Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

Sự xấu hổ định hướng cuộc sống của chúng ta


Sự xấu hổ là một động lực cực kì mạnh mẽ. Nó không chỉ thúc đẩy chúng ta tại thời điểm mà chúng ta trải nghiệm nó mà phần còn sót lại của sự xấu hổ ( những kịch bản và nởi xảy ra ) tiếp tục thúc đẩy chúng ta khi ta đi tiếp cuộc đời mình.


Tất cả chúng ta bị thúc đẩy né tránh một vài tình huống có thể kích hoạt sự xấu hổ của mình !
Trải nghiệm sự xấu hổ có thể ngăn 1 người dấn mình vào những tình huống khác nhau. Mỗi chúng ta định hướng cuộc đời mình để tránh né hoặc làm giảm thiểu trải nghiệm xấu hổ.
Con người hiếm khi nghĩ sự xấu hổ như 1 cảm xúc sâu xa. Điều này bởi vì họ dán nhãn cho những khó khăn của họ bằng những cảm xúc khác, ví dụ như thất vọng, cảm thấy bị tổn thương hoặc ghê tởm bản thân. Một nguyên nhân nữa là phần lớn mọi người thất bại trong việc nhận ra trải nghiệm xấu hổ của họ, họ phản ứng lại với những tình huống kích hoạt sự xấu hổ bằng cách nhảy sang 1 cảm xúc phụ ( secondary emotion ) như tức giận, và do đó họ sẽ không bao giờ dừng lại để nhận ra cảm xúc chính ( primary emotion ) của mình là xấu hổ.
Ví dụ :
2 người đàn ông đi họp trễ vì họ hiểu nhầm thư thông báo thời gian họp. 1 người cười và nhún vai, người kia thì tức giận với người đã viết thư thông báo mơ hồ. 2 người đàn ông đã có những phản ứng khác nhau khi ở trong 1 tình huống gây xấu hổ. Kịch bản của người tứ nhất là “ những tình huống gây xấu hổ chỉ đơn giản là tiết lộ về bản tính con người của tôi, và điều đó khá khôi hài”. Phản ứng của anh ta có thể là cười vào bản thân mình trong những tình huống như vậy.
Còn người đàn ông kia, kịch bản của anh ta nói rằng “ lại một lần nữa tôi bị tiết lộ là người yếu kém.” Phản ứng tức giận của anh ta có thể trở nên tự động hóa đến nỗi anh ta hoàn toàn đánh mất nhận thức của mình tại thời điểm sự xấu hổ xuất hiện trước hành động phản ứng. Thay vào đó, anh ta tin là chỉ mình sự kiện ( đi họp muộn ) “ làm anh ta tức giận “ hơn là sự kiện ( đi họp muộn ) kích hoạt nỗi xấu hổ của anh và anh phản ứng lại bằng cách tức giận.
Sự xấu hổ trong quá khứ có thể theo đuổi 1 người trong suốt cuộc đời họ . Những người vội vã, làm việc quá mức nhằm chứng tỏ điều gì đó. Họ đang chứng minh rằng họ ổn, họ quan trọng, được chấp nhận và không ai có lý do để làm họ thấy xấu hổ. Và họ đang chứng minh điều đó với ai ? Họ đang chứng minh với chính họ. Đây là trường hợp khi 1 cá nhân dường như đang chứng minh anh ấy luôn luôn là người vĩ đại. Khi 1 người cứ khẳng định họ là vĩ đại nhất, nghĩa là họ đang xua đuổi sự xấu hổ của họ. Họ đang dành chiến thắng, nhưng trận chiến thực sự không phải với người nào khác mà là với nỗi xấu hổ của họ. Họ càng nỗ lực làm việc để chứng minh điều gì đó thì sức mạnh của nỗi xấu hổ của họ càng lớn.
Phạm vi của sự xấu hổ.
Nathanson ( 1992 ) đã xác định 4 chiến lược chung mà con người dùng đến khi sự xấu hổ của họ bị kích hoạt. Ban đầu, người đó rút lui khỏi mối liên kết ( với ai đó, tình huống nào đó ) để chạy trốn nỗi đau của sự xấu hổ của anh ta, sau đó anh ta cảm nhận nỗi đau của sự mất kết nối ( being disconnected ) và kết nối lại bằng cách công kích bản thân và đặt mình vào 1 vị trí thấp kém, sau đó anh ta tìm cách làm cho những cảm xúc đó biến đi bằng cách né tránh chúng hoặc làm mình xao nhãng khỏi nguồn gốc gây ra chúng, và cuối cùng anh ta dùng cách tấn công người khác để duy trì mối liên kết nhưng vẫn cảm thấy tốt hơn về mình bằng cách khiến người khác cảm thấy họ tồi tệ.
Con người thường cố gắng tạo ảnh hưởng lên hành động của người khác bằng cách gây ra 1 vài cảm xúc. Điều này thường được gọi là thao túng ( manipulation ) , nhưng không phải luôn luôn bị xem là tiêu cực. Ví dụ, một nhà lãnh đạo tìm cách gây ra cảm xúc căm hận ở quần chúng bị xem là tiêu cực thì nhà lãnh đạo lôi cuốn cảm xúc trung thành, lòng yêu nước nhìn chung được xem là tích cực. Trong cả hai trường hợp, nhà lãnh đạo đang cố gắng gây ảnh hưởng lên hành động của quần chúng bằng cách khuấy động 1 cảm xúc. Mối quan hệ người lớn – trẻ em cũng không tránh khỏi việc người lớn gây ảnh hưởng lên đứa trẻ thông qua con đường cảm xúc. Hiếm khi chúng ta tìm cách thuyết phục ai đó chỉ thuần túy bằng 1 con đường lý trí. Vấn đề không phải ở hành động gây ra 1 cảm xúc, mà là bản chất của cảm xúc mà bạn tạo ra. Cha mẹ tìm cách gây ảnh hưởng lên đứa trẻ bằng cách tạo ra cảm xúc như sợ hãi, tức giận và xấu hổ là họ đã gây nguy hại cho đứa bé. Còn cha mẹ nào muốn nuôi dạy 1 đứa trẻ biết yêu thương, quan tâm thì cần tạo ra cảm xúc yêu thương, quan tâm ở trẻ. Những đứa trẻ từ bé đã bị cha mẹ gây ra cảm xúc xấu hổ có xu hướng lớn lên trở nên phòng vệ, thích tranh cãi và cực kỳ nhạy cảm trước những lời phê bình.
Trường hợp cực đoan của sự xấu hổ được John Bradshaw ( 1988) gọi bằng thuật ngữ “ toxic shame “ . Đó là những trường hợp mà toàn bộ nhân cách của 1 cá nhân dựa trên sự xấu hổ. Anh ta tổ chức cuộc sống của mình xoay quanh nhu cầu tránh né những tình huống có thể gây ra sự xấu hổ . Những người ít xấu hổ hơn có thể chiến đấu với nỗi xấu hổ của họ bằng cách cố gắng tăng cường những kịch bản tích cực về bản thân và thay thế sự xấu hổ bằng tự hào. Nhưng 1 người có nhân cách dựa trên sự xấu hổ có xu hướng tránh va chạm với những khả năng phải trải nghiệm về sự xấu hổ của họ.
Sống 1 cuộc đời được định hướng bởi sự tự hào hơn là sự xấu hổ thường bắt đầu với 1 bước đi dũng cảm.
Thay thế sự xấu hổ bằng tự hào.
Những trải nghiệm về sự xấu hổ thời thơ ấu của 1 người có thể cản trở người đó theo đuổi những hoạt động nhất định trong cuộc sống. Đây là cách thức mà sự né tránh những tình huống có thể gây ra sự xấu hổ có thể định hướng cuộc đời của 1 người. Nhưng những trải nghiệm đem lại sự tự hào ( pride-inducing experiences ) có thể có 1 ảnh hưởng tương tự, theo hướng đối lập. Sự tự hào luôn luôn bao gồm những hành động hướng đến 1 mục tiêu. Bạn càng có nhiều thành công thì lòng tự tin của bạn càng phát triển lớn mạnh. Nguồn gốc lớn nhất của tự hào là đương đầu thành công với những thử thách, đặc biệt ở những tình huống mà trước đây tạo ra sự xấu hổ hoặc có nguy cơ tạo ra sự xấu hổ.
Việc theo đuổi của sự tự hào thì mang tính thích nghi hơn việc né tránh sự xấu hổ. Khi 1 người có đủ sự tự tin ( và sự hỗ trợ ) để ở lại với 1 tình huống gây thách thức thì anh ấy thường có khả năng chuyển từ thất bại sang thành công và xấu hổ sang tự hào. Và anh ấy càng thành công trong việc chuyển những tình huống gây ra xấu hổ thành những tình huống đem lại tự hào thì anh ấy càng trở nên tự tin hơn.
Việc theo đuổi thành công những trải nghiệm đem lại sự tự hào không chỉ giúp bạn loại bỏ sự xấu hổ mà nó còn xây dựng lòng tự trọng của bạn ( self-esteem).
Theo TÂM LÝ HỌC

Father of Psychoanalysis - Alex Arshansky


Các nhà thơ và các nhà tiểu thuyết là những đồng minh quý báu của chúng ta, và các bằng chứng của họ phải được đánh giá thật cao, bởi lẽ giữa lưng chừng thinh  không họ biết được nhiều điều mà túi khôn học đường của chúng ta còn chưa dám mơ tới. Về kiến thức tâm lý, họ là bậc thầy của chúng ta, những kẻ tầm thường, bởi họ đã đắm mình trong những mạch nguồn nơi chúng ta còn chưa đưa khoa học lại gần được”. (S.FREUD, DRG, 127)
I. Đọc từ khi có phân tâm học
Phân tâm học tính đến nay đã được ba phần tư thế kỷ, tức là đã lâu hơn môn vật lý về thuyết tương đối của Einstein một vài năm. Người ta có quyền tin rằng với tất cả mọi người tính chất phong phú, giàu sức sinh sôi của các giả thuyết phân tâm học là không thể bác bỏ, rằng ngày nay không còn có ai trách móc cái bà già ấy là đã mặc những bộ đồ lót hấp dẫn để khêu gợi những kẻ mất hướng trong một xã hội Thanh giáo nghiêm cách.
Dù người ta có vui vẻ chấp nhận phân tâm học hay không, thì Freud đã bắt nhân loại phải gánh chịu điều mà trong Một khó khăn của phân tâm học(1917, EPA) ông gọi là “vết thương thứ ba của lòng tự ái” của con người. Copernic đã buộc con người phải thừa nhận rằng hành tinh nhỏ bé của nó không còn là trung tâm của thế giới nữa, còn với Darwin, con người chỉ còn là một động vật may mắn hơn những động vật khác chứ không phải là một tạo vật có nguồn gốc thần thánh; bản thân Freud đã chứng minh rằng “cái tôi không phải là chủ nhân trong chính ngôi nhà của nó” (146). Sức mạnh của những xung năng khoái lạc trong ta lớn đến mức ta không thể tính đến chuyện thuần hóa chúng hoàn toàn, và chẳng hơn gì ý chí, trí năng của ta cũng không giữ vai trò thống trị, bởi vì một bộ phận đáng kể những hoạt động tinh thần của con người thoát khỏi sự canh chừng của ý thức. Bị tước mất vị trí cao siêu trong vũ trụ và trong sinh quyển, chúng ta cũng bị mất luôn cả địa vị ấy trong lĩnh vực tâm lý mà mới đây còn tạo ra niềm vinh quang và nguồn an ủi của chúng ta: một cái gì đó trong ta nghĩ suy và điều khiển những hành động và tư tưởng của chúng ta mà chính ta cũng không biết được là có những hiện tượng ấy xảy ra. Việc con người cảm thấy bị xúc phạm trong niềm kiêu hãnh của nó – trong thói tự si của nó – cũng không phải là điều quan trọng nhất trong vụ việc này, anh ta từng thấy những chuyện khác. Cần phải chiến thắng bao nhiêu những chống đối, của truyền thống và của tôn giáo, để thúc đẩy vết thương ấy mau liền sẹo.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét