xâm nhập Việt Nam và bản chất những người Việt Nam theo Gia Tô Giáo, chúng ta thấy những lời phê bình trên không sai một mảy may. Những tài liệu trích dẫn trong một phần sau sẽ chứng minh điều này..
Theo sự phê bình của Giáo sư sử học Mark W. McLeod trong cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 thì cuốn Việt Nam Giáo Sử của Linh Mục Phan Phát Huồn hoàn toàn dựa theo những nhà viết sử thực dân và những giáo sĩ thừa sai chuyên xuyên tạc, phóng đại và bi thảm hóa vấn đề cấm đạo dưới Triều Nguyễn cho nên chứa nhiều chi tiết sai hẳn sự thực. Lẽ dĩ nhiên, cuốn sử của Phan Phát Huồn thì không thể kể là có giá trị nào đáng kể, vì những sự kiện và quan niệm cá nhân viết trong đó chỉ có giá trị khi chúng không thể bị phản bác bởi những công cuộc khảo cứu hiện đại của nhiều người khác về cùng những vấn đề. Chúng ta hãy lấy một thí dụ.
Theo McLeod, trang 89-90, thì Linh Mục Phan Phát Huồn đã ngụy tạo ra một chiếu chỉ của Vua Tự Đức cho rằng nhà Vua thú nhận là đã bị các quan đại thần chống đạo lừa dối [He had been the dupe of the anti-Catholic mandarins] và ngỏ ý hối tiếc và tỏ lòng kính ngưỡng những người Gia Tô Giáo [In about 1865, Phan Phát Huồn asserts, Tu Duc issued an edict in which he declared his admiration for the Vietnamese Catholics’ fidelity both to their religion and to the Vietnamese State]. Giáo sư McLeod phê bình:
Sự chính xác của tài liệu đó thật là khả nghi vì nó không phù hợp với thái độ của Vua Tự Đức trong những chiếu chỉ đích thực của nhà Vua trước cuộc chiến và trong cuộc chiến [uncharacteristic of the Tu Duc Emperor’s attitudes as they can be seen in pre-war and wartime documents of his certain authorship]. Điều này làm cho Phan Phát Huồn phải mang một gánh nặng để chứng minh. Nhưng ông ta đã không chứng minh được; ông ta không nêu lên một nguồn xuất xứ nào của tài liệu đó [This he does not do; he cites no source for the document] McLeod còn phân tích một số thành ngữ dị thường (linguistic anomalies) mà Phan Phát Huồn dùng không hợp với thời đại. Trong văn kiện đó tác giả Phan Phát Huồn gọi đạo Gia Tô là “Công giáo” và người Gia-Tô là “người Công giáo” . Chúng ta biết rằng, các Vua triều Nguyễn đều coi Gia Tô Giáo là một tà giáo, cho nên không có chuyện gọi Gia Tô Giáo là Công giáo trong thế kỷ 19. Sau khi phân tích ý nghĩa của từ “Công giáo”, Giáo sư McLeod nhận định: Do đó, “Công giáo” là một từ ngữ mới tự gọi, dùng bởi những người Gia Tô Việt Nam và những người có thiện cảm với họ; từ miệng của một ông Vua Việt Nam trong thế kỷ 19 là một sự sai niên đại vô nghĩa [Therefore, Cong giao is a modern self-appellation employed by Vietnamese Catholics and those sympathetic to them; in the mouth of a 19th century Vietnamese emperor the term is an absurd anachronism].
Chúng ta hãy đọc một tài liệu của Patrick J. N. Tuck về ngôn từ của Vua Tự Đức trong một chiếu chỉ để thấy rằng LM Phan Phát Huồn đã gian manh như thế nào khi đặt vào miệng Vua Tự Đức những lời ca tụng giáo dân “Công giáo” [sic]:
Tuck, trang 23: Vua Tự Đức: Chiếu chỉ cấm đạo Kitô 30 tháng 3 năm 1851:
Chiếu chỉ
"Người Công giáo lúc ấy lại được tự do hành đạo, nên nhiều người nghèo khó cũng như giàu sang theo đạo công giáo. Phong trào theo đạo ấy đã làm cho các thày Sư ghen tuông các linh mục, các thày xúi người lương ghét đạo."
Viết như vậy Linh mục Phan Phát Huồn đã để lộ một tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của đần độn và huênh hoang, phản ánh một kiến thức nghèo nàn về chính đạo của ông và lẽ dĩ nhiên, một sự hiểu biết rất hạn hẹp về Phật Giáo. Những tài liệu từ Văn Khố Hải Ngoại Pháp cho thấy tầng lớp tân tòng Việt Nam thuộc hạng cặn bã trong xã hội, và các giáo sĩ thừa sai cũng là những tên thực dân vô đạo đức như một số tài liệu sau đây sẽ chứng tỏ. Người Lương ghét đạo không phải là bị các sư sãi xúi, mà là vì thấy những người theo Gia Tô Giáo là những tên Việt gian phản quốc, làm tay sai cho thực dân Pháp, dựa thế Pháp và các giáo sĩ thừa sai để làm nhưng hành động bất lương, phi luật pháp, không thể chấp nhận được.
Thật vậy, nhận xét trên sẽ được chứng minh trong sự phân tích đại cương vấn đề để xem Linh mục Huồn dùng từ "ghen tuông" có khớp không? Ghen tuông hay đố kỵ có nghĩa là ghen ghét vì mình không bằng người ta, thèm muốn những cái người ta có mà mình không có được. Vậy thì, người Phật tử, Tăng cũng như tục nói riêng, Phật Giáo nói chung, đố kỵ người GiaTô hay GiaTô La Mã Giáo ở chỗ nào? Muốn xét về một tôn giáo thì người ta thường xét đến tư cách của Giáo Chủ, giáo lý, thành phần tín đồ, và những phúc lợi mà tôn giáo đó đã đem tới cho nhân loại.
Về tư cách của giáo chủ thì chúng ta hãy đọc lời sau đây của Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950:
"Xét về trí tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử. Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô." 23
Nếu tôi đọc những chuyện trong Thánh Kinh về cách Đức KiTô đối xử với cha mẹ, anh chị em, về những lời nguyền rủa của Đức KiTô đối với những người không tin theo ngài là sinh ra từ đồ rắn độc, dạy đệ tử mang họ ra giết ngay trước mặt ngài, và ngay cả lời nguyền rủa một cây sung vô tri vô giác để cho nó chết héo queo chỉ vì cây không ra trái lúc trái mùa để cho ngài sơi cho đỡ khát, và gọi một người đàn bà không phải là dân Do Thái là chó khi bà này đến khẩn nài ngài chữa bệnh cho con gái v...v..., thì tôi bắt buộc phải đặt Đức KiTô dưới hàng triệu người khác về vấn đề đạo đức.
Vậy, về vấn đề giáo chủ, có gì để Phật Giáo phải đố kỵ với GiaTô Giáo? Ngày nay, chúng ta đã biết là các học giả Tây phươngnghiên cứu Tân Ước đã kết luận là: “Giê-su chẳng qua chỉ là một người thường, sống với một hoang tưởng, tự cho mình là đấng cứu tinh của dân tộc Do Thái, chỉ dân tộc Do Thái mà thôi”. Họ đã dạy cho giới linh mục, mục sư điều này nhưng những vị chăn chiên này vẫn dấu kín sự kiện trên trước đám tín đồ thấp kém ở dưới để duy trì những quyền lợi vật chất cũng như tinh thần trước đám tín đố. Cho nên, trong thực tế, những người không phải là Do Thái, thí dụ như người Việt Nam, mà tin vào Giê-su là tin vào “một cái bánh vẽ trên trời”, từ của Mục sư Ernie Bringas: A-Pie-In-The-Sky.
Về phương diện giáo lý thì ai cũng biết giáo lý bắt nguồn từ kinh điển của mỗi tôn giáo. Ki-Tô Giáo thì có cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Phật Giáo thì có Thiên Kinh Vạn Quyển. Kinh điển Phật Giáo thì nhiều và rộng vô chừng nhưng tất cả đều nhất quán, dẫn dắt con người bằng những con đường khác nhau nhưng cùng đi tới mục đích tối hậu là giác ngộ qua sự tu tập bản thân bằng bi, trí, dũng. Đặc biệt là trong kinh điển Phật Giáo ta không hề thấy những chuyện tàn ác, giết chóc, dâm loạn v..v... Trái lại trong cuốn được gọi là Thánh Kinh thì đầy rẫy những chuyện ác độc, vô luân, chiến tranh, chém giết, tàn sát tập thể và những giáo lý mâu thuẫn cùng cực v..v.., như đã được trình bày trong Chương V, ngoài những chuyện hoang đường “không thể tin được” của thời bán khai.
Vậy về vấn đề giáo lý, có gì để Phật Giáo phải đố kỵ với GiaTô La Mã Giáo?
Về phương diện hành trì giáo lý thì chúng ta đã biết lịch sử của GiaTô LaMã Giáo đã mang tới bao nhiêu bất hạnh cho nhân loại qua 1000 năm của thời kỳ đen tối (Dark Ages) ở Âu Châu với 9 cuộc Thánh Chiến, 400 năm của các tòa án xử dị giáo, và mang tới cho các dân tộc ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, Nam Mỹ, Á Châu qua chính sách thực dân đế quốc, trong khi sự bành trướng của Phật Giáo trên thế giới từ 25 thế kỷ trước, qua phương pháp truyền đạo hòa bình và chuyển hóa, không hề làm đổ một giọt máu .
Vậy về phương diện hành trì có gì Phật Giáo phải đố kỵ với GiaTô LaMã Giáo?
Về phương diện tín đồ, theo nhận xét của Malachi Martin, nguyên giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh ngay tại Vatican, trong cuốn The Keys of This Blood thì:
"Tự bao giờ, Gia Tô Giáo chỉ nảy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học." 24
Cùng một ý tưởng, Adrian Pigott viết trong cuốn Freedom's Foe - The Vatican:
"Họ (giáo dân) được nuôi nấng trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã".. Thất học luôn luôn thịnh hành trong các nước theo Gia Tô La Mã Giáo - nhờ đó mà tập đoàn linh mục có thể nảy nở" 25
và Toàn Quyền Đông Dương J. L. de Lanessan, cách đây hơn 100 năm, trong cuốn Les Missions et leur Protectorat, trích dẫn bởi Patrick J. N. Tuck, cũng đưa ra một nhận xét như sau:
"Thật ra, trong hơn 2 thế kỷ mà các Hội Truyền Giáo Gia Tô hoạt động ở Trung Hoa và bán đảo Đông Dương, có lẽ họ không cải đạo được quá 10 học giả. Toàn thể giới cầm quyền có học của dân chúng đã tránh né sự truyền đạo của họ. Đại cương thì các nhà truyền giáo chỉ tuyển mộ được tín đồ trong những giai cấp thấp nhất, và phần lớn là những kẻ, vì lý do này hay lý do khác, đã bị xã hội An-Nam ruồng bỏ." 26
Vậy về phương diện thành phần và khả năng hiểu biết của những tín đồ, Phật giáo có gì mà phải ghen tuông với Gia Tô La Mã Giáo? Gia Tô La Mã Giáo có nên cảm thấy hãnh diện vỉ những tín đồ của mình thuộc thành phần nào trong xã hội không?
Phải chăng những tín đồ Gia Tô như Phan Phát Huồn chỉ là những người ngu đạo, nhắm mắt tin theo những lời tuyên truyền giả dối hoàn toàn sai sự thực của Giáo hội, và Gia Tô La Mã Giáo quả nhiên đã chỉ nảy nở nơi những người mà đầu óc không có bao nhiêu suy luận.
Để có một cái nhìn chính xác về tư cách đạo đức của các giáo sĩ thừa sai, các “Chúa thứ hai”, và của các con chiên Việt Nam, chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu.
Trong cuốn French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914, Patrick J. N. Tuck viết, trang 179:
Camille Paris: "Nô lệ của Chúa Giêsu" 14 tháng ba 1907
Tất cả hai mươi thiếu niên người Annam này đều xuất thân từ một trường đào tạo nô lệ tên là Thánh Hài đồng Gò Thị, nằm ở ngoại ô Qui Nhơn... (Chúng được lập thành một đoàn để gởi lên miền núi Giarai). Ở đó chúng bị coi như những tội nhân khổ sai và phải làm ruộng cho các ông chủ là các vị thừa sai và khi thân xác bé nhỏ mệt mỏi và đau khổ của chúng cuối cùng tìm được sự yên nghỉ trong cái chết, sau khi đã bị bệnh sốt rét hành hạ, thì cha Salomé, Giám đốc trường Thánh Hài đồng Gò Thị, đồng thời cũng là người quản lý cái nhà xác này, sẽ tuyển vào đó các trẻ em khác.
Hội truyền giáo đang hoạt động nhằm nắm quyền chủ động tại thành phố và nơi nào cũng có điệp viên của họ. Kết quả của cuộc bầu cử hội đồng thành phố Sài gòn, cũng sẽ y như kết quả cuộc bầu cử Quốc hội sắp tới, vì thế chúng ta có thể có lý do để lo ngại. Hội truyền giáo hiện rất giàu có, thế mà chúng tôi chỉ có lắm thiện chí và lòng nhiệt thành của người đảng viên Cộng hoà. Nhưng điều đó không đủ, hãy giúp đỡ chúng tôi. (Đính kèm).
Biên bản cuộc họp long trọng của chi hội Tam điểm (Réveil d'Orient) tại Sài Gòn vào ngày 4 tháng 5 năm 1907.
Kiến nghị như sau:
Rằng thật đau lòng mà phải nhắc lại một lần nữa sau nhiều lần đã lớn tiếng cảnh giác, không những về sự vô ích và nguy hiểm của những người mặc áo đen hiện diện tại xứ này, mà còn về mối nguy hiện nay của việc không áp dụng các đạo luật bài giáo sĩ như ở tại nước Pháp. Bằng điều đầu sao cũng cần thiết và cấp bách phải nói và lập lại, là hội Thừa sai ở Đông dương sở hữu các ruộng lúa tốt nhất và các khoảnh đất màu mỡ nhất, với số lượng rất lớn các tài sản như vậy, và số lợi tức không lô do đất đai mang lại, ngoài chi phí lao động rất nhỏ, đều chui vào ngân quĩ đen của Vatican để nuôi dưỡng đội quân thù địch chống nước Cộng hoà thân yêu của chúng ta và sự tiến bộ...
Rằng... Chính phủ tại xứ thuộc địa Đông dương hãy tước bỏ quyền hạn mà vị Giám mục và cha sở Sài gòn, cũng như hết thảy các cha sở và các Nhà chung khác trong xứ với một tình trạng giống nhau hiện đang được hưởng, đồng thời chuyển các quyền hạn ấy sang cho thuộc địa hoặc các thôn làng, để sử dụng như thế nào cho cho có vẻ thoả đáng. (Thư viện quốc gia, Paris Fonds Maconni que. Fonds du Grand, Rés. FM2142. "Sài gòn Réveil d'Orient")
Thế nhưng quí bạn có thể hỏi, làm thế nào mà các Nhà chung đã chiếm được số tài sản và số dự trữ (tư bản) có vẻ như để yểm trợ cho Giáo hội ở Pháp và các quan chức của Vatican?
Làm thế nào ư? Thật đơn giản. Chỉ trừ một ít trường hợp ngoại lệ, còn tất cả các Thừa sai đều có dính líu đến nông nghiệp và cho người bản xứ vay tiền. Vì thế để tạo ra một mớ hổ lốn không ai hiểu nổi, mỗi linh mục khi đến thuộc địa này, đều lấy một tên theo tiếng bản xứ và mọi giao dịch thương mại của linh mục ấy đều được thực hiện bằng cái tên này, hoặc bằng tên của một trong các con chiên của mình. Người linh mục bản xứ, khi nhập dòng sẽ bán hết tài sản của mình và nộp tiền cho Nhà chung. Các tân tòng đều tới xin Nhà chung giúp đỡ. Khỏi cần nói thì ai cũng biết, là họ phải trả lại hơn một trăm lần cho sự giúp đỡ ấy bằng lao động làm phu, hoặc khuân vác ở bên sông. Chính quyền cũng không biết rằng Nhà nhung còn thu địa tô đối với tất cả số đất giao cho giáo dân, như là để bồi thường, mỗi khi ta chiến đấu với nước Annam và chả cần phải nói thêm rằng, hầu hết đất đai ấy là của Nhà chung, mặc dù về mặt pháp - lý chúng là của ông X, ông Y. Về những thuận lợi mà hầu hết các thừa sai vẫn được hưởng do những thu hoạch từ đất đai và các thứ thuế khác, thì thật ngoài sức tưởng tượng.
Hà nội ngày 15 tháng giêng 1874.
Giờ đây, tôi vẫn không ngớt tiếp khách đến gặp: Đúng là một hàng dài ở ngoài cửa từ bảy giờ sáng đến tối. Tôi buộc phải tiếp đám người này ngay cả trong lúc ăn. Họ là những người đã tập trung người khác lại (theo như lời công bố của F.Garnier sau khi chiếm thành) và đến để xin vũ khí và tình nguyện làm sĩ quan, hoặc ngay cả đến để xin được làm quan huyện hay quan phủ. Hầu hết họ đều là người Kitô giáo và một số lớn được các linh mục gởi tới từ Ninh Bình. Lúc nào các người Kitô giáo này cũng tỏ ra tham lam quá mức, lại vừa thiếu khả năng, vừa kiêu ngạo. Vì lợi ích của họ, tôi luôn luôn làm dịu lòng nhiệt thành của họ. Tôi muốn đề cử càng nhiều dân ngoại hơn giáo dân càng tốt, chủ yếu là cốt tránh sự bất mãn tự nhiên trong vùng, nhưng cũng bởi vì giáo dân, hầu hết đều thuộc tầng lớp thấp kém bị chính phủ Annam bỏ rơi không thông thạo công việc, và hoàn toàn xa lạ với việc cai trị. Hơn nữa, họ ít khi biết chữ. Bởi vì tôi biết chắc điều này, nên tôi phải nói công khai và không thành kiến. Điều chắc chắn là giáo dân đã phục vụ chúng ta và giúp cho công việc của chúng ta được dễ dàng hơn, nhưng họ đã làm tôi lo ngại nhiều. Đứng về phía chúng ta thấy cần thiết phải trông cậy độc nhất vào họ. Nhưng họ đã tỏ ra quá kém cỏi vụng về. Họ coi việc chúng tôi tới đây như một tín hiệu để trả thù và họ đã làm điều ấy quá lộ liễu. Nếu các thừa sai có dặn dò họ một cách kỹ lưỡng đi nữa, họ cũng chẳng để ý lắm. Tôi đã phải nói đi nói lại hai mươi lần một ngày: “ Các ông nghĩ chúng tôi đến đây để gây ra một cuộc chiến tranh tôn giáo hay sao? Chúng tôi đến chỉ vì lý do thương mại. Các ông có là người Trung Hoa, Kitô giáo hay ngoại giáo cũng vậy thôi. Chắc chắn là chúng tôi sẽ được sung sướng được giúp đỡ người Kitô giáo. Nhưng chúng tôi tiến cử một vài người vào các nhiệm sở quan trọng thì bởi vì đó là điều cần thiết cho trật tự công cộng vì các nhiệm sở ấy không thể để trống và vì chúng tôi muốn làm yên lòng người Kitô giáo. Nhưng nếu các quan lại cũ đến với chúng tôi, chúng tôi sẽ sung sướng chứng tỏ cho họ thấy là chúng tôi không thiên vị. Đâu có phải người Pháp nào cũng theo Kitô giáo”.
Thật là một luận cứ làm cho họ khá hoang mang. Một lần có một linh mục người bản xứ vô cớ đốt một ngôi chùa. Lần khác, một thừa sai người Pháp ngây ngô đến nỗi đứng đầu một nhóm 300 người và đi gây chiến. Vị linh mục bản xứ bị tôi giữ trong thành vài ngày, và vị thừa sai đã được tôi hỏi chuyện và thân mật khuyên nhủ chứng minh cho ông thấy rằng hành động của ông ta có hại cho chính tôn giáo của mình như thế nào, vì đó là cách tốt nhất để gởi lại những lời ta thán cũ, tạo ra những thù ghét mới, và gây bất ổn triền miên trong một xứ cần được bình định hơn cả. Tôi không biết tương lai sẽ dành những gì cho một vùng đất vừa trù phú vừa bất hạnh như vậy. Tôi không cố tò mò, hoặc đưa ra lời khuyên nào, nhưng nếu diễn biến tự nhiên đưa đất ấy vào tay chúng ta, chúng ta sẽ phải thật kiên nhẫn với các vấn đề tế nhị ấy và tôi thành thật thương hại những người được kêu gọi ra cai quản các tổng vừa có giáo dân vừa có dân ngoại sống chung. Nơi đây sẽ khó khăn hơn ở Nam kỳ rất nhiều và sẽ gây ra nhiều va chạm …
Trong Luận Án Tiến Sĩ “Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914)”, Cao Huy Thuần viết, trg. 595-600:
Các giáo sĩ thừa sai đã biến những nông dân nổi loạn thành những tín đồ Gia Tô giáo cuồng tín, từ chối không chấp nhận uy quyền nào khác hơn là uy quyền của những người lãnh đạo tinh thần của họ, không chấp nhận nước nào khác hơn là nước Chúa. Họ tụ tập trong các cộng đồng riêng biệt, tạo nhiều quốc gia trong một Quốc Gia, trong đó, họ có luật pháp riêng và một lối sống riêng. Được xúi giục và nâng đỡ bởi các giáo sĩ thừa sai – là những kẻ trở thành toàn năng nhờ sự thiết lập nền đô hộ Pháp - , họ không chịu đóng thuế cũng không nghe theo mệnh lệnh của các quan, và gây nên vô số rắc rối với những láng giềng không Gia Tô giáo của họ qua những vụ chiếm đoạt đất đai.
Phải viết cà một quyển sách để trình bày lối cải đạo bằng mọi cách của những giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam, khuynh hướng xâm lấn, thái độ ngạo mạn và chuyên chế của các linh mục người bản xứ và các con chiên của họ trong các làng hỗn hợp. [Tham chiếu báo cáo của Brière, Khâm sứ tại Trung Kỳ. gởi Toàn Quyền, 24/8/1896 và 16/9/1896, Thư khố Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, A (43), Hộp 8].
Chúng tôi chỉ trưng dẫn ra đây vài thí dụ tiêu biểu nhất để hiểu rõ hơn tinh thần nội chiến nguy hiểm mà những thừa sai đã đưa vào trong lòng một dân tộc rất hiếu hòa..
Tự cho mình là những người được Chính phủ thuộc địa bảo vệ đặc biệt, các tín đồ Gia Tô giáo cũ và mới tin rằng họ được phép làm mọi chuyện, và, vì chắc chắn được sự ủng hộ của các giáo sĩ thừa sai, họ không ngại làm những việc sai trái mang tính chất phản loạn chống uy quyền hợp pháp. [Điều này vẫn còn đúng cho tới ngày nay. Người Gia Tô giáo, bị xúi giục bởi các bề trên như TGM Ngô Quang Kiệt và một số linh mục ở trong nước cũng như một số linh mục ở ngoài nước, họ vẫn tưởng rằng Vatican sẽ bảo vệ họ như các giáo sĩ thừa sai khi xưa dưới chế độ thuộc địa của Pháp, nên họ đã có những hành động phản loạn chống uy quyền hợp pháp, điển hình là vụ án Nguyễn Văn Lý, và các vụ “cầu nguyện xin-cho” đầy tính cách bạo loạn ở Tòa Khâm Sứ, Ấp Thái Hà và Tam Tòa. TCN] …
Những tranh chấp đất đai giữa giáo dân và lương dân xảy ra như cơm bữa, và các phủ huyện, trong hoàn cảnh bị “phái bộ Gia Tô thống trị cả xứ”, không dám lấy những quyết định thuận lợi cho lương dân, nạn nhân của lòng tham không đáy của những giáo sĩ thừa sai. Những giáo sĩ này không ngần ngại ra lệnh bắt giữ các chủ đất, rồi cùm cổ họ, đánh đập họ, tra tấn họ cho đến khi họ chịu ký nhượng một cái ao hay một khoảnh ruộng. [Xem báo cáo của Công sứ ở Vinh, 22/4/1891, và báo cáo của Toàn quyền Bideau, 29/5/1891, A (35) hộp 7].
Trong mùa gặt hái, các vụ lạm dụng tái diễn đều đặn. Không chịu mót lúa, các băng đảng [Gia Tô] thực sự đến cướp gần trọn hoa lợi. Họ không vừa lòng với việc lượm các gié lúa mà người gặt bỏ sót, mà đợi cho người gặt bó được bó nào lấy bó nấy. Các chủ lúa để mặc cho chúng cướp và không dám khiếu nại, vì các viên chức hàng xã và các quan cấp dưới không chịu nghe lời họ, sợ gặp phải khó khăn với phái bộ [Báo cáo của Khâm sứ Trung Kỳ, 5/11/1896, đã nêu]
(Vậy thực chất của phái bộ truyền giáo Gia Tô là một đảng cướp, ăn cướp tài vật và đất đai, cùng huấn luyện các giáo dân thành những quân ăn cướp, và được phái bộ bảo vệ. TCN)
Các tín đồ Gia Tô giáo cũng lợi dụng mùa gặt để tìm cách thỏa mãn, một cách bất hợp pháp, các yêu sách của họ trong các vụ tranh chấp. Về việc này họ được các thừa sai ủng hộ và nhất là được các linh mục người bản xứ khuyến khích.
Gần như chắc chắn không bị trừng phạt, họ tìm cách biến thành luật lệ, thành chủ thuyết, một biện pháp mà người bản xứ trước kia chỉ dùng trong những trường hợp hiếm hoi và rất nguy hiểm. Cách đó là thuê người đến nằm vạ trong đất đai đang tranh chấp hay trong nhà những người đang kiện cáo với mình. Ý đồ của họ là buộc các quan phải đến ngay tại chỗ mỗi khi họ thuê người nằm vạ, hay, trầm trọng hơn, họ dùng bạo lực để cướp hoa mầu trước khi pháp luật phán xử. Đó là những lề lối mà tín đồ Gia Tô rất thường sử dụng trong mùa gặt, nguyên nhân thường xuyên của những rối loạn ở nông thôn. “Chắc chắn họ không dám lao mình vào những cuộc biểu dương lực lương như vậy, không dám phạm những hành vi đồi bại như vậy, tóm lại, không dám đe dọa dân chúng đã khiếp họ, nếu họ không cảm thấy được che chở bởi thế lực của một số giáo sĩ thừa sai Pháp; các giáo sĩ này đã phạm lỗi lầm lớn là nghe họ và tin theo lời nói của họ.” [Như trên: Báo cáo chính trị tháng 11 & 12, 1896 của Khâm sứ Trung Kỳ, A 20, (48) Hộp 8]
Sau đây là một vài thí dụ khác:
Một giáo sĩ thừa sai không biết do đâu nắm được trong tay các chứng từ sở hữu của một nông dân giàu có đã bị án tù và tịch thu tài sản; ông không chịu nộp các chứng từ đó cho chính quyền địa phương dù đã được yêu cầu. Đến mùa thu hoạch, được vị giáo sĩ này xúi giục, các tín đồ Gia Tô giáo kéo đến gặt các đám ruộng mà tòa án đã cho phép làng tạm giữ. Kết quả: ẩu đả, xô xát. [Báo cáo chính trị thàng 11 & 12, 1896 của Khâm sứ Trung Kỳ, A 20, (48) Hộp 8]
Một thừa sai khác nổi tiếng tham lam và ham muốn tất cả những gì dính líu tới sở hữu ruộng đất, đã gây khiếp đảm đến nỗi những người không theo Gia Tô giáo phải tìm cách tránh gặp ông ta trên đường và vội vã chạy trốn khi thoáng thấy ông ta. [Như trên đã dẫn: Báo cáo chính trị tháng 11 & 12, 1896 của Khâm sứ Trung Kỳ, A 20, (48) Hộp 8].
Một thừa sai khác nữa đã can thiệp vào một vụ buôn lậu thuốc phiện bằng cách ngăn trở không cho nhân chứng ra làm chứng trước tòa án bản xứ. Những người mới học đạo, liên can đến một vụ khác, để tránh bị truy tố, đã vào trốn trong phái bộ, tại đó họ được hưởng “quyền tị nạn” thực sự. [Như trên]
Không làm sao trích dẫn hết được những vụ việc tương tự. Brière, Khâm sứ Trung Kỳ viết: “Các sự cố này là rất tiêu biểu và cho thấy khá rõ tầm vóc của ảnh hưởng cá nhân và trực tiếp của các giáo sĩ thừa sai trên các tín đồ Gia Tô giáo. Bởi vì phương pháp của Phái bộ truyền giáo, cách xử thế của Phái bộ ở đâu cũng đồng nhất, ở đâu cũng giống nhau.” [Như trên]
Một cơn lốc cải đạo triệt để thổi vào mọi giáo khu, các vụ cải đạo diễn ra một cách nhanh, nhiều và lắm khi tập thể. Thế nhưng các vụ mới cải đạo này, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt hiếm hoi, đều xảy ra nơi những người có rắc rối về tiền bạc, hoặc vì các lý do khác không lấy gì làm cao quý. Những giáo sĩ thừa sai và các linh mục bản xứ được đánh giá tùy theo số người cải đạo mà họ thực hiện được; vì thế họ ít ngần ngại trong việc lựa chọn các phương cách [Như trên]
Chúng tôi chọn hai ví dụ tiêu biểu nhất:
Giữa lúc rối loạn, viên Chánh Tổng ở Thương Lôi (hà Tĩnh) bị các “kẻ làm loạn” ám sát tại tư gia. Các hương chức đã không làm gì cả để ngăn chận các “kẻ làm loạn” vào làng, vì họ sợ bị truy tố. Độ một phần ba dân làng cải đạo, và do sự can thiệp của Phái bộ, làng khỏi bị trừng phạt. Nhưng dù các thừa sai đã hết sức cô gắng, số dân còn lại vẫn không muốn theo Gia Tô giáo. Thấy rằng các cố gắng của mình vô ích, linh mục Magat, người điều khiển giáo khu huyện Thach Hà, muốn lấy về cho mình ít nhất ba ngôi Chùa trong làng. Ông ta ra lệnh cho con chiên triệt hạ hai trong ba ngôi Chùa và đốn hết cây chung quanh, các vật liệu lấy được thì mang về xây nhà thờ Chúa [thật đẹp mặt Chúa. TCN] cùng nhà ở cho thầy giảng. Viên tri huyện không dám chống đối công trình phá hoại này do lệnh của các giáo sĩ thừa sai, và đã hợp thức hóa việc làm đó bằng một bản án. [Báo cáo của Khâm sứ Brière, 5/11/1896, đã nêu]
Vụ sau đây do viên Công sứ ở Vinh (Nghệ An) kể lại, trong thư đề ngày 22 tháng 4 năm 1891 gởi cho Giám mục Pineau, đại diện Tòa Thánh tại vùng Nam Bắc Kỳ:
“Chúng tôi đến từ Lương đến Yên Trạch ngày thứ ba 31 tháng 3. Rời Lương khoảng nửa giờ, chúng tôi gặp dân làng Kim Liên đợi chúng tôi trên đường, vừa khóc lóc vừa trình cho chúng tôi các lời khiếu nại chống linh mục Klinger.
“Một ngôi Chùa thật đẹp, được dựng lên từ hơn một thế kỷ, nằm ở ven đường, năm ngoài đã bị rào kín và từ khi đó bị biến thành đồn bót của Gia Tô Giáo. Hình như một vài tín đồ Gia Tô có yêu cầu linh mục Klinger đến lập đồn bót tại làng. Họ ép buộc những người khác trong làng phải cải đạo như họ, phải nhường ngôi Chùa để làm đồn bót; đồn bót này có thể dựng lên nơi khác nếu linh mục Klinger có một tí tôn trọng lòng sùng kính tôn giáo của những Phật tử. Hiện nay chỉ còn có bốn người trong làng theo Gia Tô giáo. Tất cả những người khác đều nói với tôi rằng họ không muốn theo, họ đã theo chỉ vì họ bị ngược đãi và bị đe dọa đuổi ra khỏi làng bởi những người đã cầu viện vị thừa sai này..
Tôi đến viếng ngôi Chùa, vài phần đã bị đập phá, và tại đó tôi thấy có những cái cùm; dân làng xác nhận với tôi là họ thường bị cùm ở đó theo lệnh của vị thầy giảng và của các tín đồ mới theo ở Kim Liên hay ở Bảo Nham: đó là những người đòi họ phải cải đạo, phải nhường ngôi Chùa và đất của Chùa, phải nộp các đồ tịch thu và lương thực. Vị thầy giảng có mặt tại chỗ và không giải thích được gì với tôi cả, chỉ một mực trả lời rằng ông ta chỉ là người thụ ủy của linh mục Klinger”.
Rất đông dân làng Xuân Sơn, Yên Long, Trung Hậu, và nhiều làng khác: Sơn La, Văn Lâm, Lưu Sơn, Lệ Nghĩa, Bột Đa, Kiều Liên, Thọ Lão, Yên Lãng … cũng đón đợi viên Công sứ và đệ trình cho ông ta những khiếu nại tương tự như thế khi ông đi qua” [Thư Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, A 20 (35), Hộp 7.]
Từ những tài liệu trên, trích dẫn những văn kiện của các viên chức Pháp lưu trữ trong Văn Khố Phái Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, chúng ta đã thấy bộ mặt thật của Gia Tô La Mã Giáo, của các giáo sĩ thừa sai, và của những linh mục bản xứ và các giáo dân Việt Nam
. Các bậc trí thức trong Gia Tô Giáo ở Việt Nam cần phải biết đến những sự thật này và hãy nên dè dặt trong việc khoa trương tôn giáo của mình. Ngày nay, những tài liệu về sự xâm nhập của Gia Tô Giáo vào Việt Nam, về tư cách của những giáo sĩ thừa sai v..v… không thiếu, cho nên không ai có thể bưng bít được mãi mãi những sự thật về Gia Tô Giáo. Bất kể Gia Tô Giáo ở Việt Nam ngày nay khoa trương về những chiêu bài bác ái từ thiện của Giáo hội như thế nào, những sự kiện lịch sử ở trên đã dứt khoát làm sụp đổ những bình phong che đậy một chiều đó.
Cho nên, Linh mục Phan Phát Huồn viết rằng Phật Giáo ganh ghét, đố kỵ GiaTô La Mã Giáo là viết ngược chiều, vì những người được đào tạo từ cái lò Gia Tô Giáo có biết gì khác đâu ngoài những lời "giáo hội dạy rằng" mà thực chất chỉ là những lời tuyên truyền sai sự thực để gò ép những đầu óc kế thừa loại đầu óc Phê-rô phải nhắm mắt nhắm mũi mà tin, không cần biết, không cần hiểu. Những loại đầu óc như vậy thì có gì để mà tự hào? Ở đây, tôi không muốn nhắc đến chuyện GiaTô Giáo đã làm những gì đối với quốc gia dân tộc so với Phật Giáo. Cho nên, tôi nghĩ rằng, không chỉ các Thày Sư mà cả những người Lương cũng coi thường và tội nghiệp cho các linh mục và giáo dân thì đúng hơn là ghen tuông..
Không coi thường sao được khi mà ngay trong nước Pháp, một nước trước đây được coi như là trưởng nữ của Giáo hội Gia Tô La Mã, Léon Gambetta, một chính trị gia lỗi lạc của Pháp, trong cuộc hô hào đoàn kết quốc gia, đã phải hét lên một lời tuyên chiến: "Đặc quyền của giới giáo sĩ, đó chính là kẻ thù" (Un cri de guerre: Le Cléricalisme, voilà l'ennemi); và Émile Combes, một nghị sĩ đã phát biểu giữa nghị trường Pháp: "Không phải là chúng ta đả kích tôn giáo mà là những linh mục, những người muốn lợi dụng tôn giáo làm một công cụ thống trị" (Ce n'est pas à la religion que nous nous attaquons, c'est à ses ministres, qui veulent s'en faire un instrument de domination); và Jean Bossu, khi tranh đấu cho nền dân chủ của Pháp đã tuyên bố: "Chống đặc quyền của giới giáo sĩ là nền tảng căn bản của tinh thần dân chủ. Đối với chúng ta, đó chính là Giáo hội, chính là Gia Tô Giáo mà từ trước tới nay luôn luôn đối nghịch với mọi thứ tự do." (L'anti-cléricalisme est la base fondamentale de l'esprit démocratique. Pour nous, le cléricalisme, c'est l'église, c'est le Catholicisme, qui a toujours été l'adversaire de toute liberté); và nhà đại văn hào Victor Hugo đã nhận định: "Nền văn minh , ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách bị chìm đắm; hai sự xâm lăng làm phương hại đến nền văn minh này: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của quân lính đe dọa mẹ chúng ta: Tổ Quốc; sự xâm lăng của linh mục đe dọa con chúng ta: Tương Lai" (La civilisation, cette lunière, peut être éteinte par deux modes de submersion; deux invasions lui sont dangereuses, l'invasion des soldats et l'invasion des prêtres. L'une menace notre mère: La Patrie; l'autre menace nos enfants: l'Avenir.)
Chắc hẳn các thừa sai Gia Tô Pháp, trong việc đào tạo các linh mục Việt Nam, không bao giờ nhắc đến những câu nói thời danh đã đi vào lịch sử này, cho nên các linh mục bản xứ vẫn tin tưởng là cái hình ảnh linh mục của mình là cao quý, đẹp đẽ lắm, ai cũng phải hoặc kính trọng, hoặc ghen tuông, trong khi sự thật lại ngược hẳn. Victor Hugo viết rằng: "Chỉ có hai tội phạm: César và Phê-rô (Peter). César thì giết người (hủy diệt thân xác), Phê-rô thì nói láo (hủy diệt tinh thần). Người Linh mục bị, hoặc có thể bị thuyết phục và thành thật. Chúng ta có nên trách họ không? Không! Chúng ta có nên chống họ không? Nên!" (Il n'y a que deux coupables: César et Pierre. César qui tue, Pierre qui ment. Le prêtre est, ou peut être, convaincu et sincère. Doit-on le blâmer? Non! Doit-on le combattre? Oui!)
Trong tập sách nhỏ này tôi sẽ không bàn tới vấn đề Gia Tô Giáo đã mang lại những bất hạnh như thế nào cho dân tộc sau khi Pháp đặt nền đô hộ ở Việt Nam, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, và trong hai nền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam. Quý độc giả quan tâm đến những chi tiềt liên hệ tới những giai đoạn lịch sử trên có thể tìm đọc những tác phẩm như Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kỳ Kháng Chiến: 1945-1954 của Quang Toản và Nguyễn Hoài, Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914) của Cao Huy Thuần, Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh Mục Trần Tam Tĩnh, Việt Nam Máu Lừa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu, Việt Nam Dệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư: 1954-1963 của Nguyễn Mạnh Quang, Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của Lê Trọng Văn, 9 Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Gia-Đình-Trị Ngô Đình Diệm của Nguyệt Đam & Thần Phong, Đảng Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh v..v...
Tuy nhiên, để cho cuốn sách tạm gọi là đầy đủ về nội dung, tôi xin trích dẫn sau đây hai tài liệu chứng tỏ đường lối tiếp tay và làm nội ứng cho giặc ngoại xâm cùng hại nước hại dân của Giáo hội Gia Tô Việt Nam không hề thay đổi cho tới khi nước nhà thống nhất năm 1975.
Theo Linh Mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Dieu et César thì:
"Cuối năm 1945, Việt Nam giành lại được độc lập từ tay người Pháp, lòng yêu nước của người Gia Tô VN bùng lóe lên với những cuộc biểu tình của hàng chục ngàn giáo dân mang biểu ngữ và hô khẩu hiệu "Giáo Hoàng Muôn Năm", "Giáo Hội Việt Nam của Người Việt Nam", "Việt Nam Độc Lập Muôn Năm" (Vive le Pape, L'Église Vietnamienne aux Vietnamiens, Vive le Vietnam Indépendant.)
Nhưng rồi Linh mục Tĩnh viết:
"Vậy, với các giám mục và linh mục dẫn đầu, tín đồ Gia Tô muốn phá bỏ hình ảnh của một giáo hội đã cộng tác với quân xâm lăng, một giáo hội phục vụ nước Pháp, một giáo hội đã sống ngoài lề sự tranh đấu cho chủ quyền và tự do của dân tộc. Một trang sử đã lật qua nhưng khốn thay chẳng được bao lâu" 27
Tại sao? Vì theo một sắc lệnh của Giáo Hoàng Pius XII ban hành ngày 1 tháng 7 năm 1949, tuyên bố "tuyệt thông" bất cứ người nào cộng tác với Cộng sản, tuyên truyền cho CS, đọc sách báo CS v...v.. nên giáo hội Gia Tô Việt Nam lại hợp tác với quân đội Pháp, được Pháp trang bị vũ khí để lập những chiến khu "tự trị" như Bùi Chu, Phát Diệm..., lại đứng ngoài lề công cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập mới thu hồi của dân tộc Việt Nam.
Cùng một nhận xét, dựa trên những sự kiện lịch sử, Cao Huy Thuần viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, trg. 547-548:
"Sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập vào tháng 8-1945, những tín đồ Thiên Chúa, trong một tình yêu nước nồng nhiệt mới mẻ hoàn toàn, đã xác định rõ rệt và long trọng lòng tha thiết với độc lập và quyền lợi dân tộc.
"Các con chiên Việt Nam, tờ Kỷ Yếu các phái bộ viết, biết rằng tương lai của tôn giáo họ được nêu lên. Nếu họ chứng tỏ được lòng yêu nước ra dưới mắt của cả nước, chắc chắn họ sẽ lấp được cái hố còn ngăn cách họ với đồng bào phi-Thiên Chúa của họ. Nếu họ khước từ, họ làm cho cái hố đó không vượt qua được. Vì thế không còn gì phải nghi ngờ về bổn phận nữa, chỉ còn phải theo đó mà hành động. Đa số con chiên đã lựa chọn. Được các giám mục của giống nòi họ soi sáng và ủng hộ, họ không còn muốn phạm lỗi lầm của những người trước trong thế kỷ vừa qua. Họ cương quyết không chịu làm lại tín ngưỡng mình bằng cách dính líu với chính quốc. Họ muốn bảo vệ sự độc lập của đạo Thiên Chúa bằng cách cùng làm việc với đồng bào phi-Thiên Chúa của họ cho xứng nghĩa của nền độc lập của tổ quốc." (Giibal, Les Catholiques en Vietnam. Buổi diễn thuyết tại Trung Tâm Nghiên Cứu Á-Phi, Paris, 1953.)
Và vì thế bốn Giám mục Việt Nam lập tức lựa chọn lấy mấy lập trường vào ngày 23-9-1945, họ đã viết thư cho Giáo hoàng Piô XII nhân danh "dân tộc Việt Nam" để yêu cầu "sự ban phước lành, lòng đại lượng cùng các lời cầu nguyện để ủng hộ nền độc lập mà nó vừa mới thu hồi được và bảo vệ bằng mọi giá." (Ibid.)
Đó là lần đầu tiên mà đạo Thiên Chúa Việt Nam chịu hòa mình trong cộng đồng dân tộc và gắn liền quyền lợi của họ vào quyền lợi đất nước. Nhưng than ôi! Tia lửa yêu nước vụt tắt ngay mấy tháng sau, Pháp đổ quân vào Việt Nam, chiến tranh Đông Dương bùng nổ và tín đồ Thiên Chúa lại hợp tác với ngoại bang."
Đọc hai đoạn văn trên của Linh mục Trần Tam Tĩnh và Tiến sĩ Cao Huy Thuần, tôi cho rằng cả hai vị đều đánh giá quá cao "lòng yêu nước bùng lóe lên nhưng rồi lại tắt ngấm" của những tín đồ Gia Tô Việt Nam trong thời kỳ nước nhà mới thu hồi nền độc lập.
Thứ nhất, một người Việt Nam yêu nước thực sự thì không bao giờ cần đến sự ban phước lành của Giáo hoàng cho nền độc lập của nước nhà, bởi vì Giáo hoàng và Giáo hội Gia Tô La Mã đã đóng vai chủ chốt trong việc xâm chiếm nước Việt Nam, đặt Việt Nam dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, điều này đã được chứng minh rõ ràng trong những tài liệu đã trích dẫn ở trên. Chưa kể là phép lành của Giáo hoàng thì có giá trị gì đối với hơn 90% dân chúng Việt Nam phi-Gia Tô, đó chỉ là một thứ thần quyền tự nhận của Giáo hoàng để ngự trị đám tín đồ thấp kém ở dưới? Lịch sử Công Giáo ghi không thiếu gì những giáo hoàng vô đạo đức, là kẻ loạn dâm, sát nhân v...v...
Thứ nhì, bốn giám mục không thể nhân danh "dân tộc Việt Nam" để mà quỵ lụy trước Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican, xin xỏ ân huệ "ban phước lành" không cần thiết và vô giá trị cho nền độc lập của Việt Nam. Nền độc lập của Việt Nam là một thực thể tuyệt đối, được xây dựng bằng công ơn của tổ tiên và xương máu của những người dân Việt yêu nước, không dính dáng gì tới một tôn giáo mà thực chất "không thể tiêu hóa nổi" trong xã hội Việt Nam. Nếu các giám mục nhân danh con chiên của họ, vào khoảng 8% dân số Việt Nam thì đó là quyền của họ, nhưng họ không thể nhân danh "dân tộc Việt Nam" được. Dân tộc Việt Nam cương quyết từ khước "phép lành" của Giáo hoàng nếu thực sự ngài kém cỏi đến độ nghe theo lời cầu xin của bốn giám mục Việt Nam và cưỡng ban phép lành trên đầu dân tộc Việt Nam.
Qua những tài liệu trong tập sách nhỏ này, chúng ta có thể thấy ngay rằng, ngay từ buổi đầu, Giáo hội Gia Tô Việt Nam đã tự tạo cho mình một hình ảnh không mấy tốt đẹp trong lòng đại khối dân tộc Việt Nam. Dù vậy, người Việt Nam luôn luôn chủ trương "dĩ hòa vi quý" và mong muốn có sự hòa hợp tôn giáo trong đại khối dân tộc. Nhưng sự hòa hợp này chỉ có thể thực hiện với một số điều kiện. Vài đề nghị, coi như là để gợi ý, trong phần kết luận, hi vọng sẽ đóng góp được phần nào trong mục đích tạo sự hòa hợp tôn giáo này.
Kết Luận:
Những tín đồ Gia Tô Giáo Việt Nam thường được dạy là họ ở trong một “hội thánh”. Vì thiếu hiểu biết nên họ tin như vậy mà không biết rằng tín ngưỡng Gia Tô ở Việt Nam bị vướng vào bốn thế kẹt.
Thế kẹt thứ nhất là lịch sử bành trướng của Giáo hội Gia Tô La Mã trong 2000 năm nay, một lịch sử tàn bạo, đẫm máu của khoảng 200 triệu con người, kể cả phụ nữ và con nít.. Bởi vậy, ngày 12 tháng 3, năm 2000, tại quảng trường Phê-rô, Giáo Hoàng John Paul II đã cùng với Bộ Tham Mưu của ông, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận của Việt Nam, xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của Giáo hội Gia tô đối với nhân loại. Giáo hội đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng. Dù các tín đồ Gia Tô được đào tạo, khuyến khích trong một tâm cảnh ích kỷ: "Tôi chỉ cần tin Chúa là được Chúa cứu rỗi", không cần biết đến ai khác, nhưng họ không thể vứt bỏ được cái lịch sử đen tối của Giáo hội Gia Tô La Mã trong 2000 năm nay. Họ không thể nói, thí dụ như, Giáo hoàng không phải là Gia Tô Giáo, vì Giáo hoàng là “đại diện của Chúa trên trần”, là vị chủ chăn của Gia Tô Giáo. Họ cũng không thể nói, Giáo Hội không phải là Gia Tô Giáo, vì họ không thể phủ nhận sự lệ thuộc của họ vào Giáo hoàng, vào Giáo hội, và cấu trúc của Giáo hội. Trong Gia Tô Giáo, các con chiên chỉ có quyền độc nhất là quyền để cho giáo hội dẫn dắt, và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của những kẻ chăn chiên. Cho nên, ngày nào mà các con chiên còn chưa phá bỏ được cái hàng rào quyền lực của Gia Tô Giáo thì ngày đó họ còn vướng vào cái lịch sử nhơ nhớp của Gia Tô Giáo, chỉ đạo bởi Giáo hội và Tòa Thánh Vatican.
Thế kẹt thứ hai là quyển Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước. Những tín đồ Gia Tô thường không đọc Thánh Kinh nên vẫn tin những lời "Giáo hội dạy rằng": Quyển Thánh Kinh là những lời mặc khải của Thượng đế đọc cho các Thánh tiên tri chép, do đó không thể sai lầm. Với trí tuệ của con người hiện nay thì quyển Thánh Kinh chứa rất nhiều điều sai lầm về khoa học cũng như về Thần học, chưa kể là trong đó còn có những chuyện tàn ác, dâm loạn, loạn luân v…v…, những chuyện hoang đường mê tín vô lý không thể chấp nhận được theo sự hiểu biết của con người ngày nay về vũ trụ nhân sinh, và những chuyện không thể chấp nhận được theo những tiêu chuẩn luân lý, đạo đức ngày nay.
Thế kẹt thứ ba là lịch sử thành lập Giáo hội Gia Tô Việt Nam bởi những thừa sai Gia Tô ngoại quốc mà thực chất là những gián điệp thực dân, trí tuệ kém cỏi, truyền đạo gian dối mê hoặc quần chúng thấp kém, điển hình là những chuyện hoang đường trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo của giáo sĩ thừa sai thực dân gián điệp Alexandre de Rhodes và lịch sử hợp tác, làm tay sai cho những lực lượng xâm lăng ngoại quốc trong cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, trong cuộc kháng chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, và trong mưu đồ Gia Tô hóa miền Nam của Ngô Đình Diệm với sự phụ giúp đắc lực của giáo hội và giáo dân.
Thế kẹt thứ tư là sự lệ thuộc hoàn toàn vào Tòa Thánh Vatican, và đây chính là yếu tố phi-dân tộc quan trọng nhất. Gần đây, có người trong giáo hội cho rằng người Gia Tô Giáo cũng có tinh thần dân tộc. Bằng chứng là, ngày nay nhiều người Gia Tô cũng thờ cúng tổ tiên, cũng ăn giỗ ăn Tết, cũng lấy người ngoài đạo Gia Tô mà không có sự ép buộc người hôn phối phài theo đạo v...v.. Nhưng chính những điều này lại nói rõ hơn gì hết tinh thần nô lệ Tòa Thánh Vatican của Giáo hội Gia Tô Việt Nam.
Thật vậy, từ trước tới nay, giáo hội Gia Tô Việt Nam đã nổi tiếng là nhất cử nhất động đều tùy thuộc Vatican. Khi Giáo Hoàng cấm thờ cúng tổ tiên thì giáo hội dẹp bỏ hay xếp bàn thờ tổ tiên vào xó. Sau mấy trăm năm, từ 1533 đến thập niên 1960, khi công đồng Vatican II cho phép thờ cúng tổ tiên lại, thì giáo hội, tuy không khuyến khích vì gần đây vẫn còn có vị Linh mục gọi đó là "làm chay cúng ruồi", nhưng cũng không ngăn cấm việc thờ cúng tổ tiên nữa. Khi Giáo Hoàng bắt phải làm lễ bằng tiếng La Tinh thì giáo hội vẫn thản nhiên làm lễ bằng tiếng La-Tinh. Sau vài trăm năm, khi giáo hoàng cho phép làm lễ bằng tiếng địa phương thì các lễ mới được chuyển một phần sang tiếng Việt. Như vậy, đâu có phải là tinh thần dân tộc, vì tinh thần dân tộc thì đâu có cần phải chờ lệnh của Tòa Thánh. Giáo hội chỉ làm theo lệnh của Giáo hoàng chứ đâu có phải là thành tâm và đứng trên cương vị dân tộc, vì nếu thành tâm và đặt dân tộc trên hết thì những chuyện này đã phải làm từ lâu rồi đâu cần chờ lệnh của Giáo hoàng?
Chúng ta cũng đã biết Giáo Hoàng John Paul II đã khuyên các con chiên phải ăn năn thống hối về những bất hạnh mà Giáo hội Gia Tô đã mang đến cho nhân loại. Xét cho cùng, chuyện sám hối hay lãnh trách nhiệm về những lầm lỗi của giáo hội Gia Tô trong quá khứ là chuyện nội bộ của Giáo hội. Vả chăng, về phương diện lý luận, nếu Giáo hội hiện tại tự cho cái tư cách đại diện các Giáo hội trong quá khứ để sám hối và xin lỗi các quốc gia đã bị Giáo hội xâm lăng, tàn sát, và phá hủy các nền văn hóa và tôn giáo của những quốc gia này, thì ai là những người có đủ tư cách để đại diện cho bao nhiêu triệu người chết, người bị tra tấn, thiêu sống, người bị cưỡng bách cải đạo v...v... trong những cuộc Thánh Chiến, trong 400 năm xử dị giáo với những tòa hình án, trong những chính sách thực dân diệt chủng diệt nền văn hóa địa phương v...v... để mà nhận lời sám hối hay tha tội cho Giáo hội?
Trong bốn thế kẹt ở trên, tôi cho rằng, dù với một nỗ lực phi thường, Giáo hội Gia Tô Việt Nam cũng chỉ có thể gỡ được nhiều nhất là hai: đó là cố gắng xóa bỏ cái hình ảnh không mấy tốt đẹp của Giáo hội từ thuở ban đầu cho tới ngày nay, và dứt khoát từ bỏ sự lệ thuộc vào Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican.
Rất có thể Giáo hội Gia Tô sẽ có một chỗ đứng trong lòng dân tộc nếu họ dứt khoát với quá khứ và thực sự đi vào con đường phục vụ dân tộc, bằng hành động chứ không chỉ bằng lời nói. Người Việt Nam vốn tính dễ dãi, không hay nuôi hận thù, nên dễ dàng quên quá khứ để đổi lấy sự hòa hợp tôn giáo trong đại khối dân tộc. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu họ có một bảo đảm nào đó.
Cho nên vấn đề ngày nay không phải là ở chỗ ăn năn thống hối ngoài mặt về những sai lầm trong quá khứ, mà là đưa ra một đường lối bảo đảm không tái phạm những sai lầm quá khứ nữa. Sự hòa hợp tôn giáo ở Việt Nam chỉ có thể xảy ra khi những người phi-Gia Tô được bảo đảm bằng những hành động cụ thể của Giáo hội Gia Tô Việt Nam về tính cách độc lập của Giáo hội trên thế giới và với điều tiên quyết là đặt tổ quốc lên trên hết.
Nếu Giáo hội Gia Tô Việt Nam thực sự muốn chứng tỏ là một giáo hội yêu nước, một giáo hội đặt quyền lợi Tổ Quốc trên hết, một Giáo hội của người Việt, thì việc trước tiên phải làm là họ phải dứt khoát từ bỏ tinh thần nô lệ Giáo Hoàng và Tòa Thánh Vatican. Đây chính là truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam, không chịu làm nô lệ cho ngoại bang dưới bất cứ hình thức nào. Họ phải tuyên bố độc lập với Tòa Thánh Vatican, giành quyền tổ chức Giáo hội Việt Nam sao cho hợp với dân tộc tính, giành quyền bổ nhiệm linh mục, giám mục riêng v..v.. Mối liên hệ giữa Giáo hội Gia Tô Việt Nam và Tòa Thánh Vatican nhiều nhất là liên lạc trên căn bản bình đẳng với Tòa Thánh về những vấn đề liên hệ đến niềm tin tôn giáo.
Nếu Giáo hội Gia Tô Việt Nam ra thông cáo chính thức tuyên bố đặt quyền lợi quốc gia trên hết, nêu cao khẩu hiệu "Giáo hội Gia Tô Việt Nam của người Việt Nam", khẳng định sự độc lập của giáo hội, bình đẳng đối với mọi giáo hội Gia-Tô trên thế giới, kể cả đối với Tòa Thánh Vatican, và chính thức tuyên cáo rộng rãi trong khắp các giáo xứ, bỏ những đòi hỏi phi lý như bắt phải học đạo trong vấn đề hôn phối, bắt đứa con sinh ra phải rửa cái tội không hề có, và theo đạo Gia Tô v...v.., chấm dứt xuyên tạc lịch sử, chấm dứt những âm mưu xuyên tạc và phá ngầm Phật Giáo cũng như các tôn giáo khác ở Việt Nam v...v...thì lo gì mà không có sự hòa hợp tôn giáo ở Việt Nam. Người Việt Nam bản chất vốn hiền hòa và dễ tha thứ, trừ trường hợp phải đối phó với sự xâm lăng của ngoại bang và với những người theo gót ngoại bang, phản bội dân tộc. Lịch sử đã chứng minh như vậy.
Nếu Giáo hội thành tâm ăn năn thống hối, theo lời dạy của Giáo hoàng John Paul II, thì Giáo hội phải chính thức xưng tội cùng dân tộc, cũng như Vatican đã chính thức xưng thú tội ác với thế giới, vì đã phản bội quốc gia trong thời thực dân Pháp xâm lăng Việt Nam trước đây, vì đã dâng nước Việt Nam cho một người đàn bà Do Thái, Maria, đối tượng tín ngưỡng của 7 % người Gia Tô chứ không phải của cả dân tộc Việt Nam.
Có như vậy, Giáo hội Gia Tô Việt Nam mới có thể gọi là một giáo hội yêu nước, có tinh thần dân tộc.
Để kết thúc, tôi nghĩ rằng có lẽ đoạn sau đây trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần, trg. 548, thích hợp nhất:
"Đã biết bao lần người Việt Nam phi-Thiên Chúa đã cho đồng bào Thiên Chúa của họ hiểu rằng họ tôn trọng tôn giáo của Chúa Christ như tôn giáo họ (nếu tôn giáo của Chúa Christ trở thành một tôn giáo của Việt Nam, mang đặc tính Việt Nam, và không lệ thuộc bất cứ thế lực tôn giáo nào; TCN), rằng sự cuồng tín tôn giáo là điều tuyệt đối xa lạ với tinh thần Việt Nam và rằng đạo Thiên Chúa Việt Nam chỉ thật sự có tính cách dân tộc - điều mà mọi người hết lòng mong muốn - khi nào nó đóng góp phần mình cho độc lập và thịnh vượng đất nước - dù có phải vì thế mà chịu thiệt - chứ không làm cho đất nước nô lệ như trong dĩ vãng."
Như vậy, con đường trước mặt của Giáo Hội Gia Tô Việt Nam đã rõ ràng, "không còn gì phải do dự và nghi ngờ về bổn phận nữa, chỉ còn phải theo đó mà hành động."
Theo như thế nào? Tôi tin rằng Giáo hội Gia Tô Việt Nam có đủ khôn ngoan và trí tuệ để chọn cho mình một con đường dân tộc thích hợp, thay cho con đường nô lệ đã không còn thích hợp trong thế giới văn minh, hiện đại. Nhưng cho tới nay, chúng ta chưa thấy một dấu hiệu nào về thiện chí của Giáo hội Gia Tô Việt Nam trên con đường trở về với dân tộc. Những vụ việc ở Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, và Tam Tòa gần đây đã cho thấy, vì sự cuồng tín tôn giáo, điều tuyệt đối xa lạ với tinh thần Việt Nam, Giáo hội Gia Tô tại Việt Nam vẫn quay mặt đi đối với dân tộc, và như vậy, như Linh mục Lương Kim Định đã từng viết, vấn đề nghi kỵ Lương – Giáo xem ra không sao xóa sạch được.
1. Historiographical essays by Milton Osborne and Jean Chesneaux have described the growth of a tradition of French scholarship on Vietnam that is characterized by a "Franco-centric bias". This bias can be considered in terms of the values that inspire and permeate the historical study, the focus of primary subject of the work, and the selection of source material. The values of the French authors, especially those who treated the 19th century, were influenced by the prevalent, self-reinforcing colonial attitudes about European cultural superiority and the concomitant "civilizing mission" of France. Brilliant exceptions such as Charles Maybon and Leopold Cadière aside, the French soldiers, colonial administrators, and missionaries who initiated Western historical investigation of Vietnam generally made themselves the focus of their own histories.
...As in other recently decolonized countries, a renaissance of historical writing followed political independence in Vietnam. Although Vietnam's extended post-colonial political division produced two antagonistic historical schools, which may conveniently be termed those of "Hanoi" and "Saigon", the new Vietnamese historians are unanimous in rejecting the "Franco-centric bias" that had dominated and still characterizes much French historical writing on Vietnam. These Vietnamese historians initiated a critical questioning of the colonial values of the early French authors; they emphasized the "Asia-centric" approach to Vietnamese history; and they based their research on indigenous as well as French source. Some French and other Western scholars have followed the Vietnamese historians in this new orientation.
...The present study seeks to provide a partial corrective for the problems of historical interpretation resulting from the neglect by modern Western scholars of this decisive period in Vietnamese history. The focus is the official Vietnamese response to French intervention during the years 1862-1874, that is, the period during which the French established a foothold in Southern Vietnam (1862, 1867) and extended their protectorate over the North and Center (1873-1874). The study counters the "French-centric bias" of French missionaries, colonial officials and authors, and subsequent Western scholars by confronting their interpretation with evidence from primary Vietnamese documentation, most of which has yet to be utilized by Western researchers for a history of this period. The works of two Vietnamese Catholic authors - Phan Phat Huon and Nicole-Dominique Le - are likewise to be criticized when it is evident that their reliance on the French missionary source and/or their failure to critically evaluate them has led to a reiteration of the errors of the early French authors; this occurs most noticeably when they discuss the question of Hue's treatment of the Catholics after the signing of the 1862 treaty.
2. Whereas other Oriental peoples hold the Europeans in abomination and flee from them when they come, in Cochinchina it is just the opposite. The people want to talk to us and are full of curiosity, asking us many questions. With great courtesy and civility they invite us to their me to dine with them. Because of this natural grace and customary ease of association, it is possible to communicate with these people as if they were one's own kith and kin. This is so even before knowing them well.
3. Father Alexandre de Rhodes, another Jesuit missionary, has also left a record for posterity; his account tells of his experiences in the North (called Tonkin by Westerners) as well as in Cochinchina in the 17th century. Being of a seemingly practical turn of mind, he was impressed by other things than the grace of the people. He was amazed by the amount of trade carried on in Vietnamese towns, and gave the following explanations: "They are very rich because the land there is fertile. It is watered by twenty-four rivers, which are marvellously convenient for traveling by water to all places in the country, and this serves to facilitate trade and travel.
4. Père Alexandre de Rhodes, a Jesuit, arrived in Indochina about 1610, and only a decade later he was able to send a very accurate description of the possibilities of Annam and Tonkin. French Jesuits were promptly recruited and were sent to help him in his double work of converting those nations to the Catholic faith and of exploring the commercial potentialities of these regions for the French crown. These tasks, in the eyes of both Rome and Paris, could not separated, being the two most important stepping-stones which would lead eventually to the political and military occupation of these countries.
5. J'ai cru que la France, écrivait il, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l'Orient, que j'y trouverais moyen d'avoir des évêques qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis sorti de Rome à ce dessein, le 11 Septembre 1652.
6. Alexandre de Rhodes annonce, vers 1650, que les Vietnamiens se convertissent au rythme de 15000 par an, chiffre que, quelque vingt années plus tard, les missionaires francais jugeront exagéré, ne comptant quant à eux qu'environ 60 000 chrétiens au lieu de 200 000 annoncés par les jésuites.
7. Francois Pallu, a missionary, in particular was a political schemer who went far beyond his instructions. He might be called the inventor of the colonial practice of shaping policy in Paris by the method of "fait accompli".
8. Pigneau de Béhaine became acutely aware that his protégé did not really command Vietnamese support. In 1791 the Bishop wrote: "He (Nguyen Anh) has overwhelmed his people at this moment with taxes and forced labors, and the poor people are so tormented by famine that they desire, it seems, the arrival of the Tay Son."
What did the Bishop contribute to the final victory of Nguyen Anh? He was a good strategist with an extensive knowledge of the military arts and an indomitable spirit, and he raised money from Far Eastern traders to provide Nguyen Anh with ships, arms, and a few hundred European mercenaries, mostly French.
9. In 1787 the missionary Bishop (Behaine) signed a treaty in Versailles on behalf of his client (Nguyen Anh), which promised aid from the commercial advantages for France. When the Court's favor proved to be empty promises, Bishop Pigneau de Béhaine obtained help from French merchants at Mauritius and Pondicherry, enabling him to raise a small mercenary army. Mercenaries and advisers were of great help to Prince Nguyen Anh in defeating his adversary.
A British author called his enterprise the first Western military mission, commanded by a Catholic Bishop...
...Something has to be said here about another sort of military aid which was provided by Missionaries to warring Vietnamese dynasties: guns and the art of using and making them.
10. ...The one exception was the 16-year old Prince Nguyen Anh, who in that same year fled the avenging Tay Son and found sanctuary with the Catholic Bishop Pigneau de Béhaine. Pigneau took the young prince in and gave his shelter. From the very moment he performed this act of mercy, the life of the youthful prelate changed and took on new meaning. To take sides in a revolt is a political act, and Pigneau understood this very well. He had made his choices now he would have to stand or fall by it. There was a personal side as well to Pigneau de Béhaine's decision, for the Bishop, a man of large ambition, had plans for his own for conquest an empire. The remaining 20 years of his life would be spent in pursuit of two main goals - to make his young prince an emperor and to win Cochinchina for France.
...Pigneau's accomplishments had indeed been noteworthy, but he had failed at two things he wanted most to achieve - to carve out an empire for France and to convert Nguyen Anh to Christianity so that Cochinchina would be ruled by its first Catholic emperor.
It is therefore ironic to note that under the dynasty founded by Nguyen Anh when he did become emperor, Catholics were more violently persecuted than they had ever been before.
11. The labors of such missionaries as Father Retord had included intelligence on coastal areas, rivers, and the defense of Hue. Besides being a vital source of information for the French navy, the missionaries played the role of outside agitators who, in the name of 450,000 Vietnamese converts they claimed by the mid-19th century, were willing to plunge a country of 10 million people into wholesale death and destruction - in order, of course, to save it.
12. Franco-Vietnamese relations from the 17th century on followed the classic pattern of Western penetration of Asia. First came the missionaries and traders. In time, diplomats arrived to intercede on behalf of both and, in the end, soldiers marched in to impose foreign rule - for the subject people's own good, of course.
A country's chief motive in acquiring colonies and spheres of influence would seem to be acquisition - to get something, be it power, prestige, wealth, or plunder...In the French case the chief emphasis was on religion. As the torchbearers of Catholicism, the French were engaged in a religious crusade to give the people of Vietnam that most priceless of gifts, the opportunity to achieve immortality. Only when France became more secular in the 19th century did it place emphasis on its "civilizing mission" - in countries justly proud of their ancient civilization.
...However unwelcome the traders were, Western missionaries were even more suspect. After 1645, when Alexandre de Rhodes was first imprisoned and then expelled, missionaries had to disguise themselves as traders, according to English merchants who came to Vietnam to open up trade channels.
...A modern Eastern philosopher, in attempting to explain Asia's antagonism toward Christian evangelists, stressed the arrogance of the typical Christian missionary:
"You Western mind is too much obsessed with the idea of conquest and possession, you inveterate habit of proselytism is another form of it.. Preaching your doctrine is no sacrifice at all - it is indulging in a luxury far more dangerous than all luxuries of material living. It breeds an illusion in your mind that you are doing your duty - that you are wiser and better than your fellow-beings..."
...Yet even while these Vietnamese authorities were passing edicts against Catholic proselytizing, they allowed Buddhist holy men to enter Vietnam from China and seek converts among the Vietnamese. This would suggest that the mandarins did not oppose evangelism per se.
A denigration of everything Asian is implicit in the attitudes of early French missionaries toward the religions they found in Vietnam, as can be seen in their correspondence and writings.
...There were three world-famous religions in Vietnam prior to the arrival of the Christians: Buddhism, Taism, and Confucianism...Vietnam's three religions coexisted, leaving peacefully side by side most of the time. The a certain extent they were even fused into one, with the same religious temple built to honor collectively the founders of all three ways of life under one roof...
Vietnam was, in religious terms, a pluralistic society, which may help account for the greater success of Christian missionaries in Vietnam than in other parts of Southeast Asia.
...Whatever the difference between Vietnam's various religions, they were minor compared with the gulf separating them from the militant Catholic Church.. Vietnamese emperors regarded Catholicism as a threat to their authority and the local Vietnamese converts as the bottom rung of a tight religious hierarchy under foreign bishops. (So completely dominated by foreigners was the Vietnamese Catholic Church that there were no Vietnamese bishops appointed until the 1930s, almost 400 years after the first Catholic missionaries arrived in Vietnam.) Above the foreign bishops was the foreign pope in far-off Rome, and they owned their loyalty and obedience to him rather than to the Vietnamese emperor.
The missionaries were totally alien to Vietnam and to the very idea of mutual accomodation between different religious viewpoints. To the Catholic faithful of this period there was truth and error, with no possibility of compromise or "dialogue" between the two. Missionaries looked down on local beliefs and practices, calling them false.
...Early reports describe how a large quantity of Western medicines was brought to Vietnam so that the missionaries could administer them "in order to win the hearts of these peoples" (Father de Courtaulin, quoted in Taboulet, p.42). But in their proselytizing activities many Catholic missionaries exploited the fears and hopes of the ignorant and the credulous. Christianity was regarded by those who adopted it as a new system of magic. Catholic holy water was used, hopefully, to exorcise devils, raise the dead, and restore sight to the blind...
True to their belief in Catholic infallibility, members of the Society of Foreign Mission attacked Buddhism as both atheistic and idolatrous and excoriated Confucianism because of its rites of ancestor worship.
...To Vietnam's rulers, the entire Christian doctrine was suspect. In the Confucian view, man is essentially good; all he needs is good training and the use of his reasoning powers to ascertain the difference between good and evil. He does not have to be "saved" by Christ's intercession with God, and the supposition that he did, struck the educated Confucian as just so much superstitious.
Besides being considered crude and implausible, Christian dogma was viewed as positively dangerous, since it alineated a person from his family by emphasizing individual salvation.
The missionaries enjoined their Vietnamese flocks, under the threat of hell fire and damnation, to pursue the Holy Grail of personal immortality in the next world instead of fulfilling the duties of filial piety in this one. The Vietnamese authorities were particularly alarmed over the Catholic confessional as a means of exercising power over people.
...As if challenging the Confucian genius for merging and tempering alien creeds, Catholic proved to be completely indigestible. For four centuries the Catholic faith has remained a divisive force in the society. Reinforcing the ideological gulf between Vietnamese Catholics and the rest of the population, Christian converts have tended to live apart in separate villages dominated by their priests, much as the villages of medieval Europe were dominated five hundred years ago.
In a cultural sense, too, Vietnamese converts to Catholicism became isolated from the mainstream. In order to dissiminate Christian teachings in Vietnam, the missionaries worked out a new form of Romanized script called Quoc Ngu, a phonetic rendering of Vietnamese which they taught their flocks. They translated prayer books and religious tracts into this new script, but no Vietnamese literature. This meant that Vietnamese Catholics, who no longer attended village schools run by Confucian scholars, could read neither the Vietnamese script, called "Nom", nor the Chinese characters used for all public documents. The Romanized script was one of the few lasting Western contributions to Vietnamese civilization, but its immediate effect was to divide the nation and strike at the roots of Vietnamese culture.
For a nation whose ideal was a harmonious community living according to well - defined human relationships, this Catholic intrusion represented disorder and dissension..
From the start the Church fathers in Vietnam had been willing to defy Vietnamese authority and resorted to bribery and fraud to gain their ends.
13. ...The persecution of Christianity in Vietnam was never motivated by purely metaphysical issues. Vietnamese religious tradition was usually eclectic and broadly tolerant of other beliefs.
Overall, Vietnamese religious tradition was absorbant and syncretic, allowing for the pursuit of many paths to the Truth.
14. Les missionaires, selon l'optique des dirrigeants Vietnamiens, étaient coupables de pousser les Chrétiens à rejeter les lois de leur pays. Rejet des cultes religieux, des valeurs sociales qui les faisaient vivre en marge de la société traditionnelle. Mais chose plus grave, on reprochait aux prêtres et aux chrétiens la scission du pays en deux clans religieux opposés.
15. Formés fanatiquement, les chrétiens Vietnamiens ont acquis une conscience de classes; ils se sentaient à part du reste de la nation, différents et supérieurs, car ils avaient recu la lumière du Dieu. Ils méprisaient les non-chrétiens, qui pratiquaient des rites barbares et superstitieux. Mais les non-catholiques ne méprisaient pas moins les convertis qui, le plus souvent de basse extraction, n'avaient rien à perdre en suivant une autre religion qui niait à elle seule l'héritage du pays. La classe lettrée surtout les détestait car, non seulement ils reniaient leurs traditions ancestrales, mais pire encore, ils appelaient à eux les étrangers, leur demandant protection et emploi, les servant et leur obéissant comme à des maitres incontestés. Du côté catholique, rien ne fut entrepris pour effacer ou tout au moins atténuer la mauvaise réputation qui leur était faite. Bien au contraire, lorsqu'ils furent certains que la France allait désormais s'installer au Nord, ils commirent d'impardonable abus, croyant leur heure est arrivée.
16. La base de cette force (visant à l'assimilation complète de la population pour construire une "France Indochinoise", en détruisant la civilisation traditionnelle et ses gardiens que sont les Lettrés) réside dans les 600,000 chrétiens sur lesquels règnent en maitres absolus les missionnaires. Ils vivent en villages ou quartiers de villages séparées, car les missionnaires tiennent à les protéger des influences néfastes des "paiens" et des européens. Mais surtout leur foi et leur comportement les fait apparaitre à leurs compatriotes comme des rénégats et des traitres. Ils sont infidèles aux pratiques du culte des ancêtres, ne respectent ni les fêtes traditionnelles ni les coutumes. Enfin n'ont-ils pas été depuis le début des années 70 les "Francais de l'intérieur", renseignent et aident l'ennemi, fournissant le gros des recrues de forces supplétives et des traitres sanglants comme Trần Bá Lộc?
17. Minh Menh's principle for dealing with the Vietnamese Catholics was the following: "first we must educate; only afterward do we punish". Accordingly, officials were first to "advise and instruct" the Catholics so that they would "awaken" and repent their crimes.
Subsequent, more severe edicts were issued whenever Tu Duc was confronted with evidence that the Catholic missionaries or the indigeneous Catholics were involved in internal rebellions or were in league with a foreign power.
18. Sous Tu Duc, un grand nombre de catholiques Vietnamiens sont d'intelligence avec les Francais... Au jours de Tu Duc, Chrétiens et non-chrétiens, à l'instigation des missionnaires, résistent ici sourdement, là ouvertement au roi régnant mieux à la dynastie des Nguyen pour plusieurs motifs.. Une seule différence: les chrétiens font cause commune avec la France, les non-chrétiens les combattent.
19. Overall, Vietnamese religious tradition was absorbant and syncretic, allowing for the pursuit of many paths to the Truth. In contrast with this, the exclusive spiritual claims of Christianity seemed irrational and eccentric to the Vietnamese. However, missionaries strategies of conversion were exceptionally intrusive. The social and political effects of their proselytism could be highly disruptive. It was this which aroused popular as well as elite hostility.
...From a Vietnamese point of view, the massacres of Christians were not merely an expression of political frustration. It served a practical purpose in striking at a significant dimension of French military effort. For the French, after initial hesitations (Doc. 106), were making considerable use of Vietnamese Christians as axiliaries in the war. Christian Vietnamese were employed as coolies, interpreters and miliciens; and Vietnamese Christians also financed and organized privates forces such as the "armée Joseph", a body of about 7000 irregulars.. Above all, as Bishop Puginier pointed out, Christians were useful in gathering field intelligence on Vietnamese resistance preparations and on Chinese force deployments (Doc. 116). A later anti-Christian decree of Thuyet, issued in 1885, confirms that it was the intelligence gathering function of the Christian communes that was particularly feared (Doc. 113).
20. What was the role of the Vietnamese Catholics during the Franco-Spanish invasion?... In fact, French archival sources show clearly that, as early as September 1858, groups of Catholics began to reach the embattled European armies. Rigauld de Genouilly formed the men into two indigenous detachments and trained them at a camp at Tien Cha. One of these detachments fought alongside the Franco-Spanish soldiers at Da-nang; the other went southward to participate in the invasion of the "luc tinh" and fought in the battle of Ky Hoa. After the battle of Ky Hoa, the indigenous Catholics militamen who entered the service of the Europeans at Da nang continued to serve the French in the occupied south as soldiers, interpreters, coolies, and guides. They were rewarded for their services by Admiral-Governor de la Grandière, who granted them concessions of land in the Saigon area.
During the Franco-Spanish invasion of 1858-1862, the Tu Duc Emperor's interdictions of Catholicism grew increasingly severe and comprehensive. This was primarily because the Hue court believed that the Vietnamese Catholics supported the invading armies. The wartime edicts were thus largely directed to the problem of preventing the Vietnamese Catholics from communicating with the Franco-Spanish forces. An edict of May 1859, for example, stated that, upon hearing of the fall of the Saigon citadel, the Vietnamese Catholics of the south were taking advantage of the situation in order to terrorize the "luong" or "good" (that is, non-Catholics) people and to serve as "lackeys and spies for the Westerners".
... The severity of the wartime edicts was justified, in the emperor's opinion, because the Catholics had "brought the Westerners into the country."
...With the existing documentation it can only be concluded that the imperial court believed that the Catholics were aiding the French and Spanish troops and that the court was not entirely wrong in this perception. Accordingly, the Tu Duc Emperor's wartime anti-Catholic edicts reached new extremes of severity primarily in order to keep the indigenous Catholics from linking with the invading forces.
21. What was the nature and extent of the assistance that the Catholics brought to the French expedition?
The correspondence and reports of Balny and Harmand, who were dispatched by Garnier to obtain the submission of many of the provincial citadels and strongpoints of the delta, reveal pattern of significant Catholic assistance that included - but not limited to - formal administrative and military duty. These sources further reveal a pattern of mutual manipulation by French officers and Catholic missionaries in which the "volunteers" often had as much or more to gain from the relationship as did the French officers.
23. I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of virtue Christ stands as high as some other people known to history - I think I should put Buddha and Socrates above him in those respects.
24. Catholicism has always flourished only in poor population of low educational quality.
25. They have been brought up in what Dr. Barnado called "The thick darkness of Romanism".. Illiteracy is always prevalent in Romanist countries - to enable Priestcraft to flourish.
26. In fact during the two centuries and more that the Catholic Missions have been operating in China and the Indochinese peninsula they have probably not converted more than ten scholars in all. The entire educated and governing class of the population has evaded their proselytism. In general Catholic missionaries only recruit from among the lowest classes, and mainly among those who, for various reasons have been rejected by Annamese society.
27. Ainsi, avec les évêques et les prêtres en tête, les catholiques voulaient détruire l'image d'une église collaboratrice avec les agresseurs, d'une église au service de la France, d'une église qui avait vécu en marge d'un peuple en lutte pour sa souvenaineté et sa liberté. Une page est tournée. Mais, malheureusement pas pour longtemps.)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét