Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014
Dân chủ và phát triển:
20:22
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lý thuyết và chứng cớ
Trần Hữu Dũng
Từ cuộc Cách mạng Công nghiệp cuối thế kỷ
18 đến nay, thế giới đã chứng kiến hai sự kiện chưa từng có trong lịch
sử: Một là sự tăng vọt mức sống của con người (nói gọn là phát trỉển
kinh tế), và hai là ngày càng nhiều quốc gia trở thành dân chủ. Tuy hai
làn sóng này xảy ra không đồng đều mọi nơi, và thường gián đoạn, có lúc
giật lùi, không thể không nghi ngờ rằng chúng có liên hệ ít nhiều với
nhau. Liên hệ ấy, và nói chung là liên hệ giữa phát triển kinh tế và
thể chế chính trị, không những là quan tâm của những người hoạt động
chính trị mà còn là một chủ đề học thuật hàng đầu. Trong lịch sử trí
thức cận đại, có thể xem nó như “hậu thân” của cuộc tranh biện giữa “kế
hoạch” và “thị trường”, và xa hơn nữa là giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa.
Vấn đề có thể gút lại qua hai câu hỏi căn
bản: (1) các quốc gia chuyên chế có phát triển nhanh hơn các quốc gia
dân chủ?, và (2) phát triển có sẽ đem lại dân chủ? Rất tiếc, hai câu
hỏi này thường được đặt ra không phải để thực tâm nghiên cứu một cách khách quan,
khoa học, song chỉ có tính tu từ, hùng biện, với câu trả lời đã định trước,
nhằm biện hộ cho một thể chế chính trị nào đó.[1]
Vì không ai có thể phủ nhận phát triển kinh tế là cần thiết, người ủng
hộ chuyên chế thì tìm cách chứng minh rằng các nước chuyên chế phát
triển nhanh hơn (hoặc ít ra là không chậm hơn) những nước được xem là
“dân chủ”. Tất nhiên, những người ủng hộ dân chủ thì khẳng định ngược
lại: muốn phát triển nhanh, vững, thì phải có dân chủ.[2]
Nhìn từ góc độ khoa học thì sự việc không
đơn giản như vậy. Khoa học không cho phép chủ quan lựa chọn vài đặc
điểm trong kinh nghiệm cá biệt của vài nước (nhất là khi kinh nghiệm ấy
có nhiều cách diễn dịch khác nhau), trong một giai đoạn nào đó, rồi suy
diễn (thậm chí khẳng định) cho những nước khác, trong một giai đoạn
khác. Một công trình nghiên cứu chỉ có sức thuyết phục khi nó căn cứ
trên một khối lượng thống kê dồi dào và khả tín, trong nhiều lãnh vực
(không chỉ kinh tế) về nhiều nước, qua nhiều thời kỳ. Rồi cũng phải có
những mô hình đủ quy mô, phương pháp phân tích đủ
“cơ bắp” để khai thác khối dữ
kiện ấy.
Nên để ý rằng liên hệ nhân quả (nếu có)
giữa dân chủ và phát triển, không chỉ là từ quá khứ đến hiện tại mà còn
tùy vào kỳ vọng ở hiện tại hướng về tương lai. Một thí dụ đơn giản: nếu dân
chủ có ảnh hưởng đến thành tựu kinh tế thì một phần không nhỏ của ảnh hưởng này
hẳn là xuyên
qua những quyết định về đầu tư, tức là tùy thuộc vào kỳ vọng. Như thế,
triển vọng dân chủ tương lai sẽ là một nhân tố quyết định thành
tích kinh tế hiện tại. Điều này có nghĩa là, để thẩm định tác
động kinh tế của dân chủ, ta phải nhìn xa hơn chế độ đương thời, xét cả
đến kỳ vọng của dân chúng (thậm chí của cả giới đầu tư nước ngoài) về sự ổn định của chế độ ấy. Muốn bíết kỳ vọng này
thì cần những cuộc thăm dò ý kiến quy mô, hay khảo sát tác động của tin
tức (qua các phương tiện truyền thông) trong sự thiết lập kỳ vọng. Tất cả đều là những thách thức vô cùng
to lớn cho nhà khoa học muốn thực tâm nghiên cứu.
Công bình mà nói, cho đến khoảng những năm
1980, giới nghiên cứu khó làm gì hơn được vì “hộp đồ nghề” phân tích
định lượng (như kinh lượng học) còn tương đối thiếu sót, thô sơ. Rất
may, gần đây họ được hai cú hích. Cú hích thứ nhất là tiến bộ trong kỹ
thuật phân tích, cách đặt vấn đề, phương pháp “xoa nắn” dữ kiện, đặc
biệt là những dữ kiện không thể định lượng. Cú hích thứ hai là sự thu
thập nhiều dữ liệu khá phong phú từ nhiều quốc gia, khắp các châu lục,
qua nhiều năm.[3]
Nhờ hai tiến bộ này, một số nghiên cứu quy mô về liên hệ giữa chế độ
chính trị và thành tích kinh tế đã xuất hiện.[4]
Tuy vẫn còn nhiều “khoảng trống” to lớn trong kiến thức về vấn đề này,
giới học thuật đã phát hiện một số kết quả đáng lưu ý.
Hầu hết mọi nghiên cứu đều đồng ý rằng khó
tìm ra câu trả lời trắng đen cho câu hỏi: liệu hể có một thể chế chính
trị nào đó thì phát triển tất sẽ nhanh? Song, cũng chẳng phải là không
có một kết luận rõ rệt nào cả. Điều cần thiết là phải gọt giũa câu hỏi
cho có ý nghĩa khoa học, tránh những ý niệm mơ hồ, chung chung, và nhất
là phải tìm những kỹ thuật thích hợp để phân tích, sàng lọc khối lượng
thông tin, dữ kiện (dù không bao giờ là đầy đủ) mà, may mắn thay, giới
học thuật thu thập ngày càng nhiều.
Bài này lược duyệt một số khảo cứu kinh
điển về liên hệ giữa phát triển và thể chế chính trị, đặc biệt là giữa
phát triển và dân chủ. Phần I tóm lược những ý kiến tạm gọi là
“xưa”, đa số xuất hiện trong những năm 60, 70, 80 thế kỷ trước. Đại để,
những ý kiến này căn cứ trên vài “ấn tượng” tương đối rời rạc về một số
quốc gia (phần lớn là ở châu Âu) nhìn qua lăng kính kinh tế tân cổ điển
và những suy luận xã hội học. Phần II tường thuật những phát hiện của
Adam Przeworski (và các cộng sự) về thành tích kinh tế và dân chủ hóa.
Dấu ấn của nhóm học giả này là cách họ đặt đối tượng nghiên cứu: nhìn
dân chủ hoá như một tiến trình, rồi xem mức độ phát triển
có ảnh hưởng gì không đến (a) sự xuất hiện, và (b) sự tồn tại, của dân
chủ. Phần III tóm tắt các công trình của Francesco Giavazzi và Guido
Tabellini. Hai nhà kinh tế này nêu câu hỏi: chính trị và kinh tế liên
hệ với nhau ra sao trong thứ tự thời gian của “cởi trói”? Phần IV là
kết luận.
I. Những quan điểm “xưa”
Cho đến khoảng giữa những năm 1980, hầu
như mọi ý kiến về liên hệ giữa phát triển kinh tế và dân chủ đều có tính
giai thọai (ghi nhận chấm phá về một vài nước) và căn cứ vào khung phân
tích kinh tế tân cổ điển. Ở đây, “tiếp cận tân cổ điển” có thể được
hiểu là quan niệm cho rằng tiết kiệm và đầu tư (thay vì tiêu dùng) là
yếu tố quyết định của tăng trưởng. (Nói cách khác, trong tiếp cận này,
vai trò của lịch sử, điạ lý, thể chế, giáo dục, v.v. , trong tăng trưởng
chưa được để ý nhiều như ngày nay.) Như vậy, theo những người có ý kiến
này, “dân chủ” sẽ giảm tốc tăng trưởng bởi lẽ, trong thể chế ấy, (a)
người có thu nhập thấp, là đa số, sẽ đòi phân bố tài sản từ người giàu
(có khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư cao) sang người nghèo (có tiết kiệm
và đầu tư thấp), và (b) nhà nước sẽ bị áp lực của đông đảo cử tri sử
dụng ngân sách cho những tiêu dùng ngay hiện tại, thay vì đầu tư cho
tương lai.
Có thể phân biệt hai dòng ý kiến (không
hẳn là trái ngược nhau): Dòng thứ nhất xuất phát từ khẳng định rằng phát
triển sẽ đem lại dân chủ, hoặc nói khác hơn, chuyên chế không thể tồn
tại trong một xã hội đã phát triển. Dòng thứ hai cho rằng phát triển
cần chuyên chế.
1. Phát triển sẽ đem lại dân chủ?
Ý kiến cho rằng kinh tế phát triển sẽ
từng bước tạo nên các định chế dân chủ, cuối cùng là dân chủ toàn bộ,
thường dựa vào năm lập luận chính.
Thứ nhất, phát triển kinh tế sẽ bành
trướng giai cấp trung lưu, có học. Khi đủ lớn, thành phần này sẽ
đòi hỏi dân chủ, và chính họ sẽ là chỗ dựa cho chế độ dân chủ ấy.
Seymour Martin Lipset (1959) có lẽ là học giả đầu tiên đưa ra lý giải
này. Theo ông, dân chủ vừa là một hậu quả, vừa là một nhân tố của phát
trỉển kinh tế.
Thứ hai, phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng
đến tư duy của đa số trong xã hội: hướng tư duy ấy về cá nhân thay
vì tập thể, tăng ý thức về cái riêng, về tự do cá nhân và quyển tự
quyết. Nói cách
khác, phát triển kinh tế sẽ khơi dậy những “giá trị chính trị”
(political values) lấy cá nhân làm gốc. Theo những người có ý kiến này,
những giá trị ấy là mầm móng của dân chủ.
Thứ ba, kinh tế phát triển sẽ nâng cao
dân trí. Khi biết rõ hơn về cơ cấu chính trị, ý thức hơn về quyền lợi
và quyền hạn của họ, người dân sẽ bảo vệ quyền của họ tích cực hơn, theo
những đường lối có hiệu quả hơn. Đó là dân chủ.
Thứ tư, phát triển sẽ làm giàu khu vực
tư, tăng cường khả năng khu vực này trong các hoạt động độc lập, không
lệ thuộc vào nhà nước, tăng sức nặng của xã hội dân sự như một đối trọng
đối với khu vực công. Hơn nữa, khi đời sống ngươì dân càng sung túc thì
xã hội càng hài hoà, giảm đi những đòi hỏi tái phân bố của cải, dân chủ
nhờ thế mà ổn định hơn.
Thứ năm, vì phát triển thường đòi hỏi mở
cửa kinh tế, một quốc gia phát triển cũng là một quốc gia nhiều tiếp xúc
với thế giới về văn hóa, xã hội cũng như chính trị. Sự giao lưu
này sẽ làm thông thoáng hơn các luồng thông tin mà chính quyền chuyên
chế khó kiểm soát, đồng thời kềm hãm sự chuyên chế ấy qua áp lực cuả các
đối tác quốc tế.
Về mặt kiểm nghiệm, những công trình theo
chân Lipset thường bị chỉ trích là có giá trị khá hạn chế vì chúng chỉ
dùng những dữ kiện về mức thu nhập của nhiều nước vào cùng một thời
điểm. Lipset cũng nhìn nhận rằng ý kiến của ông là rút từ kinh
nghiệm của Tây Âu, và có thể không đúng cho nơi khác.
2. Phát triển có cần chuyên chế?
Khác với quan điểm trên đây (cho rằng dân
chủ là hậu quả tất nhiên của phát triển kinh tế) là quan điểm cho rằng
các chính sách kinh tế sẽ có hiệu quả hơn dưới chế độ chuyên chế. Có thể
nói rằng theo quan điểm này thì dân chủ là một xa xí phẩm, chỉ nên có
khi quốc gia đã phát triển.[5]
Dân chủ bị cho là không thuận lợi cho
phát triển vì nhiều lý do. Một là, quyền sở hữu (property
rights) của người giàu sẽ không được đảm bảo, bởi lẽ người nghèo, là đa
số, có thể dùng lá phiếu của họ để đòi phân chia tài sản. Hai là,
họat động chạy chọt (rent seeking) của các hội đoàn tranh giành quyền
lợi (special interest groups), qua các vận động chính trị với các đảng
phái, các cơ quan chính phủ, chẳng những sẽ làm phung phí nguồn lực quốc
gia mà còn bóp méo chính sách nhà nước. Ba là, bị áp lực của cử
tri, các chính phủ dân chủ sẽ chi tiêu quá mức cho hiện tại thay vì đầu
tư cho tương lai [Galenson (1959), Schweinitz (1959) Huntington (1968,
1975)]
Chuỗi nhân quả được mô tả như sau: (1)
Người có thu nhập thấp muốn tiêu dùng ngay, (2) khi lao động có tổ chức
(thành công đoàn) thì họ sẽ “đẩy” lương lên, giảm lợi nhuận cho giới
kinh doanh, làm nãn lòng người đầu tư, (3) áp lực của cử tri sẽ làm nhà
nước có khuynh hướng phân phối thu nhập ra khỏi đầu tư (hoặc là
đánh thuế nguời giàu thật nặng để phân phát cho người nghèo, hoặc là
tiêu ít hơn vào các dự án đầu tư công), (4) đầu tư thấp đi thì sẽ giảm
tốc tăng trưởng.
Những ý kiến trên đây dựa vào giả định
căn bản: (i) Vốn vật thể là nhân tố cốt lõi của tăng trưởng.
(ii) Chính quyền do dân bầu thường bị áp lực phải tiêu xài cho hiện tại.[6]
Đây là những giả định không phải luôn luôn đúng: ngoài vốn vận thể còn
có những yếu tố khác cần thiết cho phát triên (ví dụ sự trong sạch của
thể chế) mà chuyên chế thường không có, và chưa chắc là chính phủ dân cử
nào cũng thiển cận vung vãi tiêu xài thay vì chắt bóp để đầu tư. Hơn nữa, ý kiến cho rằng
phát triển sẽ nhanh hơn trong chuyên chế so với dân chủ là dựa vào những
lập luận tiêu cực thay vì tích cực. Những người đưa ý kiến này không
viện dẫn ưu thế (dù là chỉ theo họ) của chuyên chế mà chỉ vạch ra những nhược điểm
(theo họ) của dân chủ.[7]
Để thấy một lỗ hổng của lập luận ấy, chỉ cần hỏi: Dù dân chủ quả có ba
nhược điểm nói trên, có gì bảo đảm rằng chuyên chế không có những nhược
điểm ấy?
Xem vấn đề bảo đảm quyền sở hữu chẳng
hạn. Trong chuyên chế thì tư pháp và lập pháp đều trong một tay nhóm
nhỏ, họ có toàn quyền đánh thuế, sung công, bội tín trong các nghĩa vụ
tài chính. Thực vậy, lịch sử cho thấy hầu hết các chế độ chuyên chế đều
có khuynh hướng lấy của công làm của riêng. Sao có thể cho rằng quyền
sở hữu sẽ được đảm bảo hơn trong chế độ ấy? Ví dụ nữa: Để giữ quyền
lực, các lãnh tụ độc tài thường ban phát đặc quyền, đặc lợi cho thuộc hạ
(độc quyền kinh doanh, trợ cấp, miễn thuế). Như vậy, hoạt động chạy
chọt – và những lãng phí của nó ̶
đâu phải là không có trong chế độ chuyên chế?
II. Phát triển kinh tế và sự bền
vững của dân chủ
Cùng mục đích xác định tương quan giữa
dân chủ và phát triển nhưng Adam Przeworski[8]
nhìn vấn đề từ nhiều góc cạnh khác những người đi trước. Ông cũng muốn
biết chế độ chính trị có ảnh hưởng đến thành tích kinh tế hay không,
và ra sao, nhưng ông nghĩ rằng vấn đề ấy không thể tách rời khỏi câu hỏi: Phát
triển kinh tế có ảnh hưởng gì đến sự xuất hiện và tồn tại
của các chế độ chính trị? Theo Przeworski, chỉ sau khi xem chế độ chính
trị xuất hiện trong hoàn cảnh nào và tồn tại ra sao, thì mới có thể phân
biệt được (1) đâu là ảnh hưởng của thực trạng xung quanh một chế
độ chính trị, và (2) đâu là tác động của chính chế độ ấy. Nói cách
khác, theo Przeworski, phải tách hai câu hỏi ra khỏi nhau: (1) kinh tế
phát triển có đẫn đến dân chủ không? và (2) dân chủ có giúp phát triển
nhanh hơn không?
A.
Lỗi lầm thường gặp
Przeworski lưu ý ba điểm chính:
Một
là, mỗi nước một khác, mỗi thời
một khác, không thể so sánh nước này với nước nọ, giai đoạn này và giai
đoạn kia. Chính Przeworski đưa ra ví dụ: vào năm 1985, Mali là một quốc
gia độc tài, có tốc độ tăng trưởng tương đối thấp (5,35%), song không
thể kết luận rằng nếu năm ấy Mali là dân chủ thì sẽ tăng trưởng nhanh
hơn, vì đâu có quốc gia nào giống hệt Mali, nhưng dân chủ, để so sánh?
Cũng năm ấy thì nước Pháp (quả là dân chủ) chỉ tăng trưởng với tốc độ
1,43%! Ai dám bảo rằng nếu Pháp là độc tài thì sẽ tăng trưởng nhanh hơn?[9]
Nói chung, theo Przeworski, dù có thấy rằng, vào một thời điểm nào đó,
đa số nước nghèo là độc tài và đa số nước giàu là dân chủ, cũng chưa thể
kết luận rằng tăng trưởng là nhanh trong dân chủ hơn trong độc tài. Tốc
độ tăng trưởng của một quốc gia tuỳ thuộc vào xã hội, lịch sử, địa lý…
của quốc gia ấy, không nhất thiết là hậu quả của chỉ những gì mà chính
phủ nước ấy đang làm.
Hai là,
nếu không nhìn vào diễn biến trong khoảng
thời gian dài thì khó tránh những kết luận sai lầm. Ví dụ các quốc gia
dân chủ dễ bị chao đảo khi có khủng hoảng kinh tế (mà nguyên nhân có thể
là do tác động từ ngoài), còn các quốc gia độc tài thì ổn định hơn.
Điều này sẽ dẫn đến hiện tượng “ngược đời” là dân chủ có vẻ tăng trưởng
nhanh hơn! Song (theo Przeworski) ta thấy như vậy chỉ vì các chính thể
dân chủ thường bị sụp đổ khi kinh tế gặp khó khăn, và trở thành
độc tài, có khả năng tồn tại, có thể sống được trong hoàn cảnh khó khăn
ấy. Nói cách khác, chế độ độc tài bị “mang tiếng” (trong trường hợp
này) là làm chậm phát triển có thể chỉ vì nó kế thừa một nền kinh tế đã
trên đà suy thoái.
Ba là,
hãy nghĩ đến trường hợp có một yếu tố nào đó (tạm gọi là yếu tố X), tuy
không hiển hiện thường xuyên, đều đặn, song tác động đến chế độ chính
trị lẫn tốc độ tăng trưởng. Giả dụ yếu tố X là sự “sáng suốt”, nhìn xa
thấy rộng của cấp lãnh đạo, và vì sự sáng suốt ấy mà cấp lãnh đạo vừa
chọn dân chủ, vừa có những chính sách phát triển kinh tế hữu hiệu.
Trong trường hợp này, nếu kết luận rằng tăng trưởng nhanh là nhờ
dân chủ, thì quả là sai, bởi vì sự thành công kinh tế ấy là do yếu tố X,
không phải do dân chủ.
Tóm lại, một phân tích khoa học phải phân
biệt bối cảnh (kinh tế, xã hội, lịch sử…) xung quanh một chế độ, và sự
thành bại của chế độ ấy. Muốn như vậy, cần xem: trong tình huống nào mà
chế độ xuất hiện, và hoàn cảnh nào mà chế độ vẫn tồn tại, hoặc sụp đổ.
Chỉ khi biết rõ như thế thì mới có thể xác minh thành tích kinh tế nào
là do thể chế chính trị, thành tích nào là do các yếu tố khác. Đây là
một bài toán phân tích cực kỳ khó khăn, may là James Heckman (1976,
1988) đã phát minh nhiều thủ thuật kinh lượng để làm việc này.
B. Kết quả của
Przeworski
Przeworski phát hiện một điều nổi bật:
chế độ chính trị không ảnh hưởng đến suất đầu tư và tốc độ tăng
trưởng của tổng thu nhập cả nước. Tuy nhiên,
vì dân số thường tăng nhanh hơn trong các quốc gia độc tài,[10]
thu nhập đầu người thường tăng nhanh hơn trong các nước
dân chủ. Przeworski kết
luận: Không có lý do nào để hy
sinh dân chủ cho phát triển.
Năm phát giác khác của Przeworski cũng
đáng để ý:
(a) Không có bằng cớ nào cho thấy phát
triển kinh tế bao giờ cũng đem lại dân chủ. Đặc biệt, nếu một quốc gia
đã khá giàu có mà vẫn là độc tài thì ít khi quốc gia ấy sẽ trở thành dân
chủ.
(b) Tuy đa số các nước giàu hiện nay là
dân chủ, không có một mức thu nhập nào mà hể trên mức ấy là độc tài sẽ
sụp đổ, dân chủ sẽ xuất hiện.
(c) Cũng không rõ ràng là tốc độ tăng
trưởng có ảnh hưởng, hay không, đến sự bền vững của chuyên chế. Trung
bình, khả năng tồn tại của chính quyền độc tài trong một nền kinh tế
đang tăng trưởng thì cũng ngang bằng khả năng mà chế độ ấy tụt dốc trong
một, hai, hoặc ba năm. Vài chế độ độc tài sụp đổ sau nhiều năm tăng
trưởng liên tục, song cũng có chế độ độc tài sụp đổ sau nhiều năm kinh
tế suy sụp liên tục.
(d) Vì không đủ thông tin, khó xác định
ảnh hưởng của phân phối thu nhập. Tuy nhiên, dường như độc tài càng dễ
sụp đổ khi phân bố thu nhập càng chênh lệch.
(e) Khi đem yếu tố khác (ví dụ như quá
khứ chính trị, sự đa dạng ngôn ngữ, tỷ lệ các tôn giáo chính, và truyền
thống thuộc địa) vào mô hình thì kết quả cũng không rõ rệt gì hơn.
Przeworski nhận xét: các chế độ độc tài
“chết” trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Đôi khi nó sụp đổ khi kinh tế
khủng hoảng, lúc khác thì sau một thời kỳ thịnh vượng lâu dài. Nhiều
khi thì độc tài chết theo người sáng lập ra nó, lúc khác thì độc tài
chấm dứt khi một quốc gia bị thất trận. Và cũng có khi độc tài sụp đổ
vì áp lực quốc tế.
Sự
bền vững của dân chủ
Przeworski khám phá rằng dù xuất hiện qua
lộ trình lịch sử nào, dân chủ cũng bền vững hơn trong các nước
đã phát triển. Đặc biệt, chưa hề có một nền dân chủ nào sụp đổ
khi thu nhập đầu người vượt trên ngưỡng $6000/năm (đo bằng đô la năm
1965). Giáo dục (đo theo số năm đến trường) cũng làm dân chủ bền vững
hơn. Tuy nhiên, dù giáo dục và thu nhập có tương quan khá chặt chẽ,
Przeworski đã có thể xác định là ảnh hưởng của giáo dục không mạnh bằng
ảnh hường của thu nhập đối với sự tồn tại của dân chủ. Nôm na: nước giàu
mà dốt thì dân chủ khó sập hơn nước có học nhưng hơi nghèo! Przeworski
cũng phát giác rằng khó xác định ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến
sự tồn vong của dân chủ. Đúng là dân chủ yếu và thu nhập trì trệ là hai
hiện tượng thường đi đôi, song khó biết là dân chủ thoi thóp vì nó không
hiệu quả, hoặc nó không hiệu quả vì (dân chúng cảm thấy là) nó sắp không
còn?
Tuy rằng giáo dục, phân bố thu nhập, định
chế chính trị, và tương quan giữa các lực lượng chính trị đều có vài ảnh
hưởng đến sự bền vững của dân chủ độc lập với thu nhập đầu người, ảnh
hưởng của mức độ thu nhập là lớn nhất.
Przeworski (2002) lý giải như sau: Ở các
nước giàu, mọi người đều ủng hộ dân chủ bởi lẽ nếu chống nó thì có thể
mất mát rất nhiều. Ở các nước nghèo thì trái lại: của cải xã hội
không có là bao, cho nên nhóm nào chống lại dân chủ, dù bị thất bại,
cũng không có gì nhiều để mất. Ở các nước nghèo, thu nhập của những
người dưới ách độc tài cũng không thấp hơn thu nhập của những người sống
trong dân chủ (dù họ có thắng cử hay không). Ở nước giàu thì khác:
khoảng chênh lệch thu nhập giữa những người trong phe thất cử (trong dân
chủ) và những người bị đàn áp trong chế độ độc tài là rất lớn. Nói cách
khác, ví dụ ngay như một nhóm nào đó hi vọng là thu nhập của họ khi họ
quay chống dân chủ sẽ là cao hơn trong dân chủ, cái “cơ may”
(possibility) là họ sẽ là bên bại trận sau khi độc tài thiết lập là rất
lớn (trong xã hội phồn thịnh) và do đó họ sẽ ngại chống dân chủ. Nói
chung, theo lập luận của Przeworski, thu nhập càng cao thì cái có thể bị
mất mát càng lớn, do đó ngay đến nhóm luôn luôn thất cử cũng thà chấp
nhận kết quả bầu cử còn hơn. Chính thái độ tránh rủi ro (risk
aversion) là động cơ khiến mọi người các nước trù phú tuân theo kết quả
bỏ phiếu.[11]
Przeworski tóm tắt: Lý do các nước dân
chủ thường là các nước kinh tế phát triển, và ít khi là các nước nghèo,
không phải vì dân chủ thường xuất hiện như là hậu quả của phát triển,
song vì nó có hi vọng sống lâu hơn nếu nó may mắn xuất hiện trong quốc
gia đã phát triển. Đúng là lộ trình mà dân chủ xuất hiện là rất
đa loại, khó thể tiên đoán, nhưng, một khi nền dân chủ đã thành hình
thì sự tồn tại của nó tuỳ thuộc vào một số yếu tố rất dễ thấy.
Đứng đầu danh sách các yếu tố ấy là mức độ phát triển kinh tế, như được
đo bằng thu nhập đầu người. Các định chế chính trị cũng có ảnh hưởng.
C.
Đánh giá Przeworski
Một chỉ trích Przeworski và Limongi (xem
Lời Dẫn Nhập của Bhardan trong Journal of Economic Perspectives [1993])
là hai ông này chỉ dùng thu nhập làm thước đo tăng trưởng. Nhiều nghiên
cứu khác cũng cho thấy là thu nhập có ảnh hưởng (dù không lớn) đến dân
chủ. Chẳng hạn như Londregan và Poole (1996) cho biết nếu tăng thu nhập
gấp đôi thì sẽ tăng “mức độ dân chủ” của các chế độ chuyên chế khoảng
30% nếu nước ấy là chuyên chế “vừa phải” (moderately
authoritarian), nhưng nếu nước ấy là cực kỳ chuyên chế thì tăng đôi thu
nhập như thế chỉ tăng mức dân chủ chừng 5-15% mà thôi. Và nếu nước ấy
đã tương đối phóng khoáng thì tăng đôi thu nhập không tăng thêm mức độ
dân chủ.
Cũng nên kể thêm là kết quả của Barro
(1996, bản thảo 1994) cho thấy là liên hệ giữa dân chủ và phát triển có
thể có dạng chữ U ngược: Tăng trưởng là chậm nhất ở các quốc gia thiếu
tự do nhất. Ở những nơi này, nếu thêm dân chủ một chút là tăng trưởng
tăng thấy rõ, đạt đến cao đỉnh vào khoản thu nhập trung bình. Và ảnh
hưởng này yếu đi khi dân chủ tăng lên ở các quốc gia thu nhập cao hơn
thêm.
III. Cởi trói kinh tế và cởi trói
chính trị
Như đã lược thuật ở Phần I, phần lớn ý
kiến “xưa” về liên hệ giữa thể chế chính trị và phát triển đều dựa vào
nhận định đơn giản: muốn phát triển thì cần đầu tư, vậy chế độ nào có
tác động tăng đầu tư thì sẽ tốt cho phát triển. Nhận định này ngày càng
bị cho là thiếu sót. Những năm gần đây manh nha một lối nhìn khác, với
nhận định là phát triển cần cả một định chế chính trị thuận lợi, không
chỉ ở mức độ đầu tư. Do đó, muốn biết liên hệ giữa ảnh hưởng của chế độ
chính trị đến phát triển thì phải xem ảnh hưởng của chế độ ấy đến các
định chế cần thiết cho phát triển (xem thêm Rodrik [2004]).
Các định chế ấy gồm (1) luật pháp bảo vệ quyền sở hữu, (2) luật phát
bảo vệ tự do cá nhân (vì tự do ấy được xem như cần thiết để thúc đẩy óc
sáng tạo và tinh thần kinh doanh), và (3) những cơ chế “kiềm chế và đối
trọng” (checks and balances) để ngăn ngửa tham ô, lấy của công làm của
riêng, thường thấy ở các quốc gia chuyên chế.
Francesco Giavazzi và Guido Tabellini
định nghĩa “cởi trói kinh tế” như là những cải cách toàn diện để nới
rộng thị trường, nhất là thị trường quốc tế, và dùng cụm từ “cởi trói
chính trị” như đồng nghĩa với dân chủ hoá.
Trong một loạt bài từ đầu những năm 2000,
hai nhà kinh tế ngưới Ý này đặt bốn câu hỏi: (1) cởi trói kinh tế và cởi
trói chính trị có ảnh hưởng đến thành tích kinh tế (chẳng hạn như tăng
trưởng và đầu tư), đến chính sách vĩ mô (chẳng hạn như lạm phát và ngân
sách), và chính sách cơ cấu (ví dụ như bảo vệ quyền sở hữu và kiềm chống
tham nhũng) hay không? (2) Có quả là cởi trói kinh tế khích động
(induce) cởi trói chính trị, hoặc ngược lại? Hoặc hai loại cởi trói ấy
không dính dáng gì đến nhau? (3) Hai loại cởi trói này tương tác qua lại
ra sao (nói cách khác, hiệu quả của hai loại cởi trói, nếu thực thi cùng
lúc, có lớn hơn tổng cộng của chúng nếu thực hiện riêng rẽ?) (4) Thứ tự
thời gian của hai đợt cởi trói ấy (đợt nào trước, đợt nào sau) có quan
hệ gì không? Nói cách khác: nếu một nước đang “đóng cửa”, và không dân
chủ, quyền định “mở cửa” trong cả hai lãnh vực, thì khởi điểm của nước
ấy có quan hệ gì không?
Tất nhiên, đây không phải là lần đầu tiên
mà các câu hỏi ấy được đặt ra (ngay cả Przeworski và Limongi cũng đã đề
cập đến chúng), song trước Giavazzi và Tabellini (và Persson cũng có
đóng góp) thì hầu như tất cả đều phân tích hai loại cởi trói đó riêng
rẽ, bỏ mất cơ hội xem xét ảnh hưởng qua lại giữa chúng.
Cởi trói nào trước?
Tiên
nghiệm (a priori) thì chiều nhân quả nào cũng là có thể: Thương mại có
khuynh hướng đem lợi ích cho đa số và chỉ tổn hại thiểu số, vậy có thể là
số đông (trong dân chủ) sẽ “đẩy” tự do thương mại (nhiều kết quả thực nghiệm xác nhận
điều này). Song cũng có thể là một nền kinh tế cởi trói sẽ tạo sức ép
“đẩy” chính trị về phía dân chủ, chẳng hạn vì nó tăng sức mạnh và quyển
lực (kinh tế) của giới trung lưu (như quan điểm “xưa”, nói ở Phần I).
Theo Giavazzi và Tabelllini thì chiều nhân quả có khuynh hướng đi từ
chính trị đến kinh tế thay vì ngược lại (nói nôm na, đừng tưởng là dân
giàu thì sẽ đòi dân chủ!)
Những quốc gia mà cải cách kinh tế đi
trước dân chủ gồm: Hàn Quốc, Đài Loan, Chile, Mexico. Ngươc lại thì có
thể kể: Argentina, Brazil, Philippin, và Bangladesh. Theo kết quả của
Giavazzi và Tabellini, những quốc gia cải cách “kinh tế trước, chính trị
sau” có những thành tích tốt hơn. Cụ thể:
(1) Thứ nhất, cởi trói kinh tế bởi một
chính quyền chuyên chế có công hiệu hơn bởi một chính quyền dân
chủ. Có hai bằng cớ. Một là, khi nhà nước chuyên chế cởi trói kinh tế
thì kim ngạch ngoại thương sẽ tăng nhiều hơn khi nhà nước đó đã là dân
chủ. Hơn nữa, khi nhà nước đó trở thành dân chủ sau này thì mức tăng
đó cũng còn kéo dài hơn. Hai là, nếu cởi trói kinh tế trước (khi chính
trị vẫn còn là chuyên chế) thì lạm phát sẽ giảm nhanh hơn.
Theo Giavazzi và Tabellini, sự khác biệt
về mức công hiệu (và ảnh hưởng đến ngoại thương) nói trên có thể là vì
nội dung các chính sách kinh tế vĩ mô. Khi một chính quyền chuyên chế
ban bố thì nội dung này là khác khi nhà nước dân chủ ban bố. Xem vấn đề
mở cửa kinh tế chẳng hạn. Những nước dân chủ, khi mở cửa kinh tế, cũng
còn đặt nhiều rào cản thương mại (vì bị áp lực của các thành phần kinh
tế “nạn nhân” của mở cửa). Trong lúc đó, dù rằng các nước chuyên chế
thường ít mở cửa hơn, song khi mở cửa thì họ không bị áp lực của các
“nhóm lợí ích” (interest group) trong nước, và do đó ít có rào cản
thưong mại hơn.[12]
(2) Thứ hai, dân chủ hoá được tiến
hành trong một không khí kinh tế “tự do” sẽ đem đến một nền dân chủ
“tốt” hơn. Có nhiều cách giải thích hiện tượng này.
Giải
thích thứ nhất là, khi một chế
độ chuyên chế chính trị cởi trói kinh tế thì chẳng những tăng trưởng
nhanh hơn mà môi trường cũng có nhiều cạnh tranh hơn. Nhờ thế, khi quốc
gia ấy truất phế nhà độc tài và trở thành dân chủ thì nó sẽ là một nền
dân chủ tốt hơn bởi hai lý do. Một là,
nó đã sẳn mở cửa cho thương mại và cạnh tranh, và
hai là, nhờ đã phát triển khá,
quốc gia ấy có đủ nguồn lực để phân phối cho dân chúng, một điều mà mọi
chính thể dân chủ đều cần làm. Mặt khác, một nền dân chủ phôi thai,
trong một nền kinh tế còn tương đối đóng kín, sẽ dễ bị tê liệt do các
thế lực đòi phân bố thu nhập, và sẽ đi quá xa trong những chính sách
thoả mãn quần chúng (populist policies), có tính lãng phí.
Giải
thích thứ hai là, có thể chính
sự cởi trói kinh tế trước cởi trói chính trị là lộ trình do một lãnh tụ
nhìn xa thấy rộng định trước. Trái lại, khi dân chủ hoá đến trước thì
nó thường là hậu quả của một cuộc cách mạng (hay đảo chánh) đột ngột, có
tính xáo trộn. Như vậy, nó thường đi kèm với những xáo trộn kinh tế.
Tóm
tắt, cởi trói kinh tế sẽ có hậu quả tốt về mọi mặt, bởi vì nó sẽ
đưa đến những chính sách tốt về cơ cấu cũng như về những mặt vĩ mô.
Cởi trói chính trị,
trái lại, không có ảnh hưởng nhiều
đến tăng trưởng và đầu tư, dù có vẻ tăng chất lượng của các chính
sách cơ cấu. Ảnh hưởng của cởi trói chính trị đến chính sách vĩ mô thì
có khi tốt, khi xấu. Tuy nhiên, Giavazzi và Tabellini khám phá rằng,
những quốc gia cởi trói kinh tế lẫn chính trị là khá hơn cả.
Persson and Tabellini (2006) đề nghị ý
niệm “vốn dân chủ” (democratic capital) mà họ giải thích như sau:
Sự cảm nhận của dân chúng đối với giá trị của dân chủ không phải ngày
một ngày hai mà có. Trái lại, nó là một tiến trình dần dần, từng bước,
như là tích lũy “của cải” dân sự và xã hội, khi mà quốc gia ấy học được
từ kinh nghiệm của chính họ cũng như kinh nghiệm của các nước láng
giềng.
IV. Kết luận
Cần khẳng định rằng những nghiên cứu định
lương (hay cố gắng về hướng đó) như lược duyệt trong bài này không nhất
thiết sẽ là gần “chân lý” hơn những phân tích không định lượng.[13]
Tuy nhiên, khảo hướng này vạch trần những khó khăn trong việc tim hiểu
những liên hệ phổ quát giữa dân chủ và phát triển, những khó khăn mà mọi
nghiên cứu khách quan, khoa học, cần lưu tâm và khắc phục.
Dù rằng liên hệ giữa phát triển kinh tế và
thể chế chính trị (cụ thể là dân chủ) đã được nhiều người khẳng định (và
là một cương lĩnh tuyên truyền của nhiều chính phủ), cho đến nay chứng
cớ khoa học cho liên hệ này vẫn chưa rõ ràng và, theo tôi, sẽ không thể
rõ ràng, vì có quá nhiều thông số. Nó hết sức phức tạp, tùy vào thể
chế, lịch sử cuả quốc gia và, thật vậy, vào chính mức độ phát triển hiện
tại của quốc gia ấy nữa. Ngay từ căn bản: thế nào là phát triển, và thế
nào là mức độ dân chủ, cũng khó có một thước đo mà mọi người đều đồng ý,
và như Tabellini và Giavazzi nhấn mạnh, mỗi hình thức dân chủ (dân chủ
đại nghị, dân chủ tổng thống, vv ) có những hậu quả khác nhau.
Nhưng đặt câu hòi về liên hệ giữa dân chủ
và phát triển (như đo bằng mức thu nhập) có thể là quá hẹp hòi, bởi vì
“dân chủ” phải đuợc xem như một phương tiện để thực hiện những ao ước
khác của con người, đó là sống một cuộc đời mà khả năng được phát triển
toàn vẹn. Đó là tự do.
Người phân tích sâu sắc nhất về tự do và
phát triển có lẽ là Amartya Sen (1999). Theo ông, sự bành trướng tự do[14]
là (1) mục tiêu bậc nhất (primary end) và (2) phương tiện chính
(principal instrument) của phát triển. Có thể gọi vai trò thứ nhất của
tự do là vai trò thành tố, và vai trò thứ hai là vai trò công
cụ. Theo Sen, phát triển, chính nó, có thể được xem như là một tiến
trình mở rộng tự do cho con người, nói cách tổng quát. (Nên nhớ là
trong vai trò công cụ, tự do có nhiều loại (a) tự do chính trị, (b) tự
do kinh tế, (c) cơ hội thăng tiến trong xã hội, (d) bảo đảm tính minh
bạch (transparency guarantees).) Như vậy, theo Sen, câu hỏi thật sự quan
trọng là liên hệ giữa tăng trưởng và tự do, không phải giữa dân chủ và
phát triển. Và nếu hỏi như vậy thì, theo Sen, câu trả lời thật quá
rõ ràng: tự do sẽ gia tốc tăng trưởng, và tăng trưởng sẽ nới rộng tự do
(cụ thể là không còn bị đe dọa bởi đói khát, có nhiều cơ hội học hành, …)[15]
Tách rời dân chủ và phát triển (không phủ
nhận, cũng không khẳng định) như hai mục tiêu khác nhau còn giúp “giải
phóng” nhà khoa học khỏi những thiên kiến ngoài kinh tế. Cần tập trung
vào những yếu tố không thể phủ nhận (1) tham nhũng, lãng phí, bất công
xã hội chắc chắn sẽ làm trì trệ phát triển, và (2) “tự do” có một giá
trị to lớn, tự tại, biệt lập với phát triển kinh tế. Cũng nên thêm một
nhận xét: dù có cho rằng dân chủ sẽ có lợi cho phát triển, lộ trình dân
chủ hoá của một quốc gia không đang là dân chủ tuỳ thuộc vào bối cảnh
lịch sử, xã hội, và chính trị cá biệt của quốc gia ấy. Hoặc có cho rằng
dân chủ và phát triển là hai mục tiêu đánh đổi, thì vấn đề tiếp theo sẽ
là thể chế nào là tốt nhất để làm quyết định đánh đổi này.
Trần Hữu Dũng
*Department of
Economics, Wright State University, Dayton, OH 45435, USA. Bài này là
viết lại báo cáo tại Hội Thảo Hè "Dân chủ và phát triển", 28-29 tháng 7,
2006 tại Berkeley, California (Hoa Kỳ).
Chú thích
[1] Trong số này
cũng có thể kể một bài báo khá nổi tiếng gần đây, tuy có nhiều
nhận xét mới lạ và hữu ích, nhưng khá phiến diện và không có
tính học thuật cao, đó là bài của De Mesquita và Downs (2005).
Đúng ra, hai tác giả này chỉ là áp dụng lý thuyết của Chong (1991) và Chwe
(1998, 2001) cho “thời đại Internet”.
[2] Tuy nhiên,
cũng có nhiều người không đồng ý là phát triển là cần thiết,
thậm chí dân chủ cũng là không cần thiết. Xem, chẳng hạn,
Gordon Graham, The case against the democratic state,
Imprint Academic, 2002. Về vấn đề phát triển có thực sự đem lại
hạnh phúc cho con người không, xem, chẳng hạn, Richard Layard,
Happiness: Lessons from a new science, Penguin, 2006
[3] Đó chưa nói
đến cac máy tính điện tử ngày càng mạnh và rẻ.
[4] Hai bài “mở
đường” cho những tiến bộ này là Lucas (1988) và Barro (1991),
nhưng công trình có ảnh hưởng nhất phải là Barro (1996) – tuy
được in năm 1996 nhưng bản thảo đã được giới học giả chuyền tay
nhau xem từ đầu thập kỷ 1990.
[5] Điển hình là
Galenson (1959), Schweinitz (1959), La Palombara (1963),
Huntington và Nelson (1976)
[6] Một giả định
nữa là thu nhập càng thấp thì khuynh hướng tiêu dùng càng cao.
Giả định này giải thích tại sao dân chủ là có thể đi đôi với
tăng trưởng khi mức thu nhập (bình quân) đã là cao, nhưng không
như vậy khi thu nhập (bình quân) còn là thấp.
[7] Xem, chẳng
hạn, Minxin Pei (1999)
[8] Giáo sư
chính trị học, đại học New York
[9] Quốc gia độc
tài trù phú nhất giữa 1951 và 1990 là Singapore, có thu nhập đầu
người là $11.698, tức là cũng không giàu bằng Pháp.
[10] Đây là một
sự thật mà tôi chưa thấy ai giải thích
[11] Độc giả
quen thuộc với thuyết trò chơi (game theory) hẳn đã thấy ngay
ảnh huởng của thuyết này trong lý giải của Przeworski.
[12] Tôi không
nghĩ điều này là đúng.
[13] Xem, chẳng
hạn, Fukuyama, “Remembering Seymour Martin Lipset”, American
Interest “blog”, mùa thu 2006
[14] Theo tôi,
cụm từ “bành trướng tự do”, thay vì chỉ “tự do”, diễn tả chính
xác hơn ý của Sen
[15] Một khái
niệm khá có ích trong khung cảnh này là khái niệm “vô tự do”
(unfreedom)
Tham khảo
Adsera,
Alicia, và Carlos Boix, 2002, “Trade,
Democracy, and the Size of the Public Sector: The Political
Underpinnings of Openness,” International Organization 56, 2,
Mùa xuân, tr. 229 –262
Barro, Robert J.,
1991. “Economic Growth in a Cross Section of Countries,” Quarterly
Journal of Economics, Bộ 106, tháng 5, tr. 407–443.
Barro, Robert J.,
1996, “Democracy and Growth,” Journal of Economic Growth, Bộ 1,
Số 1, tháng 3, tr. 1-27.
Caplan, Bryan, và
Tyler Cowen, 2004, “Do we underestimate the benefits of cultural
competition?”, American Economic Review, Papers and Proceedings,
Bộ 94, Số 2, tháng 5, tr. 402-407
.
Chong, David, 1991,
Collective Action and the Civil Rights Movements, Chicago:
University of Chicago Press
Chwe, Michael, 1998,
“ Culture, Circles, and Commercials”, Rational and Society, Bộ
10, Số 1, tr. 47-75.
Chwe, Michael, 2001,
Rational Ritual, New Jersey: Princeton University Press
de Mesquita, B. B.,
và George W. Downs, 2005, “Development and Democracy”, Foreign
Affairs, tháng 9/10,
bản dịch
Galenson, Walter,
1959, Labor and Economic Development, New York: John Wiley and
Sons
Giavazzi, Francesco,
và Guido Tabellini, 2005, “Economic and Political Liberalizations”,
Journal of Monetary Economics, Bộ 52, 1297- 1330
Heckman, James J.,
1976, “The Common Structure of Statistical Models of Truncation, Sample
Selection, and Limited Dependent Variables and a Simple Estimator for
Such Models.” Annals of Economic and Social Measurement, Số 5,
tr. 475-492.
Heckman, James J.,
1988, “The Microeconomic Evaluation of Social Programs and Economic
Institutions,” trong Chung-Hua Series of Lectures by Invited Eminent
Economists Số 14. Taipei: The Institute of Economics, Academia
Sinica.
Huntington, Samuel
P., 1968, Political Order in Changing Societies. New Haven: Yale
University Press.
Huntington, Samuel
P., và Joan Nelson, 1976, No Easy Choice: Political Participation in
Developing Countries, Cambridge: Harvard University Press
Journal of Economic
Perspectives, 1993, Hội thảo về Dân Chủ và Phát Triển, Mùa hè.
Lipset, Seymour
Martin, 1959, “”Some social requisites of democracy: Economic
Development and Political legitimacy”, American Political Science
Review, Bộ 53, 69-105
Lipset, Seymour
Martin, 1960, Political Man: The Social Bases of Politics, Garden
City: Doubleday.
Londregan, John, và
Keith Poole, 1996, “Does High Income Promote Democracy?”, World
Politics 46, tháng 10
Lucas, Robert E.,
1988, “On the Mechanics of Economic Development,” Journal of Monetary
Economics, Bộ 22, Số 1, 3–42.
Moore, W.H., 1995,
“Rational rebels: Overcoming the Free-rider Problem,” Political
Research Quarterly, Bộ 48, tr. 417-54
Pei, Minxin, 1999, “Economic
Institutions, Democracy, and Development,” Báo cáo đọc tại
Conference on Democracy, Market Economy, and Development, do Ngân
hàng Thế giới và Chính phủ Hàn Quốc đỡ đầu, 26-27 tháng 2.
Persson, Torsten,
2003, “Consequences of constitutions”, National Bureau of Economic
Research Working Paper, số 10170,
tháng 12.
Persson, T., 2005,
“Forms of democracy, policy and economic development,” National Bureau
of Economic Research Working
Paper, số 11171, tháng 3.
Persson, Torsten, và
Guido Tabellini, 1994, “Is inequality harmful for growth?”, American
Economic Review, Bộ 84, Số 3, tháng 6, tr. 600-621
Persson, Torsten, và
Guido Tabellini, 1999, “Political economic and public finance”, National
Bureau of Economic Research
Working Paper, Số 7097, tháng 4.
Persson, Torsten, và
Guido Tabellini, 2004, “Constitutions and economic policy”, Journal
of Economic Perspectives, Bộ 18, Số 1, mùa đông, tr. 75-98
Persson, Torsten, và
Guido Tabellini, 2006, “Democracy and development: The Devil in the
details,” American Economic Review, Papers and Proceedings, tháng
5, 2006 (Phiên bản chi tiết hơn: National Bureau of Economic Research Working paper, Số 11993)
Persson, Torsten, và
Guido Tabellini, 2006, “Democratic capital: The nexus of political and
economic change,” National Bureau of Economic Research Working Paper 12175, tháng 4.
Persson, Torsten,
Guido Tabellini, và Francesco Trebbi, 2001, “Electoral rules and
corruption”, National Bureau of Economic Research Working Paper, Số 8154, tháng 3.
Persson, Torsten,
Gérard Roland, và Guido Tabellini, 2003, “How do electoral rules shape
party structures, government coalitions, and economic policies”,
National Bureau of Economic Research
Working Paper, Số 10176, tháng 12.
Przeworski, Adam,
1991, Democracy and the Market, Cambridge: Cambridge University
Press.
Przeworski, Adam,
2004, “Economic
Development and Transitions to Democracy”, Bản thảo, Department of
Politics, New York University, tháng 3
Przeworksi, Adam, ?,
“Democracy
and Economic Development,” trong Political Science and the Public
Interest (Mansfield và Sisson chủ biên), Columbus: Ohio State
University Press.
Rodrik, Dani, Arvind Subramanian,
và Francesco Trebbi, 2004, “Institutions Rule: The Primacy of
Institutions over Geography and Integration in Economic Development”, Journal of Economic Growth,
Bộ 9,
Số 2, tháng 6, tr. 131-165
Schweinitz, Karl,
1964, Industrialization and Democracy, New York: The Free Press
Sen, Amartya, 1999,
Development as Freedom, New York: Oxford University Press
© Thời Đại Mới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét