Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014
CÁI NÔI CỦA ĐẠO HỒI: BÁN ĐẢO Ả RẬP
11:29
Hoàng Phong Nhã
No comments
Vị
giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh
năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của
xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh
Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua
đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40
miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi.
Cuộc đời của Muhammad đã
bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6
và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất
cả những gì ảnh hưởng đến cuộc
đời của Muhammad đều in dấu ấn trong
thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta
cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử
của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ
6 và 7.
Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do
Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như
một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người
ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của
đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt
thương mại của dân Mecca, các phong tục tập
quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả
Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc
Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v...
Tất cả đều được
Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc
kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các
sự kiện bằng cách đối chiếu với
lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu
lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả
Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu
biết rõ ràng hơn về Muhammad cũng như về
đạo Islam.
1. Về địa dư:
Bán đảo Ả
Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles,
rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm
vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần
diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được
gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba
phía bởi biển hoặc đại dương: Đông
giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và
phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc
của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài
tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó
là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước
Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng
đường bộ là một điều nguy hiểm
nếu không dự trữ đủ nước uống.
Khách lữ hành phải đi những quãng đường
rất xa mới gặp được một ốc
đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc
được tạo thành do những hồ nước
ngầm ở dưới mặt đất (underground
pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ
có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền
cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước
Yemen ngày nay.
2. Dân cư:
Bán đảo Ả
Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia:
Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông,
23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman
2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu
dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con
cháu xa xưa của giống người ở Địa
Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về
phương diện chủng tộc, người Ả
Rập được xếp vào chủng tộc da
trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết
người Ả Rập thời xưa sinh sống
bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự
đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có
nghĩa là du mục (Arab means Nomad).
Người Ả Rập và Do Thái thù ghét
nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả
Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo
Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại
hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ
còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà
thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ
tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó,
phát sinh danh từ "Semites" để gọi chung Do
Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là "con cháu của
Shem" (Semites: Descendants of Shem).
Mới đây, một số nhà khoa học
về nhân chủng đã làm một cuộc thử
nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều
người Ả Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria.
Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác
nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập
đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung
một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những
vậy, họ đều có chung một nguồn gốc
văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là
Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic
đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn
ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả
Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu
người thuộc nhiều quốc gia ở Trung
Đông.
3. Chính Trị và Tôn Giáo:
Trong thế kỷ 6
và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông
bị chia thành hai miền đặt dưới sự
khống chế của hai đế quốc: Đế quốc
Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và
Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư
chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn
Ctesiphon làm thủ đô.
Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây
gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng
Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn
Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul)
làm thủ đô.
Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine
đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế
kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4,
đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành "Công
Giáo", tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn
vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả
Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc
Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những
người này thuộc quyền cai quản của Giáo
Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ
6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục
được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay)
theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm
nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập.
Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm
mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi
người Do Thái và những người Ả Rập theo
đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo
Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi
Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của
đế quốc Ba Tư, một người Ả
Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh
các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán
đảo Ả Rập.
Đến năm 525, đế quốc
Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem
quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai
chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối
cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ
đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa
của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này.
Năm 570, người Ả Rập
cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh
đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư
chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập
thành một tỉnh của đế quốc. Cũng
từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được
truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập.
4. Phong Tục Tập Quán:
Dù sống cuộc đời du mục
ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh
sống tại thành thị, mọi người Ả
Rập đều thích tự xưng là "những
người con của sa mạc" (sons of desert). Từ
nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả
Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc
đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa
họ qua sa mạc và đồng thời cũng là
nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả
Rập ít trồng trọt nên họ thường bị
thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc
sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho
các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến
với nhau để tranh chiếm các giếng nước
hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để
thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc
sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả
Rập những phong tục tập quán đặc biệt:
a. Tục trả thù:
Để có thể sống còn trong
những điều kiện khắt nghiệt của sa
mạc, mọi người Ả Rập phải tụ
họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau
bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên
kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn
nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều
phải gắn bó với quyền lợi chung của
bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh
thần gắn bó ấy là "muruwah" bao hàm rất
nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến
đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi
sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn,
phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ
yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù
những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng
và tài sản của bộ lạc.
Các tù trưởng có trách nhiệm bảo
vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình.
Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm
phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên
trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không
còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới
trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều
trường hợp một người trong bộ lạc
này bị giết thì một người trong bộ lạc
thù địch phải bị giết để đền
mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả
bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu
vĩ đại của những chu kỳ bạo
động không bao giờ dứt.
Trong những thời kỳ đói kém hay
hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường
chọn một trong những bộ lạc thù địch
để tấn công nhằm cướp gia súc, thực
phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các
đàn ông của bộ lạc địch đều
bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị
bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ.
Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô
lệ.
Những người Ả Rập du mục
không hề coi những vụ cướp của giết
người như vậy là điều tội lỗi.
Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm
tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách
hợp lý mà thôi.
b. Tục giết các bé gái
sơ sinh (Female Infanticide)
Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như
luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót,
mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ
sinh là một phương cách điều chỉnh dân
số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi
bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ
lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có
đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu
sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu
chiến đấu và nhu cầu lao động sản
xuất.
Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội
du mục không dành cho họ một quyền lợi luật
định nào (no legal right). Họ bị coi như một
thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một
động sản (movabal property). Những gia đình nào
đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé
gái sinh sau thường bị giết chết không
thương tiếc.
c. Tục cắt da qui
đầu và cắt âm vật
Theo tương truyền thì Abraham là
người đầu tiên tự cắt da qui đầu
của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông
để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục
lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ
bắt buộc đối với mọi người theo
đạo Do Thái. Tục lệ này thường
được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision).
Trước khi có đạo Hồi, đa
số người Ả Rập thường tự
xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo
Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui
đầu cho các bé trai giống như người Do Thái.
Ngoài ra, người Ả Rập có tục
lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả
âm vật, còn được gọi là mồng đóc
(Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi.
Đây là một tục lệ chung của người
Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều
người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki
Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ tin rằng
việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh
cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ
dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn.
d. Tục chứng minh
trinh tiết cô dâu
Một tục lệ của người
Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái
đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ
chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride's Virginity). Sau
đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu
và những người khách tham dự tụ họp bên
ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú
rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết
quả cho mọi người biết. Nếu chú rễ
tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám
cưới thì đây là một điều nhục nhã cho
gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy
bỏ!
e. Tục giết gái
chửa hoang
Các cô gái Ả Rập không chồng mà
chửa bị coi là đã phạm trọng tội
đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này
thường bị cha hoặc anh em ruột giết
chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì
thế, người Ả Rập gọi tục lệ này
là "Giết người vì danh dự" (Honor Killing).
Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết
vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan
luật pháp cũng không được bảo vệ. Các
thủ phạm giết người trong trường
hợp này được xã hội coi là hành động
chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong
một thời gian rất ngắn có tính cách tượng
trưng mà thôi.
Tất cả các tục lệ kể trên
hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập
Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không
xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng
như những văn bản luật pháp của
đạo Hồi đều không có điều khoản
nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay,
nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp
hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra
có hại và lỗi thời.
Charlie Nguyễn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét