Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014
Thư ngỏ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Thực thi điều 35 Hiến pháp Trung Quốc, bãi bỏ kiểm duyệt, thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí
10:04
Hoàng Phong Nhã
No comments
Bản dịch được thực hiện nhân đọc bài: TRUNG QUỐC ĐÃ XUẤT HIỆN DẤU HIỆU MANH NHA CỦA CÁCH MẠNG
Kính gửi các ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Điều
35 Hiến pháp Trung Quốc, thông qua vào năm 1982, nói rõ: “Công dân nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự
do hội họp, tự do lập hội, tự do diễu hành và biểu tình”. Đã 28 năm nay
điều khoản này vẫn chưa được thực thi vì bị những qui định và luật lệ
cụ thể “bổ sung” khác phủ nhận. Nền dân chủ giả hiệu, về hình thức thì
thừa nhận nhưng trong những sự việc cụ thể lại chối bỏ dân chủ, là một
biểu hiện đáng hổ thẹn trong lịch sử của nền dân chủ thế giới.
Ngày
26 tháng 2 năm 2003, tại cuộc hội thảo về dân chủ giữa Uỷ ban Thường vụ
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và các
đảng dân chủ khác, trước khi nhậm chức, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố
một cách rõ ràng: “Bãi bỏ hạn chế báo chí, mở rộng ý kiến công khai, là
quan điểm chính thống và đòi hỏi của xã hội; điều đó là đương nhiên và
phải được giải quyết thông qua thủ tục lập pháp. Nếu Đảng Cộng sản không
tự cải cách, không chuyển hoá, thì nó sẽ mất sức sống và dẫn đến diệt
vong”.
Ngày
3 tháng 10, Fareed Zakaria của đài CNN đã phỏng vấn Thủ tướng Ôn Gia
Bảo. Trả lời câu hỏi của nhà báo, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói: “Tự do ngôn
luận là tuyệt đối cần thiết đối với mọi dân tộc, Hiến pháp Trung Quốc
cho người dân tự do ngôn luận, đòi hỏi dân chủ của nhân dân là không thể
ngăn chặn được”.
Phù
hợp với Hiến pháp Trung Quốc và tinh thần của những lời phát biểu của
Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo, chúng tôi xin trình bày
những điều có liên quan tới việc thực thi quyền hiến định về tự do ngôn
luận và tự do báo chí như sau:
Về hiện trạng của quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí ở nước ta
Chúng
ta đã có 61 năm làm “chủ nhân ông” của nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa. Nhưng quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí mà chúng ta được
hưởng còn thấp hơn là dân chúng ở thuộc địa Hồng Kông từng được hưởng.
Đấy là nói trước khi khu vực này được trả về cho Trung Quốc.
Trước
khi được trao trả, Hồng Kông là thuộc địa của Anh, do chính phủ được Nữ
hoàng Anh chỉ định cai trị. Nhưng quyền tự do ngôn luận và tự do báo
chí mà chính quyền Anh dành cho dân chúng Hồng Kông thì không phải là
lời nói suông, chỉ có trên giấy tờ. Các quyền đó đã được ban hành và
được thực thi.
Khi
đất nước ta được thành lập vào năm 1949, nhân dân ta hô lên rằng họ đã
được giải phóng, họ là chủ nhân ông của chính mình. Mao Trạch Đông nói
rằng “Từ phút này trở đi, nhân dân Trung Quốc đã đứng lên”. Nhưng ngay
trong ngày hôm nay, 61 năm sau khi thành lập nước cộng hoà, 30 năm sau
mở cửa và cải cách, chúng ta vẫn chưa đạt được mức độ tự do ngôn luận và
tự do báo chí mà người dân dưới chính quyền thuộc địa ở Hồng Kông được
hưởng. Ngay cả hiện nay, nhiều tác phẩm thảo luận về chính trị và những
vấn đề thời sự vẫn phải xuất bản ở Hồng Công. Đấy không phải là chuyện
xảy ra từ ngày lãnh thổ này được trao trả mà là chiến lược cũ rích của
chính quyền thuộc địa. Địa vị “ông chủ” của nhân dân Trung Quốc lục địa
thật quá thấp kém. Vì vậy mà việc nước ta tự quảng bá mình là “nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa” mang đặc tính Trung Quốc đã gây nhiều bối rối.
Không
chỉ các công dân bình thường mà ngay cả những nhà lãnh đạo cao cấp của
Đảng Cộng sản cũng không có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Gần
đây Lý Duệ đã gặp hoàn cảnh như sau. Cách đây không lâu, cuốn Tập hợp các bài viết tưởng niệm Chu Tiểu Châu được xuất bản, trong đó có tiểu luận của Lý Duệ viết về Chu Tiểu Châu, đã được đăng trên tờ Nhân dân Nhật báo
năm 1981. Phu nhân của Chu Tiểu Châu gọi điện cho Lý Duệ và giải thích
tình hình như sau: “Bắc Kinh đã thông báo. Không được đăng bài viết của
Lý Duệ”. Chuyện nực cười không thể tưởng tượng được là một bài viết cũ
trên báo Đảng lại không được phép đưa vào tuyển tập! Lý Duệ nói: “Đây là
đất nước kiểu gì vậy? Tôi muốn thét lên: Phải có tự do báo chí! Bóp
nghẹt quyền tự do thể hiện của nhân dân như vậy là hoàn toàn phi pháp!”
Không
chỉ các cán bộ cao cấp, ngay cả Thủ tướng nước ta cũng không có quyền
tự do ngôn luận và tự do báo chí! Ngày 21 tháng 8 năm 2010, Thủ tường Ôn
Gia Bảo, trong bài nói chuyện ở Thâm Quyến dưới nhan đề: “Chỉ có thúc
đẩy cải cách dân tộc ta mới có tương lai tươi sáng”, đã nói: “Chúng ta
phải thúc đẩy không chỉ cải cách kinh tế mà còn đẩy mạnh cải cách chính
trị nữa. Không được cải cách chính trị che chở, chúng ta sẽ đánh mất các
thành quả do cải cách kinh tế mang lại và mục tiêu hiện đại hoá của
chúng ta cũng sẽ không trở thành hiện thực được”. Bản tin chính thức của
Tân Hoa xã cũng ngày 21 tháng 8, nhan đề “Xây dựng tương lai tươi đẹp
cho đặc khu kinh tế”, không đăng nội dung liên quan đến cải cách chính
trị của Thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Ngày
22 tháng 9 năm 2010 (giờ Hoa Kỳ), ở New York, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã
có cuộc nói chuyện với báo chí Trung Quốc tại Hoa Kỳ và báo chí Hồng
Kông cũng như Ma Cao, ở đây ông lại nhấn mạnh tầm quan trọng của “cải
cách hệ thống chính trị”. Thủ tướng Ôn nói: “Liên quan đến cải cách
chính trị, trước đây tôi đã nói rằng cải cách kinh tế mà không được
thành quả của cải cách chính trị bảo vệ thì chúng ta sẽ không thu được
thắng lợi hoàn toàn và có thể những thành quả mà chúng ta đạt được cho
đến nay cũng sẽ bị mất”. Ngay sau đó, Ôn Gia Bảo đã phát biểu tại kì họp
lần thứ 65 của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc với bài diễn văn mang tên:
“Nhận thức nước Trung Hoa đích thực”, trong đó ông lại nhắc đến cải cách
chính trị. Ngày 23 tháng 9 (giờ Bắc Kinh) các sự kiện này được đưa lên
chương trình Thời sự của Đài Truyền hình Trung ương và Tân Hoa xã cũng
đưa tin. Nhưng họ chỉ tường thuật nhận xét của Ôn Gia Bảo về những hoàn
cảnh mà người Trung Quốc ở hải ngoại phải đương đầu cũng như tầm quan
trọng của các phương tiện thông tin của Trung Quốc ở hải ngoại mà thôi.
Đoạn nói về cải cách chính trị đã bị lược bỏ.
Vì
những nguyên nhân đó, nếu chúng ta định tìm những người chịu trách
nhiệm, chúng ta sẽ không chỉ ra được người nào cụ thể. Đấy là những bàn
tay bẩn vô hình. Vì những lí do mà chỉ có họ mới biết, họ đã vi phạm
hiến pháp, họ thường ra lệnh bằng điện thoại rằng không được công bố tác
phẩm của tác giả này hay tác giả kia, không được tường thuật trên các
phương tiện thông tin đại chúng sự kiện này hay sự kiện kia. Người gọi
điện không để lại tên, hoàn toàn bí mật, nhưng phải lưu ý đến chỉ thị
của họ. Đấy là những bàn tay bẩn từ Ban Tuyên huấn Trung ương,
nằm trên cả Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và trên cả Hội đồng
Nhà nước. Chúng tôi xin hỏi, Ban Tuyên huấn Trung ương có quyền gì mà
lại cấm bài nói của Thủ tướng? Nó có quyền gì mà tước đoạt quyền của
nhân dân, không cho họ được biết Thủ tướng đã nói những gì?
Yêu cầu cốt lõi của chúng tôi là giải tán hệ thống kiểm duyệt nhằm thúc đẩy hệ thống trách nhiệm pháp lí.
Quyền
tự do ngôn luận và tự do báo chí được điều 35 Hiến pháp bảo đảm đã bị
những biện pháp bổ sung, thí dụ như “Điều lệ quản lí xuất bản” biến
thành thành vật trang trí. Những qui định bổ sung này, nói chung, chính
là hệ thống kiểm duyệt và cấp phép. Không thể liệt kê hết những chỉ thị
và cấm đoán nhằm ngăn chặn tự do ngôn luận và tự do báo chí. Ban hành
luật báo chí và bải bỏ hệ thống kiểm duyệt đã trở thành nhiệm vụ khẩn
cấp đối với chúng ta.
Chúng
tôi đề nghị Quốc hội tiến hành ngay việc soạn thảo Luật báo chí và bãi
bỏ ngay “Điều lệ quản lí xuất bản” cũng như tất cả những hạn chế do các
địa phương ban hành đối với tin tức và xuất bản. Nói theo pháp luật,
việc thực thi quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí như được bảo đảm
trong Hiến pháp có nghĩa là làm cho các phương tiện thông tin đại chúng
độc lập đối với Đảng và các cơ quan của chính phủ, là những cơ quan đang
kiểm soát chúng, và như thế cũng có nghĩa là chuyển “những cái loa của
Đảng” thành “công cụ của công luận”. Vì vậy, cơ sở cho việc soạn thảo
Luật báo chí phải là hệ thống trách nhiệm pháp lí trên thực tế. Chúng ta
không thể lại tìm cách củng cố hệ thống kiểm duyệt nhân danh “củng cố
sự lãnh đạo của Đảng”. Hệ thống kiểm duyệt là hệ thống, theo đó phải
được sự chấp thuận của các cơ quan của Đảng thì mới được xuất bản, chỉ
xuất bản sau khi đã được chấp chuận và coi tất cả những tài liệu đã xuất
bản mà không được chấp thuận đều là phi pháp hết. Hệ thống trách nhiệm
pháp lí nghĩa là tài liệu được xuất bản không cần phải được sự chấp
thuận của các cơ quan của Đảng hay chính phủ, mà có thể xuất bản sau khi
tổng biên tập cho là phù hợp. Nếu có những hậu quả tiêu cực hay tranh
cãi sau khi xuất bản thì chính phủ có thể can thiệp và quyết định, phù
hợp với luật pháp, xem có phạm pháp hay là không. Trên thế giới, sự phát
triển của chế độ pháp trị trong lĩnh vực tin tức và xuất bản đều đi
theo con đường như thế, tức là chuyển từ hệ thống kiểm duyệt sang hệ
thống trách nhiệm pháp lí. Không nghi ngờ gì rằng hệ thống trách nhiệm
pháp lí tiến bộ hơn hệ thống kiểm duyệt và rất có lợi cho sự phát triển
các môn khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, và thúc đẩy sự hài hoà
xã hội và tiến bộ. Nước Anh đã bỏ chế độ kiểm duyệt từ năm 1695. Nước
Pháp bỏ chế độ kiểm duyệt từ năm 1881, sau thời gian đó chỉ cần đại diện
của cơ quan xuất bản viết một tờ khai rồi gửi cho văn phòng biện lí của
chính phủ là có thể xuất bản báo và tạp chí rồi. Hệ thống kiểm duyệt
hiện nay của chúng ta làm cho việc công bố tin tức và xuất bản sách ở
nước ta đi chậm hơn Anh 315 năm và chậm hơn Pháp 129 năm.
Chúng tôi đòi hỏi những điều sau đây:
1.
Bãi bỏ việc tài trợ các cơ quan truyền thông nhà nước [Ghi chú: Đó là
tổ chức kiểm soát, thực hiện việc kiểm tra của Đảng đối với các phương
tiện thông tin đại chúng]; cho phép các cơ quan xuất bản hoạt động độc
lập; áp dụng hệ thống, trong đó giám đốc và tổng biên tập chịu trách
nhiệm đối với đơn vị xuất bản của mình.
2.
Tôn trọng các nhà báo và củng cố vị trí độc lập của họ. Nhà báo phải là
“vua không ngai”. Tường thuật những vụ việc có đông người tham gia và
vạch trần những vụ tham nhũng là công việc cao quí, công việc này phải
được bảo vệ và ủng hộ. Chấm dứt ngay lập tức những hành vi trái pháp
luật của các chính quyền địa phương và của công an trong việc bắt giữ
các nhà báo. Xem xét lại trường hợp bắt giữ nhà văn Tạ Triêu Bình (谢朝平). Liên quan đến vụ này, bí thư đảng uỷ thành phố Vị Nam (渭南)Lương Phượng Dân (梁凤民) phải bị thi hành kỉ luật Đảng, đấy cũng là lời cảnh cáo đối với những người khác.
3.
Bãi bỏ việc hạn chế tự do trong hoạt động phóng sự điều tra dư luận
ngoại tỉnh, đảm bảo quyền thực hiện phóng sự điều tra của các phóng viên
trong cả nước.
4.
Internet là diễn đàn thảo luận quan trọng để chuyển tải tin tức trong
xã hội và tiếng nói của người dân. Ngoài những tin tức thực sự liên quan
đến bí mật quốc gia và những chuyện xâm phạm quyền riêng tư cá nhân,
các cơ quan quản lí internet không được tự ý xoá những bài viết và bình
luận đã được đưa lên mạng. Gián điệp mạng phải bị bãi bỏ, “đảng năm xu”
[chỉ những người viết bài ủng hộ nhà nước, mỗi bài được trả 5 xu] cũng
phải bị bãi bỏ và những hạn chế đối với công nghệ “vượt tường lửa”
[chống kiểm duyệt] cũng phải bị bãi bỏ.
5. Không còn những điều cấm kị liên quan đến lịch sử Đảng. Công dân Trung Quốc có quyền biết những sai lầm của đảng cầm quyền.
6. Tuần báo Nam Phương Chu Mạt và tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu
cần được tái cơ cấu dưới hình thức thử nghiệm tư nhân. Tư hữu hoá báo
và tạp chí là xu hướng tự nhiên của công cuộc cải cách chính trị. Lịch
sử dạy chúng ta: khi kẻ cai trị và người ban hành chính sách liên kết
chặt chẽ với nhau, khi cả chính phủ lẫn các phương tiện thông tin đại
chúng cùng mang tên là “Đảng”, và khi Đảng hát cho mình nghe thì khó
liên hệ được với nguyện vọng của nhân dân và thực hiện được sự lãnh đạo
đúng đắn. Từ giai đoạn “Đại nhảy vọt” đến “Cách mạng Văn hoá”, báo, tạp
chí, đài phát thanh và truyền hình ở Trung Quốc lục địa không bao giờ
phản ảnh nguyện vọng của nhân dân. Lãnh đạo Đảng và chính phủ không nhận
được những tiếng nói phản biện của nhân dân cho nên khó có thể nhận
thức được những sai lầm lớn của mình và tiến hành sửa chữa chúng. Trong
các nước dân chủ, đảng cầm quyền và chính phủ không được phép sử dụng
tiền thuế của nhân dân để chi cho các phương tiện thông tin đại chúng
chuyên ca ngợi mình.
7.
Cho phép tự do lưu hành ở đại lục sách báo được in trên những lãnh thổ
đã được trao trả là Hồng Kông và Ma Cao. Nước ta đã tham gia WTO, và về
mặt kinh tế đã hội nhập với thế giới – những biện pháp nhằm giữ nguyên
tình trạng bế quan toả cảng về mặt văn hoá là đi ngược lại đường lối đã
được hoạch định nhằm mở cửa và cải cách. Hồng Kông và Ma Cao ở ngay bên
cạnh chúng ta, cung cấp cho chúng ta thí dụ về quyền văn hoá tiến bộ
hơn; sách báo từ Hồng Kông và Ma Cao được nhân dân ta đón nhận và tin
tưởng.
8.
Thay đổi chức năng của các cơ quan tuyên truyền, chuyển chúng từ các cơ
quan đưa ra rất nhiều những điều “cấm kị” thành các cơ quan bảo vệ tính
chính xác, hợp thời và luân chuyển thông tin mà không bị cản trở; từ cơ
quan cộng tác với các quan chức tham nhũng bằng cách ngăn chặn và kiểm
soát những thông tin phản ánh sự thật thành cơ quan ủng hộ các phương
tiện thông tin đại chúng trong việc kiểm tra các cơ quan của Đảng và
chính phủ; từ các cơ quan cấm đoán xuất bản, sa thải biên tập viên và
bắt bớ phóng viên thành cơ quan chống lại quyền lực, bảo vệ các phương
tiện thông tin đại chúng và bảo vệ phóng viên. Bộ máy tuyên truyền của
chúng ta đã gây ra nhiều nỗi kinh hoàng, cả trong Đảng lẫn trong xã hội.
Họ phải làm việc vì chính lợi ích nhằm giành lại thanh danh của chính
mình. Một một thời điểm thích hợp, chúng ta có thể xem xét, đổi tên các
cơ quan tuyên truyền cho phù hợp với xu hướng quốc tế.
Chúng tôi khẩn thiết bày tỏ nguyện vọng và mong được toàn bộ sự lưu tâm của quý vị.
Ngày 1 tháng 10 năm 2010
Do Lí Duệ (李锐), Hồ Tích Vĩ (胡绩伟) và những người khác chấp bút.
_____________
23 người kí tên:
Lý Duệ (李锐):
Nguyên phó Ban Tổ chức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá 12 Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Hồ Tích Vĩ (胡绩伟): Nguyên Chủ nhiệm Nhân dân Nhật báo, uỷ viên Thường vụ Quốc hội lần thứ 7, Giám đốc Hiệp hội các Viện Truyền thông Trung Quốc
Giang Bình (江 平): Nguyên Giám đốc Trường Chính trị và Luật học, giáo sư, uỷ viên Thường vụ Quốc hội Khóa 7, phó Ban Luật pháp Quốc hội
Lý Phổ (李普): Nguyên phó Giám đốc Tân Hoa xã
Chu Thiệu Minh (周绍明): Nguyên Vụ phó Vụ Chính trị, Quân khu Quảng Châu
Chung Bái Chương (锺沛璋): Nguyên Trưởng phòng tin tức của Ban Tuyên huấn Trung ương
Vương Vĩnh Thành (王永成): Giáo sư trường Đại học Giao thông Thượng Hải
Trương Trung Bồi (张忠培): Nghiên cứu viên Bảo tàng Cố cung, Chủ tịch Hội Khảo cổ Trung Quốc
Đỗ Quang (杜光): Nguyên giáo sư Trường Đảng Trung ương
Quách Đạo Huy (郭道晖): Nguyên Tổng Biên tập tạp chí Luật học Trung Quốc
Tiêu Mặc (萧 默): Nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kiến trúc trực thuộc Viện Nghệ thuật Dân tộc Trung Quốc
Trang Phổ Minh (庄浦明): Nguyên phó Giám đốc Nhân dân Nhật báo
Hồ Phủ Thần (胡甫臣): Nguyên Giám đốc và Tổng Biên tập Nhà xuất bản Lao động Trung Quốc
Trương Định (张定): Nguyên Giám đốc phòng Thông tin Khoa học Xã hội thực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc
Vu Hữu (于友): Nguyên Tổng Biên tập Trung Quốc nhật báo
Âu Dương Kình (欧阳劲): Nguyên Tổng Biên tập tờ Tạp chí Thái Bình Dương ở Hồng Kông
Vu Hạo Thành (于浩成): Nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Quần chúng
Trương Thanh (张清): Nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Điện ảnh Trung Quốc
Du Nguyệt Đình (俞月亭): Nguyên Giám đốc Hãng Truyền hình Phúc Kiến, nhà báo lão thành
Sa Diệp Tân (沙叶新): Nguyên Giám đốc Viện Sân khấu và Nghệ thuật Nhân dân Thượng Hải, hiện là nhà văn độc lập của dân tộc Hồi
Tôn Húc Bồi (孙旭培): Nguyên Giám đốc Viện Nghiên cứu Tin tức thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc
Tân Tí Lăng (辛子陵): Nguyên Trưởng Ban Biên tập, Đại học Quốc phòng Trung Quốc
Thiết Lưu (铁流): Tổng Biên tập tạp chí Vãng sự vi ngân (Những vết thương quá khứ)
Cố vấn pháp luật: Tống Nhạc (宋岳): Công dân Trung Quốc, luật sư hành nghề tại New York, Hoa Kì.
_____________
Nguồn: Dịch theo bản tiếng Anh tại: http://cmp.hku.hk/2010/10/13/8035/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét