Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Một phê bình về Kinh Thánh

Thiên Chúa giáo là một tôn giáo dựa trên văn bản. Chẳng có một bằng cớ nào để kiểm chứng các khẳng định và giáo điều của Thiên Chúa giáo ngoài những điều được viết trong Kinh Thánh, và sự kiện này đã làm cho cuốn sách đó trở thành hòn đá tảng của nền thần học Thiên Chúa giáo. Trong quá khứ cũng như hiện nay, tín đồ Thiên Chúa giáo đã lấy trong Kinh Thánh ý nghĩa của từng chữ từng câu hầu cố thuyết phục những người thuộc tôn giáo khác về chân lý của cuốn sách mà ngay cả chính họ cũng không đồng ý với nhau. Nhưng có một điều mà tín đồ Thiên Chúa giáo đồng ý với nhau là Kinh Thánh chính là lời của Chúa Trời – không phải chứa lời của Chúa Trời, mà là lời của Ngài, một thiên khải không thể sai và đã hoàn chỉnh của Chúa Trời ban cho con người. Chúng ta sẽ xem xét khẳng định này, và sẽ chứng minh rằng cũng như hầu hết các khẳng định khác của tín đồ Thiên Chúa giáo, nó rất ít vững chắc.
Có phải là lời của Chúa Trời không ?
Nếu Kinh Thánh thực sự là lời của Chúa Trời thì điều này chỉ chứng tỏ rằng Ngài quả là một nhân vật kỳ lạ. Chúng ta mong chờ Ngài, đấng sáng tạo ra vũ trụ, chỉ nói với con người khi Ngài có những gì cực kỳ quan trọng, và những gì Ngài nói phải mang một ý nghĩa phổ quát. Nhưng không phải thế. Chương “Biên Niên” (Chronicles) trong Kinh Thánh chẳng hạn thì không chứa đựng gì khác ngoài các danh sách tên của những người mà chúng ta biết rất ít, hay chẳng biết gì về họ, và họ đã chết từ hàng ngàn năm trước. Chẳng có điều răn nào, chẳng có nguyên tắc đạo đức nào, cũng không có lời dạy bảo nào chỉ cho ta làm sao sống đúng đắn hay phụng thờ Chúa Trời ra sao cả – trong hết trang nầy đến trang khác chỉ là những cái tên vô ích. Tại sao Chúa Trời lại mất thì giờ của Ngài và của chúng ta để tiết lộ các danh tính đó? Còn chương “Các Bài Ca của Solomon” (Songs of Solomon) thì sao? Chương này chỉ là một tập hợp các bài thơ tình gợi dục. Một lần nữa, trong một thế giới hỗn độn như hiện nay, người ta mong rằng Chúa Trời hẳn phải suy nghĩ điều gì quan trọng để nói với loài người hơn là những điều như thế.
Thế rồi chúng ta đến với Tân Ước kể lại chi tiết cuộc đời của Giê-su. Tại sao Chúa Trời lại quyết định tiết lộ tiểu sử của Giê-su không phải một lần mà bốn lần? Và tại sao điều Ngài tiết lộ lại rõ ràng là bốn bản văn khác nhau (của bốn tông đồ) và mâu thuẩn nhau cho cùng một câu chuyện? Không giống như tín đồ Thiên Chúa giáo, các nhà sử học đã đưa ra nhiều nghiên cứu hoàn toàn đáng tin cậy để trả lời các vấn nạn này. Kinh Thánh không phải được thiên khải từ Chúa Trời, đúng hơn nó chỉ là một tập biên soạn, mà lại biên soạn hoàn toàn không gọn gàng, do nhiều người viết qua nhiều thế kỷ, nhiều khi bị thay đổi và sửa chữa, và chứa đựng những truyền thuyết, chuyện kể, bảng phả hệ, ngụ ngôn, những bài viết cả thiêng liêng lẫn thế tục. Nó chẳng phải là một thiên khải từ Chúa Trời mà nó như Iliad hay Odyssey, Ramayana hay Mahabharata, là những tác phẩm hư cấu rất tương tự như Kinh Thánh.
Có phải Kinh Thánh do Thiên khải không ?
Tín đồ Thiên Chúa giáo khẳng định rằng mặc dù các chương sách của Kinh Thánh thực đúng là do nhiều người khác nhau viết, nhưng những người này viết theo thiên khải và dưới sự hướng dẩn của Chúa Trời. Trong lúc tín đồ Thiên Chúa giáo hiện đại khẳng định như vậy thì các tác giả cổ xưa của Kinh Thánh lại đã không hề khẳng định như thế. Ví dụ tông đồ Luke nói trong phần mở đầu Phúc Âm của mình rằng:
Như nhiều người đã nỗ lực sưu tập một câu chuyện kể về các điều đã hoàn tất trong chúng ta, tôi cho rằng là đúng đắn cứ theo sát mọi điều trong quá khứ để viết ra thành một bản miêu tả theo thứ tự cho người đọc (Lk, 1:1-3).
Chẳng thấy tràn trề tinh thần của Chúa Trời gì cả trong câu văn đó dù trước hay trong lúc Luke viết, ông chỉ đơn giản nói rằng đã có những người khác viết về cuộc đời Giê-su được, nên ông nghĩ nếu ông viết vài điều thì cũng tốt thôi. Nếu ông ta có hứng khởi từ Chúa Trời để viết Phúc Âm tại sao tông đồ Luke đã không nói thẳng ra ?
Nhưng khẳng định được thiên khải chẳng những đã không có cơ sở mà còn nảy sinh ra một vấn đề nghiêm trọng. Tín đồ Thiên Chúa giáo luôn khẳng định rằng trong lúc họ cầu nguyện, Chúa Trời đã nói chuyện với họ, khuyên răn và bảo họ phải làm gì. Họ khẳng định giọng của Ngài rất trực tiếp, Rõ ràng và rất thực. Nhưng nếu thực sự họ không nghi ngờ rằng chính Chúa Trời đã hiệp thông với họ thì chắc chắn lời của Ngài phải được ghi lại và chép vào trong Kinh Thánh chứ. Kinh Thánh có lời của Chúa Trời nói với Moses, Joshua, Matthew, Mark, Peter và Paul, thế tại sao những lời Ngài nói với tín đồ Thiên Chúa giáo ngày nay lại không được chép vào trong đó? Tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ lẩn tránh một vấn nạn như thế, và điều đó chứng tỏ rằng những lời mà họ nói rằng họ nghe bằng con tim đến thẳng từ Chúa Trời thì chẳng có tính thuyết phục chút nào.
Có một hay nhiều Kinh Thánh?
Vào thời xưa, không có một bản văn Cựu Ước được chuẩn hoá. Những nhóm Do Thái cổ khác nhau và những tôn giáo khác nhau đều có các bản văn của riêng họ. Đấy là Septuagint, phiên bản Aquila, phiên bản Theodotion và phiên bản Symmachun, tất cả các phiên bản nầy đều có những bản văn khác nhau và số lượng chương sách cũng khác nhau. Cựu Ước mà tín đồ Thiên Chúa giáo hiện nay dùng được dựa trên phiên bản Massonetic vốn chỉ xuất hiện sau Jamnia Synod vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Còn Tân Ước theo dạng ngày nay thì mãi cho đến năm 404 sau công nguyên mới xuất hiện, gần bốn trăm năm sau khi Giê-su chết. Trước thời đó, Phúc Âm của Thomas, Phúc Âm của Nicodemus, các thiên của Peter, các thiên của Paul và hàng lô sách khác đều có trong Kinh Thánh. Nhưng vào năm 404 trước công nguyên, những sách này đã bị cắt bỏ khỏi Kinh Thánh vì chúng chứa đựng những giáo lý trái ngược với nội dung thần học Thiên Chúa giáo thời đó. Một trong những Kinh Thánh cổ xưa nhất còn tồn tại, Sách Chép Tay Sinaiticus, bao gồm Thánh thư của Barnabas, một cuốn sách không có trong Kinh Thánh ngày nay. Tại sao những cuốn sách này được xem là thiên khải của Thiên Chúa giáo thời trước thì Thiên Chúa giáo ngày nay lại không xem chúng là thiên khải?
Khi chúng ta xem Kinh Thánh mà tín đồ Thiên Chúa giáo sử dụng, chúng ta thấy có nhiều phiên bản khác nhau. Kinh Thánh của giáo hội người Ethiopia, một trong những giáo hội cổ xưa nhất, thì có nội dung của Books of EnochShepherd of Hernias, nhưng lại không thấy hai phần nầy trong các Kinh Thánh của đạo Công giáo La Mã và đạo Tin Lành. Ngoài ra, Kinh Thánh dùng trong giáo hội Công giáo La Mã có các sách của Judith, Tobias, Banuch, v.v. nhưng lại bị dẹp bỏ đi trong Kinh Thánh dùng cho các hội thánh Tin Lành. Giáo sư H.L. Drummingwright của Đại chủng viện thần học Southwestern Baptist, trong bài giới thiệu Kinh Thánh, đã giải thích vì sao dẹp bỏ chúng để trở thành Kinh Thánh cho người Tin Lành dùng. Ông nói rằng “trong hầu hết Kinh Thánh của Tin Lành cho đến thế kỷ thứ 19, dưới sự hướng dẫn của Hội Kinh Thánh Anh và Nước Ngoài, những nhà xuất bản đã bắt đầu tự ý bỏ bớt chúng”. Một lần nữa, ta thấy vì những cuốn sách này có nội dung mà giáo hội không thích nên họ cắt bỏ bớt. Làm sao một cuốn sách như Judith, được xem là những lời không thể sai lầm của Chúa Trời, lại lúc thì có lúc thì không trong Kinh Thánh ? Tại sao lại có nhiều bản văn Kinh Thánh khác nhau? Và bản văn nào là những lời không thể sai lầm của Chúa Trời?
Có sai lầm trong Kinh Thánh không?
Trên đây, chúng ta đã thấy nhiều sai lầm trong Kinh Thánh nhưng chúng ta hãy xét thêm ba ví dụ nữa của sự không chính xác trong Kinh Thánh. Ngày nay, ngay cả học trò nhỏ đều biết trái đất chuyển động không đứng yên; trái đất quay quanh trục của nó nhưng đồng thời cũng quay quanh mặt trời. Chúng ta cũng biết những địa tầng trên mặt quả đất thì chuyển động trượt lên nhau. Tuy nhiên, Kinh Thánh thì lại nêu rõ là quả đất không chuyển động. Trong Biên Niên sử 16:30, Kinh Thánh nói rằng, “Thế giới được thiết lập một cách vững chắc, nó không thể bị chuyển động” (hãy xem thêm Ps, 93:1, 96:10 và 104:5).
Ở đây, và trong nhiều đoạn khác, Kinh Thánh đã mâu thuẫn với sự kiện khoa học. Ngoài ra, không những Kinh Thánh mâu thuẫn với khoa học mà còn mâu thuẫn với chính nó. Chúng ta hãy xem câu chuyện sáng tạo vũ trụ. Chương đầu tiên của Kinh Thánh nói rằng Chúa Trời sáng tạo ra mọi cây cối vào ngày thứ ba (Gen, 1:11-13); chim, thú và cá vào ngày thứ năm (Gen, 1:20-23) và cuối cùng, đàn ông và đàn bà vào ngày thứ sáu (Gen, 1:26-27). Thế mà sau đó, Kinh Thánh cho một mô tả khác về câu chuyện sáng tạo lại nói rằng Chúa Trời sáng tạo chỉ người đàn ông trước (Gen, 2:7), rồi đến cây cối (Gen, 2:9), sau đó là chim chóc và thú vật (Gen, 2:19) và chỉ đến lúc đó Chúa Trời mới tạo ra đàn bà (Gen 2:21-22). Hai bản văn về một câu chuyện sáng tạo rõ ràng đã mâu thuẫn nhau.
Bây giờ chúng ta hãy xét câu chuyện về Con Thuyền của ông Noah trong trận Đại hồng thủy. Một đoạn trong Kinh Thánh cho chúng ta biết là ông Noah đã lấy từng cặp của tất cả thú vật và đem chúng lên thuyền (Gen, 6;19). Sau đó, trong một đoạn khác, Kinh Thánh lại nói ông Noah lấy bảy cặp thú và chim nào tinh sạch và một cặp cho những sinh vật còn lại rồi đem chúng lên thuyền (Gen, 7:2). Một lần nữa, Kinh Thánh lại tự mâu thuẩn với chính mình. Tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ phản đối điều này, họ cho rằng những lỗi lầm này, và nhiều lỗi lầm khác nữa, trong Kinh Thánh chỉ là chuyện nhỏ nhặt và chẳng đáng gì. Tuy nhiên, chỉ cần một lỗi thôi thì cũng đã chứng tỏ là Kinh Thánh không phải không sai lầm. Lại nữa, nếu đã có sai lầm trong các chuyện nhỏ nhặt thì cũng có thể có sai lầm trong các chuyện quan trọng. Và cuối cùng, chỉ một sai lầm cũng đủ là bằng chứng hoặc Kinh Thánh không phải là lời của Chúa Trời hoặc Ngài cũng có khả năng sai lầm.
Kinh Thánh có phải là một Chứng Thư đáng tin không ?
Chúng ta từng thấy Kinh Thánh không phải là không sai, do đó Kinh Thánh thì không thể là do Chúa Trời thiên khải được. Nhưng nếu không phải là lời của Chúa Trời thì là lời của ai? Nhiều sách trong Kinh Thánh được đặt theo tên nhiều người được cho là đã viết ra chúng. Vì thế Phúc Âm của Matthew được cho là do ông Matthew, một tông đồ của Giê-su, viết ra. Phúc Âm của Mark được cho là do ông Mark, một tông đồ khác của Giê-su, viết ra, v.v…
Tín đồ Thiên Chúa giáo có thể khẳng định là cho dù Kinh Thánh không nhất thiết được thiên khải một cách không sai lầm, nhưng Kinh Thánh là một chứng thư của những người đáng tin cậy. Họ có thể khẳng định rằng các tông đồ Matthew, Mark, Luke và John biết Giê-su rất rõ, họ sống kề cận với Giê-su nhiều năm, họ nghe giáo lý và viết ra những điều họ mắt thấy tai nghe; và chẳng có lý do gì để các vị nầy dối gạt hay cường điệu cả. Bởi thế, tín đồ Thiên Chúa giáo có thể khẳng định rằng Kinh Thánh là một chứng thư đáng tin cậy.
Tuy nhiên, chứng thư tin cậy được phải đến từ những người đáng tin cậy, những người chúng ta có thể tin, những người có lai lịch tốt. Các tông đồ của Giê-su có phải là hạng người như vậy không ? Chúng ta hãy xem.
Một vài tông đồ của Giê-su là người thu thuế (Matt, 9:9), một loại đàn ông không lương thiện và đáng khinh miệt (Matt, 18;17); kẻ khác chỉ là kẻ đánh cá thất học (Mk, 1:16-17). Simon là một người của nhóm Quá Khích (Lk, 6:15), một nhóm người được biết là cuồng tín và thường bạo động chống đối luật pháp La Mã, và như những người có liên quan đến chính trị bất hợp pháp, ông ta dùng bí danh và thường được biết dưới tên Peter (Matt, 10:2). Peter và James được cho biệt hiệu “Boanerges” có nghĩa là ‘con của sấm sét’ (Mk, 3:17) cũng làm cho ta nghĩ rằng họ liên quan đến chính trị bạo lực. Khi Giê-su bị bắt, các tông đồ của Ngài có đeo gươm và sẳn sàng sử dụng những thanh gươm nầy. Với những loại người như vậy, thật khó cho chúng ta cảm thấy yên tâm tin tưởng.
Một điều khác phải làm chúng ta thận trọng việc tin tưởng chứng thư các tông đồ của Giê-su là họ có vẻ luôn hiểu lầm những điều Giê-su nói (Mk, 4:13, 6:52, 8:15-17, 9:32; Lk, 8:9, 9:45). Họ được cho là đã thấy Giê-su thực hiện nhiều phép lạ hết sức đáng kinh ngạc thế mà dù vậy, họ vẫn nghi ngờ. Đến nỗi Giê-su đã phải rầy la họ và gọi họ là “những con người ít đức tin” (Matt, 8:26, 17:20). Liệu chúng ta có nên tin vào tường thuật của những người luôn luôn không hiểu những gì người khác nói với họ và là người mà thậm chí chính Giê-su cũng gọi là những người “ít đức tin” không ? Nếu những người đã thấy và biết Giê-su mà còn có “ít đức tin”, thì làm sao chúng ta, người chưa bao giờ thấy Ngài, lại đặt được niềm tin vào Ngài?
Sự kiện những người đã viết ra Kinh Thánh thì không đáng tin và thiếu niềm tin đã được minh hoạ bằng những gì họ làm trước và trong khi Giê-su bị bắt. Ngài yêu cầu họ canh gác nhưng họ lại ngủ (Matt, 26:36-43). Sau khi Giê-su bị bắt, họ đã nói dối và thậm chí đã chối bỏ không biết ngài (Mk, 14:66-72), rồi sau khi Ngài bị hành quyết, họ đơn giản quay trở lại việc câu cá của họ (Jn, 21:2-3). Và ai đã phản Giê-su đầu tiên? Tông đồ Judas của ngài (Matt, 26:14-16). Kết giao với những kẻ tội lỗi, nói láo và điên khùng, để giúp đở họ như Giê-su đã làm, là một điều tốt. Nhưng vấn đề là chúng ta có nên tin lời nói của hạng người này không?
Một việc khác còn lộn xộn hơn nhiều về các tông đồ của Giê-su là không biết có bao nhiêu người trong nhóm của họ đôi lúc đã bị quỷ ám. Mary Magdalene là người sau này khẳng định đã thấy Giê-su đứng dậy từ cái chết, thì đã từng bị bảy quỷ ám (Mk, 16:9). Chúa quỷ Sa Tăng nhập vào Judas (Lk, 22:3), và cũng ráng tìm cách nhập vào Simon (Lk, 22:31), và một lần chính Giê-su đã gọi Peter, trưởng tông đồ cùa ngài, là “Sa Tăng” (Matt, 16:23), điều nầy chứng tỏ rằng Ngài cũng bị quỷ ám lúc đó mới gọi Peter như thế. Dù hiện tượng quỷ ám thực sự xảy ra hay dù đó chỉ là những rối loạn tâm lý nghiêm trọng như các nhà phân tâm học ngày nay tin tưởng, thì cách nào cũng chỉ ra rằng chúng ta phải hết sức thận trọng khi nghiên cứu những lời nói của các tông đồ của Giê-su.
Ai đã viết ra Kinh Thánh ?
Chúng ta đã thấy Kinh Thánh không phải là không sai lầm, Kinh Thánh không phải do thiên khải mà viết ra, và Kinh Thánh không phải là chứng thư của những người đáng tin cậy. Bây giờ chúng ta sẽ chứng minh rằng Kinh Thánh thậm chí không được viết ra do những người từng được khẳng định là tác giả của nó. Hãy nhìn vào năm cuốn sách đầu tiên trong Kinh Thánh Cựu Ước: Sáng Thế ký (Genesis), Xuất Ê-díp-tô ký (Exodus), Lê-vi ký (Levitious), Dân Số ký (Numbers) và Phục truyền Luật lệ ký (Deuteronomy). Năm cuốn sách này mô tả sự sáng tạo ra thế giới, lần thiên khải đầu tiên của Chúa Trời với con người, và lịch sử thời đầu bộ lạc Do Thái vốn được cho là do Moses viết ra. Chúng thường được gọi là ‘Sách của Moses’. Tuy nhiên, nếu Moses là tác giả gốc thì rõ ràng là không thể được, bởi vì trong các cuốn sách này chúng ta có một phần tường thuật về cái chết của Moses.
Thế là Moses, tôi tớ của Chúa Trời, đã chết ở trong vùng đất của Moab theo lời của Chúa Trời, và họ đã chôn ông ta trong thung lủng vùng đất Moab đối diện với Beth Peor, nhưng cho đến ngày nay không ai biết được chôn chỗ nào (Deut, 34.5-6).
Làm sao một người có thể viết về cái chết và đám tang của chính mình? Cuốn Phục truyền Luật lệ ký (Deuteronomy), ít ra, phải do một người nào khác viết chứ không thể là Moses.
Bây giờ chúng ta nhìn đến Kinh Thánh Tân Ước. Phúc Âm của Matthew được cho là do Matthew viết ra (Matthew là kẻ thu thuế, kẻ đa nghi, ít niềm tin), một trong các tông đồ của Giê-su . Thế mà chúng ta lại có thể chứng minh dễ dàng rằng Matthew không thể viết “Phúc Âm Matthew” được. Chúng ta đọc được trong Phúc Âm nầy như sau:
Khi Giê-su đi ngang qua đó, ngài thấy một người đàn ông tên là Matthew đang ngồi ở phòng thu thuế và ngài bảo ông ta, “ Hãy theo ta”. Và ông ta đứng dậy đi theo ngài (Matt, 9:9).
Từ trước đến giờ, chẳng khi nào người ta viết về mình bằng ngôi thứ ba cả. Nếu Matthew thực sự viết câu này, chúng ta sẽ được đọc như sau: “Khi Giê-su đi ngang qua đó, ngài thấy tôi ngồi trong phòng thuế và ngài nói với tôi, ‘Hãy theo ta’. Và tôi đứng dậy đi theo ngài.”
Như vậy rõ ràng câu này không do Matthew viết mà phải do một kẻ thứ ba nào đó viết ra. Ai là người thứ ba đó, chúng ta không biết. Nhưng những nhà học giả về Kinh Thánh đã suy đoán. Trong lời tựa bản dịch Phúc Âm của Matthew, nhà học giả đặc sắc về Kinh Thánh J.B. Phillips đã viết:
Truyền thống buổi sơ khai đã gán cho tông đồ Matthew là tác giả của Phúc Âm này, nhưng hầu như tất cả các học giả ngày nay đều phản đối quan điểm đó. Tác giả, người mà chúng ta vẫn tuỳ tiện gọi là Matthew, rõ ràng đã rút ra từ một tập hợp nhiều lời truyền khẩu. Ông ta đã sử dụng Phúc Âm của Mark một cách phóng túng, dù có sắp xếp lại thứ tự các sự kiện, và có nhiều lúc dùng những từ khác cho cùng một câu chuyện.
Đây là một thừa nhận gây xáo trộn sâu xa, đặc biệt lại là lời thừa nhận từ một học giả xuất chúng về Kinh Thánh Thiên Chúa giáo. Chúng ta được nghe nói là “hầu hết tất cả” các nhà học giả Kinh Thánh ngày nay đều bác bỏ ý tưởng cho rằng Phúc Âm của Matthew thực sự do Matthew viết. Chúng ta cũng được nghe nói là mặc dù không biết tác giả thực là ai nhưng vì để “thuận miệng”, ta tiếp tục gọi tác giả đó là Matthew. Rồi tiếp đó, chúng ta được nghe nói là dù ai viết Phúc Âm Matthew chăng nữa thì người đó cũng đã “tuỳ tiện chép nhiều tài liệu từ Phúc Âm của Mark”. Nói cách khác, Phúc Âm Matthew chỉ là một bản đạo văn mà các tài liệu được “sắp xếp lại” và trình bày lại theo “các từ khác”. Như thế thì thật hiển nhiên trong Phúc Âm Matthew, không những chúng ta không có lời của Chúa Trời, mà thậm chí cũng không có luôn cả lời của Matthew.
Ta phải nhớ đến công ơn của những nhà học giả uy tín về Kinh Thánh như Giáo sư J.B. Phillips, vì họ đã tự do thừa nhận điều này và những hoài nghi quan trọng khác về nguồn tác giả của Kinh Thánh, nhưng chính những sự thừa nhận như thế đã làm cho sự khẳng định rằng các tông đồ của Giê-su đã viết Phúc Âm là rõ ràng không đúng.
Những Sai lầm và Biến thái trong Kinh Thánh
Nếu chúng ta nhìn vào cuối các trang trong hầu hết mọi Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy có nhiều ghi chú. Những ghi chú này đề cập đến những sai lầm, biến thái hay bài đọc đáng ngờ trong Kinh Thánh. Và đúng là có hàng trăm ghi chú như thế. Vài lỗi lầm hay biến thái nhiều khi chỉ gồm vài từ, nhưng một số khác thì có khi là cả đoạn dài (xem các ví dụ của Luke, 9:55-56; John, 5:3; Acts, 24:6; 1 Corinthians, 8:36-38; 11:4-7; Corinthians, 10:13-15). Cũng nên chú ý rằng các ghi chú cho đoạn Mark 16:9-20 thì cho biết cả đoạn dài nầy không tìm thấy trong Kinh Thánh cổ. Nói khác đi, đoạn dài đó trong Kinh Thánh được thêm vào thời gian sau này. Làm sao những tín đồ Thiên Chúa giáo tân tòng và đạo giòng có thể khẳng định một cách lương thiện được rằng Kinh Thánh là không sai lầm và không kiếm được sai lầm nào, khi chính mọi sai lầm lại được chỉ ra ở cuối mỗi trang?
Trong Tân Ước, Giê-su và các tông đồ thường trích dẫn Cựu Ước để nhấn mạnh một quan điểm, hay rất thường khi cố chứng minh rằng Cựu Ước đã tiên tri các sự kiện trong cuộc đời của Giê-su. Nhưng khi chúng ta so sánh những trích dẫn này với nguyên bản trong Cựu Ước chúng ta nhận ra chúng hầu như luôn luôn khác nhau. Chúng ta sẽ so sánh bằng cách sử dụng ở đây Kinh Thánh Phiên bản Quốc tế Mới (The New International Version of the Bible).
Cựu Ước: Hởi Bethlehem Ephasthah, ngươi ở trong hàng ngàn Judah là nhỏ lắm, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Đấng cai trị trong Do Thái, gốc tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng (Mic, 5:2).
Tân Ước: Hởi Bethlehem đất Judah ! Thật ngươi chẳng phải kém gì các thành lớn của đất Judah đâu; vì từ ngươi sẽ ra một tướng, là Đấng chăn dân Do Thái, tức dân ta (Matt, 2:6).
Trích dẫn trong Tân Ước không những chứa các từ khác, mà còn thay đổi nguyên bản. Có phải Matthew đã trích dẫn sai vì không quen thuộc với Cựu Ước nên đã tạo ra sai lầm? Hay ông ta chủ tâm trích dẫn sai nhằm thay đổi ý nghĩa? Hoặc Cựu Ước cũ mà Matthew dùng thì khác với Cựu Ước chúng ta dùng hiện nay? Tân Ước trích dẫn Cựu Ước hàng chục lần nhưng khó có được một trích dẫn nào là chính xác.
Tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ phản đối và nói rằng những thay đổi đó nhỏ và không quan trọng. Có lẽ thế, nhưng đấy là những bằng chứng cho thấy Kinh Thánh có sai lầm, trái với điều mà Thiên Chúa giáo rao giảng. Lại nữa, thật là lạ khi các tông đồ Matthew, Mark, Luke, John và Paul, đều là những người mà theo tín đồ Thiên Chúa giáo thì đã được Chúa Trời thiên khải để viết Tân Ước, thế mà lại không trích dẫn đúng Cựu Ước.
Việc thay đổi Kinh Lạy Cha
Giê-su đã truyền cho các tông đồ kinh Lạy Cha trước khi Ngài chết, và từ đó, hàng thế hệ tín đồ Thiên Chúa giáo đã thuộc lòng và đọc làu làu kinh nầy. Nhưng những ai đã từng thuộc kinh nầy từ 20 năm trước đây, nay lại phải học lại vì kinh Lạy Cha đã thay đổi. Chúng ta sẽ so sánh nguyên bản kinh Lạy Cha được tìm thấy trong tất cả Kinh Thánh 20 năm trước với kinh Lạy Cha bây giờ trong Phiên Bản chuẩn có Sữa chữa của Kinh Thánh (The Revised Standard Version of the Bible), thì chúng ta sẽ thấy tín đồ Thiên Chúa giáo đã giả mạo lời dạy quan trọng nhất này của Giê-su.
Bản kinh King James: Lạy Cha chúng con ở trên trời, nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy. Xin Cha cho chúng con rày hàng ngày dùng đủ, và tha tội chúng con, như chúng con đã tha kẻ có tội chúng con, lại chớ để chúng con sa chước cám dỗ , đừng giao chúng con vào tay ma quỷ, vì vương quốc và quyền năng, và vinh quang của ngài. Amen.
Phiên bản Quốc tế Mới (The New International Version): Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con rày hàng ngày dùng đủ, và tha tội chúng con, như chúng con đã tha kẻ có tội chúng con, lại chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Amen. (Lk 11:2-5).
Xin để ý các câu này – “Cha chúng con ở trên trời”, “vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy”, “đừng giao chúng con vào tay ma quỷ, vì vương quốc và quyền năng, và vinh quang của ngài” – đã bị cắt bỏ khỏi Kinh Lạy Cha mới. Chúng ta nên hỏi những người bạn Thiên Chúa giáo của chúng ta tại sao những câu này lại bị cắt bỏ ra khỏi giáo lý nổi tiếng và quan trọng nhất của Giê-su. Hãy hỏi họ phiên bản nào giữa hai phiên bản khác nhau nầy của Kinh Lạy Cha là lời của Chúa Trời không sai lầm, không thay đổi. Hãy hỏi họ ai đã có đủ tri thức và khôn ngoan để sửa sai Kinh Thánh như thế. Các bạn sẽ thấy họ rất khó trả lời các câu hỏi đó của bạn. Đang ở đây hay một mai đi nơi khác, độc giả nên đến các thư viện hay tiệm sách, tìm ra các phiên bản khác nhau của Kinh Thánh và so sánh chúng cẩn thận. Chúng ta sẽ thấy tận mắt các Kinh Thánh thì khác nhau dường nào do hậu quả của sự giả mạo.
Việc cắt bỏ các đoạn Kinh xướng (Tiết) khỏi Kinh Thánh
Nếu ta xem xét thận trọng thì thấy trong mỗi trang Kinh Thánh đều có sự sửa chữa giả mạo. Bản văn của Kinh Thánh được sắp xếp theo các chương, và trong mỗi chương lại được giàn xếp lại thành các đoạn kinh xướng (tiết). Đọc Kinh Thánh, đôi lúc chúng ta để ý thấy một hai tiết bị bỏ sót. Trong Phiên bản Kinh Thánh Quốc tế Mới do hội Kinh Thánh Quốc tế Nữu Ước in, tiết 44 và 46 bị xoá bỏ khỏi chương 9 trong Phúc Âm của Mark. Tiết 37 thì bị cắt bỏ khỏi chương 8 của Tông đồ, và tiết 28 bị bỏ đi trong chương 15 của Mark. Làm sao tín đồ Thiên Chúa giáo có thể khẳng định rằng Kinh Thánh thì không sai lầm và không thay đổi lời Chúa khi họ cắt bỏ những đoạn và từ mà họ thấy không thuận tiện? Và tại sao các đoạn đó lại bị bỏ đi?
Việc biên dịch có tuyển chọn
Bất kỳ khi nào tín đồ Thiên Chúa giáo muốn thuyết phục chúng ta về chân lý tôn giáo của họ, họ sẽ viện dẫn từ Kinh Thánh mà họ tin tưởng rằng mọi chữ trong Kinh Thánh đều thực sự đúng từng chữ một. Nhưng khi chúng ta cũng trích dẫn từ chính Kinh Thánh của họ để chứng minh rằng tôn giáo của họ thì sơ khai, ngớ ngẩn hay không hợp lý [ví dụ như khói thoát ra từ mũi Chúalửa tuôn ra từ miệng ngài, (Ps, 18:7-8); hay con lừa nọ nói được (Num, 22:28)] thì những tín đồ Thiên Chúa giáo nầy sẽ nói: “Đấy là biểu trưng, không phải nghĩa đen”. Tín đồ Thiên Chúa giáo thường rất chọn lọc khi họ tìm cách diễn giải Kinh Thánh. Một vài đoạn thì họ cho đúng là “lời của Chúa”, nhưng nhiều đoạn, thường là những đoạn mà họ lúng túng, thì họ lại bảo là đừng hiểu theo nghĩa đen.
Hoặc Kinh Thánh là lời không sai lầm của Chúa hoặc Kinh Thánh không phải như thế, chứ ta không thể nhặt nhạnh và chọn lựa từng đoạn theo ý riêng của mình. Còn ngay cả nếu thực sự có vài đoạn là thực còn vài đoạn thì không, thì tín đồ Thiên Chúa giáo lấy tiêu chuẩn gì mà quyết định được sẽ chọn đoạn nào? Nếu các chuyện kể về con lừa của Balaam biết nói tiếng người, về Adam và Eva đã ăn trái táo cấm, hay về Moses biến gậy thành rắn mà không có nghĩa đúng như thực, thì cũng có thể các câu chuyện về Giê-su phục sinh chỉ là một biểu trưng và không có ý nghĩa đúng thực như thế.

Người dịch: T.T.
(*) [Trích từ Chương 6 của tác phẩm “Tin Không Nổi - Một Phê bình Thiên Chúa giáo bảo thủ từ góc độ Phật giáo” (Beyond Belief – A Buddhist Critique of Fundamentalist Christianity) của A.L. de Silva.]
nguồn http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=3863

0 nhận xét:

Đăng nhận xét