Hình thái
|
Phạm vi
|
Chuyên biệt chính trị
|
Hình thái kiếm sống chính
|
Quy mô và mật độ dân số
|
Phân hóa xã hội
|
Hình thái phân phối chính
|
Nhóm | Các nhóm cùng nơi cư trú | Không có hoặc ít, lãnh đạo không chính thống | Kiếm lương thực | Cộng đồng nhỏ mật độ thấp | Quân bình | Chủ yếu là tương hỗ |
Bộ lạc | Đôi khi gồm nhiều nhóm khác nơi cư trú | Không có hoặc ít, lãnh đạo không chính thống | Nông nghiệp quảng canh hoặc chăn thả gia súc | Cộng đồng nhỏ mật độ thấp | Quân bình | Tương hỗ & Tái phân phối |
Đầu lĩnh | Nhiều nhóm khác nơi cư trú | Có nhưng không nhiêu | Nông nghiệp quảng canh hoặc thâm canh hoặc chăn thả gia súc | Cộng đồng lớn mật độ trung bình | Xếp hạng | Tương hỗ & Tái phân phối |
Nhà nước | Nhiều nhóm khác nơi cư trú, đôi khi tất cả dân cư nói cùng một ngôn ngữ | Nhiều | Nông nghiệp thâm canh hoặc chăn thả gia súc | Thành phố thị trấn có quy mô dân cư cao | Giai cấp và đẳng cấp | Chủ yếu là trao đồi thị trường |
Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014
Các loại hình tổ chức chính trị của các xã hội trong lịch sử
17:00
Hoàng Phong Nhã
No comments
Mọi xã hội đều phát triển và duy
trì những tập tục và phương thức ra và thực thi quyết định, giải quyết
xung đột, quy định, và kiểm soát hành vi của các thành viên xã hội.
Đồng thời các xã hội cũng cần có những
quyết định tập thể về mối quan hệ với môi trường sống hay với các xã hội
khác. Các phương thức đó được gọi chung là Tổ chức chính trị.
Tổ chức chính trị tồn tại ở mọi xã hội
nhưng mức độ chuyên biệt và cơ chế hoạt động biến đổi từ xã hội này sang
xã hội khác, từ đơn giản đến phức tạp. Phần tiếp theo sẽ bàn luận về
cách hình thái tổ chức chính trị được biết đến nay trong xã hội loài
người, đó là (i) Nhóm, (ii) Bộ lạc, (iii) Chế độ đầu lĩnh, và (vi) Nhà
nước.
Nhóm
Đây là hình thái tổ chức chính trị đơn
giản nhất, tồn tại ở các xã hội có quy mô dân số nhỏ và thường gặp ở các
xã hội săn bắn hái lượm. Dù quy mô dân số có thể lên đến 200 người
nhưng phần lớn các nhóm có quy mô từ 30 - 50 thành viên. Quy mô dân số
do yếu tố môi trường quyết định. Nói cách khác, môi trường sống càng có
khả năng cung cấp nhiều lương thực (muông thú, cây củ...) thì quy mô dân
số của nhóm càng lớn. Đối với các xã hội này khái niệm tư hữu gần như
không tồn tại. Ngược lại nguyên tắc chia sẻ và hợp tác được đề
cao.Chuyên biệt hóa công việc gần như không có. Nam thường săn bắn và nữ
thì hái lượm. Mối quan hệ giữa các thành viên trong Nhóm thường dựa
trên huyết thống hoặc hôn nhân. Các quyết định chính trị và lãnh đạo do
đó thường không tách rời mà là một phần tích hợp của cuộc sống hàng ngày
do các yếu tố trên chi phối. Ví dụ người có quyền "lãnh đạo" thường là
những người già trong nhóm. Do hình thái này gắn với các xã hội săn bắn
hái lượm nên nó được xem là hình thái tổ chức chính trị sớm nhất của
loài người.
Bộ lạc
Bộ lạc là hình thái tổ chức chính trị thường đi liền với các xã hội có khả năng sản xuất hơn là kiếm lương
thực, ví dụ như nông nghiệp quảng canh hay chăn thả gia súc. Do việc
chăn nuôi và trồng trọt hiệu quả hơn săn bắn hái lượm nhiều nên các xã
hội này thường có quy mô dân số đông, quần tụ, và định cư hơn so với các
xã hội săn bắn hái lượm. Mặc dù vậy, hình thái xã hội này cũng giống
hình thái trên ở một số khía cạnh quan trọng. Đó là quân bình khi mà
không có sự khác biệt đáng kể trong mức độ địa vị, quyền lực và tài sản.
Bên cạnh đó, thủ lĩnh không có quyền lãnh đạo tập trung.
Chế độ Đầu lĩnh
Trong khi hình thái bộ lạc có một số cơ chế phi chính thức để quản lý và hội nhập các cộng đồng thì hình thái Đầu lĩnh sử dụng một cơ chế chính thức để
thống nhất một số cộng đồng vào một đơn vị chính trị. So với hình thái
bộ lạc, hình thái Đầu lĩnh có quy mô dân số lớn hơn và định cư hơn nhờ
vào khả năng sản xuất lương thực hiệu quả hơn. Vị trí đầu lĩnh thông
thường là cha truyền con nối và vĩnh viễn. Địa vị này đảm bảo vị trí và
uy tín xã hội lớn hơn cho Đầu lĩnh và gia đình của mình. Đầu lĩnh có thể
lên kế hoạch, sử dụng lao động của cộng đồng, tái phân phối sản phẩm
lao động, chỉ huy các hoạt động quân sự...Một phần sản phẩm thu được sử
dụng để duy trì bộ phận "phụ tá" về tôn giáo, chiến binh..những người
giúp Đầu lĩnh duy trì quyền lực.
Nhà nước
Nhà nước là hình thái tổ chức chính trị
chính thống và phức tạp nhất. Nó là một đơn vị hành chính trị tự trị,
được tạo thành từ nhiều cộng đồng trong một lãnh thổ địa lý rộng lớn.
Nhà nước có chính quyền trung ương với quyền lực thu thuế; huy động nhân
lực cho sản xuất và chiến tranh; ban hành và thực thi luật lệ và quan
trọng nhất là độc quyền về sử dụng vũ lực. Để quản lý và thực thi các
nhiệm vụ liên quan tới một dân số lớn nhà nước có các một hệ thống các
thể chế để thực hiện như tòa án, quân đội... Nếu ở hình thái bộ lạc và
đầu lĩnh, cơ cấu chính trị dựa trên mối quan hệ huyết thống thì ở hình
thái nhà nước tổ chức quyền lực vượt trên mối quan hệ huyết thống. Nghĩa
là vị trí thành viên một cá nhân trong nhà nước phụ thuộc vào nơi cư
trú và địa vị công dân hơn là mốiquan hệ huyết thống. Trong lịch sử loài
người, hình thái nhà nước đã xuất hiện và tồn tại đượcvài ngàn năm dưới
nhiều dạng như thành bang ở Hy lạp, đế quốc La Mã, các nhà nước Châu
Phi cổ đại Bunyoro, Buganda,hay nhà nước thần quyền của Ai Cập cổ đại...
Quyền lực của nhà nước có được dựa trên hai yếu tố quan trọng. Đó là
độc quyền sử dụng vũ lực để kiểm soát và trừng phạt các thành viên vi
phạm thông qua hệ thống lập pháp, hành pháp. Thứ hai là nhà nước duy trì
quyền lực thông qua hệ tư tưởng. Một đặc điểm nữa là nhà nước có một số
lượng lớn các vị trí chính trị chuyên biệt toàn thời gian để thực thi
các nhiệm vụ của nhà nước như quan toàn, binh lính...
BẢNG SO SÁNH CÁC HÌNH THÁI
Nhân tố quyết định tới sự biến đổi trong tổ chức chính trị giữa các xã hội
Xét từ góc độ tập trung hóa chính trị,
quy mô thì Nhóm, Bộ lạc, Đầu lĩnh và Nhà nước là những điểm trên một dải
liên tục từ đơn giản đến phức tạp. Về mặt quyền lực chính trị, nó là sự
tiến hóa từ chỗ chỉ có lãnh đạo không chính thống tới sự tồn tại của
một hệ thống chuyên biệt hóa các vị trí chính trị. Là sự tiến hóa từ
không sử dụng vũ lực tới việc độc quyền vũ lực. Sự tiến hóa này có mối
tương quan cùng chiều với sự chuyển đổi từ kiếm lương thực tới
sản xuất lương thực, với sự biến đổi từ cộng đồng nhỏ thành cộng đồng
lớn, từ mật độ dân cư thấp lên mật độ dân cư cao, từ tương hỗ tới tái
phân phối rồi trao đổi thị trường, từ xã hội quân bình tới xã hội phân
chia giai cấp. Một nghiên cứu so sánh giữa các xã hội khác nhau đã đi
đến kết luận là Nếu mức độ thâm canh nông nghiệp càng cao thì khả năng
hình thành nhà nước càng lớn. Và ngược lại, các xã hội có tổ chức chính
trị không vượt trên một địa điểm cư trú của cộng đồng thường có xu hướng
sống dựa trên săn bắn và hái lượm. Và các xã hội có nhà nước thường có
thành thị. Một lý giải khác về sự tiến hóa trong tổ chức chính trị là
xung đột giữa các nhóm người. Nói rõ hơn vì mục đích tự vệ hay tấn công
mà các nhóm người được sát nhập lại để tăng sức mạnh vì Bộ lạc sẽ có sức
mạnh và lợi thế hơn so với các Nhóm hay làng có quy mô nhỏ. Phân phối
sản phẩm lao động và điều phối công việc của cộng đồng cũng là những
nguyên nhân thúc đẩy sự tiến hóa chính trị.
Kết luận
Tổ chức chính trị tồn tại ở mọi xã hội
tuy nhiên khác nhau về mức độ, quy mô. Có xã hội không có nhưng vị trí
chính trị toàn thời gian chuyên biệt như cảnh sát, quan tòa..tuy nhiên
có xã hội lại duy trì một hệ thống lớn các vị trí này để quản lý các
thành viên. Nhóm, Bộc lạc, Đầu lĩnh và Nhà nước là những điểm trên đường
tiến hóa của tổ chức chính trị từ xã hội đơn giản đến phức tạp, từ kiếm
tới sản xuất lương thực. Bên cạnh đó xung đột, vấn đề điều phối công
việc của cộng đồng và phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố
có ảnh hưởng tới sự tiến hóa này.
Theo NHÂN HỌC VIỆT NAM
0 nhận xét:
Đăng nhận xét