Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

S. G. Parechina - Các lí thuyết về chính quyền nhà nước – tiếp theo và hết


Chương II

Các xu hướng chủ yếu trong việc phát triển quan điểm phân quyền

Từ khởi thuỷ quan điểm phân quyền đã phát triển theo các xu hướng sau đây.

Thứ nhất, quan điểm phân quyền được hình thành như là sự phủ định về mặt tư tưởng và chính trị các thể chế quân chủ chuyên chế và toàn trị, nhất định sẽ dẫn tới và trong nhiều trường hợp đã dẫn tới việc phủ nhận chính các chế độ quân chủ lập hiến và thành lập chế độ cộng hoà, một hình thức quản lí nhà nước dân chủ hợp lí nhất. Những nước vẫn còn giữ thể chế quân chủ lập hiến thì chế độ quân chủ chỉ còn mang tính hình thức và trong đa số trường hợp là biểu hiện của truyền thống dân tộc hơn là thực chất. Trong một số nước, thí dụ Anh quốc, hiện đang có những đòi hỏi về việc bãi bỏ chế độ quân chủ.

Thứ hai, việc chuyển sang chế độ cộng hoà đã dẫn đến quá trình hình thành các quốc gia thống nhất và các quốc gia theo thể chế liên bang. Trong các nước cộng hoà liên bang quan điểm phân quyền được bổ xung một khía cạnh cực kì quan trọng: quan hệ giữa liên bang và các chủ thể hợp thành trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Vấn đề trung tâm là chủ quyền của liên bang: liên bang giữ chủ quyền hay từng chủ thể có chủ quyền riêng? Đáp án cho câu hỏi này chính là tiêu chí chủ yếu để xác định các hình thức liên bang.

Trong quá khứ vấn đề chủ quyền trong liên bang không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối với các quốc gia như Mĩ, Cộng hoà Liên bang Đức và Thuỵ sĩ. Trên cơ sở đặc thù của các quốc gia đó mà người ta đưa ra ba phương án.

Theo phương án thứ nhất, đã dần dần thay thế hai phương án kia, thì chủ quyền hoàn toàn thuộc về liên bang vì chỉ có liên bang mới có toàn quyền trong việc tự quyết.

Phương án thứ hai xuất phát từ đặc điểm các hiệp ước thành lập liên bang với các qui định rõ ràng về đặc điểm của liên bang và công nhận chủ quyền của các chủ thể hợp thành.

Phương án thứ ba là thoả thuận phân chia chủ quyền giữa chính quyền liên bang và các chủ thể.

Vấn đề chủ quyền trong các nhà nước liên bang trở thành nóng hổi vào cuối thế kỉ XX và đã là lí do của nhiều cuộc xung đột vũ trang (Grudia, Nga, Nam tư) giành chủ quyền của các chủ thể hợp thành. Cho đến nay các cuộc xung đột này thực chất vẫn chưa được giải quyết một cách rốt ráo. Ngay tại Mĩ một nước với thể chế chính trị ổn định và đã trải qua hơn hai trăm năm kinh nghiệm liên bang mà năm 1995 tại bang Texas cũng đã xuất hiện tổ chức gọi là "Nước cộng hoà Texas" đòi tách bang này ra khỏi liên bang.

Thứ ba, cần phải nói rằng đến giữa thế kỉ XIX các nước có chủ quyền được coi là những chủ thể bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Nhưng càng ngày càng xuất hiện nhiều tổ chức quốc tế đóng vai trò độc lập trong quan hệ quốc tế.

Các tổ chức quốc tế phát triển rất nhanh. Nếu như các năm từ 1945 đến 1949 mới có 926 tổ chức thì trong giai đoạn 1983-1984 đã có tất cả 19.579 tổ chức quốc tế nghĩa là nhiều hơn giai đoạn 1981-1982 đến 5.000 tổ chức. Tổ chức quan trọng nhất trong số đó là Liên hiệp quốc và các tổ chức liên chính phủ mà đến nay con số này đã là hơn 300. Bên cạnh các nhà nước có chủ quyền, các tổ chức quốc tế cũng đã trở thành các chủ thể độc lập trong các quan hệ quốc tế.

Vai trò của các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng lên và đấy là chỉ dấu của sự xuất hiện một lĩnh vực hoàn toàn mới trong các quan hệ quốc tế. Các quan hệ quốc tế từ nay không chỉ được điều chỉnh bởi các nhà nước có chủ quyền mà còn bởi các tổ chức quốc tế đó nữa. Chính trong tình hình như vậy mà trong từ vựng môn chính trị học đã xuất hiện các khái niệm như: "nhà nước toàn cầu", "chính phủ toàn cầu", "quyền lực siêu quốc gia". v..v..

Sự kiện này là bằng chứng không thể chối cãi rằng quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, dù chưa hoàn thiện ngay trong các quốc gia phát triển nhất, đã vượt qua biên giới các quốc gia và càng ngày càng rõ nét trên bình diện quốc tế.

Đặc điểm của tiến trình lịch sử khách quan cho phép rút ra kết luận sau đây về xu hướng phát triển của quan điểm phân quyền. Trong quá khứ việc xuất hiện quan điểm phân quyền trùng hợp với quá trình dân chủ hoá đã dẫn đến việc chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến và cộng hoà. Ngày nay sự phát triển của nó lại dẫn đến việc từ bỏ quan niệm coi chủ quyền quốc gia là một cái gì đó đối nghịch với chủ quyền của tất cả các quốc gia khác. Quan niệm về việc ưu tiên các giá trị toàn nhân loại càng ngày càng được đông đảo quần chúng chấp nhận và đấy chính là nguyên tắc pháp lí dân chủ mang tính quốc tế trong quan hệ và hợp tác toàn diện giữa tất cả quốc gia có chủ quyền.

Quan hệ giữa các nhánh quyền lực cũng vẫn còn là vấn đề phức tạp. Nhánh năng động nhất chính là cơ quan hành pháp. Trong những thập kỉ gần đây, tại nhiều quốc gia, chức năng của nó đã biến đổi rất nhiều. Người ta đã đưa thêm vào nhiều hình thức và biện pháp thực thi pháp luật. Các phần tương ứng của hiến pháp cũng đã được viết lại. Tăng cường quyền lực cho các cơ quan hành pháp là xu hướng chủ đạo trong những thập kỉ vừa qua.

Cấn phải thấy rằng chức năng chính của chính quyền hành pháp là giải quyết các vấn đề quản lí tức thời, có tính linh hoạt. Chính quyền hành pháp có trách nhiệm tổ chức triển khai các chủ trương có tính nguyên tắc đã được ghi thành luật nghĩa là phải giải quyết nhiều vấn đề cụ thể trong đó có việc lập kế hoạch, cấp kinh phí, đảm bảo nguồn tài nguyên, thống kê và kiểm soát. Trong hoàn cảnh khi cần phải phản ứng nhanh đối với các điều kiện thay đổi rất nhanh trong xã hội hoặc trong những lĩnh vực khác nhau thì chính quyền hành pháp đôi khi không đủ căn cứ luật pháp để giải quyết các vấn đề cấp bách. Chính quyền buộc phải quyết định các biện pháp cụ thể trong giới hạn chức trách của mình. Như vậy hành pháp không chỉ tiếp nhận và thực thi luật pháp mà còn tự mình ban hành các văn bản pháp qui hoặc đưa ra các dự thảo luật nữa. Trong thời gian giữa thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai nhiều chính phủ đã được giao quyền ban hành các văn bản pháp qui và như vậy là đã hạn chế quyền của các cơ quan đại diện (ngược lại với quan điểm của Locke)

Sau chiến tranh thế giới thứ hai nhiều nước đã đưa vào hiến pháp các điều khoản nhằm giữ cho chính phủ ổn định. Nếu như trước đây muốn buộc chính phủ từ nhiệm thi chỉ cần quốc hội (thường là hạ viện) biểu quyết với đa số phiếu bất tín nhiệm thì ngày nay (hiến pháp 1949 của Cộng hoà liên bang Đức) phải cử thủ tướng mới rồi mới bãi nhiệm được thủ tướng cũ. Tại Pháp (hiến pháp 1958) và Tây ban nha (hiến pháp 1978) cũng đã có những điều khoản nhằm tăng cường sự ổn định của chính phủ.

Người ta phải có những biện pháp nhằm ổn định chính quyền hành pháp như thế là do trong xã hội đã xuất hiện những quyền lợi khó dung hoà giữa các lực lượng chính trị khác nhau, có thể dẫn đến khủng hoảng. Pháp luật không còn giữ được vai trò của mình và quốc hội không thể tự mình chặn đứng được các hiện tượng tiêu cực. Nhưng trong hoàn cảnh đó dễ xảy ra khả năng là chính quyền hành pháp sẽ tiếm quyền, sẽ giành lấy tất cả quyền hành của các nhánh khác và thiết lập chế độ độc tài. Vì vậy trong mọi quốc gia, ngay cả khi quốc gia đó rơi vào khủng hoảng kinh tế hay chính trị, chính quyền hành pháp đều phải nằm dưới quyền kiểm soát của quốc hội và toà án và mọi hoạt động của nó đều phải được công khai hoá.

Một vấn đề đáng quan tâm nữa là việc phân quyền ngay trong chính các nhánh quyền lực độc lập: việc chia cơ quan lập pháp thành các viện (thường là hai viện), các viện này thể hiện quyền lợi của các nhóm chính trị và xã hội khác nhau như dân tộc và quốc gia, đảng phái, v.v. hoặc phân chia theo quyền lực và chức năng. Quan hệ giữa các viện cũng thay đổi rất nhiều. Trước hết đấy là qui chế của thượng viện. Hạ viện bao giờ cũng được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu. Trong khi đó thành phần, số lượng thượng nghị sĩ cũng như chức năng của thượng viện đã thay đổi theo hướng giảm bớt và trong nhiều trường hợp hạ viện đã "giành" hết quyền của thượng viện, vô hiệu hoá các quyết định của nó.

Lúc đầu, khi mới thành lập, thượng viện mang tính chất quí tộc: do chỉ định hoặc theo thế tập. Nhưng ngay từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất đã xuất hiện các quốc hội mà các thượng nghị sĩ cũng được bầu như ở Bỉ (1831) và Hà lan (1815). Trong thời gian này cũng xuất hiện các quốc hội có một viện như Hi lạp (1864), Bungari (1879) và Sec (1903).

Xu hướng giảm bớt vai trò của thượng viện thậm chí xoá bỏ hoàn toàn thượng nghị viện còn tiếp tục phát triển trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến và nhất là sau chiến tranh trế giới thứ hai. Tại Anh, bằng các nghị định ban hành vào các năm 1911 và 1949 chức năng lập pháp của Viện nguyên lão đã bị hạn chế rất nhiều. Thượng viện Pháp (Hiến pháp 1949) cũng bị tước bớt quyền hành so với thời còn nền Đệ tam Cộng hoà. Mặc dù ở Nhật thượng viện vẫn còn nhưng không còn quyền phủ quyết các quyết định của hạ viện và chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước hạ viện.

Việc đưa quá trình kiểm soát về mặt hiến pháp đối với các hoạt động của chính phủ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống phân quyền. Mô hình này xuất hiện lần đầu tiên ở Mĩ và cho đến nay vẫn được coi là mô hình truyền thống. Quyền này của các toà án không được ghi trong hiến pháp Mĩ, mà hình thành trên cơ sở pháp lệ (năm 1803 Tối cao Pháp viện Mĩ giành quyền kiểm soát này).

Trong khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến trong hiến pháp nhiều nước châu Âu đã xuất hiện mô hình toà án hiến pháp, khác hẳn với mô hình của Mĩ. Đấy là các cơ quan đặc biệt, hoạt động bên ngoài hệ thống tư pháp và hành chính truyền thống. Toà án hiến pháp theo mô hình này được thành lập ở Áo (1920); Tiệp (1920); Tây Ban Nha (1931). Sau thế chiến thứ hai tại Đức và Ý toà án hiến pháp cũng được thành lập; sau đó là Thổ Nhĩ Kì (1961), Nam Tư (1963), Pháp (1958). Ngày nay tại hầu hết các nước châu Âu đều đã thành lập thể chế này.


Chương III

Lí thuyết tập quyền và thực tiễn hoạt động của nó

Trong các quốc gia phương Đông cổ đại như Ai Cập, Babilon và các nước vùng Vịnh Ba Tư đã xuất hiện quan điểm về nhà nước tập quyền, toàn bộ quyền hành đều tập trung trong tay quốc vương. Quan điểm này xâm nhập dần dần vào các nước theo nền văn hoá Hi-La và đã giành được thế thượng phong trong đời sống chính trị tại khu vực này.

Trong thời Trung cổ nhà thờ Thiên chúa giáo đã giành được ảnh hưởng trong xã hội ngang với nhà nước, đã tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị giới hạn quyền lực của các vương triều. Đấy là các tổ chức có tính cách đại diện (quốc hội), hiệp hội các ngành nghề thủ công, thương gia và các trường đại học. Tuy không can thiệp trực tiếp, nhưng nhà thờ đã có ảnh hưởng về mặt tư tưởng đối với các đại diện của giai cấp cầm quyền và buộc nhà nước phải hành động trong khuôn khổ các nguyên tắc Thiên chúa giáo. Không nghi ngờ gì rằng nhà thờ đã phần nào hạn chế được các hành động độc đoán của chính quyền và trong nhiều trường hợp đã cản trở việc giải quyết một cách nhanh chóng các vấn đề chính trị.

Niccolo Machiavelli (1469-1527), một nhà tư tưởng người Ý, người đặt cho mình nhiệm vụ thiết lập cơ sở lí luận cho việc thống nhất nước Ý, trong các trước tác của mình (Quân vương) đã khảo sát kĩ lưỡng tư tưởng chính thể tập quyền. Trước hết Machiavelli tách nhà nước ra khỏi ảnh hưởng của nhà thờ. Theo mô hình của ông, giá trị của từng cá nhân không phải là điều mà nhà nước phải bận tâm. Mục đích của chính quyền là để đảm bảo quyền lực của chính nó.

Quyền lực được tập trung trong tay một người. Thực ra mô hình của Machiavelli phù hợp với giai đoạn quá độ, khi thể chế cũ sụp đổ và một thể chế mới đang hình thành. Để thành lập chế độ mới cần phải có quyền lực tập trung, để chiến thắng sự kháng cự và tiêu diệt các lực lượng thù địch của chế độ nhà vua phải nắm trọn quyền và thi hành chính sách chuyên chính.

Các trước tác của Machiavelli đã trở thành tác phẩm gối đầu giường của nhiều vua chúa châu Âu và đã là cơ sở để Jean Beauden (1530-1596), một luật sư người Pháp, đi sâu thêm vào lí thuyết nhà nước tập quyền. Là một người ủng hộ tích cực tư tưởng nhà nước trung ương tập quyền mạnh, ông đã đưa ra khái niệm cực kì quan trọng là chủ quyền quốc gia. Beauden cho rằng chính quyền quốc gia có quyền lực tối thượng, quyền lực này là tuyệt đối, thống nhất, độc lập, không bị giới hạn bởi bất kì luật lệ nào, có hiệu lực trong toàn quốc và với mọi thần dân.

Chủ quyền là thống nhất và bất khả phân, nó không thể được phân chia giữa các giai tầng và đẳng cấp xã hội hoặc giữa các thành phần hợp thành chính quyền. Như vậy là chủ quyền chỉ có thể thuộc về vị quân vương, tầng lớp quí tộc hay nhân dân. Là người bảo vệ chế độ quân chủ, Beauden cho rằng chỉ trong tay nhà vua chủ quyền mới thể hiện được hết bản chất tốt đẹp của nó. Chỉ có vương triều mới có thể bảo đảm được sự tập trung và thống nhất quốc gia. Trong tác phẩm Cộng hoà (1576), Beauden khẳng định rằng chính quyền tối cao là duy nhất và vĩnh cửu, không gián đoạn và thuộc về một người - nhà vua vừa ban hành luật, vừa cai trị, vừa trừng phạt. Nhà vua, theo quan điểm của Beauden, đứng trên tất cả. Vua là đại diện của một quốc gia thống nhất. Bên dưới vua là ba giai tầng: tăng lữ, quí tộc và nhân dân. Các giai tầng này có thể kìm chế chứ không được ngăn trở quyền lực tối thượng. Thể chế chính trị này gần với cơ cấu của vũ trụ, nơi có một Thượng đế toàn năng, duy nhất, vĩnh hằng cai quản.

Theo Beauden, chủ quyền và sự thống nhất quyền lực sẽ bảo đảm cho xã hội hoạt động một cách bình thường, bảo đảm pháp luật, sự ổn định và quan hệ hài hoà giữa các cơ quan chính quyền.

Một triết gia người Anh, ông Thomas Hobbes (1588-1679) trong tác phẩm Thuỷ quái (1651) đã đưa ra quan điểm cực đoan nhất về chế độ tập quyền và quyền lực tuyệt đối của vị quân vương. Theo ông, quyền uy tối thượng của nhà nước được đảm bảo với chế độ nhất nguyên, còn hình thức cai trị tốt nhất là chế độ quân chủ. Ý chí của nhà vua phải được coi là ý chí của toàn dân; quyền lực của nhà vua cao hơn luật pháp, không giới hạn và không bị trừng phạt; nhà vua không phải chịu trách nhiệm trước bất cứ tổ chức nào. Nhà nước được ông mô tả như là một thuỷ quái sẵn sàng hi sinh phẩm giá của các thần dân vì mục đích chung, còn quyền lực của nhà vua thì giống như quyền lực của các bạo chúa phương Đông, lập pháp và tư pháp chỉ là những con rối trong tay ông ta mà thôi.

Học thuyết này còn được một triết gia người Pháp, Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), đưa lên một tầm cao mới. Thế kỉ XIIX là thời kì hoàng kim của lí thuyết tập quyền, các nhà tư tưởng Khai sáng như Voltaire (1694-1778), Denis Diderot (1713-1784), Morelli và nhà kinh tế học François Quesnay (1694-1774) tin tưởng tuyệt đối vào chế độ quân chủ, coi đây là phương tiện hoàn hảo, nhớ nó người ta có thể tiến hành mọi cuộc cải cách.

Rousseau cho rằng chủ quyền là thống nhất và không thể chia cắt. Ông coi phân quyền là nhảm nhí và so sánh Montesquieu với hình ảnh một ảo thuật gia Nhật Bản khi người này xé một đứa trẻ con làm ba phần ngay trước mắt khán giả rồi tung lên không và lại đón được một đứa bé nguyên vẹn. Ta có thể hiểu được Rousseau vì lí thuyết phân quyền mâu thuẫn với nguyên lí quyền lực tuyệt đối cũng như mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung quyền lực nhà nước vào tay một cơ quan dân cử nắm quyền lực tuyệt đối.

Rousseau cho rằng tư tưởng đối trọng giữa các nhánh quyền lực độc lập có thể dẫn tới mâu thuẫn, ảnh hưởng của các cá nhân và chia cắt quốc gia. Tuy phủ nhận việc phân quyền theo quan niệm của Montesquieu nhưng Rousseau lại công nhận phải phân chia chức năng của các cơ quan quyền lực, ông cũng nhìn nhận sự khác nhau về nguyên tắc giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Lập pháp, trong quan niệm của ông, chính là chủ quyền quốc gia. Đấy chính là ý chí của nhân dân có chủ quyền và vì vậy phải điều chỉnh những vấn đề chung nhất, những vấn đề liên quan đến tất cả mọi người.

Rousseau cho rằng người làm ra pháp luập phải biết rõ hơn ai hết cách thực thi và sử dụng luật đó. Như vậy thể chế tốt nhất phải là thể chế trong đó hành pháp và lập pháp thống nhất làm một. Nhưng Rousseau lại kết luận rằng để tránh ảnh hưởng cá nhân cần phải có một cơ quan riêng (hành pháp) chuyên thực hiện việc biến các điều khoản chung nhất của luật thành những văn bản pháp qui.

Chính quyền hành pháp là lực lượng của một guồng máy chính trị do nhân dân thành lập vì vậy chỉ được coi là nô bộc đáng tin cậy của nhân dân mà thôi. Nhân dân giao quyền thực thi pháp luật cho những con người cụ thể, những người này phải hành động trong khuôn khổ của pháp luật và nằm dưới sự giám sát thường xuyên của cơ quan lập pháp nắm quyền lực tối thượng. Hơn nữa cơ quan hành pháp sẽ tự động bị tước quyền khi nhân dân tụ họp trên cơ sở của pháp luật để thực hiện các công việc chung. Như vậy là mặc dù có sự phân biệt giữa hành pháp và lập pháp, Rousseau không bao giờ cho phép quyền lực tách rời khỏi nhân dân.

Rousseau cho rằng sự hoạt động một cách đồng bộ của các cơ quan quyền lực sẽ được đảm bảo không phải là do sự chia tách và đối chọi, không phải do sự kiềm chế và đối trọng mà là dựa vào chính quyền lập pháp, một chính quyền thể hiện chủ quyền của toàn dân.

Morelli, một nhà triết học người Pháp tiếp tục phát triển học thuyết của Rousseau về uy quyền tuyệt đối của nhân dân và còn đi xa hơn khi cho rằng chỉ có chính quyền như vậy mới có thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản và hoàn thành được lí tưởng mà Thomas More (1478-1535) đặt ra.

Việc kết hợp giữa thượng tầng quản lí với hạ tầng cơ sở xã hội chủ nghĩa là giờ khắc vinh quang trong lịch sử nhân loại và đã trở thành sự kiện quyết định nhiều biến cố tiếp theo trong thế kỉ XIX và thế kỉ XX. Thomas More, một người mơ mộng đầy lòng nhân ái đã được Machiavelli, một người thực dụng sắt đá trợ giúp và cùng với ông ta là một nhóm các chuyên gia thí nghiệm vĩ đại như Jean-Paul Marat (1743-1793), Robespierre(1757-1794), Saint-Just, Babeuf (1760-1797), Lenin (1870-1924), Stalin (1878-1953), Hitler (1889-1945), Mao Trạch Đông (1893-1976), Pol Pot, Nicolae Ceausescu.

Những người Jacobin đã đưa học thuyết của Rousseau vào thực tiễn xây dựng chính quyền quốc gia. Nền chuyên chính Jacobin là thí nghiệm đầu tiên về xây dựng chủ nghĩa xã hội, một cuộc thí nghiệm chưa được hề chuẩn bị cho nên đã mau chóng kết thúc. Là uỷ viên Quốc ước, đồng thời là lãnh tụ của phái Jacobin, Maximilien Robespierre (1758-1794) ủng hộ nền "chuyên chế của nhân dân" và cho rằng phân quyền là một "ảo tưởng". Ông tuyên bố rằng tất cả các quan chức chính quyền đều là công bộc của dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Ngay trong hội nghị đầu tiên Quốc ước đã ra lệnh bãi bỏ chế độ quân chủ và tập hợp tất cả quyền hành vào tay mình và như vậy thực chất là bãi bỏ phân quyền. Đạo luật ban hành ngày 4 tháng 12 năm 1793 khẳng định rằng Quốc ước là "Trung tâm quyền lực duy nhất của quốc gia". Nền chuyên chế Jacobin đã tạo ra ở nước Pháp sự đàn áp, hoảng loạn, tố giác lẫn nhau, không còn ai dám tin ai, dẫn đến nạn thiếu hụt hàng hoá một cách nghiêm trọng. Nhưng những người Jacobin sống sót sau khi chế độ của họ cáo chung cũng như những người xã hội chủ nghĩa thế kỉ XIX đã không hề quan tâm đến những hiện tượng tiêu cực đó mà gán cho nó những ưu việt như: đã cứu nước Pháp khỏi sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài, trong một thời gian ngắn đã tiêu diệt hoàn toàn các tàn tích phong kiến ..v..v..

Huyền thoại rằng nền chuyên chính Jacobin là một hình thức chính quyền cực kì hiệu quả đã trở thành niềm tin không gì lay chuyển được của các phong trào cách mạng và giải phóng suốt thế kỉ XIX và thế kỉ XX. Không chỉ các nhà cách mạng cuồng tín mà cả các nhà trí thức và triết gia lỗi lạc như A. Gersen (1812-1870) và K. Marx (1818-1883) cũng tin như thế. Gersen từng viết: "Peter Đại đế và Quốc ước dạy ta bước đi bằng đôi hài bảy dặm, dạy ta bước thẳng từ tháng thụ thai đầu tiên sang tháng thứ chín".

Buonarroti (1761-1837), một người cộng sản-không tưởng, bạn của Babeuf đã đặt cơ sở lí thuyết cho nền chuyên chính Jacobin. Trong tác phẩm Âm mưu vì sự bình đẳng (1828) ông đưa ra hai luận điểm:
·        Giữa chế độ cũ và chế độ mới phải có giai đoạn quá độ.
·        Trong giai đoạn này chính quyền phải là chế độ chuyên chính cách mạng

Karl Marx (1818-1883) và Friedrich Engels (1820-1895) đã áp dụng các tư tưởng này vào học thuyết của mình về chiến thắng của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Theo họ chủ nghĩa xã hội không thể xuất hiện trong một sớm một chiếu, đây là cuộc đấu tranh trường kì trong đó có cả việc trấn áp sự kháng cự của các giai cấp đã bị lật đổ. Vì vậy giữa chế độ tư bản và chế độ cộng sản phải có một giai đoạn quá độ và "chính quyền trong giai đoạn này chỉ có thể là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản".

Sau khi đã đập tan và tiêu diệt bộ máy nhà nước cũ giai cấp vô sản phải thành lập chính quyền của mình, đấy là nền chuyên chính vô sản với hai nhiệm vụ chủ yếu sau đây: đàn áp sự kháng cự của các giai cấp đã bị lật đổ và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" viết năm 1848 hai ông cho rằng giai cấp vô sản cần giành chính quyền để tước đoạt toàn bộ vốn liếng của giai cấp tư sản, tập trung tất cả phương tiện sản xuất vào tay nhà nước, nghĩa là vào tay giai cấp vô sản.

Marx và Engels kịch liệt phê phán học thuyết phân quyền, theo họ quyền lực nhà nước ở đâu cũng là thống nhất và bất khả phân vì nhà nước là công cụ thống trị và đàn áp giai cấp, giai cấp thống trị không bao giờ chia quyền với giai cấp bị trị; chỉ có thể phân chia chức năng và công tác quản lí mà thôi.

Lời cảnh báo của Montesquieu rằng tập trung chức năng lập pháp và hành pháp vào một cơ quan sẽ tạo ra một chính quyền chuyên chế không được Marx quan tâm vì ông cho rằng trong nhà nước vô sản các hiện tượng bất thường đó không thể nào xảy ra được. Trong khi phân tích kinh nghiệm của Công xã Paris và phê phán chế độ đại nghị "tư sản", Marx viết rằng "công xã không thể là chế độ đại nghị mà là một cơ quan công tác vừa lập pháp vừa hành pháp"

Học thuyết về nhà nước chuyên chính vô sản được Lenin (1870-1924) tiếp tục phát triển trong các tác phẩm của mình. Quan niệm về giai đoạn quá độ và chuyên chính vô sản được Lenin coi là những luận điểm cơ bản và dùng làm cơ sở cho lí thuyết về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước riêng biệt.

Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng mười, tại nước ta một cơ chế quyền lực phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập. Các Xô viết được tuyên bố là cơ sở của chính quyền và sau này được coi là cơ sở chính trị của toàn bộ xã hội. Người ta đặc biệt nhấn mạnh rằng các Xô viết thể hiện được những lợi ích của nền dân chủ trực tiếp, nghĩa là đại diện được nhân dân bầu chọn thực thi cả ba chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nguyên tắc: "Tất cả chính quyền về tay Xô viết" được ghi trong hiến pháp. Quyền lực tối cao thuộc về Đại hội Xô viết toàn Nga và giữa hai kì Đại hội là Ban chấp hành Trung ương, cơ quan vừa làm nhiệm vụ lập pháp vừa thực thi và kiểm tra việc thi hành pháp luật của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga. Nhưng nhà nước Xô viết không thể phát triển bình thường nếu không có các cơ quan chuyên trách có thể giải quyết được các chức năng quản lí. Vì vậy hiến pháp năm 1918 đã có điều khoản về việc thành lập Hội đồng bộ trưởng và các bộ. Đây đã là một bước thụt lùi so với "một cơ quan công tác" của Marx, nhưng chưa thể nói đã có sự phân quyền vì Ban chấp hành Trung ương vẫn là cơ quan quyết định phương hướng hoạt động của Hội đồng bộ trưởng và các cơ quan khác, cũng như điều phối công tác lập pháp và quản lí.

Điều đặc biệt là hệ thống toà án được thành lập trên cơ sở Nghị định về toà án của Hội đồng bộ trưởng ban hành ngày 22 tháng 12 năm 1917 mà không cần thông qua Ban chấp hành Trung ương. Tất cả các toà án cũ đều bị giải thể. Thay vào đó là các toà án địa phương và toà án cách mạng. Các Xô viết bầu và bãi chức các thẩm phán, các thẩm phán chịu trách nhiệm báo cáo trước các Xô viết đã bầu ra mình. Việc xuất hiện các cơ quan đàn áp ở bên ngoài hệ thống toà án đã làm cho sự phát triển của hệ thống này ngày càng thêm phức tạp.

Việc thành lập Liên xô và thông qua Hiến pháp Liên bang vào năm 1924 không làm thay đổi quan điểm đối với lí thuyết phân quyền. Cơ quan quyền lực tối cao bây giờ là Đại hội Xô viết Liên xô. Trong thời kì giữa hai đại hội là Ban chấp hành Trung ương và Chủ tịch đoàn của Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành làm việc trong các kì họp còn giữa các kì họp là Chủ tịch đoàn. Hội đồng bộ trưởng là cơ quan hành pháp của Ban chấp hành Trung ương được quyền ra các nghị định, nghị quyết, nhưng các văn bản pháp qui này có thể bị bãi bỏ bởi Ban chấp hành Trung ương hoặc Chủ tịch đoàn của nó.

Người ta có thể lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng hiến pháp năm 1936 đã tiến đến gần với lí thuyết phân quyền hơn. Lần đầu tiên cơ quan lập pháp đã được khẳng định, đấy là Xô viết Tối cao Liên xô. Chính phủ được đề cập trong mục: "Các cơ quan quản lí nhà nước". Toà án và kiểm soát được nói đến trong những chương riêng, trong đó đã xác định rõ hai nguyên tắc căn bản: thứ nhất, chỉ có toà án mới có quyền xét xử, thứ hai, các quan toà là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Ngày nay ta có thể dễ dàng nhận ra những mâu thuẫn giữa các nguyên tắc được công bố trong hiến pháp 1936 với hiện thực đời sống Liên xô khi đó. Những lời tuyên bố có tính dân chủ chỉ ấy có một mục đích, đấy là che đậy chế độ đàn áp, khủng bố và những tội ác chống lại loài người của chế độ Stalin mà thôi.

Chế độ chuyên chế của Stalin không cần quan tâm đến sự độc lập của một vài cơ quan nhà nước vì nó được thực thi thông qua bộ máy đàn áp của đảng mà bộ máy này lại đứng trên nhà nước. Bộ máy này ngày một phình to và các vấn đề quản lí quốc gia được giải quyết ở đây. Stalin, dựa vào một nhóm quan chức thân cận, đã nắm trọn quyền kiểm soát đất nước và giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc gia.

Hiến pháp năm 1977 đã tạo tiền đề cho việc dân chủ hoá đời sống đất nước. Nhưng lí thuyết phân quyền một lần nữa lại không gặp may. Nếu chỉ dựa vào các tiêu chí có tính hình thức thì có thể nói rằng hiến pháp này dành ít chỗ cho "phân quyền" hơn cả hiến pháp trước. Điều đó được thể hiện trong việc người ta đã đưa các Xô viết trở lại thể chế của những năm 20. Xô viết được tuyên bố là cơ sở chính trị của Liên xô và tất cả các cơ quan nhà nước đều có trách nhiêm phải báo cáo và nằm dưới sự kiểm soát của nó. Xô viết thực hiện quyền lãnh đạo trực tiếp tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua các cơ quan do nó thành lập. Tất cả những giới hạn về quyền lực của Xô viết Tối cao Liên xô được ghi trong hiến pháp trước đây đều bị xoá bỏ. Xô viết tối cao có thể giải quyết tất cả các vấn đề thuộc quyền của Chủ tịch đoàn, của Hội đồng bộ trưởng, của các bộ và tổng cục nhà nước Liên xô.

Người ta nói rằng đấy chính là trở về với các nguyên tắc do Lenin đặt ra. Các hình mẫu của quá khứ đã không được đánh giá một cách đúng mức, không tính đến các yêu cầu và đòi hỏi của tình hình hiện tại. Quan điểm cho rằng chỉ cần loại bỏ những sai lầm, lệch lạc do Stalin tạo ra là toàn thể hệ thống chính quyền cũng như hệ thống chính trị sẽ hoạt động theo đúng tinh thần của các nguyên tắc đã đề ra.

Thái độ tiêu cực như vậy đối với lí thuyết phân quyền đã dẫn đến việc hình thành một bộ máy hành chính-chỉ huy, bộ máy quan liêu ngày một phình to, tệ tham nhũng, bao che lẫn nhau và thoái hoá về mặt đạo đức của các quan chức chính quyền; các "công bộc" trở thành những kẻ hoàn toàn vô trách nhiệm trước hiện tình đất nước. Những quyết định thiếu suy nghĩ của Bộ chính trị, những khẩu hiệu mị dân theo kiểu: "Đuổi kịp và vượt Mĩ", "Thực hiện kế hoạch năm năm trong bốn năm" mà không hề tính đến khả năng thực tế của đất nước đã dẫn đến nạn báo cáo láo, dẫn đến tình trạng là các cơ quan trung ương không nắm được thông tin chính xác về tình hình kinh tế của đất nước, không nắm được tình hình chính trị ở các khu vực vốn tiềm ẩn các mâu thuẫn dân tộc. Kết quả là đến cuối những năm 80 Liên xô đã tụt hậu rất xa so với các nước tiên tiến khác; đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc và cuối cùng thì tan rã hẳn.

Bên cạnh chủ nghĩa cộng sản còn có một chế độ phi dân chủ nữa, đấy là chế độ phát xít, một chế độ tuyên truyền cho sự cần thiết phải có một chính quyền mạnh, thậm chí không khoan nhượng, một chính quyền không có các khiếm khuyết của "nền dân chủ", một chế độ dựa vào đảng toàn trị, đảm bảo việc kiểm soát toàn bộ đời sống của từng cá nhân cũng như toàn xã hội, không cho phép bất kì sự phản bác nào đối với lãnh tụ.

Điểm chính yếu của tư tưởng của chủ nghĩa phát xít là tính ưu việt của dân tộc Đức, mà về mặt đối ngoại thì là cơ sở của chính sách xâm lược đế quốc và nô dịch các dân tộc khác.

Hai quốc gia (Liên xô và Đức) đều có ước muốn làm bá chủ thế giới không thể cùng tồn tại và ước muốn đó đã đóng vai trò chủ yếu trong việc thổi bùng lên ngọn lửa của cuộc chiến tranh thế giới thứ II làm thiệt mạng hơn 60 triệu người.

Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít đã không vượt qua được thử thách của thời gian, cả hai thể chế đều đã cáo chung, di sản mà chúng để lại cho các dân tộc là sự đói rét, nỗi kinh hoàng và hàng loạt vấn đề sẽ làm đau đầu nhiều thế hệ nữa.

Những thí dụ vừa nêu và còn nhiều thí dụ nữa đã chứng tỏ rằng lí thuyết về nhà nước tập quyền là một lí thuyết thiếu căn cứ, một lí thuyết đi ngược lại các giá trị nhân bản, phá hoại các quyền cơ bản và quyền tự do của các công dân những quốc gia lấy nó "làm vũ khí" của mình.
S. G. Parechina là (phó) tiến sĩ chính trị học. Bài tổng quan này là tập hợp các bài viết đã công bố trên báo chí nước Cộng hoà Bạch Nga.
Nguồn: http://lib.ru/POLITOLOG/parechina2.txt

0 nhận xét:

Đăng nhận xét