Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

30/4: 'Quốc gia thua để thắng, CS thắng để thua'

Ðúng 39 năm trước đây (1975-2014), ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng giai đoạn 2 tại Việt Nam đã chấm dứt sau 21 năm diễn biến khốc liệt (1954-1975).
   
Sau cuộc chiến, đã có nhiều cách lý giải và đánh giá về sự kết thúc chiến tranh Việt Nam một cách không bình thường. Riêng chúng tôi, nhân ngày 30 tháng 4  lần thứ 39 hôm nay, chỉ xin nhắc lại một cách đánh giá tổng quát đã được đưa ra chỉ vài năm sau cuộc chiến chấm dứt (1), để quý độc giả cảm nghiệm xem có đúng với những gì đã và đang xây ra trên thực tế hay không. Ðó là ý nghĩa lịch sử về Ngày 30-4-1975: “Quốc gia thua để thắng, Cộng sản thắng để thua”. Vì sao?
       
Vì CSVN vốn là công cụ bành trướng chủ nghĩa thực dân mới của Ðế quốc Ðỏ Liên Xô trong thời kỳ “Chiến tranh Ý thức hệ” diễn ra dưới hai hình thái “Chiến tranh Lạnh” giữa các nước giầu và “Chiến tranh Nóng” nơi một số các nước nghèo, trong đó có Việt Nam được chọn làm tiền đồn của hai phe tư bản và cộng sản. Do đó ý đồ và mục tiêu của đảng CSVN không thể khác ý đồ và mục tiêu của đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX). Như vậy, thực tế sau ngày 30-4-1975, nếu là một “Chiến thắng thật”, tình hình Việt Nam phải khác, nghĩa là CSVN phải được Liên Xô và các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa anh em” hổ trợ tích cực, toàn diện và vô điều kiện để xây cựng thành công chủ nghĩa xã hội tại thuộc địa kiểu mới Việt Nam, phát huy thắng lợi để tiếp tục đẩy mạnh “Chiến tranh Cách mạng”, “Chiến tranh Giải phóng” đến các nước trong vùng như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Ðiện, Malaysia, Philippines, v.v...Thế nhưng thực tế hoàn toàn khác: Tất cả những điều đáng lẽ phải xẩy ra đó đã không xẩy ra sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc.

Thực tế sau đó Liên Xô đã thất bại trong nỗ lực “Cải Tổ” (Glasnost) và “Tái cấu trúc” (Perestroika) đi đến sụp đổ, kéo theo sự tiêu vong các nước XHCN Ðông Âu. Trung Cộng thực hiện chính sách “Mở cửa” làm ăn với Tư bản. Chế độ công cụ Việt Cộng vội đưa ra chính sách “Ðổi Mới” theo gương “Cải Tổ” của Liên Xô (1986). Rồi vội cầu hoà với Trung Cộng và học tập lý luận sáng tạo mới của nước đàn anh xấu bụng và có tham vọng bá quyền này, rằng: “Chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường” được Việt cộng hoá thành con đường “Ðổi mới” qua “Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”(!?!).

Ðây là lối lý luận ngụy biện, cưỡng ép nhằm che đậy thực trạng và chiều hướng mới không thể đảo ngược tại Việt Nam cũng như toàn cầu: Chủ nghĩa xã hội đã phá sản, đã tiêu vong tại Liên Xô, đang tiêu vong tại Việt Nam và các nước XHCN còn lại (Trung Cộng, Bắc Triều Tiên và Cuba).

Quá trình tiêu vong CNXH tại Việt Nam khởi đi từ ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Việt Cộng đã lý luận cưỡng ép, ngụy biện, duy ý chí, vì nó trái ngược với thực tế. Thực tế phát triển trong môi trường kinh tế thị trường không thể định hướng XHCN, mà tất yếu sẽ phải phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Trong môi trường này, tất yếu nhà nước XHCN sẽ bị tư bản hoá, chế độ chuyên chính vô sản sẽ được dân chủ hoá từng bước, và các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hoá trở thành những nhà tư bản Ðỏ, những “Đại gia Đỏ vỏ xanh lòng”. Chiều hướng phát triển này đã được thể hiện ngày càng rõ nét trên thực tế tại Việt nam, ai cũng có thể thấy và kiểm chứng được.

Và thực tế như thế rõ ràng là ngày 30-4-1975 “Cộng sản thắng để thua” cuộc thực sự vào cuối quá trình của sự tiêu vong chế độ XHCN về mặt bản thể. Bởi vì, cuối cùng thì mục tiêu và lý tưởng của những người CSVN đã không đạt được. Trái lại, thực tế đã thúc ép, dẫn dắt và buộc được CSVN phải đi vào quỹ đạo (tự do, kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc) và thực hiện theo đúng lý tưởng của người quốc gia (tự do, dân chủ, nhân quyền tất thắng)và mục tiêu tối hậu (dân chủ hoá Việt Nam, phát triển toàn diện đất nước trong nền kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc).Đây mới đúng là “Chiều hướng mới không thể đảo ngược” (Dân chủ pháp trị tất thắng độc tài toàn trị).

Thật vây, đối phương của Việt Cộng là những người Việt Quốc gia, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh trước sau như một: tiêu diệt độc tài, xây dựng chế độ dân chủ tự do, xã hội công bằng, phát triển toàn diện đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại.

Và vì vậy, kể từ sau ngày giành được độc lập từ tay thực dân Pháp vào năm 1954, mong muốn chân thành của những người Việt Quốc Gia ở Miền Nam Việt Nam, kẻ cầm quyền cũng như dân giả, là thiết lập một chế độ độc lập dân tộc, dân chủ tự do (Việt Nam Cộng Hoà) và phát triển toàn diện Miền Nam đến giầu mạnh. Thành quả mong muốn này sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp chính trị (dân chủ), kinh tế (giầu mạnh), xã hội(công bình) khả dĩ đánh bại chế độ của những người Cộng sản Bắc Việt: chính trị (độc tài toàn trị), kinh tế (nghèo đói), xã hội (áp bức, bất công), mà không cần xử dụng sức mạnh quân sự tiêu diệt đối phương (Việt cộng).

Nói cách khác, thay vì dùng chiến tranh để áp đặt mô hình chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa xã hội, hai chế độ chính trị đối nghịch trên hai Miền Bắc, Nam sẽ có thời gian và cơ hội thi đua thực hiện mô hình chính trị, kinh tế, xã hội của mình, chờ cơ may thống nhất đất nước một cách hoà bình, thông qua con đường hòa bình và dân chủ. Lúc đó, mô hình xây dựng và phát triển đất nước nào (của Việt quốc hay Việt cộng) có hiệu quả thực tiễn sẽ ưu thắng, sẽ được nhân dân hai miền chọn lựa bằng lá phiếu của đa số trong một cuộc trưng cầu dân ý tự do thực sự, có giám sát quốc tế nếu cần.

Thế nhưng ước muốn chân thành và hết sức có lợi cho đất nước và dân tộc trên đây của những người Việt quốc gia ở Miền Nam đã không được những người CSVN ở Miền Bắc đáp ứng.

Bởi lý tưởng và mục tiêu của những người CSVN hoàn toàn khác biệt với lý tưởng và mục tiêu của người Việt quốc gia. Sự khác biệt rõ nét nhất là Người Quốc Gia hành động tất cả vì Quốc Gia Dân Tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam, trong khi những Người Cộng Sản Việt Nam hành động tất cả vì Quốc Tế Cộng Sản, cho Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô. Do đó, để làm tròn nghĩa vụ công cụ bành trướng hầu áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên cả nước, đảng CSVN đã phát động và tiến hành cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, đẩy chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam vào một cuộc chiến tranh tự vệ và Hoa Kỳ có cớ can thiệp ngày càng sâu rộng vào chủ quyền VNCH.  Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này đã kéo dài hơn 20 năm (1954-1975), sát hại hàng triệu sinh linh, tàn phá đất nước, di hại lâu dài nhiều mặt cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Nhưng rồi sau cùng thì cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn cũng đã phải kết thúc và đã kết thúc một cách không bình thường, do sự sắp xếp tiền định của ngoại bang, đã để cho CSBV “thắng cuộc chiến” một cách dễ dàng, không cần chiến đấu(vì đối phương bị ép buộc đầu hàng) không cần giữ đất và không đủ người để tiếp thu (vì bất ngờ, tốc độ rút lui của VQ nhanh hơn tốc độ tiến quân của VC)

Chính vì sự kết thúc chiến tranh không bình thường này, mà ngay từ những ngày tháng năm đầu, khi cuộc chiến vừa tàn, người Việt Quốc gia ở Miền Nam không khỏi nghĩ lại nhận định có tính tiên liệu của hai ngoại nhân. Một là Tướng độc nhản Moise Dayan, Bộ Trưởng Do Thái lúc bấy giờ khi đến thăm Miền Nam; hai là Sir Wilson. một chuyên viên Anh quốc làm cố vấn về du kích chiến cho Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam; Cả hai ngoại nhân này đều có chung nhận định đại ý  “Muốn chiến thắng cộng sản tại Việt Nam, chỉ còn cách cộng sản hoá Nam Việt Nam”. Nay thì Miền Nam Việt Nam đã bị cộng sản hoá sau ngày 30-4-1975. Chế độ cộng sản đã thiết lập 39 năm qua trên toàn cõi Việt nam. Như vậy phải chăng “Quốc gia đã thua để thắng” và “Cộng sản thắng để thua” trong một tương lai không xa ?
     
 Nếu đúng như vậy thì tại sao và Quốc gia thắng cộng sản như thế nào?

      1.- Tại vì mục tiêu và lý tưởng đấu tranh của người Việt Quốc gia trước sau như một, vẫn là chân lý tất thắng của thời đại (độc lập dân tộc, tự do dân chủ, nhân quyền và chủ nghĩa quốc gia), có chính nghĩa, đáp ứng đúng khát vọng toàn dân(độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự, không phải chỉ là bánh vẽ như VC ). Chân lý, chính nghĩa và khát  vọng ấy, nếu người Việt Quốc gia đã mất cơ hội thành đạt trước 30-4-1975, trong chiến tranh tự vệ, trên chiến trường, thì hôm nay, sau 39 năm kiên trì tiếp tục cuộc đấu tranh cho lý tưởng và mục tiêu của mình, đã và đang buộc được CSVN phải mặc nhiên tự thú sai lầm, phải sửa sai và từng bước lùi dần về phía dân chủ, trả lại dần dần cho nhân dân quyền tự do và các quyền dân chủ, dân sinh và  nhân quyền căn bản.

  2.- Quốc gia thắng Cộng sản như thế nào?

Chế độ CHXHCN Việt nam do đảng CSVN áp đặt tại Việt Nam đã và đang trên quá trình tiêu vong và đã bước vào giai đoàn cuối cùng: Tiêu vòng hoàn toàn về mặt bản thể trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa”. Trong môi trường mật ngọt này,từng bước tịnh tiến cán bộ đảng viên CS được tư sản hoá, nhà nước CS được tư bản hoá và chế độ CS được dân chủ hoá. Ðó là quá trình tiêu vong tất yếu của đảng và chế độ CSVN, xác định sự toàn thắng của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ Việt nam. Sự tất yếu này đến mau hay chậm là tùy thuộc vào ba lực đẩy, lực xoay cùng chiếu chủ yếu:

   - Một là sự tự hủy do phân hoá nội bộ đảng và chế độ CSVN.

   - Hai là cường độ và hiệu quả thực tế của các hình thức đấu tranh của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ trong cũng như ngoài nước, thu hút được quần chúng,tạo ra cao trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, nhân quyền  của nhân dân trong nước.

   - Ba là áp lực trên đảng và chế độ CSVN của các cực cường, các chính quyền dân chủ,Liên Hiệp Quốc, các tổ chức kinh tế tài chánh quốc tế và các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế.

Vì vậy cho đến nay, dưới áp lực của ba mũi giáp công cùng chiều trên đây, mới chỉ thúc ép được chế độ độc tài toàn trị hiện nay lùi dần về phía dân chủ. Chất dân chủ đã và đang đẩy lùi chất độc tài và tích lũy thành lượng dân chủ. Khi lượng dân chủ tích lũy đủ triệt tiêu hoàn toàn chất độc tài, thì theo qui luật duy vật biện chứng mà những người cộng sản Việt nam từng tin như giáo điều, rằng “Lượng đổi, chất đổi”, thì chế độ độc tài toàn trị hiện nay sẽ tiêu vong hoàn toàn bản thể để hình thành chế độ dân chủ tại Việt nam.

Tóm lại:  39 năm trước đây, ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã kết thúc không bình thường đã chỉ đem lại một chiến thắng biểu kiến cho đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế đã ngày một khẳng định cuộc chiến tranh kết thúc như thế không phải là thắng lợi của phe này (Việt cộng) đối với phe kia (Việt quốc), mà chỉ là do nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực, nắm trung tâm quyền lực thế giới. Do đó, thực tế đã ngày một khẳng định ngày 30-4-1975 chỉ là khởi điểm một quá trình đưa CSVN đến sự tiêu vong về bản thể, để hình thành một chế độ dân chủ mai hậu tại Việt Nam theo chiều hướng mới KHÔNG THỂ ÐẢO NGƯỢC : Dân chủ tất thắng độc tài.

Một khi chế độ độc tài cộng sản tiêu vong về mặt bản thể, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh của những người CSVN đã không đạt được, nay phải xoay chiều, cách này hay cách khác cố thực hiện những điều mà người Việt Quốc Gia đấu tranh chưa đạt. Và như thế có thể kết luận rằng: 30-4-1975 quả thực  “Quốc gia đã thua để thắng và Cộng sản đã thắng để thua”.
                          
Thiện Ý
Houston, Tháng Tư 2014

(1)Xin vào: luatkhoavietnam.com, mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện Ý, khởi thảo từ trong nước (1976-1977), ấn hành lần đầu 1995 và tái bản năm 2005 tại Hoa Kỳ. Vào tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý về tác phẩm này.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Thiện Ý

Thiện Ý nguyên luật sư tại Sài Gòn trước 1975, hiện là Chủ tịch Câu Lạc bộ Luật khoa Việt Nam ở Houston.

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Những bí ẩn phía sau tờ 1 USD

Dù là tờ tiền giấy có mệnh giá thấp nhất của Mỹ nhưng phía sau tờ 1 USD ẩn chứa rất nhiều điều thú vị.

Những bí ẩn phía sau tờ 1 USD
ảnh minh họa
Giống như những tờ bạc khác, tờ 1 USD được làm từ một hỗn hợp vải lanh và cotton. Đây là lý do tại sao chúng không bị rách khi dính nước giống như những tờ giấy ở một số nước khác. Nếu nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy những sợi tơ màu đỏ và màu xanh nước biển được đan khắp tờ bạc nhằm ngăn chặn các nỗ lực làm giả.
Tuy nhiên, bí ẩn của tờ tiền “nhỏ bé” này là ở hai chữ cái đầu và cuối dãy số series. Chữ cái đầu tiên phải trùng với chữ cái lớn được in đậm phía bên trái mặt tiền, thể hiện nơi nó được phát hành. Chữ A = Boston, B = New York City, C = Philadelphia, D = Cleveland, E = Richmond, Va., F = Atlanta, G = Chicago, H = St. Louis, I = Minneapolis, J = Kansas City, K = Dallas. Giả sử tờ 1 USD có dãy số F73541079N có nghĩa là tờ tiền này được phát hành ở ngân hàng dự trữ liên bang tại bang Atlanta (chữ F), chữ N ở cuối là số lần được in – tương ứng số thứ tự trong bảng chữ cái là 14, với mỗi lần in là 32 tờ có cùng dãy số.
Ở phía sau tờ bạc này còn ẩn chứa nhiều bí mật ở hai vòng tròn. Cả hai vòng tròn này đều là quốc ấn của Mỹ. Ở vòng tròn bên trái là một kim tự tháp. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy nó phát sáng trên đỉnh và cạnh phía Tây bị khuất bóng tối. Ý nghĩa của biểu tượng này là nước Mỹ muốn triển nền văn minh phương Tây (khi đó Mỹ mới giành độc lập). Kim tự tháp bị cắt đầu nghĩa là công trình của chưa kết thúc, Washington sẽ tiếp tục hoàn thiện.
Cụ thể hơn, bên trong đỉnh chóp nhỏ là một con mắt tỏa sáng tứ phương. Đó là biểu tượng cho thần linh vào thời cổ đại, tượng trưng cho trí thông minh. Phía trên kim tự tháp là dòng chữ la tinh: ANNUIT COEPTIS, có nghĩa: Thượng đế chúc phúc cho công việc của chúng ta. Phía dưới in dòng chữ NOVUS ORDO SECLORUM - một trật tự mới bắt đầu. Ngay dưới chân kim tự tháp là con số La Mã MDCCLXXVI. M là 1.000, D là 500, CC là 200, L là 50, XX là 20, VI là 6. Đặt các số này lại với nhau và chúng ta có năm 1776, là thời điểm nước Mỹ ra đời.
Ở bên đối diện, vòng tròn bên phải có nhiều chi tiết giống với ấn tín của nước Mỹ - con đại bàng đầu trọc, biểu tượng của chiến thắng. Thứ nhất, nó không sợ bão tố vì đủ sức mạnh và trí thông minh để vượt qua bão tố. Thứ 2, nó không đội vương miện vì nước Mỹ lúc đó vừa đập tan quyền lực của Vua nước Anh George III. Vì vậy, cái lá chắn trước ngực con đại bàng không có dây đeo. Điều đó có nghĩa là quốc gia này từ đây hoàn toàn tự lập. Phía trên lá chắn có một loạt vạch trắng song song: Chúng tôi liên kết với nhau thành một quốc gia. Trước mỏ đại bàng có dòng chữ vắt ngang: E PLURIBUS UNUM, nghĩa là: một quốc gia quy tụ nhiều chủng tộc. Trên đầu đại bàng là 13 ngôi sao 5 cánh tượng trưng cho 13 tiểu bang mới ra đời. Những ngôi sao 5 cánh được sắp xếp theo hình dạng của một ngôi sao 6 cánh. Ngôi sao 6 cánh là biểu tượng của những kẻ thờ quỷ Satan. Đó cũng chính là hình có 6 điểm, 6 góc, 6 mặt phẳng (66), dấu hiệu của những kẻ chống Chúa.
Ngoài ra, con đại bàng đang quắp một cành ôliu và một bó tên. Nó quay mặt về cành ôliu nhưng mắt vẫn liếc về phía còn lại với ý nghĩa: Đất nước này yêu chuộng hòa bình nhưng không ngần ngại dùng vũ lực để bảo vệ hòa bình.
 Dưới đây là sự giải thích cụ thể cho từng biểu tượng để thấy mối liên quan của nó tới nước Mỹ và những liên kết bí ẩn tới Hội tam điểm.
1-bi-20an-20to-20dola-zuif-1396885513445.jpg

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Khi Nhà Văn Khóc…Vì Đại Thắng

Dương Thu Hương: “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua …..”.
DuongThuHuong2
By dinh.thai · April 17, 2012
Dương Thu Hương nổi tiếng không những về những tác phẩm như Thiên Ðường Mù, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Khải Hồn Mơn, Chốn Vắng… mà còn do thái độ can đảm và thẳng thắn phê bình giới lãnh đạo Hà Nội. Bà từng bị chế độ giam giữ gần một năm và bị công an đe dọa “nghiền nát như tương.” Hiện nay, Dương Thu Hương tỵ nạn tại thủ đô Paris của nước Pháp. Dù xa quê nhà, bà vẫn luôn thao thức về tình hình tại Việt Nam. Tháng Tư năm 2000, nhà văn Dương Thu Hương đã trả lời cuộc phỏng vấn sau đây do Đinh Quang Anh Thái (ĐQAT) thực hiện và phát thanh trên làn sóng của đài Little Saigon Radio ở California.
-ĐQAT: Năm 1968, khi bà quyết định đi vào Nam chiến đấu – như trong sách của bà nói là bà tham dự cùng các bạn cùng lứa tuổi “xẻ Trường Sơn đánh Mỹ” –, tâm tư của bà lúc đó như thế nào?
-Dương Thu Hương: Tâm tư của tôi lúc đó hoàn toàn là của một người Việt cổ. Tôi liều thân cứu nước vì tôi quan niệm đây là một cuộc chiến tranh chống quân xâm lược; và chống quân xâm lược thì người tử tế phải xông ra chiến trường chứ không thể để mặc cho người khác hy sinh; và không thể mưu cầu một cuộc sống yên ấm khi người khác lâm nguy.
-ĐQAT: Không phải là theo tiếng gọi của đảng cộng sản Việt Nam?
-Dương Thu Hương: (cười khẩy)Ðó là cái điều lầm lẫn lớn nhất của các nhà báo nước ngoài cũng như tại Việt Nam (cười). Tại vì những người ấy có chịu lắng nghe đâu. Các ông ấy toàn nghĩ theo kiểu các ông ấy thôi. Cứ hàm hồ chụp lên đầu người khác suy nghĩ của mình.
-ĐQAT: Bà có thể nói rõ hơn?
-Dương Thu Hương: Tôi chả coi đảng …. là cái gì cả. Ðối với một gia đình như gia đình tôi, bố tôi từng là đại đội trưởng Ðội Bá Vụ, phụ trách vấn đề liên lạc vô tuyến và làm trực tiếp dưới quyền ông Võ Nguyên Giáp, nhưng bố tôi không bao giờ vào đảng vì bà của tôi là địa chủ. Bố tôi chịu nhiều bất công, vì ông cống hiến rất nhiều mà chả được gì cả.
Khi tôi lớn lên thì tôi không được thi vào đại học bởi vì lý lịch của bố tôi và gia đình tôi không thuộc thành phần cốt cán. Tôi vào trường Lý Luận Nghiệp Vụ vì lúc đó họ tuyển năng khiếu diễn kịch, hát múa; và tôi vào được vì do cơ may tôi có một người họ hàng làm thầy giáo của trường.
Tôi còn nhớ lúc xẩy ra chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, ngay trước cửa nhà tôi là một người bị chết treo và lúc 8 tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến các cuộc đấu tố địa chủ. Sau lưng nhà tôi, ngay đường xe hỏa, một người khác bị vu là địa chủ nên tự tự bằng cách đặt cổ vào đường ray cho xe lửa cán chết. Thật khủng khiếp. Khi 8 tuổi, buổi sáng khi đi tưới rau, tôi thấy cảnh những người chết như thế và điều đó làm cho tôi vô cùng khủng khiếp. Cho nên tôi nhắc lại, năm 68 tôi vào tiền tuyến là vì tôi tuân thủ truyền thống cứu nước của dân tộc Việt Nam chứ không vì đảng cộng sản.
-ĐQAT: Theo chỗ tôi biết, bà lập gia đình trong giai đoạn chiến tranh và hai con của bà sinh ra ngay tại tiền tuyến; có đúng không ạ?
-Dương Thu Hương: Vâng, đúng như vậy.
-ĐQAT: Bà có thể cho biết hoàn cảnh sống của các con của bà tại tiền tuyến khi cuộc chiến bắt đầu vào thời điểm khốc liệt năm 1968?
-Dương Thu Hương: Chúng tôi sống như những người nông dân và tất cả mọi người đều chịu sự tàn phá của bom đạn chiến tranh. Thức ăn thức uống vô cùng khan hiếm, thậm chí rau cũng không có. Gạo ở bên kia sông, chỉ vì mấy cân gạo có thể mất mạng, vì bom Mỹ ném liên tục.
Một điều nữa, ngay trong chiến tranh, năm – bẩy trăm người chết nhưng không bao giờ tin tức được loan báo. Vì tất cả đều chấp nhận cái chết đương nhiên. Và không thể loan tin vì suy nghĩ lúc bấy giờ ta là dân tộc anh hùng chiến thắng tất cả mọi kẻ thù nên không thể cho biết sự tổn thất. Hai con tôi sinh ra trong hoàn cảnh như vậy.
Khi chúng nằm ở trong hầm, dưới mặt ván vài gang là nước và rắn bò lóp ngóp. Ðứa con gái của tôi khi vừa được ba tháng, rắn ngủ ở dưới đít của nó. Vì rắn tìm chỗ ấm mà! May mà sáng ra rắn tuồn xuống nước chứ không cắn con bé. Mà đấy là rắn độc. Cho nên mấy ông dân chài sống chung quanh bảo rằng con tôi được thần độ mạng. Tôi tin con người có số thật. Bởi vì sống dưới bom đạn, đói khát, rắn rết như vậy mà hai đứa con tôi, dù không được tươi da thắm thịt như con cái những người sống trong hoàn cảnh bình thường, nhưng chúng cũng không đến nỗi bị què quặt.
-ĐQAT: Khi lớn lên, các con của bà có bị ám ảnh bởi hồi ức lúc sống trong chiến tranh bom đạn không ạ?
-Dương Thu Hương: Trong chiến tranh chúng nó còn rất nhỏ cho nên khi lớn lên ấn tượng về cuộc chiến cũng mờ nhạt. Nhưng khi chúng lớn lên thì chúng chịu một cuộc chiến tranh khác còn tàn khốc hơn cuộc chiến thời 1968: Mẹ chúng nó “làm giặc”. Cho nên chúng nó bị nhiều thiệt thòi lắm.
-ĐQAT: Thưa bà, các cháu bị thiệt thòi ra sao ạ?
-Dương Thu Hương: Tôi đã nói rất rõ với các con tôi, rằng con đường làm giặc là phải chịu tất cả mọi khổ đau; cho nên tất cả mọi người trong gia đình, nghĩa là bố tôi, mẹ tôi, anh em tôi và con cái, nếu ai muốn thì tôi sẵn sàng viết giấy với tòa án là không có quan hệ với tôi nữa để tránh cho họ khỏi bị di lụy. Còn nếu những người muốn tiếp tục đứng với tôi thì phải chấp nhận khổ đau, thua thiệt và không bao giờ được nói với tôi một lời can thiệp vào việc tôi làm.
Bởi vì tôi biết chắc chắn cộng sản sẽ dùng những người thân thuộc để gây sức ép. Nhiều trường hợp đã xẩy ra đối với những người đấu tranh dân chủ tại Việt Nam. Vợ con, anh em của họ bị công an áp lực phải khuyên can họ không được đấu tranh nên một số người đành bỏ cuộc. Bản thân tôi đã lường trước điều đó nên tôi tuyên bố sòng phẳng rằng, cả tuổi xuân của tôi, tôi đã hy sinh để nuôi con rồi, nên bây giờ tôi an tâm lao vào cuộc chiến chống lại bọn cường quyền. Tôi bảo các con tôi có thể về sống với bố của chúng hay với một người mẹ khác. Còn nếu chọn sống với tôi thì phải chấp nhận khổ đau, vì chắc chắn chúng sẽ không có chỗ đứng trong chế độ này.
Hai con tôi đứa nào cũng hai bằng đại học nhưng vẫn không có việc làm. Con trai lớn của tôi phải sống bằng tất cả mọi việc, từ bồi bàn cho đến gác cổng. . .và bây giờ đi quay phim thuê cho một hãng tư. Cháu gái thì bán sơn.
-ĐQAT: Các cháu có chia sẻ lý tưởng của mẹ không?
-Dương Thu Hương: Không! Ðối với chúng nó, tôi là một người điên. Nhưng dầu sao chăng nữa thì cũng là tình mẹ con, nhất là tôi đã giao hẹn là nếu chấp nhận tôi thì không được can ngăn việc tôi làm, nếu can thiệp thì tôi sẽ cắt đứt ngay tức khắc, thành ra chúng nó đành chấp nhận thôi.
-ĐQAT: Từ một người dấn thân “xẻ Trường Sơn đánh Mỹ”, bây giờ bà trở thành một người “làm giặc” ngay tại Hà Nội; tại sao vậy, thưa bà?
-Dương Thu Hương: Tôi là người yêu nước khi tôi tham gia cuộc chiến tranh và đến tận bây giờ tôi vẫn là người yêu nước. Vì thế tôi mới làm giặc. Hai hành động đó (vào tiền tuyến năm 68 và bây giờ làm giặc) thống nhất với nhau.
-ĐQAT: Tư tưởng “làm giặc” của bà nhen nhúm từ lúc nào?
-Dương Thu Hương: Từ năm 1969. Lúc đó, nếu tôi còn chút ảo tưởng nào về chủ nghĩa cộng sản thì tôi đã trở thành đảng viên rồi. Họ mở rộng cánh cửa mời tôi vào đảng cơ mà. Nhưng vì tôi được dậy dỗ trong một gia đình lấy đạo đức làm tiêu chuẩn cho nên tôi không thể xếp tôi đứng vào hàng ngũ với những người mà tôi khinh bỉ. Ðơn giản như vậy thôi.
-ĐQAT: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trộ trước sự trù phú vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó?
-Dương Thu Hương: (thở dài)Ðiên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.
Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí.
Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ.
Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ . . .nếu người ta muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh.
Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Ðó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.
Lần thứ hai tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam khác đến đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được. Vì khi ở trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là một dân tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong một phái đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị khinh bỉ.
Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà già Nga bụng to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán hàng họ mắng cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống nồi, hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước.
Khi đứng ở khách sạn Peking nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ quần áo complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn toàn vỡ mộng và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi Nga người ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại vớ vẩn thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của người Việt Nam.
-ĐQAT: Từ đó bà lao vào cuộc đấu tranh?
-Dương Thu Hương: Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngả rẽ trong đời tôi. Ðúng ra, ngã rẽ này đã bắt đầu từ năm 1969 khi lần đầu tiên tôi gặp những toán tù binh người miền Nam ở Quảng Bình. Lúc đó tôi làm công tác ở các binh trạm và những tù binh lần đầu tiên tôi gặp không phải là người Mỹ mà chính là người Việt Nam, cũng đầu đen mắt đen, cũng lùn và da vàng mũi tẹt như tôi, và nói tiếng Việt Nam như tôi. Cho nên tôi mới hồ nghi rằng tất cả những điều người ta nói đây là cuộc chiến tranh chống quân xâm lược thì đó là láo toét.
Tuy nhiên vì lúc đó là chiến tranh và tất cả đều lao vào một guồng máy và bị cỗ xe khổng lồ nó cuốn đi. Cho đến năm 75, với thời gian (giọng ngậm ngùi, xúc động),tất cả mọi ngờ vực trong tôi đã chín muồi. Năm 75, tôi hiểu rằng đây là thời điểm quyết định và là ngã rẽ dứt khoát trong tư tưởng của mình.
-ĐQAT: Cám ơn bà đã dành thì giờ trả lời phỏng vấn của chúng tôi.

MỘT NHÂN CÁCH LỚN CỦA SÀI GÒN


tongthongtranvanhuong1
Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương
Tác giả: Dung Dang
Theo Blog Huỳnh Ngọc Chênh – 26/4/2014
Vào năm 1978, khi việt cộng trả lại “quyền công dân” cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo” đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng Thống” Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu quốc hội “đảng cử dân bầu” của cộng sản.
Cụ Trần Văn Hương cũng được cộng sản trả lại “quyền công dân” nhưng Cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương đã gửi bức thư sau đây đến các cấp lãnh đạo chính quyền cộng sản:

“…hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ Tướng, Tổng Bộ Trưởng, các Tướng Lãnh, Quân Nhân Công Chức các cấp các Chính Trị Gia, các vị Lãnh Đạo Tôn Giáo, Đảng Phái đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được về.
Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả.

Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước.
Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi.” 

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận “quyền công dân” của cộng sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 thì Cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.

Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 4) – Thiên tài khoa học rởm

Tom Balmforth
Phạm Nguyên Trường dịch
Người Nga dường như là một trong những dân tộc dễ lừa nhất.
Trong vòng 20 năm, những điều dường như cho người ta một tia hy vọng trong giai đoạn khó khăn sau khi Liên bang Xô-viết tan rã đã chuyển hóa thành một sự gian lận toàn diện ở qui mô công nghiệp.


Các nhà khoa học Nga đã làm thế giới kinh ngạc suốt nhiều năm trời. Tháng 3 vừa qua (năm 2010 – ND) Grigori Perelman, một nhà toán học Nga khổ hạnh đơn độc đã giải được câu đố làm bối rối các nhà toán học suốt một thế kỷ – và sau đó lại làm dân ngoại đạo thế giới ngạc nhiên khi từ chối giải thưởng 1 triệu USD. Nhưng đằng sau danh tiếng của nước Nga về thiên tài khoa học lại sừng sững một bóng ma giả khoa học.
Ngày nay nước Nga có những kẻ lừa đảo nổi tiếng, những kẻ tự gọi mình là Chúa Kitô tái thế, hay thần thánh đã phú cho họ khả năng chữa bệnh siêu phàm mà họ sẽ hào phóng chia sẻ nếu bạn có nhiều tiền. Tệ hơn nữa, nhận được tiền là họ chuồn liền. Đấy có thể là ông pháp sư “chữa bệnh bằng phân tâm học” trên truyền hình hoàn toàn theo kiểu Nga, Anatoly Kashpirovsky, người chữa lành một cách thần kì những ai trả tiền để được gặp anh ta, hay Grigori Grabovoi, kẻ từng bóng gió về chức vụ tổng thống, thề cấm thần chết bén mảng; những kẻ lừa đảo huyền bí đó có khá nhiều đệ tử. Nhưng câu hỏi là: Vì sao? Có phải người Nga là những người theo thuyết định mệnh vô tư lự với một thiên hướng thích những thứ thần bí, sẵn sàng mang tiền tiết kiệm của mình cho những ông thày thuốc với những cách chữa bệnh giả mạo? Hay chỉ đơn giản là những điều kiện đó phù hợp với những kẻ trục lợi bất lương nhằm tống tiền tầng lớp dễ bị tổn thương nhất trong xã hội Nga – những nhân vật nông dân thất học từng được nhà văn Liên Xô Vasily Shukshin ca ngợi?
Nói qua về những kẻ lừa đảo
Khi Liên Xô sụp đổ cách đây hai thập kỷ, huyền bí và giả khoa học bắt đầu phát triển mạnh, nhưng đấy không phải là lần đầu tiên. Vào đầu thế kỷ XIX, cùng với sự vỡ mộng của nhiều người về triết lý duy lý đã định hình thời đại, chủ nghĩa thần bí ở Nga phát triển rất mạnh. Tâm trạng phản động của thời đại được sinh ra từ “Thời đại bạc” mang tính tâm linh sâu sắc của tư tưởng Nga, được các nhà tư tưởng như Vladimir Solovyov và Dmitry Merezhkovsky ghi nhận một cách dễ nhớ nhất. Trong khi Dmitry Mendeleyev, nhà hóa học người Nga nổi tiếng nhất với bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã lên tiếng trách cứ nhà nước và nền khoa học Nga là không đấu tranh với mối đe dọa của chủ nghĩa thần bí, đang xâm nhập vào các cấp cao nhất của chính quyền.
Tuy nhiên, thần bí ngày càng trở nên phổ biến hơn, khi Grigory Rasputin, ông Thày Tu Điên của Nga, năm 1905 luồn lách vào giới thân cận nhất của Nga hoàng Nicholas II. Ban đầu, sau khi chữa bệnh máu loãng khó đông cho Hoàng tử Alexei, người hành hương bí ẩn này được ca ngợi như một đạo sĩ “chính cống”. Nhưng khi lối sống của ông ta ngày càng trở thành đồi trụy hơn và Thế chiến I bùng nổ, ông ta càng có thêm nhiều kẻ thù có chức vụ cao hơn. Cuối cùng, khi kẻ lừa đảo bị cuốn vào một cuộc tranh giành quyền lực năm 1916, ông đã phải trả giá bằng mạng sống của mình. Cho đến ngày nay, huyền thoại về Rasputin nổi tiếng thậm chí còn vượt ra ngoài biên giới của Nga, và các âm mưu và bí ẩn xung quanh vụ hạ sát ông ta là minh chứng cho huyền thoại mà “người thày thuốc” trụy lạc này xây dựng xung quanh hình ảnh của mình. Người ta đồn rằng Rasputin đã tìm cách tháo được dây trói sau khi đã bị còng tay, bị đầu độc, bị bắn vào đầu, và sau đó bị vứt xuống đáy sông Neva ở St Petersburg  - tất cả những điều này cho thấy mức độ thành công của ông ta trong việc lừa dân chúng bằng những chuyện tào lao mang vẻ huyền bí.
Thày Tu Điên và các đệ tử của ông ta
Nhưng, ngày hôm nay dường như linh hồn của ông Thày Tu Điên lại một lần nữa đã thoát ra ngoài. “Hiện nay chúng ta có một Rasputin mới – đó là cách xuất hiện của Grigori Grabovoi”, Eduard Kruglyakov, người đứng đầu Ủy ban Giả Khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học Nga nói. Năm 2005, sau khi hứa với thân nhân rằng ông ta có thể làm các nạn nhân của cuộc bao vây trường học ở Beslan sống lại nếu họ chịu chi tiền, Grabovoi trở thành tiêu đề của báo chí toàn cầu. Ba trăm ba mươi mốt người chết, quá nửa là trẻ em, khi lực lượng đặc nhiệm của Nga giành lại ngôi trường ở Bắc Kavkaz từ tay những kẻ khủng bố, thảm kịch này đã hằn sâu vào ý thức dân tộc.
Nhưng Grabovoi không thành công bằng kẻ lừa đảo tiền nhiệm của ông ta (ý nói Grigory Rasputin – ND). Năm 2008, Grabovoi bị kết án 11 năm tù sau khi một nhà báo ở Moskva là Vladimir Vorsobin giả vờ tin vào “dịch vụ” của ông thày thuốc này và đã bắt ông ta trong một phi vụ đặc biệt. Vorsobin đề nghị Grabovoi làm người thân sống lại với giá 1.500 USD, sau khi nhận được tiền Grabovoi nói với Vorsobin rằng người thân của ông hiện đang sống và khỏe mạnh ở St Petersburg, sau đó Grabovoi đã bị bắt giữ.
Nhưng, mặc dù bị kết án với 11 tội danh, vị chúa cứu thế tự xưng này hiện đã được thả sau khi ngồi tù chưa đến một nửa thời hạn. Một ngày trước khi được tha, Grabovoi còn trâng tráo nói sẽ giúp những người chết ở mỏ than Raspadskaya trong vùng Siberia hồi sinh, nơi một loạt các vụ nổ trong tháng 5 đã làm nhiều người thợ mỏ thiệt mạng. Sau đó vợ ông ta xoa dịu những nhà bình luận đầy giận dữ bằng cách thông báo rằng sau khi được tha, chồng bà ta không chạy từ thảm kịch này sang thảm kịch khác nhằm bóc lột các tang quyến bằng cách hứa làm cho người chết sống lại nữa. Cho đến nay chưa thấy có báo cáo về hành vi vi phạm pháp luật của ông ta. Nhưng Kruglyakov ngờ rằng Grabovoi sẽ không được ở ngoài nhà tù lâu. “Tôi nghĩ anh ta sẽ lại đi tù thôi. Hoàn toàn không được phép thả những tên lang băm như thế này. Nó còn là tín hiệu cho những kẻ khác trong nước – đi tù, rồi sẽ được ra ngay thôi.”
Chữa bệnh bằng dầu cù là
Anatoly Kashpirovsky là người nổi tiếng hơn hẳn trong lĩnh vực pháp sư ở Nga, khi Liên Xô tan rã ông này đã dùng chương trình “chữa bệnh hàng loạt” trên truyền hình để mê hoặc cả nước. Như một lang băm chuyên dùng tà thuật trên truyền hình, Kashpirovsky bảo người xem để nồi và chảo đầy nước bên cạnh TV khi xem chương trình của mình, để cho nước được nạp các tính chất chữa bệnh khi tiếp xúc với sóng của năng lượng thần giao cách cảm. Lúc đó, Kashpirovsky và đối thủ của ông ta, Allan Chumak, thôi miên cả nước bằng chủ nghĩa thần bí hoang dã và vô căn cứ, và cứ nhìn chằm chằm vào khán giả truyền hình suốt mấy năm trời. Theo một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tiến hành năm 1990, khi được hỏi họ có nghĩ là “liệu pháp tâm lí” kiểu Kashpirovsky có thể giúp bệnh chữa bệnh hay không, thật đáng kinh ngạc là 52,3% người được hỏi nói “có”.
“Hiện tượng Kashpirovsky chủ yếu liên quan tới sự sụp đổ của  Liên Xô, mặc dù ở nhiều nước khác cũng có những người thích ông ta. Tuy nhiên, tôi nói rằng tỉ lệ ở Nga cao hơn các nước khác. Nó liên quan đến sự rối trí và hoảng loạn của người dân”, Kruglyakov nói.
Năm 1995, Kashpirovsky bỏ trốn khỏi nước Nga và bỏ lỡ một vụ bùng nổ các loại thuốc giả và các dịch vụ chữa bệnh rởm không bị ai ngăn chặn, vì đã lợi dụng được tình trạng hỗn loạn của quốc gia đang trải qua quá trình biến đổi xã hội một cách vội vã, với lực lượng kiểm tra và đối trọng còn non trẻ. “Ở Liên Xô, lương và triển vọng nói chung là thấp, nhưng dù sao mọi người đều được chăm sóc. Khi nhà nước mới thành lập, rất nhiều người đã bị bỏ rơi và hoàn toàn không được giúp đỡ. Họ không có công ăn việc làm, không có phương tiện sống. Trước đây, nhà nước đã cho họ nhà ở miễn phí. Đúng là họ phải xếp hàng chờ đợi, v.v., nhưng họ có thể có được một chỗ để sống. Bây giờ bạn có thể mua một căn hộ, nhưng bạn không có tiền, và bạn sẽ không bao giờ có bất kỳ chỗ nào để sống và phần lớn gặp hoàn cảnh như thế. Đó là lý do vì sao tôi nghĩ rằng rất nhiều người có tâm trạng bị bỏ rơi hoàn toàn. Trong tình hình như thế, những kẻ lừa đảo này giống như dầu cù là để xoa dịu tâm hồn vậy,” Kruglyakov nói.
Thích âm mưu
Cùng với sự nổi tiếng của những nhân vật có quyền lực một cách thần bí, phi chính thức như Kashpirovsky, người Nga thường nghi ngờ các nhân vật có quyền lực một cách chính thức, ví dụ như các chính trị gia và các chủ ngân hàng. Người phương Tây thường chế giễu người Nga vì họ giữ tiền trong một hộp giày dưới gầm giường chứ không gửi vào ngân hàng – một thói quen đã nhanh chóng kẹt lại sau khi cả một thế hệ thấy mình bị hất ra đường khi những món tiền của họ gửi trong ngân hàng trở thành vô giá trị.
Trong khi đó, thói quen ở đâu cũng ngửi thấy âm mưu của người Nga lại được củng cố bởi sự nghi ngờ của họ đối với quyền lực chính trị, có xuất xứ từ hàng thế kỷ nằm dưới sự cai trị của chính thể độc đoán. Trong một bài báo trên tờ Moscow Times ra trong tháng này, một giáo sư nổi tiếng người Nga viết rằng ông đã rất ngạc nhiên khi phần lớn sinh viên chính trị của ông tin rằng các cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng Chín năm 2001 là “tác vụ tay trong”. Còn ở trong nước, 14 % người Nga nói với Trung tâm nghiên cứu Levada rằng họ nghĩ là FSB – cơ quan mật vụ Nga – trước đó đã nghe nói về vụ đánh bom tàu điện ngầm ngày 29 tháng 3, nhưng đã không làm bất cứ điều gì để ngăn chặn.
Dối trá chồng chất
Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ, người dân dễ bị tổn thương và lầm lẫn là vì vụ sụp đổ đã tạo điều kiện thuận lợi cho những kẻ lừa đảo tự tin. Khó có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi một trong những chương trình bán hàng đa cấp lớn chưa từng có trên thế giới bị giết chết ở Nga vào đầu những năm 1990. Năm 1994 chương trình Ponzi do công ty MMM thực hiện đã kiếm được 10 tỷ USD bằng cách thuyết phục từ 5 tới 40 triệu người Nga khiêm tốn rằng tiền đầu tư vào công ty sẽ có lợi tức không ít hơn 1.000%. Vụ lừa đảo thành công là do quảng cáo và ngay lập được một loạt các công ty khác bắt chước, lợi nhuận cao đến mức ngớ ngẩn như thế liên quan đến siêu lạm phát ở Nga lúc đó.
Cuối cùng, Tổng thống lúc đó, ông Boris Yeltsin, đã làm cho việc công bố lợi nhuận “dự kiến” trở thành bất hợp pháp, đưa bọn lừa đảo vào vòng kiểm soát bằng cách đánh gục các kênh quảng cáo huyết mạch của nó. Nhưng bọn lừa đảo vẫn phát triển, ngay cả khi chúng thu được ít lợi nhuận hơn. Bốn mươi thành viên của một băng đảng bị bắt trong tháng này vì đã lừa các cựu chiến binh Thế chiến II bằng cách bảo họ trả trước cho chúng 18 % “thuế” cho những tấm huy chương mà băng đảng nói là sẽ thưởng cho họ nhân ngày 9 tháng 5, tức là Ngày Chiến thắng ở Nga. Bọn lừa đảo đã thu lợi nhuận ròng là 47.000 USD mỗi ngày, nhưng băng đảng này sẽ thu được nhiều hơn từ việc bán thuốc giả.
Nhưng giả khoa học và thuốc giả là những kẻ thù khó đánh, những kẻ bán hàng tháo vát có thể đơn giản là trả cho hàng trăm trong số hàng ngàn “chuyên gia” khoa học Nga để họ cam đoan về chất lượng của những loại thảo dược đáng ngờ là xong. Dưới thời Xô-viết, lúc đó chỉ có các cơ quan khoa học chính thống, chuyện này chưa bao giờ trở thành vấn đề. Nhưng cùng với sự sụp đổ của Liên Xô, những viện hàn lâm khoa học “xã hội” đầu tiên đã xuất hiện. Đã có trên 200 viện hàn lâm như thế, làm gia tăng đáng kể các nguồn “có thẩm quyền” có thể bảo đảm cho các loại thuốc hoặc các khóa chữa bệnh. “Bây giờ bạn có thể mua tên của ‘viện sĩ’,” Kruglyakov nói. Từ đó đến nay pháp luật đã thay đổi, làm cho các thiết chế nhất định chỉ được công nhận một phần, nhưng người Nga bình thường không biết những khác biệt như thế, có nghĩa là họ vẫn dễ bị quảng cáo vô đạo đức tấn công.
Năm 2003, Viện Hàn lâm Khoa học Nga gặp Viện Hàn lâm Y khoa để bàn về ảnh hưởng đáng báo động của giả khoa học ở Nga. Kết quả là người ta đã đưa ra dự thảo bộ luật để trình Quốc hội nhằm giải quyết tận gốc rễ của vấn đề – nạn quảng cáo. Nhưng khi luật được thông qua thì hình phạt đối với quảng cáo gian lận chỉ là phạt tiền – chỉ mạnh hơn đập vào cổ tay những kẻ đã kiếm được những món lợi nhuận lớn. Kruglyakov nói rằng đáng lẽ những kẻ phạm tội phải đối mặt với nguy cơ bị những án tù dài hạn.
Nhưng vấn đề là trò chơi mà các  ông đồng, bà cốt và lang băm tự xưng lại nằm trong các phương tiện truyền thông đại chúng. “Rất nhiều người cả tin. Tin vào sách báo, tin vào những thứ được nói trên truyền hình. Những người có học biết rằng tất cả chỉ là dối trá -  mọi người đang bị lừa một cách có hệ thống. Những người này tin tưởng và mua bất cứ thứ gì người ta bảo họ. Và không phải ai cũng hiểu rằng có những kẻ lừa đảo như thế. Tôi đã nói chuyện với những người làm việc trong truyền hình và họ nói rằng cần phải làm tất cả những thứ có thể giúp làm tăng vị trí trong bảng xếp hạng của họ. Và cái gì làm tăng vị trí trong bảng xếp hạng? Tất cả những điều ngu xuẩn và giật gân,” Kruglyakov nói.
Chắt lọc sự thật
Sự xâm nhập theo kiểu Rasputin vào những tầng lớp cao cấp của chính quyền vẫn là vấn đề ngay cả  ở nước Nga thời hậu Xô-viết. “Trong điện Kremlin có cả một nhóm – tôi chưa dám gọi họ là lang băm – những kẻ thần bí, các chiêm tinh gia. Đấy là những người lỗi lạc – những viên tướng. Những năm 1990 cũng tương tự như thời Rasputin,” Kruglyakov nói. Một số các cuộc hẹn của Boris Yeltsin làm cho người ta nghĩ rằng ông đã tìm kiếm lời khuyên từ những con người kì quặc. Ví dụ, Yeltsin chỉ định tướng Georgi Rogozin, một sĩ quan cũ của KGB và là một nhà chiêm tinh, làm phó giám đốc Cục An ninh của Tổng thống. Rogozin chỉ huy một nhóm các chiêm tinh gia gồm 12 người chuyên dựa vào kinh nghiệm của của họ nhằm tư vấn Tổng thống.
Thậm chí hiện nay cũng có những mối liên hệ rõ ràng giữa các khoa học gia giả hiệu và chính quyền. Tháng ba vừa qua, Chủ tịch Hạ viện, ông Boris Gryzlov, lao vào bảo vệ nhà phát minh Nga, Viktor Petrik, người tuyên bố đã làm được bộ lọc, lọc nước bị ô nhiễm phóng xạ thành nước uống được. Petrik đã dán logo của đảng cầm quyền, Đảng Nước Nga Thống nhất, lên những phát minh của mình nhằm tăng uy tín cho chúng, nhưng ở chỗ khác, những chiếc máy đã bị các nhà khoa học đáng kính đả kích kịch liệt là giả khoa học.
Tháng trước Kashpirovsky đã tung ra chương trình quay trở lại Nga và bắt đầu với lịch trình dày đặc những buổi chữa bệnh bằng tâm linh. Và linh hồn của ông Thày Tu Điên lại một lần nữa được tự do khi Grabovoi được ra khỏi nhà tù. Sự ngóc đầu dậy của giả khoa học còn xa mới là vấn đề của riêng nước Nga. Nhưng những thứ được bắt đầu như là dầu cù là xoa cho những tâm hồn không yên trong những năm 1990 hỗn loạn cũng có thể làm cho danh tiếng về thiên tài khoa học của Nga phải đầu hàng, đấy là nói nếu nó tiếp tục không bị ngăn chặn.
Nguồn: ”Pseudoscientific Genius“, Russia Profile 07-7-2010

Chuyện khó tin về ‘hòn đá hưng phấn’ và vùng đất mỹ nhân

Thiếu nữ trong bản chỉ cần ra giếng tắm gội là làn da trở nên mịn màng như trứng gà bóc, mái tóc mượt mà.

Những câu chuyện mang giá trị văn hóa về bản “gái tiến vua”, vẫn còn nhiều điều bí ẩn đối với làng người Dao, bản Mậu xã Tuấn Mậu (Sơn Động – Bắc Giang) nằm bên sườn tây dãy Yên Tử.

Bên cạnh đó, câu chuyện về hòn đá có khả năng kỳ lạ khi tạo được cảm hứng sinh lý cho những ai tắm dưới dòng suối nơi hòn đá đó ngự khiến cho người dân nơi đây ngỡ ngàng, khó lý giải.

Mảnh đất của những cung tần

Men theo con đường gập ghềnh đá và sỏi, chúng tôi tìm về Bản Mậu xã Tuấn Mậu (Sơn Động – Bắc Giang) nằm heo hút bên sườn Tây dãy Yên Tử linh thiêng để nghe những huyền tích, những câu chuyện xưa cũ và hiểu thêm những giá trị văn hóa có tự lâu đời của bản làng người Dao xung quanh câu truyện về bản “gái tiến vua”.

Cũng tìm về nơi đây để chúng tôi có cơ hội được mục sở thị hòn đá có khả năng kích thích sinh lý nơi suối Rọng Gà kỳ lạ có một không hai này.

Chuyện khó tin về ‘hòn đá hưng phấn’ và vùng đất mỹ nhân
Ông Hoàng Đức Dương 

Ông Hoàng Đức Dương (SN 1944) người đã nhiều năm nghiên cứu những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể ở bản Mậu kể lại lịch sử cũng như truyền thuyết về “bản gái tiến vua”, cho biết, tương truyền, cái tên bản gái tiến vua có từ thời Phật hoàng Trần Nhân Tông.

Hồi Phật Hoàng lên Yên Sơn xuất gia, nhiều quan lại đã không đồng tình với quyết định của vua, thường tìm các phương cách nhằm làm vua thay đổi quyết định. Trong đó, việc dùng “mỹ nhân kế” đã được một số quan lại vận dụng. Họ đưa không ít cung tần mỹ nữ, có tài ăn nói ngon ngọt lên núi, nhằm làm lu mờ quyết định của đức vua. Tuy nhiên, ý nhà vua đã quyết không hề bị thay đổi.

Trước khi truyền ngôi cho thái tử nhà vua đã ra lệnh cho các cung tần mỹ nữ trở về quê sinh sống. Trong số đó, một số người còn nặng lòng với nhà vua bèn kiếm mảnh đất ngay chân núi Yên Tử để sinh sống.

Rồi thời gian cứ thế trôi đi, các cung tần mỹ nữ dưới dãy Yên Tử cũng lấy chồng rồi sinh con đẻ cái. Hàng trăm năm sau, nơi bản nghèo này vẫn còn lưu lại biết bao con cháu của những cung tần một thời.


Chuyện khó tin về ‘hòn đá hưng phấn’ và vùng đất mỹ nhân
Suối Rọng Gà 

Câu chuyện tương truyền về suối Rọng Gà bắt nguồn từ việc có một đôi nam nữ yêu nhau, người con gái đó có vẻ đẹp như hoa như ngọc nhưng vì việc dùng “mỹ nhân kế” của một số quan lại mà cô đã phải chia tay người yêu để vào cung tiến vua.

Người con trai đau xót trước sự chia lìa đó, bỏ lên khu vực núi Lái Am ngồi khóc và chết tại đây.

Còn về phần cô gái, sau khi bị tiến cúng vào cung cũng ngày đêm nhớ thương người yêu, khóc nhiều và bị hỏng một con mắt. Nhà vua đến thăm và biết đến chuyện tình cảm động của cô gái, cũng như tấm lòng thủy chung sắc son của nàng nên đã cho cô gái được trở về quê đoàn tụ với gia đình và người yêu.

Về đến quê nhà, biết tin người yêu nhớ thương mình và mất, cô gái đến khu Lái Am nơi chàng trai ra đi ngồi khóc nhớ thương người yêu và mất tại đây, nước mắt của cô tạo thành dòng suối Rọng Gà.


Chuyện khó tin về ‘hòn đá hưng phấn’ và vùng đất mỹ nhân
Chị Bàn Thị Hải, 44 tuổi, người bản Mậu 

Hòn đá lạ

Ông Dương cho biết: “Từ lòng đất khu vực Lái Am chảy ra một dòng nước trong veo, mát lạnh, cạnh đó có một tảng đá với 2 mặt lõm hình thuyền đối xứng nhau, một bên to một bên nhỏ. Người đân bản Mậu gọi là “hòn đá đĩ” hay hòn đá âm dương.

Phía hạ nguồn dòng suối chảy qua, người bản Mậu có đào một cái giếng dùng cho việc sinh hoạt hàng ngày. Nguồn nước đó bắt mạch từ Lái Am, và những bà mẹ nào muốn con cái trở nên xinh đẹp thì thường xuyên tắm gội và dùng nước ở mạch giếng này”.

Nói về vẻ đẹp của thiếu nữ khi tắm ở mạch nước giếng này bà Bàn Thị Duyên vui vẻ nói: “Thiếu nữ trong bản chỉ cần ra giếng tắm gội là làn da trở nên mịn màng như trứng gà bóc, mái tóc mượt mà. Mà điều kỳ lạ là chỉ những cô gái của bản Mậu khi tắm ở mạch nước này mới có được sự may mắn đó còn những người con gái ở bản khác thì không.


Chuyện khó tin về ‘hòn đá hưng phấn’ và vùng đất mỹ nhân
Trịnh Thị Hương (SN 1983) tham gia cuộc thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam và đạt giải người đẹp hoa Cúc. 

Chính vì thế, ngày xưa con trai bản Mậu không lấy được con gái trong bản, ấm ức họ hò nhau làm thịt một con chó đen lấy tiết đổ xuống giếng và lấp bỏ giếng để gái làng không được dùng, trở nên xấu xí, không lấy được trai ở các làng khác mà phải lấy trai trong bản”.

“Cũng chính nơi mà trước đây người con trai và con gái trong câu chuyện cảm động “gái tiến vua” từng hẹn hò và mất đã xuất hiện một hòn đá với hình dáng kì lạ mà người dân nơi đây vẫn quen gọi là “hòn đá đĩ”.

Xoay quanh những câu chuyện kỳ bí về “hòn đá đĩ”, có không ít điều mà người dân nơi đây vẫn cho là bí hiếm khó lý giải, như khi qua khu vực này những đôi trai trẻ đều có nhu cầu cao về mặt sinh lý. Theo cách người dân nơi đây lý giải, “hòn đá đĩ”, hòn đá âm dương, hay “đá nứng” là cách gọi quen thuộc của người dân”, bà Duyên cho biết thêm.

Ông Dương giải thích về chuyện “hòn đá đĩ” tạo cảm hứng sinh lý khi trai gái đi qua rằng: “Chuyện những đôi trai gái đi qua hòn đá đều có nhu cầu sinh lý cao là do muốn lên núi hay xuống núi đều phải lội qua quãng suối nơi có hòn đá.

Quãng suối này đẹp, nước trong xanh, không khí mát mẻ, cảnh non nước hữu tình kỳ thú nên mọi người thường dừng lại để nghỉ ngơi rửa mặt trò chuyện. Cũng như nhiều nhà thơ khi có cảm hứng về nơi nào đó cuốn hút thường “tức cảnh sinh thơ”, trai gái bên nhau thì tức cảnh sinh tình”. Một không gian thiên nhiên hoang sơ mà hữu tình tạo ra cho con người sự hưng phấn, vậy nên trai gái khi tới đây đều có… cảm hứng là chuyện dễ hiểu”.

Ra ngõ là gặp mỹ nhân

Hồ hởi nói về vẻ đẹp của những thiếu nữ quê mình ông Dương cho biết: “Bản Mậu cũng là nơi xuất thân của không ít cô gái trong các cuộc thi người đẹp nhưng người đoạt giải cao nhất và là niềm tự hào của bản làng miền sơn cước là Trịnh Thị Hương”.

Theo ông Dương, Hương sinh năm 1983, từng là sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội. Năm 2007, Hương tham gia cuộc Hoa hậu các dân tộc Việt Nam và đạt danh hiệu Người đẹp Hoa cúc. Ngoài ra Hương còn đạt được nhiều giải thưởng tài năng: Giải nhì đẩy tạ tỉnh Bắc Giang, giải nhất chạy 100 mét, giải A bài hát dân tộc Dao...

“Con gái Dao ở bản Mậu da trắng, môi đỏ, xinh xắn, có nhiều nét thanh tú là được thừa hưởng từ mẹ và cũng có thể là dùng nguồn nước từ dãy núi Yên Tử. Trước đó, cô Bàn Thị Giảng cũng lọt vào Top 10 hoa hậu vùng núi phía Bắc đấy”, ông Dương cho biết thêm.

Chưa hết vui mừng ông Dương còn kể thêm một số cái tên mà ông nói người dân nơi đây luôn lấy làm niềm tự hào như Trịnh Thị Tuyết (SN 1993) hiện đang là sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Ngô Gia Tự - Bắc Giang. Năm 2012, Tuyết tham gia Hội thi Người đẹp Văn hóa Thể thao và Du lịch các dân tộc tỉnh Bắc Giang lần thứ nhất và đạt giải người đẹp thân thiện.

Anh Bàn Văn Thành, Trưởng thôn Mậu cho biết, bản Mậu có không ít những cô gái có vẻ đẹp bề ngoài bắt mắt nhưng còn cái duyên ngầm của con gái bản Mậu thì phải thật tinh tế mới biết, nó thể hiện ở sự khéo léo trong giao tiếp, ăn nói nhỏ nhẹ, lịch thiệp.

Mặc dù có nhiều cuộc thi sắc đẹp mở ra, nhưng vì hạn chế về trình độ học vấn và điều kiện kinh tế còn khó khăn nên con gái bản Mậu vẫn chịu nhiều thua thiệt. Tuy nhiên, hiện nay cách sống thành thị cũng đã du nhập về nơi đây khiến cách ăn mặc, đầu tóc của không ít thiếu nữ bị cuốn theo.

(Theo VTC)

Mảnh giấy cổ tiết lộ về hôn nhân của Chúa Giêxu



Một nhà sử học của trường đại học Harvard vừa giải mã xong một mảnh giấy cói đã mờ có từ thế kỷ thứ 4 đề cập đến vợ của Chúa Giêxu.
Mảnh giấy cói được viết bằng ngôn ngữ Coptic đề cập đến cuộc nói chuyện của Giêxu về vợ.
Một dòng chữ trong mảnh giấy bị xé nát này viết “ Giêxu nói với họ rằng ‘Vợ ta...’ ” và những dòng sau có viết: “Cô sẽ là môn đồ của ta”.
Tác giả của phát hiện này, Karen King, nhà sử học nghiên cứu về đạo Cơ Đốc thời kỳ đầu, là tác giả của nhiều cuốn sách viết về những phát hiện các bản Phúc Âm mới và là giáo sư khoa thần học tại trường đại học Harvard. King lần đầu tiên được tiếp cận với mảnh giấy này vào năm 2011 và từ đó đến nay bà không ngừng nghiên cứu về nó cùng với sự giúp đỡ của một nhóm các học giả khác.
Theo NewYork Times, bà và các cộng sự đã kết luận rằng mảnh giấy chỉ to tấm danh thiếp này không phải là giả mạo và sẽ trình bày phát hiện của mình tại Hội nghị Quốc tế về Nghiên cứu Giáo phái Coptic tại Rome.
Mảnh giấy này được viết theo tiếng Coptic, ngôn ngữ được các nhà truyền giáo Cơ Đốc thời xưa ở Ai cập sử dụng, vẫn chưa rõ có nguồn gốc từ đâu và ai là chủ sở hữu mảnh giấy này. Các học giả cho rằng mảnh giấy này có thể khơi mào cho nhiều cuộc tranh luận có từ rất lâu: Chúa Giêxu đã kết hôn? Mary Magdalene có phải là vợ của ông và ông đã nhận bà là môn đệ?
“Mảnh giấy này cho thấy những người theo đạo Cơ Đốc từng truyền miệng rằng Đức Chúa Giêxu đã kết hôn. Có một cuộc tranh luận như chúng ta đã từng biết từ hồi thề kỷ thứ hai về việc  Giêxu đã kết hôn hay chưa”, bà Karen nói.
Theo như báo The Times, các nhà nghiên cứu văn bản trên giấy cói và nhà nghiên cứu ngôn ngữ Coptic cho rằng họ bị thuyết phục bởi tính xác thực của mảnh giấy nhờ vào vết mờ của mực trên giấy cói và những vết mực dính trên những mép giấy. Từ ý tưởng, chữ viết cho đến văn phạm trong mảnh giấy hầu như không thể nào làm giả được.
LiveScience cho biết một số dòng chữ trong mảnh giấy rất giống với những đoạn trích trong Phúc Âm của Thomas và Mary, đều được viết từ cuối thế kỷ thứ hai và được dịch sang ngôn ngữ Coptic. Giáo sư King đoán rằng mảnh giấy này cũng được sao chép từ một đoạn trích bằng tiếng Hi Lạp ở thế kỷ thứ hai.
  • Phúc Nguyễn

10 khám phá ngoài sức tưởng tượng trong vũ trụ


Thứ tư, 2014-03-19 07:12:03 - Nguồn: InfoNet.vn
Những vật thể quan trọng trong vũ trụ được khám phá sau đây đã ghi dấu thành tựu đỉnh cao của trí tuệ và vươn xa trí tưởng tượng của con người.

Cực tiểu hành tinh Vào đầu năm 2013, Đài quan sát vũ trụ Kepler (thuộc NASA, Mỹ) đã phát hiện ra một hệ thống sao gồm ba hành tinh, trong đó có một hành tinh nằm ngoài Hệ Mặt trời được xem là nhỏ nhất cho đến thời điểm hiện tại. Cực tiểu hành tinh này được các nhà khoa học đặt tên là Kepler 37-b. Kích thước của nó còn nhỏ hơn sao Thủy và chỉ lớn hơn đường kính của Mặt Trăng 200km. Theo các nhà khoa học, hầu hết các hành tinh nằm ngoài Hệ Mặt trời đều có kích thước lớn hơn nhiều so với Trái Đất, và thường bằng kích thước của sao Mộc.

Bong bóng Fermi siêu khổng lồ của dải Ngân Hà
Nếu xoay dải Ngân Hà theo phương ngang, chúng ta sẽ quan sát thấy những bong bóng Fermi khổng lồ trải dài ở hai mặt phẳng Bắc và Nam của trung tâm Ngân Hà. Bong bóng Fermi là hai tinh cầu siêu khổng lồ, có đường kính lên đến 50.000 năm ánh sáng, tương đương với ½ đường kính của dải Ngân Hà. Các nhà thiên văn học của NASA đến nay vẫn chưa tìm ra nguồn gốc xuất xứ của bong bóng Fermi. Theo giả thuyết, bong bóng Fermi hình thành từ lượng khí phun trào từ các lỗ đen siêu khổng lồ trong lõi Ngân Hà của chúng ta.
 

Theia
Hơn 4 tỉ năm về trước, Hệ Mặt trời khởi nguyên của chúng ta trông rất hỗn độn và cực kỳ nguy hiểm. Một trong những lý thuyết phổ biến về sự ra đời của Mặt Trăng được cho là bắt nguồn từ một trong những vụ va chạm cực đại này. Theo các nhà khoa học, Trái đất thời nguyên thủy đã va chạm với một hành tinh có cùng kích cỡ với sao Hỏa tên là Theia. Sau vụ va chạm mảnh vỡ còn sót lại đã nằm trong quỹ đạo của Trái đất và hình thành nên Mặt trăng như ngày nay.
 

Bức tường thiên hà khổng lồ Sloan Bức tường khổng lồ Sloan (Sloan Great Wall) là một bức tường thiên hà siêu khổng lồ, tập hợp hàng trăm triệu ngân hà lớn nhỏ khác nhau trong vũ trụ. Đây được xem là một trong những cấu trúc lớn nhất trong vũ trụ từ trước tới nay, với đường kính lên đến 1,4 tỷ năm ánh sáng. Theo các nhà khoa học, Sloan Great Wall là kết quả trực tiếp từ vụ nổ Big Bang và có thể quan sát được dưới bước sóng ngắn.
Lỗ đen cực tiểu
Không có gì đáng sợ và nguy hiểm hơn các lỗ đen trong vũ trụ, chúng được mệnh danh là những “chiếc hố tử thần” hay “kẻ giết người ghê rợn” trong vũ trụ bao la. Các nhà thiên văn học đã từng khám phá ra rất nhiều lỗ đen siêu khổng lồ, có kích thước lớn gấp hàng tỉ lần so với Mặt trời. Nếu lỗ đen được các nhà thiên văn học phát hiện trước kia có khối lượng gấp 14 lần Mặt trời thì lỗ đen cực tiểu này chỉ lớn hơn Mặt trời 3 lần. Có tên khoa học là IGR, lỗ đen này thuộc chòm sao Bọ Cạp trong dải Ngân hà. Mặc dù bé, nhưng lỗ đen IGR vẫn có thể dễ dàng hút các hành tinh khi bay lạc trong vũ trụ.

Thiên hà siêu nhỏ
Các thiên hà vốn được biết cấu trúc khổng lồ, tập hợp hàng nghìn tỉ ngôi sao xen  lẫn bụi, khí và vật chất tối bao quanh. Tuy nhiên, vào năm 2009 các nhà khoa học Mỹ đã phát hiện ra một thiên hà cực nhỏ có tên là Segue 2. Thiên hà lùn này chỉ chứa khoảng 1000 ngôi sao, trở thành một trong những vệ tinh nhỏ và mờ nhạt nhất trong dải Ngân hà của chúng ta. Việc khám phá ra Segue 2 có ý nghĩa rất lớn đối với toán học và thiên văn, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hình thành của thiên hà và bổ sung thêm bằng chứng về sự tồn tại của lỗ đen.

 

Hố va chạm lớn nhất Hệ Mặt trời
Kể từ khi chúng ta bắt tay vào nghiên cứu sao Hỏa một cách tường tận thì đã có nhiều tranh cãi liên quan đến việc tìm ra nguyên nhân khiến cho bề mặt sao Hỏa lồi lõm không đều như vậy. Sở dĩ có hiện tượng này là do, theo các nhà khoa học, hố va chạm lớn nhất Hệ Mặt trời được tìm thấy trên phần lưu vực Borealis thuộc bán cầu bắc ở sao Hỏa. Hố này rộng đến 8.500 km (chiếm 40% diện tích bao phủ bề mặt sao Hỏa). Hố va chạm lớn thứ hai Hệ Mặt trời cũng thuộc sao Hỏa nhưng có kích thước nhỏ hơn 4 lần. Các nhà khoa học kết luận rằng, để có được miệng hố lớn đến như vậy thì vật thể va chạm vào sao Hỏa phải có kích thước lớn hơn sao Diêm vương.

 

Điểm cận nhật nhất trong Hệ Mặt trời
Các nhà khoa học đã phát hiện ra tiểu hành tinh có tên khoa học là 2000 BD19 là thiên thể nằm gần Mặt trời nhất so với các hành tinh khác, đặc biệt là sao Thủy, trong hệ Mặt trời. Vì nằm gần Mặt trời nên tiểu hành tinh với quỹ đạo nhỏ nhất này có nhiệt độ nóng khủng khiếp. Nhiệt độ tại 2000 BD19 có thể làm tan chảy kẽm, chì. Nhờ phát hiện ra tiểu hành tinh cận nhật nhất này, các nhà khoa học có thêm một bước tiến trong việc tìm hiểu những yếu tố có thể làm thay đổi hướng quỹ đạo của một hành tinh, từ đó có thể nghiên cứu tỉ mỉ các vật thể gần Trái Đất hơn.

 

Chuẩn tinh cực già
Chuẩn tinh là những vật thể sáng nhất và xa nhất trong phần vũ trụ nhìn thấy, chúng còn có tên là “nguồn phát bức xạ giống sao”. Các nhà thiên văn học đã phát hiện ra một chuẩn tinh và đặt tên là ULAS J1120+0641. ULAS được xem là chuẩn tinh già nhất trong vũ trụ. Nó xuất hiện khoảng 800 triệu năm sau vụ nổ Big Bang. Được biết, chuẩn tinh có nguồn gốc từ lỗ đen siêu nặng, bay trong vũ trụ với vận tốc bằng 240.000km/giây, tương đương với 80% vận tốc ánh sáng.


Mặt trăng Titan của sao Thổ

Tàu thăm dò vũ trụ Cassini từng gửi về Trái Đất những hình ảnh tuyệt đẹp của bề mặt Mặt trăng Titan của sao Thổ. Khu vực dài 1000 km ở cực Bắc Mặt trăng này tuy không có nước tồn tại nhưng lại chứa đầy methane và ethane ở dạng lỏng. Titan là vệ tinh lớn nhất của sao Thổ, có đường kính lớn hơn 50% so với Mặt trăng của Trái Đất. Do có bầu khí quyển đặc biệt, phần lớn là khí nitơ, nên các nhà khoa học đang mất rất nhiều thời gian để tìm hiểu nguồn gốc của nó.

 

Trang Ly (lược dịch từ listverse.com)

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Live Science vừa công bố chứng cứ Phúc âm về Chuyện Chúa Giêsu đã có vợ : Nghi ngờ Lớn về Tiêu đề cổ đại

LiveScience.com


Tin Mừng của Giu-đa dường như là đích thực thứ 3 thế kỷ . Đoạn này của một giấy cói , được biết đến ...




'Gospel of Jesus's Wife': Doubts Raised About Ancient Text
.

Tính xác thực của " Tin Mừng về Vợ của  Giêsu  đã được tranh luận từ giấy cói đã được tiết lộ vào năm 2012. Bây giờ, thông tin mới phát hiện bởi Live Science làm tăng sự thắc mắc về nguồn gốc của mảnh giấy cói .Phúc âm , được viết trong ngôn ngữ Coptic Ai Cập cổ đại , đã có những tiêu đề kể từ khi giáo sư Đại học Harvard Karen King công bố phát hiện ra nó . Với kích thước của Business Card mảnh chứa các dòng chữ đượv dịch " Chúa Giêsu nói với họ:" Vợ tôi ... " và cũng đề cập đến một " Mary ", có thể Mary Magdalene. Nếu xác thực, giấy cói cho thấy rằng một số người tin rằng trong thời cổ đại mà Chúa Giêsu và Mary Magdalene đã kết hôn .
Mary Magdalene Photo: Private Collection / Bridgeman Art Library / Courtesy of IAP Fi 

 Tại thời điểm phát hiện, King phỏng đoán ​​ngày giấy cói hiện diện cho đến thế kỷ thứ tư , nói rằng nó có thể là một bản sao của một phúc âm được viết trong thế kỷ thứ hai trong tiếng Hy Lạp . [ Đọc dịch của Papyrus ]Gần đây, một số xét nghiệm khoa học được công bố trên tạp chí Harvard thần học đánh giá đã cho thấy giấy cói là xác thực, nhưng một số học giả , trong đó có giáo sư Đại học Brown Leo Depuydt , tranh cãi  tính xác thực của giấy cói .Chủ sở hữu hiện tại của tài liệu đã khẳng định giữ kín danh tính , và King đã không được tiết lộ danh tính của người đó. Tuy nhiên , trong một bài báo Harvard thần học đánh giá gần đây , King đã công bố một hợp đồng cung cấp bởi chủ sở hữu vô danh hiện tại mà King nói cho biết ông đã được mua nó, cùng với năm mảnh giấy cói Coptic khác , từ một người tên là Hans -Ulrich Laukamp trong tháng 11 năm 1999 và Laukamp đã có được nó vào năm 1963 từ Potsdam trong khi đó Đông Đức.Xuất xứ của một giấy cói 
Trong một nỗ lực để xác nhận nguồn gốc của giấy cói và khám phá lịch sử của nó , Live Science đã đi tìm kiếm thêm thông tin về Laukamp và con cháu , đối tác kinh doanh hoặc bạn bè của anh ta . 
Phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng Laukamp là một đồng sở hữu của Tổng công ty ACMB - Mỹ hiện nay không còn tồn tại cho phay và Boreworks ở Venice , Florida tài liệu nộp tại Sarasota , Florida, cho thấy Laukamp đã có trụ sở tại Đức vào thời điểm ông qua đời vào năm 2002 và một người tên là René Ernest được đặt tên là đại diện tài sản của ông trong Sarasota County. [ Bằng chứng của Chúa Giêsu Kitô ? 7 miếng bằng chứng tranh luận ]X
 Tin Mừng về người Vợ của Chúa Giêsu  ' : Nghi ngờ gia tăng ...Người phát hiện ra các " Tin Mừng về người Vợ Chúa Giêsu  " nói giấy cói đã được mua từ Hàn ...Trong một cuộc trao đổi của các email bằng tiếng Đức, Ernest nói rằng Laukamp đã không thu thập cổ vật , không sở hữu giấy cói này và , trên thực tế , đang sống ở Tây Berlin vào năm 1963 , vì vậy ông không thể vượt qua bức tường Berlin vào Potsdam. Laukamp , ông nói, là một toolmaker và không quan tâm đến những điều cũ . Trong thực tế, Ernest đã ngạc nhiên khi biết rằng tên Laukamp đã bị liên quan đến giấy cói này .Trong khi các tài liệu đặt tên cho nó là đại diện của bất động Laukamp ở Sarasota , hai người đàn ông không liên quan , và Ernest không nhận được thừa kế, Ernest nói thêm rằng , theo như ông biết , Laukamp không có con và không có cuộc sống người thân.Ernest đã không trả lời câu hỏi cụ thể về việc ông và Laukamp đến để biết nhau , nhưng rõ ràng từ các tài liệu đặt tên Ernest như đại diện bất động sản mà Laukamp đặt rất nhiều niềm tin vào anh ; một đối phó với Ernest và những ngày bất động để khi Laukamp vẫn còn sống và có chữ ký của ông .Một người quen của Laukamp - Axel Herzsprung , cũng là một đồng sở hữu của ACMB - Mỹ Tổng công ty Phay và Boreworks - nói Sống Khoa học (bằng tiếng Đức trong một email ) trong khi Laukamp thu thập đồ lưu niệm trong các chuyến đi , ông không bao giờ nghe nói về anh ta có một giấy cói . Để kiến thức của mình , Laukamp đã không thu thập cổ vật , Herzsprung nói.Live Science tìm kiếm người thân sống khác , kiểm tra các bản ghi trong Sarasota County, và liên lạc với một gia đình Laukamp sống ở Florida , nhưng chúng không liên quan. Theo như chúng tôi có thể nói , Ernest là chính xác, và Laukamp không có người thân .nhiều câu hỏiTrong bài viết Harvard Thần Học Review, King lưu ý rằng cô cũng nhận được, từ chủ sở hữu vô danh hiện tại, một bản sao của một " thư ký đánh máy và gửi đến HU Laukamp " mà ngày đến ngày 15 Tháng Bảy năm 1982 , từ Peter Munro , một giờ - chết giáo sư tại Đại học Freie Berlin.King đã viết rằng bức thư nói rằng " một đồng nghiệp, giáo sư Fecht , đã xác định một trong những bản giấy cói của ông Laukamp là có chín dòng của văn bản, kích thước khoảng 110 bằng 80 mm, và có chứa văn bản từ Tin Mừng Gioan ... "King lưu ý rằng tài liệu này không đề cập đến về người Vợ  của Giê Su một cách rõ ràng . Tuy nhiên, nếu Ernest và Herzsprung là chính xác, và không bao giờ thu thập cổ vật Laukamp , câu hỏi sẽ là: Tại sao và như thế nào tài liệu này tồn tại? Munro qua đời vào năm 2009, và " Giáo sư Fecht " chưa Gerhard Fecht , một giáo sư tại Ai Cập Freie Đại học Berlin đã qua đời vào năm 2006, King đã viết trong bài viết của mình .Các lập luận chống lại tính xác thực của giấy cói by Depuydtand những người khác rất phức tạp, nhưng một vấn đề quan trọng , họ trích dẫn là văn bản Coptic là đầy đủ các lỗi , đến mức khó có thể tin rằng một nhà văn Coptic cổ có thể đã sáng tác nó .Nó không biết liệu các học giả sẽ không bao giờ chắc chắn rằng văn bản là xác thực. Thêm thông tin về nguồn gốc của nó có thể được tìm thấy trong tương lai.Live Science liên lạc với King nhiều lần qua điện thoại và thư điện tử bắt đầu từ Thứ Tư Tháng tư 16 , và nhận được trả lời . Một đại diện của Đại học Harvard đã xác nhận rằng King nhận lời yêu cầu bình luận của chúng tôi .Jonathan Beasley , trợ lý giám đốc truyền thông tại Thần học Harvard , nói rằng King chưa sẳn sàng cho một cuộc phỏng vấn với Live Science . Tuy nhiên , Live Science đã gửi thông tin chi tiết của mình trên tìm kiếm của chúng tôi với bối cảnh của Laukamp  .Owen Jarus đang tiếp tục nhìn vào lịch sử của giấy cói . Nếu bạn có bất cứ lời khuyên , hãy gửi email cho anh atowenjarus@gmail.com .

 Gospel of Jesus's Wife': Doubts Raised About Ancient Text


'Gospel of Jesus's Wife': Doubts Raised About Ancient Text
.

View gallery
The Gospel of Judas appears to be authentically 3rd-century. This fragment of another papyrus, known …

The authenticity of the "Gospel of Jesus's Wife" has been debated since the papyrus was revealed in 2012. Now, new information uncovered by Live Science raises doubts about the origins of the scrap of papyrus.

The gospel, written in the ancient Egyptian language Coptic, has made headlines ever since Harvard University professor Karen King announced its discovery. The business-card-size fragment contains the translated line "Jesus said to them, 'My wife …'" and also refers to a "Mary," possibly Mary Magdalene. If authentic, the papyrus suggests that some people believed in ancient times that Jesus and Mary Magdalene were married.

At the time of the discovery, King tentatively dated the papyrus to the fourth century A.D., saying it may be a copy of a gospel written in the second century in Greek. [Read Translation of Papyrus]

Recently, several scientific tests published in the journal Harvard Theological Review have suggested the papyrus is authentic, but a number of scholars, including Brown University professor Leo Depuydt, dispute the papyrus's authenticity.

The document's current owner has insisted on remaining anonymous, and King has not disclosed the person's identity. However, in a recent Harvard Theological Review article, King published a contract provided by the current anonymous owner that King said indicates it was purchased, along with five other Coptic papyrus fragments, from a man named Hans-Ulrich Laukamp in November 1999 and that Laukamp had obtained it in 1963 from Potsdam in then-East Germany.

Provenance of a papyrus

In an effort to confirm the origins of the papyrus and discover its history, Live Science went searching for more information about Laukamp and his descendents, business partners or friends.

Our findings indicate that Laukamp was a co-owner of the now-defunct ACMB-American Corporation for Milling and Boreworks in Venice, Fla. Documents filed in Sarasota County, Fla., show that Laukamp was based in Germany at the time of his death in 2002 and that a man named René Ernest was named as the representative of his estate in Sarasota County. [Proof of Jesus Christ? 7 Pieces of Evidence Debated]
View gallery
'Gospel of Jesus's Wife': Doubts Raised …
The discoverer of the "Gospel of Jesus's Wife" says the papyrus was purchased from Han …

In an exchange of emails in German, Ernest said that Laukamp did not collect antiquities, did not own this papyrus and, in fact, was living in West Berlin in 1963, so he couldn't have crossed the Berlin Wall into Potsdam. Laukamp, he said, was a toolmaker and had no interest in old things. In fact, Ernest was astonished to hear that Laukamp's name had been linked to this papyrus.

While the documents name him as the representative of Laukamp's estate in Sarasota County, the two men are not related, and Ernest did not receive an inheritance, Ernest said, adding that, as far as he knows, Laukamp had no children and has no living relatives.

Ernest did not respond to specific questions about how he and Laukamp came to know each other, but it is clear from documents naming Ernest as estate representative that Laukamp placed a great deal of trust in him; one dealing with Ernest and the estate dates to when Laukamp was still alive and has his signature.

Another acquaintance of Laukamp — Axel Herzsprung, who was also a co-owner of ACMB-American Corporation for Milling and Boreworks — told Live Science (in German in an email) that while Laukamp collected souvenirs on trips, he never heard of him having a papyrus. To his knowledge, Laukamp did not collect antiquities, Herzsprung said.

Live Science searched for other living relatives, checking for records in Sarasota County, and contacted a Laukamp family living in Florida, but they are unrelated. As far as we could tell, Ernest is correct, and Laukamp has no living relatives.

More questions

In the Harvard Theological Review article, King noted that she also received, from the current anonymous owner, a copy of a "typed and signed letter addressed to H. U. Laukamp" that dates to July 15, 1982, from Peter Munro, a now-deceased professor at the Freie University Berlin.

King wrote that the letter said that "a colleague, Professor Fecht, has identified one of Mr. Laukamp's papyri as having nine lines of writing, measuring approximately 110 by 80 mm, and containing text from the Gospel of John ..."

King noted that this document doesn't mention the Gospel of Jesus's wife explicitly. However, if Ernest and Herzsprung are correct, and Laukamp never collected antiquities, the question becomes: Why and how does this document exist? Munro died in 2009, and the "Professor Fecht" may be Gerhard Fecht, an Egyptology professor at the Freie University Berlin who passed away in 2006, King wrote in her article.

The arguments against the papyrus's authenticity byDepuydtand others are complex, but a key problem they cite is that the Coptic text is full of errors, to the extent that it is hard to believe that an ancient Coptic writer could have composed it.

It's not known whether scholars will ever be certain that the text is authentic. More information on its provenance may be found in the future.

Live Science contacted King several times by phone and email beginning Wednesday, April 16, and received no response. A Harvard University representative has confirmed that King received our requests for comment.

Jonathan Beasley, the assistant director of communications at Harvard Divinity School, told Live Science that King is not available for an interview. However, Live Science did send her detailed information on our search into Laukamp's background.

Owen Jarus is continuing to look into the history of the papyrus. If you have any tips, please email him atowenjarus@gmail.com.

 http://news.yahoo.com/gospel-jesuss-wife-doubts-raised-ancient-text-154116530.html