Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014
Thiên Chúa Đang Được Động Viên Trong Cuộc Thánh Chiến tại Trung Đông
11:29
Hoàng Phong Nhã
No comments
Về phương diện địa lý,
Trung Đông còn được gọi là Cận Đông (Near
East/ Middle East) bao gồm một dải đất chạy
dài từ phần Á châu của Thổ-nhĩ-kỳ
đến các nước Bắc Phi và Ai-cập.
Về chủng tộc, Trung Đông gồm có
những giống dân Do-thái, Ả-rập, Ba-tư,
Thổ-nhĩ-kỳ, Kurds, Armenians và Berbers.
Về tôn giáo, Hồi giáo chiếm 90% dân
số Trung Đông, tức khoảng 300 triệu tín
đồ hoặc 1/4 tổng số tín đồ trên toàn
thế giới. Số còn lại là tín đồ Do thái giáo
và Ki tô giáo.
Từ đầu thế kỷ 19 đến
đầu thế kỷ 20, nhiều nước Trung
Đông bị Anh và Pháp cai trị bóc lột. Hoa Kỳ không
có một thuộc địa nào tại Trung Đông,
nhưng đã có mặt tại Saudi Arabia từ đầu
thế kỷ 20 để khai thác dầu lửa. Thiên nhiên
đã đem đến cho Saudi Arabia
một món quà tặng khổng lồ, đó là trữ
lượng dầu mỏ lớn bằng 1/4 trử
lượng dầu trên toàn thế giới. Sự có
mặt của Hoa Kỳ tại Saudi
Arabia không phải là quân
đội mà là các công ty khoan dầu trên căn bản
hợp tác hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, người Hồi
giáo Ả-rập đã nhìn người Mỹ qua lăng
kính khắt khe của Hồi giáo. Lối sống tự do
phóng túng của người Mỹ đã làm cho những
người Hồi giáo bảo thủ khó chịu vì nó
đi ngược lại với lối sống khép kín
của xã hội đạo Hồi. Không cần phải làm
điều gì xâm phạm đến xã hội Hồi giáo,
chỉ riêng sự có mặt của những tư nhân
Mỹ tại Saudi Arabia cũng đủ là “sự gieo
rắc chất độc văn hóa tây phương”
(Westoxification) có tác dụng phá hoại nền tảng luân lý
xã hội và gia đình Hồi giáo.
Xét về phương diện địa
thế, Trung Đông được chia ra làm ba khu vực rõ
rệt :
1. Khu vực
Bắc Phi: Các nước ở phía bắc của Châu
Phi Da Đen (Black Africa) gồm có Maroc,
Tunisia, Algeria,
Lybia và Ai-cập. Đại đa số dân tộc sống
ở vùng này là những người da trắng gốc
Địa Trung Hải.
2. Khu vực Cao
Nguyên: Các nước ở vùng này được gọi
chung là “các nước ở vùng cao” (Levantine countries) gồm
có Syria,
Palestine,
Israel, Jordan
và Iraq.
3. Các
nước vùng Vịnh (Gulf countries) là các nước
ở sát Vịnh Ba Tư, gồm có Ba Tư (Iran),
Kuwait,
Quatar,
Saudi Arabia, Yemen,
Oman, United
Arab Emerald và Baharain.
Về phương diện văn minh và
văn hóa, toàn vùng Trung Đông đã đạt tới
đỉnh cao của sự phát triển từ thế
kỷ 8 đến thế kỷ 13. Lịch sử thế
giới đã gọi những thế kỷ này là Thời
đại Hoàng kim (The Golden Age) của những
người Hồi giáo Trung Đông. Vào thời đó,
những người Ả-rập rất ham chuộng
nền văn hóa Hy Lạp và chú trọng đến
việc nghiên cứu toán học, thiên văn và khoa học
thực nghiệm. Họ đã thực hành lời dạy
của Muhammad trong kinh Koran : “Ai bỏ nhà đi tìm sự
hiểu biết là đi đúng con đường của
Chúa. Lạy Chúa! Xin Ngài hãy ban thêm sự hiểu biết cho
con”.
(He Who leaves the
home in search of knowledge is walking in the way of God. Oh my Lord! increase
me knowledge. Koran 20:114)
Đầu thế kỷ 8,
Baghdad
(thủ đô Iraq)
xây dựng trường Đại học đầu tiên
trên thế giới. Họ gọi là “căn nhà của
sự khôn ngoan” (House of wisdom). Baghdad
trở thành một trung tâm văn hoá lớn nhất thế
giới.
Năm 800, các tác phẩm của Aristote và Plato
đều được dịch sang tiếng Arabic và
được phổ biến trong toàn vùng Trung Đông.
Đến giữa thế kỷ 9, các sách y
khoa của Hy Lạp được dịch sang tiếng
Arabic. Cuối thế kỷ 9 rất nhiều sách dịch
về khoa thiên văn và địa lý được
phổ biến tại Trung Đông.
Do các kiến thức học hỏi
được từ Hy Lạp, người Ả-rập
Hồi giáo đã phát minh ra máy Astrolable dùng để đo
độ cao của các thiên thể. Họ biến chế
máy Astrolable thành một thứ địa bàn để các
tín đồ Hồi giáo dù ở bất cứ một
nơi nào trên thế giới cũng tìm được
hướng Mecca
để quay mặt về thánh địa khi cầu
nguyện. Tại thánh địa Mecca
có đền thờ Ka’aba, tiếng Ả-rập có nghĩa
là “Nhà của Chúa” (House of God). Người Ả-rập tin
rằng ngôi nhà của Chúa đã được xây dựng
lần đầu tiên bởi tổ phụ Abraham.
Năm 1166, nhà địa dư học
Ả-rập Al Adrisi là người đầu tiên trên
thế giới vẽ bản đồ trái đất hình
cầu rất chính xác. Cũng trong khoảng thời gian
này, người Ai-cập chế ra đồng hồ
quả lắc để coi giờ.
Trường đại học lâu
đời nhất và hoạt động liên tục trên 10
thế kỷ là đại học Al-Azhar ở thủ
đô Cairo của
Ai-cập (thành lập năm 970).
Một ngôi sao sáng ngời trong thế
giới toán học là nhà toán học Hồi giáo Ba Tư
Muhammad Ibu Musa. Ông đã phát minh ra một môn toán học
nhằm mục đích “Phục hồi những phần
đã bị tách rời” (to restore the broken parts), tiếng
Ả-rập gọi là Al-Jabr. Danh từ này được
người Hy Lạp phiên âm thành Algebra tức là môn
Đại-số-học. Môn toán học này được
Musa phát minh năm 850.
Đều thế kỷ 11, một ngôi sao
lớn về quang học xuất hiện tại
Ai-cập. Đó là nhà khoa học Hồi giáo Alhazen. Ông chuyên
tâm nghiên cứu các sách Hy Lạp về khúc xạ và phản
chiếu ánh sáng. Ông là người đầu tiên trên
thế giới giải thích hiện tượng cầu
vồng và quang phổ. Thế giới khoa học ngày nay tôn
vinh ông là ông tổ sáng lập ngành quang học hiện
đại.
Nhờ có những sách y khoa dịch từ tiếng
Hy Lạp sang tiếng Arabic trong hai thế kỷ 8 và 9,
đến thế kỷ 10 người Hồi giáo
Ả-rập đã phát minh và đóng góp cho nhân loại
rất nhiều tiến bộ về y khoa trên nhiều lãnh
vực :
1. Xử dụng Anesthasia trong giải
phẩu.
2. Sát trùng vết thương.
3. Phát giác việc lây bệnh do sự tiếp cận với
người có bệnh và qua đường hô hấp.
4. Tách rời dược khoa và y khoa thành hai
ngành riêng.
5. Do sa mạc thường có bão cát gây đau
mắt nên người Ả-rập lập ra ngành nhãn khoa
riêng.
6. Năm 925, nhà khoa học Abu Razi cho in bộ
sách “Bách khoa Tự điển Y khoa” đầu tiên trên
thế giới. Mãi tới hơn 5 thế kỷ sau,
tức vào năm 1486, bộ sách này mới được
dịch sang tiếng La-tinh để phổ biến
tại Âu châu.
Về văn chương, bộ chuyện
vĩ đại được in thành nhiều chục
tập (volumes) nổi tiếng khắp thế giới và
đã được dịch ra đủ loại thứ
ngôn ngữ, đó là chuyện
“Ngàn lẻ Một đêm”. Đây là tổng hợp
đủ các chuyện thần thoại thời Babylon
cổ xưa, các chuyện dân gian Ả-rập (Arab legends)
và pha trộn với những chuyện thần tiên của
Ấn Độ (Indian fairy tales).
Về kiến trúc, người Ả-rập
Hồi giáo là những người phát minh ra cách xây
những chiếc vòm nhọn đầu (pointed arch) từ
thế kỷ 8 để kiến tạo những chiếc
cầu bắc qua sông. Người Âu châu sau này bắt
chước để lập ra lối kiến trúc Gothic.
Thái độ ham chuộng học hỏi và
tôn trọng khoa học của người Hồi giáo
rất đáng được mọi người khâm
phục. Thái độ đó hoàn toàn trái ngược với
những tội ác tày trời của giáo hội Công giáo
nhằm mục đích tiêu diệt hoàn toàn nền văn
minh Hy Lạp.
Công giáo La mã do hoàng đế
Constantine
lập nên năm 325. Từ đó, giáo hội Công giáo và
đế quốc La mã ra sức thâu góp các sách của
nền văn minh Hy Lạp để thiêu huỷ. Toàn
bộ các sách của giáo phái Ki-tô lớn nhất thời
đó là Gnostic bị đốt, 27.000 cuộn giấy
(paprus rolls) có liên quan đến những sách Phúc Âm thật
đều bị huỷ diệt. Đến cuối
thế kỷ 5 hầu như tất cả sách khoa học,
triết học của Hy Lạp đều không còn trên lãnh
thổ của đế quốc La mã và giáo hội Công giáo.
Tội ác của Công giáo La mã đã làm cho nền văn minh
của nhân loại thụt lùi 15 thế kỷ.
Người có công sưu tầm và duy trì
những cuốn sách quí giá của nên văn minh Hy Lạp
để lưu lại cho thế giới chúng ta ngày nay
chính là một ông vua Hồi giáo Ả-rập : Caliph Al-Mamun.
Ông lên ngôi tại Baghdad
năm 813. Việc đầu tiên là thành lập “Nhà của sự
khôn ngoan” (House of wisdom). Ông cho người đi khắp
nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy Lạp mang về
Baghdad rồi thuê người Hy Lạp biết tiếng
Ả-rập dịch tất cả các sách đó. Trong
suốt 20 năm cai trị, vua Al-Mamun đã dồn hết
tâm huyết vào công trình văn hóa độc đáo này.
Các nhà trí thức Hồi giáo ở Trung
Đông thời đó nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến
của nhà vua và họ đã tiếp tay để biến
các thủ đô Hồi giáo thành những trung tâm văn hóa
nổi tiếng như : Alexandria (Ai-cập), Antioch Edessa
(Thổ-nhĩ-kỳ), Condova (Tây-ban-nha, lúc này là thuộc
địa của đế quốc Hồi giáo).
Phong trào ham chuộng hiến thức khoa
học của toàn vùng Trung Đông Hồi giáo kéo dài trong 5
thế kỷ, từ thế kỷ 8 đến thế
kỷ 12, đã biến vùng Trung Đông thành một khu
vực văn minh nhất thế giới. Trong khi đó, do
chủ trương tiêu diệt mọi nguồn văn hóa
đi ngược lại giáo lý Ki-tô giáo, giáo hội Công giáo
La mã đã đưa Âu châu đi vào thời đại bóng tối
(The Dark Age) từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
11.
Từ thế kỷ 14 đến thế
kỷ 16, giới trí thức Âu châu bừng tỉnh và tìm
cách làm sống dậy những giá trị của nền
văn minh Hy Lạp trong mọi ngành khoa học. triết
học, kiến trúc và nghệ thuật ... đã bị giáo
hội Công giáo tiêu diệt trước đây..
Người ta gọi giai đoạn này là Thời Phục
hưng (the Renaissance). Danh từ này bắt nguồn từ
tiếng Pháp có nghĩa là “sự tái sinh” của một
nền văn hóa đã bị bức tử.
Trong thế kỷ 15, trí thức Âu châu
mới khám phá ra là kho tàng sách quí của văn hóa Hy Lạp
đã được tồn trữ trong các trung tâm văn
hóa Hồi giáo tại Trung Đông. Lúc đó họ mới
vỡ lẽ ra rằng : những người Hồi giáo
Ả-rập đã làm những công việc cần thiết
để phục hồi nền văn hóa Hy Lạp
trước họ tới 7 thế kỷ!
Nhà danh họa Raphael của Ý thuộc thế
kỷ 15 đã phải thốt lên những lời biết
ơn đối với các học giả Hồi giáo
Ả-rập vì tiền nhân của ông là những
người La mã cuồng tín và thiển cận đã
huỷ diệt cả một nên văn minh của cổ Hy
Lạp để gây ra một tổn thất vô cùng lớn
lao cho nhân loại. Nhưng may mắn thay, vẫn có
nhiều tác phẩm quí giá của Hy Lạp còn sót lại
được bảo tồn do công lao của các học
giả Ả-rập. Ông nói: “Các học giả
Ả-rập đã cứu những tác phẩm đó cho
chúng ta” (“Arab scholars saved those works for us”, A Muslim Primer, by Ira G.
Zepp. U. of Kansas
Press 1992, trang 139-165).
Như trên đã trình bày. Trung Đong Hồi
giáo sống trong thời Hoàng kim của nền văn minh
(Tho Golden Age) từ cuối thế kỷ 8 đến
đầu thế kỷ 11. Rồi từ đầu
thế kỷ 11, những đoàn Thập Tự quân của
Công giáo La mã tràn sang tàn phá Trung Đông, với 7 cuộc thánh
chiến đẫm máu, khiến cho toàn vùng lâm vào tình
trạng suy thoái mọi mặt.
Cuộc Thập Tự chinh thứ nhất
(1096-1099) tiêu diệt 30.000 người Ả-rập Hồi
giáo và lập nên một vương quốc rộng lớn
bao gồm các nước : Palestine,
Liban, Syria
và phía Nam
Thổ-nhĩ-kỳ. Tất cả được
đặt dưới quyền cai trị của một
ông vua do Vatican bổ nhiệm. Vương
quốc Hồi giáo bị người Công giáo cai trị
trong 88 năm. Sáu cuộc Thập Tự chinh kế tiếp
diễn ra trong gần 2 thế kỷ tàn phá hầu hết
các nước Trung Đông với 3 triệu sinh mạng
bị sát hại (1096-1291).
Tiếp theo đại họa Thập Tự
quân là đại họa Mông Cổ. Từ đầu
thế kỷ 14, vùng Trung Đông bị quân Mông Cổ tràn
tới tàn phá các thành phố và huỷ diệt con
người. Baghdad, Damacus
... chỉ còn là những đống gạch vụn với
những xác chết la liệt trên các nẻo
đường.
Cuối thế kỷ 15, quân Mông Cổ
lại tràn tới Trung Đông một lần nữa.
Điều mỉa mai là ông vua Mông Cổ là một tín
đồ Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni. Ông tới
để tiêu diệt những người thuộc giáo
phái Shiite tại Iran
và Iraq. Vì
lòng thù hận hẹp hòi giữa các chi phái Hồi giáo
với nhau, quân Mông Cổ Sunni đã giết những
người Shiite vô số kể.
Từ năm 1467 đến 1520, đế
quốc Hồi giáo Ottoman của Thổ-nhĩ-kỳ xua
quân đánh phá Syria, Ai-cập, bán đảo Ả-rập và
các nước Bắc Phi để mở rộng thế
lực của giáo phái Sunni, rất nhiều tín đồ
Shiite bị giết. Đế quốc Ottoman khống
chế Trung Đông từ đó đến đầu
thế kỷ 19. Từ thế kỷ 19 đến
đầu thế kỷ 20 nhiều nước Hồi giáo
Trung Đông lần lượt bị rơi vào vòng nô
lệ của thực dân Anh và Pháp. Tuyệt đại
đa số dân chúng Trung Đông mù chữ và toàn xã hội
Ả-rập suy thoái về mọi mặt.
Qua bao nhiêu thế kỷ, Ai-cập vẫn
được coi là “linh hồn trí thức của thế
giới Ả-rập” với dân số 60 triệu
người mà mỗi năm chỉ xuất bản vỏn
vẹn 375 cuốn sách, bởi vì đại đa số dân
mù chữ nên không có ai tiêu thụ món hàng văn hóa này. Trong
khi đó Israel
chỉ có 6 triệu dân nhưng hầu như cả
nước ham đọc sách nên mỗi năm Israel
xuất bản ít nhất 4.000 đầu sách đề
cập đến đủ mọi vấn đề
của kiến thức (theo Newsweek 15.10.2001, trang 26).
Dưới cái nhìn của Tây phương,
thế giới Hồi giáo Ả-rập ở Trung Đông
là một xã hội thất bại mà nguyên nhân chính là sự
cuồng tín tôn giáo. Trong khi đó, những người Ả-rập
Hồi giáo lại qui kết mọi nguyên nhân thất
bại của họ cho Tây phương. Do đó họ nung
nấu lòng hận thù và tổ chức khủng bố
để rửa hận. Tất cả mọi hành vi sát
nhân tàn bạo của họ, kể cả việc sát
hại những người vô tội trong những cuộc
khủng bố, đều được biện minh
bằng những lời Chúa trong Thánh Kinh Koran. Họ càng
căm thù bao nhiêu lại càng trở thành cuồng tín trong
niềm tin tôn giáo bấy nhiêu.
Cuối cùng, xã hội Ả-rập Hồi
giáo Trung Đông đi vào một cái vòng lẩn quẩn không
có lối thoát. Sự cuồng tín của giới lãnh
đạo và quần chúng làm cho xã hội Ả-rập càng
ngày càng khép kín đối với thế giới bên ngoài,
đời sống kinh tế suy sụp trở thành lạc
hậu. Những người cuồng tín qui trách nhiệm
cho Tây phương là thủ phạm đã gây ra tất
cả những thất bại và suy thoái của thế
giới Hồi giáo để họ có lý do gia tăng các
hoạt động khủng bố. Nhưng càng gia tăng
khủng bố bao nhiêu họ càng bị mất thiện
cảm và sự giúp đỡ của thế giới
bấy nhiêu. Các xã hội Hồi giáo cực đoan
đều trở thành những khu vực bị cô lập
và là đối tượng của một cuộc
chiến tranh huỷ diệt.
Ngày nay, trên khắp thế giới hầu
như ở đâu cũng có những hoạt động
khủng bố, nhưng chỉ tại Trung Đông
người ta mới thấy rõ cái sắc thái cuồng tín
hung bạo ghê gớm của người Hồi giáo
Ả-rập. Chỉ ở Trung Đông mới là nơi
tập trung đông đảo nhất của những
Mullahs (học sĩ Hồi giáo) hung dữ.
Trung Đông là nới có nhiều nhất
những cụ biểu tình bạo động, đốt
cờ, đốt xe, đốt hình nộm và đặc
biệt là những vụ ôm bom tự sát (suicide-bombings).
Ngoài ra, từ 1980 đến nay, hầu
như các vụ đặt bom khủng bố tại các
nơi trên thế giới cũng đều có nguồn
gốc tại Trung Đông (Islamic Fundamentalists) chủ
mưu. Do đó, mục tiêu của cuộc chiến tranh
tiêu diệt khủng bố mà phe Tây phương đang theo
đuổi không phải là Afghanistan
hay Philippines...
mà chính là toàn vùng Trung Đông Hồi giáo!
Nguyên nhân chính đưa đến sự
bế tắc của các quốc gia Hồi giáo Trung Đông
là không có sự phân cách giữa tôn giáo và chính quyền. Thông
thường trong những quốc gia sùng đạo, các
Mullahs (học sĩ) là những nhà lãnh đạo chính
trị. Họ nhân danh tôn giáo để hô hào thánh chiến,
thực chất là đề cao những hành vi chém giết
thô bạo .
Trong các nươc hồi giáo sùng tín,
người ta không thể phân biệt được ranh
giới giáo quyền với chính quyền, cũng không
thể phân biệt được đâu là giáo luật và
đâu là luật pháp quốc gia.
Trong thế kỷ 19, nhiều trí thức
Hồi giáo đã nhìn thấy điều đó và họ
đã viết sách để lên tiếng đòi cải cách
xã hội Hồi giáo. Một trong những người
đó là triết gia Ai-cập Fouad Zakariya. Theo ông,
điều tiên quyết để cứu các nước
Hồi giáo Ả-rập là phải “tách rời đền
thờ ra khỏi quốc gia” (separation of mosque from state).
Người ta gọi chủ thuyết này là chủ
nghĩa Thế-tục-hóa Xã hội (Secularism). Zakariya đã
ca ngợi phong trào đã giúp xã hội thoát ra khỏi sự
kềm kẹp của giáo hội La mã bằng chủ
thuyết thế tục hóa để đi tới sự
phân lập rõ rệt giữa chính quyền và giáo hội.
Chính nhở đó Âu châu đã trở nên hùng mạnh và
đó là chìa khóa đưa đến một xã hội
tiến bộ dân chủ. Mọi chủ trương
bảo thủ đều có hậu quả biến Hồi
giáo thành công cụ. Zakaria dám đưa ra những nhận
định táo bạo: Thế giới Ả-rập không
thể nào xây dựng được một xã hội
văn minh tiến bộ nếu cứ khư khư
giữ lấy những tư tưởng lạc hậu
của thời kỳ bộ lạc ở sa mạc vào
thế kỷ thứ 7 ! (thời kỳ của giáo chủ
Muhammad lập đạo).
Ông cũng nêu rõ: dù bất cứ là tôn giáo nào
thì luôn luôn tôn giáo cũng chỉ là một sự sùng bái có
tính riêng tư của các cá nhân mà thôi. Không ai có quyền
đem sự sùng bái riêng tư đó áp đặt lên cả
quốc gia để buộc mọi người cũng
phải sùng bái như họ. Cái điều vô lý đó
hiện đang xảy ra phổ biến tại các
nước Ả-rập. Ông kêu gọi mọi người
đứng lên đập tan các chế độ Hồi
giáo bảo thủ để giải phóng xã hội Hồi
giáo lạc hậu.
Những lời kêu gọi của Fouad Zakariya
đã được nhiều chính trị gia hưởng
ứng tại Thổ-nhĩ-kỳ, Ai-cập và Iran:
1. Mustapha Kemal:
Ông sinh năm 1881 tại Thổ-nhĩ-kỳ, làm tổng
thống đầu tiên của Thổ-nhĩ-kỳ từ
1923 đến 1938. Ông là người thực hiện thành
công cuộc cách mạng thế tục hóa xã hội Hồi
giáo, chấm dứt đế quốc Ottoman sau gần 5 thế kỷ thống trị.
Hoàng đế và toàn bộ triều đình Ottoman
đều bị bắt và bị đưa đi đày
chung thân. Toàn bộ luật pháp của Hồi giáo bị xé
bỏ. các trung tâm Hồi giáo bị đóng cửa. Âm
lịch Hồi giáo bị thay thế bằng Dương
lịch để hoà đồng cùng thế giới.
Năm 1930, quốc hội Thổ-nhĩ-kỳ chính
thức chấm dứt chế độ đa thê, huỷ
bỏ mọi hình thức áp chế phụ nữ như
tục lệ đeo mạng che mặt hoặc áo choàng
phủ kín toàn thân. Nam
giới bị cấm đội mũ Fez
theo kiểu Ả-rập Hồi giáo. Chữ viết theo
kiểu Arabic bị thay thế bằng mẫu tự La
tinh. Hiện nay không còn ai biết đọc kinh Hồi giáo
viết theo chữ Arabic nữa. Nữ tổng thống
đầu tiên của Thổ-nhĩ-kỳ là bà Tanser Ciller
trong nhiệm kỳ 1993-1996. Trong thực tế,
Thổ-nhĩ-kỳ không còn được coi là một
quốc gia Hồi giáo nữa. Cuộc cách mạng thành công
của Mustapha Kemal đã giải thoát Thổ-nhĩ-kỳ
ra khỏi thế giới đóng kín và thất bại
của chủ nghĩa bảo thủ cực đoan
Hồi giáo. Thổ-nhĩ-kỳ hiện là một
nước cộng hòa tự do dân chủ thật sự và
đang phát triển mọi mặt.
2. Jasmal Nasser:
ông sinh năm 1918, làm thủ tướng Ai-cập từ
1954 đến 1956. Sau đó, Ai-cập biến thành một
nước cộng hòa với danh xưng là “Cộng hòa
Ả-rập Thống nhất”. Nasser
được bầu làm tổng thống tứ 1958
đến 1970. Ông chủ trương thực hiện
chủ nghĩa thế tục hóa (secularism) bằng cách
loại trừ mọi ảnh hưởng của Hồi
giáo ra khỏi chính trị.
Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 20,
tại Ai-cập đã có một phong trào Hồi giáo cựa
đoan mệnh danh là “Huynh đệ Hồi giáo” (Muslim
Brotherhood). Phong trào này do Sayid Quit (1906-1966) sáng lập,
chủ trương dùng các thủ đoạn khủng
bố để ngăn cản và vô hiệu hóa mọi
nổ lực cải cách xã hội Hồi giáo. Phong trào xác
định các lãnh tụ chính trị theo đuổi
chủ trương thế tục hóa là những kẻ
tuyên chiến với đực tin Hồi giáo và vì vậy
họ phải chết.
Năm 1956, Nasser ra lệnh
bố ráp bắt các đảng viên Muslim brotherhood. Nhiều
đảng viên bị tử hình, số còn lại
đều lãnh án tù. Tuy nhiên, Nasser đã
bị dư đảng của đảng này ám sát
chết năm 1990.
3. Hoàng đế
Ba-tư Reza Pahlavi: Ông là một nhân vật đặc
biệt vì sinh ra và lớn lên trong gia đình sùng đạo
nhưng ông đã trở thành một người rất
căm ghét đạo Hồi và muốn huỷ diệt
đạo này. Ông sinh năm 1878, lên ngôi vua năm 1921, cai
trị Ba Tư trong 20 năm. Ngay khi vừa lên ngôi, vua
Pahlavi đã ra lệnh giải tán Ulama tức “Hội
đồng các Học sĩ Hồi giáo”, một cơ quan
cao nhất về tôn giáo tại Ba Tư. Luật Hồi
giáo Sharia bị thay thế bằng luật pháp quốc gia
do quốc hội biểu quyết. Các ngày lễ tôn giáo
đều bị hủy bỏ. Việc tổ chức
đi hành hương thánh địa Mecca
bị cấm chỉ. Các phụ nữ không được
đeo mạng. Cảnh sát được lệnh phải
tháo gỡ mạng của phụ nữ trên
đường phố...
Năm 1935, những người Hồi giáo
cuồng tín đã xúi giục phụ nữ biểu tình
chống chủ trương thế tục hóa của nhà
vua. Cảnh sát được lệnh dùng vũ lực
giải tán đám biểu tình. Sau nhiều lần cảnh
cáo nhưng đám phụ nữ biểu tình vẫn không
chịu giải tán, cảnh sát đã nổ súng bắn
chết hàng trăm phụ nữ. Trong dịp này, vị
giáo chủ cao cấp nhất của Hồi giáo ba Tư là
Aytollah Muddaris cũng bị ám sát chết.
Năm 1941, vua Pahlavi truyền ngôi cho con là
Muhammad Reza Pahlavi . Ngay khi tân vương lên ngôi, các học
viên thuộc các trường Hồi giáo (tương tự
như các học viên Taliban ở Afganistan) đã biểu tình
chống nhà vua. Cảnh sát được lệnh xả
súng bắn chết hàng trăm học viên Hồi giáo trên đường
phố. Sau đó, tất cả các trường đào
tạo các học sĩ Hồi giáo trên toàn quốc bị
đóng cửa và tất cả đều bị bắt, đa
số bị giết, số còn lại đều bị
tù. Tân vương Pahlavi cho thành lập một tổ
chức mật vụ chuyên việc truy lùng những kẻ
muốn khôi phục đạo Hồi tại Ba Tư. Lính
mật vụ có quyền tiền trảm hậu tấu,
không cần một án lệnh nào của tòa án. Các biện
pháp trị an của vua Pahlavi quá mạnh tay nên đã gây quá
nhiều bất mãn trong quần chúng.
Năm 1979, học sĩ Khomeini lưu vong
tại Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật
đổ vua Pahlevi thành công. Nhà vua phải bỏ
nước chạy trốn ra nước ngoài. Khomeini
trở thành tổng thống của một nước
Cộng hoà Hồi giáo (Islamic Republic). Khomeini là một
học sĩ của giáo phái Shiite rất cực đoan và
độc tài. Chẳng bao lâu sau, Khomeini mất hết
mọi nhiệt tình ủng hộ của quần chúng lúc
ban đầu. Dân Iran
chợt nhận ra là sống dưới chế độ
quân chủ của dòng Pahlevi còn được tự do
hạnh phúc hơn nhiều.
Dưới chế độ “Cộng hòa
Hồi giáo”, toàn dân bị dồng vào thế bị kềm
kẹp bởi các thứ luật lệ của tôn giáo
vừa hủ lậu vừa dã man : Bị cáo về một
tội trộm thường cũng bị chặt chân,
chặt tay. Mọi sinh hoạt ca nhạc hay chiếu phim
đều bị cấm. Phụ nữ bị buộc
phải mặc áo choàng đen phủ kín từ đầu
đến mắt cá chân... Điều nguy hiểm là Khomeini
gây hận thù với giáo phái đa số Sunni và đưa
cả nước vào một cuộc chiến tranh vô
nghĩa. Khomeini chết năm 1989.
Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa
Thế-tục-hóa xã hội (Secularism) là một phương
thức chính trị đã đem lại sự thịnh
vượng cho cả Âu châu lẫn Hoa Kỳ. Đó cũng
là cái chìa khóa bảo đảm nền tự do dân chủ
cho toàn dân. Mustapha Kemal thực hiện thành công cuộc cách
mạng thế tục hóa xã hội Thổ-nhĩ-kỳ
đã biến nước này thành một nước tự
do dân chủ và văn minh nhất trong thế giới
Hồi giáo. Trong khi đó, cuộc cách mạng của Nasser
tại Ai-cập và những nổ lực thế tục
hóa của hai cha con vua Pahlevi tại Iran
đều đã bị thất bại.
Toàn khối Ả-rập Hồi giáo với
300 triệu người tiếp tục sống trong
vũng lầy lạc hậu và nghèo đói. Tình trạng
bất ổn tại Trung Đông có thể gây tổn
hại cho nền hòa bình thế giới. Vì thế,
nhiều chuyên gia của Liên Hiệp Quốc đã kêu
gọi cộng đồng thế giới giúp cho toàn
khối Ả-rập Hồi giáo một số chương
trình như sau để cải thiện đới
sống quần chúng :
1. Đô thị hóa xã hội Ả-rập
để xóa bỏ hẳn lối sống lang thang trong sa
mạc đã có từ nhiều ngàn năm qua.
2. Đầu tư đại qui mô vào công
cuộc giáo dục giới trẻ nhằm đào tạo
những thế hệ Ả-rập mới có khả
năng đưa toàn xã hội Ả-rập hoà nhập vào
thời đại mới trong cộng đồng nhân
loại.
Chỉ có sự hiểu biết của
những thế hệ trẻ mới có khả năng
mở rộng tầm nhìn của quần chúng để
cứu họ thoát khỏi sự mê hoặc của tôn giáo
và sự lừa mị của giới lãnh đạo
độc tài. Theo thống kê năm 2000, các nước
Hồi giáo Ả-rập ở Trung Đông có một tỉ lệ
những người trẻ (dưới 15 tuổi)
rất cao :
- Saudi Arabia
: 43%
- Iraq
: 42%
-
Palestine : 45%
Nếu những lớp người trẻ
đó hấp thụ được một nền giáo
dục khai phóng, họ sẽ làm thay đổi nếp
sống và nếp nghĩ của người Ả-rập.
Chủ nghĩa tôn sùng bạo lực và
chủ nghĩa khủng bố phát sinh chủ yếu do tinh
thần cuồng tín tôn giáo. Giáo dục là phương
tiện hữu hiệu nhất diệt trừ nạn
cuồng tín tôn giáo và do đó sẽ diệt trừ tận
gốc nạn khủng bố thế giới như
hiện nay đang diễn ra khắp nới trên thế
giới. Chỉ có sự giáo dục mới giải thoát
tập thể tín đồ thoát ra khỏi vùng bóng tối
tâm linh.
Các nước Hồi giáo bảo thủ
hiện nay đều là những xã hội khép kín, trong
đó giới học sĩ Ulamas hoàn toàn thao túng đời
sống tinh thần của các tín đồ. Cái gọi là
sự học vấn của các trường tôn giáo
hoặc sự uyên bác của các học sĩ Ulamas thực
chất chỉ là một môn học “tán hươu tán
vượn” về những điều huyền hoặc
của thần học (theology), Thần học của
Hồi giáo cũng tương tự như thần học
của Do thái giáo hoặc Ki Tô giáo. Thần học là một
môn học đầy tính chất hoang tưởng viễn
vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con
người càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh” xa
vời thực tế và đầy đặc những
định kiến sai lầm. Những mảnh bằng
“Tiến sĩ Thần học” là những giấy chứng
chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ
được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên
tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu
hổ đã được cấp những mảnh
bằng về thần học mà thôi.
Thế giới Hồi giáo Ả-rập ngày
nay vì tự ti mặc cảm đã co cụm lại thành
những xã hội khép kín. Giới lãnh đạo không
muốn dân chúng biết sự thật của thế
giới bên ngoài cho nên họ rất căm ghét tất
cả mọi phương tiện truyền thông quốc
tế. Nhiều nước Hồi giáo ban hành luật
cấm TV, Video, phim ảnh và các loại sách báo ngoại
văn. Trong cuộc họp của Tổ chức các
Quốc gia Hồi giáo OIC (Organization of Islamic Countries) gồm
các đại biểu của 56 quốc gia thành viên họp
tại thủ đô Mã Lai Kuala Lumpur ngày 27/2/2000, nhiều
đại biểu đã hô hào các nước Hồi giáo đoàn
kết để chống lại kỹ thuật tin
học Internet vì nó có thể “tiêu diệt các giá trị
Hồi giáo” !.
Nền kinh tế của khối
Ả-rập Trung Đông hiện nay không có gì để hãnh
diện, ngoại trừ kho dầu mỏ thiên nhiên ở
mấy nước vùng Vịnh với những trữ
lượng bằng
젫hối
lượng dầu của thế giới. Nhưng họ
không có kỹ thuật thăm dò dầu, kỹ thuật
khoan mỏ dầu, chuyên chở và lọc dầu v.v...
Họ cũng không có độc quyền tăng gia giá
dầu vì các việc tiêu thụ, phân phối và sản
xuất không nằm trong tay họ. Năm 1982 giá dầu thô
40 đô la / 1 barrel, đến năm 1998 giá dầu tụt
xuống chỉ còn 10 đô la/ 1 barrel! Những mỏ
dầu thô đã tạo cho chính quyền các nước Trung
Đông một ảo tưởng về quyền lực.
Thật sự họ không thể dùng nó để tạo
nên một áp lực nào đới với thế giới
bên ngoài. Những khoản lợi tức khổng lồ
của những mỏ dầu không đem lại lợi ích
nào cho quần chúng vì nó đã chui hết vào túi của giới
lãnh đạo bất tài và tham nhũng. Chẳng những
thế, giới lãnh đạo còn nhân danh Allah và tiên tri
Muhammad để tước đoạt những quyền
tự do chính đáng của người dân. Tại các
nước Bahrain, Jordan, Maroc ... và thậm chí ở hai
nước nổi tiếng giầu có vì dầu hỏa là
Kuwait và Saudi Arabia ... phụ nữ không có quyền đi
bầu. Đại đa số dân Ả-rập đều
đang kéo lê cuộc sống du mục lạc hậu
như thời Muhammad lập đạo tại s mạc
Syro-Arabia vào thế kỷ 7 hoặc như tổ phụ
Abraham ở vùng đất hứa Canaan
cách đây 4000 năm vậy!
Thiên Chúa luôn luôn được các phe
động viên trong cuộc thánh chiến hiện nay
giữa Do thái và các nước Ả-rập. Thánh kinh
Cựu ước được mọi tôn giáo như Do
thái, Ki tô và đạo Hồi công nhận. Một trong
những chuyện nổi tiếng là chuyện Đại
Hồng Thuỷ. Kinh Thánh kể rằng: Sau cơn
đại hồng thuỷ tiêu diệt hết mọi sinh
vật trên trái đất, loài người vỏn vẹn
chỉ còn lại gia đình của ông Nô-e mà thôi.
Người con út của ông Nô-e tên Shem sau này trở thành
tổ tiên của các dân tộc Do thái - Ả-rập. Do
đó, mọi người Do thái và Ả-rập đều
có một cái tên chung là chủng tộc Semites. Danh từ này
có nghĩa là “con cháu của ông tổ Shem” (Semites = descendants
of Shem).
Mới đây, các nhà nhân chủng học
đã làm nhiều cuộc thử nghiệm DNA tại các
nước Trung Đông. Kết quả xác nhận các
người Ả-rập, Do thái, Ba Tư, Iraq, Syria, Liban
v.v... đều cùng chung một chủng tộc. Như
vậy, truyền thuyết về các dân tộc
Ả-rập Do thái cùng chung một ông tổ Shem như chuyện
kể trong Kinh thánh đã tỏ ra là đúng với thực
tế. Họ quả là “anh em” với nhau. Cũng như
người Do thái thường gọi nhau là “Ben-Adam” có
nghĩa là “anh em” cùng chung một ông tổ Adam mà ra. Nhưng
khi Adam và Eva mới sinh ra được hai thằng con trai
là Cain và Abel, lúc đó toàn thể dân số nhân loại
chỉ có 4 người, thì Cain đã ra tay giết chết
thằng em vì một chuyện cãi nhau vớ vẩn.
Chuyện Cain giết Abel đã trở thành câu chuyện mang
tính chất biểu tượng cho sự chém giết
giữa những người anh em cùng chủng tộc
hoặc những anh em cùng thờ Chúa.
Những người Do thái và Ả-rập
đã chém giết nhau rất nhiều phen kể từ khi Israel
trở thành vương quốc, với vị vua
đầu tiên là Saul, vào năm 1025 trước Công nguyên.
Vương quốc Israel tồn tại đến năm
70 sau Công nguyên thì bị quân La mã kéo đến san bằng và
tàn sát người Do thái vô số kể. Do đó,
người Do thái phải bỏ nước ra đi lang
thang khắp nới trên thế giới. Từ thế
kỷ 4 đến đầu thế kỷ 20,
người Do thái tại các nước Công giáo ở Âu
châu đã bị kỳ thị và bị sát hại rất
nhiều, nhất là trong thời Trung Cổ. trong Thế
chiến Thứ hai, Do thái bị Đức quốc xã sát
hại 6 triệu người. Do đó, sau Thế chiến
II, Liên Hiệp Quốc đã thực hiện kế
hoạch cho những người Do thái trên khắp thế
giới trở về “cố hương” để tái
lập quốc gia.
Năm 1948, quốc gia Do thái được
thành lập trên phần đất của người
Palestine
đang sinh sống. Sự lập quốc Do thái đã
khiến cho hàng triệu người Palestine
trở thành những người vô gia cư (homeless).
Sự bất mãn của những người Ả-rập
Hồi giáo bắt đầu từ đó.
Theo lệnh của Liên Hiệp Quốc thì Do
thái không được chiếm thành phố Jerusalem
vì thành phố này là thánh địa chung của cả ba tôn
giáo: Do thái, Ki Tô và Hồi giáo. Nhưng vào năm 1967, Israel
đã xua quân chiếm thành phố Jerusalem
làm thủ đô của riêng mình. Vụ này đã làm cho toàn
thế giới Hồi giáo phẩn nộ. Từ năm 1970
trở đi, thế giới Hồi giáo tổ chức
Hội nghị hàng năm để kêu gọi toàn thể
các tín đồ Hồi giáo đoàn kết chống lại
Israel để giải phóng thánh địa Jerusalem.
Israel
đã vin vào Thánh kinh Cựu ước, công khai tuyên bố
không bao giờ chịu rút khỏi Jerusalem
vì đó là “một sứ mạng tôn giáo” (a religious mission).
Nước Israel
là bất khả xâm phạm vì đó là “Israel
của Thánh kinh” (Biblical Israel). Lịch sử của Do thái
là lịch sử của Thánh kinh Cựu ước. Do
đó, đối với người Do thái, quốc gia và
tôn giáo là một. Chết vì nước cũng là chết vì
Chúa của đạo Do thái. Người Do thái sống
trong hiện tại với những chứng tích của
lịch sử. Tâm linh của người Do thái trong
hiện tại luôn luôn gắn bó với tâm linh dân tộc
trong lịch sử. Đó là lý do khiến người Do
thái đoàn kết và kiên cường trong chiến
đấu. Cuộc chiến tranh hiện nay giữa Do thái
và những người Ả-rập Hồi giáo là một
cuộc chiến tranh vì lịch sử và vì tôn giáo. Chúng ta
hãy nghe lời lập luận của mộ thường
dân Palestine ở ngoại ô
thành phố Jerusalem. Anh
Ibrahim Hussein, 48 tuổi, trả lời ký giả Mỹ trong
một cuộc phỏng vấn tháng 3/2002 như sau:
“Nếu ông đào xới bất cứ chỗ nào ở vùng
này ông cũng tìm thấy những dấu tích của
lịch sử. Và nếu ông là một người Do thái thì
bất cứ lúc nào ông cũng có thể vin vào những
dấu tích đó để nói rằng đây là đất
thuộc về lịch sử của Do thái.” Nhưng
người Do thái chỉ có thể vin vào lịch sử
3000 năm của họ. Còn chúng tôi, con cháu của những
người Canaanites, đã định cư trước
người Do thái 4000 năm, nghĩa là tổ tiên của
người Ả-rập đã có 7000 năm lịch sử
tại nơi này!” (Houston
Chronicle, March 31, 2002).
Ý kiến chung của những người
Ả-rập luôn luôn kết tội Israel
là kẻ gây chiến vì Israel
đã đến chiếm đất của người
Palestine
và dùng bạo lực đuổi họ ra khỏi nới
cư trú hợp pháp lâu đời của họ. Trong khi
đó, người Do thái luôn luôn đem Thánh kinh và Thiên Chúa
ra làm chứng cho quyền sở hữu của mình. Họ
nói vùng Tây Ngạn sông Jordan (West Bank) hiện có 3 triệu dân
Palestine cư trú, chính là hai tỉnh Judea và Samaria của Do
thái trong Thánh kinh Cựu ước. Người Do thái
chiếm thành phố Hebron ở phía Nam Jerusalem, nơi
đây là chốn định cư của trên 100.000 dân
Palestine, viện cớ Hebron là nơi có mộ của
tổ phụ Abraham, mặc dầu không một ai có thể
xác định mộ của ông ta nằm ở chỗ nào!
Người Do thái cũng chiếm luôn thung
lũng Kindron ở ngoại ô Jerusalem
(Kindron Valley)
vì thung lũng này hết sức quan trọng. Cả ba
đạo thờ Chúa là dân Do thái, Ki Tô và Hồi giáo
đều tin rằng : đến “ngày phán xét cuốn cùng”,
tất cả mọi người sống và người
chết (sống lại) đều tập trung tại
thung lũng Kindron để được Thiên Chúa xét
xử lần cuối cùng. Kẻ lành lên Thiên đàng
đời đời, còn kẻ dữ (là kẻ chẳng
theo trong ba đạo này) sẽ bị đày xuống
hỏa ngục muôn đời muôn kiếp.
Đọc tin tức báo chí đến đây
tôi liên tưởng đến sự ước tính của
giáo sư Trần Chung Ngọc trong sách “Chúa Giê-su là ai? Giảng
dạy những gì?” (Giao Điểm xuất bản Xuân
2002, trang 167-169) : Ngày Phán xét cuối cùng là ngày Chúa xét xử
cả người sống lẫn các người chết
từ xưa đến nay. Những người sống
hiện nay là 6 tỉ. Nếu Chúa cho tất cả mọi
người chết sống là thì ước tính độ
44 tỉ người. Tổng cộng tất cả
mọi người được Chúa xét xử sẽ là
50 tỉ. Nếu Chúa xét xử theo phương pháp siêu
tốc mỗi người một giây thì thời gian
cần thiết phải có là 1500 năm mới xử xong 50
tỉ người! Đó là về thời gian xét xử,
còn về nơi xét xử là thung lũng Kindron không biết
rộng bằng nào. Nhưng cho dù thung lũng Kindron lớn
rộng bằng cả nước Việt Nam
chăng nữa cũng không thể nào chứa
được 50 tỉ người trong Phiên xử vĩ
đại của Chúa!
Kinh thánh Do thái nói rất nhiều đến
ngày Phán xét cuối cũng của Chúa tại thung lũng
Kindron. Nhưng nếu đọc sách Phúc Âm sẽ thấy
Gioan Baotixita và Jesus còn nói về ngày Phán xét nhiều hơn
nữa. Trong niềm tin của những người Ki Tô
giáo (Công giáo, Chính thống, Tin Lành và Anh giáo) thì Ngày Phán xét
cuối cùng chính là ngày Chúa Jesus Tái lâm (Cơ đốc
Phục Lâm) và cũng là Ngày Tận thế, Ngày Nước
Chúa trị đến vĩnh viễn trên thế gian...
Như vậy, vị Chánh án của Phiên Xử cuối cùng
vĩ đại này không ai khác hơn là chính Chúa Jesus.
Hơn một tỉ tín đồ Hồi giáo
cũng có niềm tin xác tín về Ngày Phán xét cuối cùng
tại thung lũng Kindron như niềm tin của những
người Do thái và Ki Tô. Nhưng vị Chủ tọa
phiên xử là Thiên Chúa Allah. Ngay chương mở
đầu của Kinh Koran đã xác định điều
đó: “Nhân danh Thiên Chúa Allah, Đấng chủ tọa
của Ngày Phán xét cuối cùng” (In the name of Allah, master of the
Day of Last Judgement, Koran 1:4)
Người Do thái càng vin vào Thánh kinh là sách ghi
Lời Chúa để biện giải cho các hành vi chiến
tranh của mình bao nhiêu thì người Ả-rập Hồi
giáo cũng vin vào kinh Koran để cổ vũ
người Palestine và toàn khối Ả-rập phải
quyết tâm tận diệt Do thái bấy nhiêu.
Ngay từ khi đạo Hồi
được thành lập vào đầu thế kỷ 7,
Muhammad đã kêu gọi tín đồ tẩy chay những
người Do thái và Ki Tô:
“Hỡi các tín đồ! Đừng bao
giờ làm bạn với bọn Do thái và Ki Tô. Bất
cứ ai làm bạn với chúng sẽ trở thành một
kẻ bất chính trong bọn chúng. Thiên Chúa không bao giờ
dẫn đường chỉ lối cho những kẻ
bất chính”
(Oh you who believe! Do not take the Jews and the Chistians
for friends and who amongst you take them for a friend then he is one of them.
Allah does not guide the unjust people, Koran 5:15)
Ngày 21.7.2001, chính quyền
Palestine
của Arafat phổ biến trên các phương tiện
truyền thông một bản thông cáo chính trị nhưng
được mệnh danh là “Giáo lệnh số 4” (Religious
teaching no. 4) : “Thiên Chúa cấm chỉ thừa nhận
sự hiện hữu một quốc gia Israel
và Ngài ra lệnh phải tiêu diệt nó. Để cụ
thể hóa mệnh lệnh này, chính quyền Palestine
đã đưa ra 8 điều sau đây:
1. Xác nhận Do thái là kẻ thù của Thiên
Chúa.
2. Toàn thể Hồi giáo phát động thánh
chiến để chống lại Do thái.
3. Tiêu diệt Do thái là một nghĩa vụ
tôn giáo
4.
Palestine
chiến đấu tại tiền tuyến, thế
giới Hồi giáo là hậu phương yểm trợ
tiền tuyến.
5. Toàn thể lãnh thổ Israel
phải thuộc về Palestine.
Bất cứ ai cắt đất của Palestine
cho Do thái đều phải sa hỏa ngục đời
đời kiếp kiếp.
6. Mọi thỏa ước ký kết
với Do thái đều chỉ có giá trị chiến
thuật tạm thời.
7. Bất cứ ai trốn tránh nghĩa
vụ thánh chiến chống Do thái sẽ bị Chúa
trừng phạt.
8. Sự tiêu diệt hoàn toàn Israel
là một sự bảo đảm tuyệt đối nhân
danh Thiên Chúa Allah.”
Trong công báo chính thức của chính quyền
Palestine
(Al-Jadila) ngày 18.5.2001 có đăng một bản Huấn
thị của chính phủ, trong đó có câu:
“Ngày của mọi người chết
sống lại để dự phiên xử cuối cùng
sẽ không xảy ra cho đến khi nào người
Hồi giáo gây chiến tranh chống Do thái và tiêu diệt
chúng.” (The Day of the Resurrection will not arrive until the Muslims make war
against the Jews and kill them).
Một viên chức cao cấp của Bộ
Tư Pháp Palestine xuất hiện trên màn ảnh truyền
hình ngày 13.10.2001 kêu gọi nhân dân Palestine:
“Do thái là kẻ nói láo và khủng bố. Cho nên điều
cần thiết là phải giết chúng theo lời Chúa.
Cấm không ai được thương xót chúng.
Đừng thương xót, hãy giết chúng ở khắp mọi
nơi.”
(“The Jews are liars
and terrorist. Therefore it is necessary to slaughter them according to the
Words of God. It is forbidden to have mercy in your hearts for the Jews. Have
no mercy on them and murder them everywhere”, First Facts on Islam, by John
Weldon and John Ankernerg, Harvest House Pub. 2001, pages 135-137 ).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét