Jean Bellemin-Noël
“Các
nhà thơ và các nhà tiểu thuyết là những đồng minh quý báu của chúng ta,
và các bằng chứng của họ phải được đánh giá thật cao, bởi lẽ giữa lưng
chừng thinh không họ biết được nhiều điều mà túi khôn học đường của
chúng ta còn chưa dám mơ tới. Về kiến thức tâm lý, họ là bậc thầy của
chúng ta, những kẻ tầm thường, bởi họ đã đắm mình trong những mạch nguồn
nơi chúng ta còn chưa đưa khoa học lại gần được”. (S.FREUD, DRG, 127)
I. Đọc từ khi có phân tâm học
Phân tâm
học tính đến nay đã được ba phần tư thế kỷ, tức là đã lâu hơn môn vật lý
về thuyết tương đối của Einstein một vài năm. Người ta có quyền tin
rằng với tất cả mọi người tính chất phong phú, giàu sức sinh sôi của các
giả thuyết phân tâm học là không thể bác bỏ, rằng ngày nay không còn có
ai trách móc cái bà già ấy là đã mặc những bộ đồ lót hấp dẫn để khêu
gợi những kẻ mất hướng trong một xã hội Thanh giáo nghiêm cách.
Dù người ta có vui vẻ chấp nhận phân tâm học hay không, thì Freud đã bắt nhân loại phải gánh chịu điều mà trong Một khó khăn của phân tâm học(1917,
EPA) ông gọi là “vết thương thứ ba của lòng tự ái” của con người.
Copernic đã buộc con người phải thừa nhận rằng hành tinh nhỏ bé của nó
không còn là trung tâm của thế giới nữa, còn với Darwin, con người chỉ
còn là một động vật may mắn hơn những động vật khác chứ không phải là
một tạo vật có nguồn gốc thần thánh; bản thân Freud đã chứng minh rằng
“cái tôi không phải là chủ nhân trong chính ngôi nhà của nó” (146). Sức
mạnh của những xung năng khoái lạc trong ta lớn đến mức ta không thể
tính đến chuyện thuần hóa chúng hoàn toàn, và chẳng hơn gì ý chí, trí
năng của ta cũng không giữ vai trò thống trị, bởi vì một bộ phận đáng kể
những hoạt động tinh thần của con người thoát khỏi sự canh chừng của ý
thức. Bị tước mất vị trí cao siêu trong vũ trụ và trong sinh quyển,
chúng ta cũng bị mất luôn cả địa vị ấy trong lĩnh vực tâm lý mà mới đây
còn tạo ra niềm vinh quang và nguồn an ủi của chúng ta: một cái gì đó
trong ta nghĩ suy và điều khiển những hành động và tư tưởng của chúng ta
mà chính ta cũng không biết được là có những hiện tượng ấy xảy ra. Việc
con người cảm thấy bị xúc phạm trong niềm kiêu hãnh của nó – trong thói tự si của
nó – cũng không phải là điều quan trọng nhất trong vụ việc này, anh ta
từng thấy những chuyện khác. Cần phải chiến thắng bao nhiêu những chống đối, của truyền thống và của tôn giáo, để thúc đẩy vết thương ấy mau liền sẹo.
Nỗ lực của
Freud ở đây và hiệu quả sự khám phá của ông là không tính xuể. Phong
trào phân tâm học ngay từ đầu đã kinh nghiệm rằng việc thâm nhập những
bí mật của người bị tâm thần phân liệt còn dễ dàng hơn là gạt bỏ những
định kiến dương dương đắc thắng của các bè nhóm khoa học và thời lưu.
Những kiểm duyệt của hệ tư tưởng có hiệu quả hơn và ngoan cố hơn sựdồn nén ở
bên trong mỗi cá nhân. Những áp lực của gia đình, trường học, tôn giáo,
thể chế, sức nặng của xã hội được tổ chức thành chế độ kinh tế, trọng
lượng của một thứ triết học mơ hồ mà người ta đặt tên là “kinh nghiệm”,
hay ảnh hưởng của lương tri hợp lý và duy lý, nhưng không bao giờ lý
luận; với tất cả những điều đó, chúng ta vừa là nạn nhân vừa là kẻ hưởng
lợi, chúng ta là những kẻ mù quáng vì ta thỏa mãn và là những kẻ lợi
dụng vì ta bị mù quáng. Tất cả điều đó ẩn trú trong chúng ta, trong tư
tưởng của chúng ta, trong ngôn từ của chúng ta.
Và đây là vế thứ hai của nhị thức (phân tâm học và văn học
– ĐLT) của chúng ta: văn học. Chính qua văn học mà ta thức nhận được
tính người của ta, nó suy nghĩ, nói năng. Bởi lẽ, ngôn ngữ được rèn giũa
trong các quan hệ thường ngày với cha mẹ và bạn bè chỉ để hành động:
hỏi, trả lời, để mà sống. Đại thể là, chỉ nhờ vào một cái gì đó như văn
học (dù là văn học truyền miệng trong những kỷ nguyên và những nền văn
minh không chữ viết) mà con người tự vấn về bản thân mình, về số phận vũ
trụ của mình, lịch sử của mình, hoạt động xã hội và tinh thần của mình.
Những quan niệm “cao quý” của con người, cái nhìn thế giới của anh ta
được củng cố qua tiếp xúc với các truyền thuyết – những cái cần phải đọc
-, rồi những huyền thoại
tôn giáo, những sử thi thế tục, những chuyện kể gương mẫu, truyện cổ
tích, kịch, tiểu thuyết, những chuyện tâm tình xúc động, bằng văn xuôi
hay văn vần. Ngôn từ thông tri cho chúng ta, chữ viết hình thành nên
chúng ta. Và chữ viết biến đổi chúng ta một cách thiết yếu, bởi lẽ cái
gì đã được viết ra đều đến với chúng ta từ nơi khác, xa hoặc
gần trong sự vắng mặt và từ một thời gian khác, xưa kia hay vừa mới đây:
không bao giờ là ở đây và bây giờ, ở đó nói đã là đủ.
Nhưng văn
học, cũng là một cái gì khác hơn cái xác được ướp ít hay nhiều của những
tư tưởng có sẵn, những tư tưởng này hình thành ở ngoài bối cảnh trực
tiếp, nơi mỗi người đang vật lộn: văn học không chỉ là một tổng thể
những diễn ngôn được ghi nhận trước chúng ta và xa chúng ta, mà còn là
một diễn ngôn đặc biệt. Từ lâu rồi người ta đã bảo và đã tin rằng nó
“hữu ích và dễ chịu”; hữu ích là do nó mang tới sự khoái lạc, dễ chịu là
bởi nó vẫn cứ không dùng được để sống. Diễn ngôn văn học là loại diễn ngôn chênh vênh về hiện thực. Đấy là cái đẹp của nó, là bi kịch của nó, và là vận may kỳ diệu của nó.
Hiểu được
rằng những tác phẩm tạo thành văn học dần dần lắng đọng lại để tạo nên
một lĩnh vực rắn chắn và mặc cho bụi bặm bay lên trước ngọn gió của cái
không cốt yếu, rồi thì dòng cát chảy xuôi sườn dốc của cái thực dụng –
cái mà người ta gọi là tiếng nói thông thường và văn giáo huấn – tìm ra
được những lý do khiến các tác phẩm này vượt qua tác giả của chúng, thời
đại của chúng, khu vực ngôn ngữ của chúng, điều này cũng không được
hoàn thành trong ngày một ngày hai. Cũng như việc thừa nhận phân tâm
học, và cũng một phần nhờ văn học, việc thẩm định tính độc đáo của văn
học đã thật gian nan. Ở đây chúng ta hãy đành lòng nói rằng cần phải
chấp nhận ý tưởng về một hành ngôn khác không chỉ nói không
chính xác và cũng không đích thực cái điều mà hình như nó nói. Cũng
giống như tâm thần không phải là một khối thuần nhất giản đơn với những
tầng lớp và những sự phân phối các năng lực, lối viết của những tác phẩm
lớn không thể được coi là sự chuyển tải một thông điệp mang một nghĩa
hiển nhiên duy nhất. Những từ ngữ thường ngày được tập hợp lại theo một
cung cách nào đó sẽ có được quyền năng gợi ra cái không thấy trước, cái
chưa từng biết, và các nhà văn là những người trong khi viết là họ đang
nói song chẳng ngờ rằng mình nói về những cái mà theo nghĩa đen “họ
không hề biết”. Bài thơ biết nhiều hơn nhà thơ.
Nếu ý
nghĩa là dư thừa trên văn bản, thì ở đâu đó có một sự thiếu vắng ý thức.
Hành động văn học chỉ lo tàng trữ trong nó một phần của cái vô ý thức
hoặc của cái vô thức. Nhiệm vụ mà phê bình văn học
trong mọi thời đại đã tự xác định cho mình là phát hiện ra cái thiếu
vắng hoặc dư thừa đó. Tóm lại, vì văn học mang trong lòng nó cái không –
ý thức và phân tâm học thì mang lại một lý thuyết về cái thoát khỏi ý
thức, nên người ta dễ dàng đi đến chỗ ghép chúng lại, thậm chí nhập
chúng vào một cục. Tổng thể các tác phẩm văn học
cung cấp một điểm nhìn về hiện thực của con người, về môi trường trong
đó con người tồn tại cũng như về cách thức con người nắm bắt môi trường
ấy đồng thời nắm bắt những quan hệ mà nó duy trì với môi trường ấy. Tổng
thể này là một loạt những diễn ngôn và một quan niệm về thế giới: nối
liền một mạch những văn bản và văn hóa. Học thuyết phân tâm học biểu
hiện ra cũng gần giống như vậy: một bộ máy khái niệm để tạo dựng lại tâm
lý chiều sâu, và các mô hình giải mã. Nếu như thực thể văn bản và bộ
công cụ lý thuyết thuộc về những phạm trù khác nhau của hiện thực (một
vật liệu đối với những dụng cụ thăm dò), thì không được quên rằng cái
nhìn thế giới của văn chương và sự dò tìm ra những tác động của vô thức,
cùng hoạt động theo một cách thức: đó là hai kiểu diễn dịch, hai kiểu
đọc, ta hãy gọi là những cách đọc. Văn học và phân tâm học
“đọc” con người trong nghiệm sinh thường nhật cũng như trong số phận
lịch sử của nó. Sâu hơn nữa, chúng giống nhau ở chỗ chúng cùng loại trừ
mọi siêu ngôn ngữ: không có sự khác biệt giữa diễn ngôn đề cập
đến chúng và những diễn ngôn hợp thành chúng. Ta biết rằng không bao giờ
ta có thể thật sự tách ra khỏi cái mà ta nói đến, ấy vậy mà người ta tự
xác định cho mình mục tiêu đạt tới những sự thật khi nói về người đang nói.
Việc khám
phá ra cái vô thức đặt lại vấn đề tri thức mà chúng ta có được về tâm lý
con người, cái tri thức mà chúng ta sống từng giây từng phút. Cái đã
được viết ra và còn viết nữa, cái mà tôi đọc đã được làm ra mà tôi không
biết bởi những năng lượng phi thường (và hoang đường): cách đọc của tôi
hôm nay ra sao đây? Mặt khác, phân tâm học tiến hành trên hành ngôn,
nhân tố của sự thật và sự tha hóa trong những quan hệ giữa các cá nhân
với nhau và trong chính nội tâm của mỗi cá nhân: phân tâm học cho biết
điều gì đây về cái vùng hoạt động ưu tiên của hành ngôn, nó chính là
tổng thể của văn học, ở đó hiện thực thầm kín của cá nhân thể hiện rõ
hơn bất cứ nơi nào khác? Đấy là những câu hỏi có vẻ thực. Như vậy, mục
tiêu của cuộc điều tra sẽ là mục tiêu sau đây: mô tả những nguyên lý và toàn bộ những phương tiện mà phân tâm học cung cấp cho chúng ta để giúp chúng ta đọc văn học tốt hơn.
Vậy là
chúng ta sẽ phải khám phá, không chỉ trong sự đa dạng, mà cả trong lịch
sử của chúng, những xu hướng khác nhau của cái mà ta có thể đặt cho một
cái tên chung “tiếp cận phân tâm học đối với trường văn học”. Bởi lẽ, mỗi xu hướng đã rộ nở vào từng thời điểm khác nhau, với những thời vận khác nhau, những cường độ không như nhau.
Sau khi
những ý định thử nghiệm của Freud đã được trình bày theo trình tự xuất
hiện của chúng, chúng ta sẽ chuyển qua rà soát các bước đi và những kết
quả mà những thử nghiệm đó đã mang lại cho đến thời kỳ hiện nay. Mục
tiêu của chúng ta sẽ đạt tới nếu như, trong một sưu tập đụng chạm đến
một công chúng rộng lớn, tất cả những trí óc tò mò đều đã có được một
quan niệm ít nhiều rõ ràng về những phương thức can thiệp của cái nhìn
phân tâm học trước vô số dạng vẻ dưới đó văn học hiện diện sống động,
tích cực cho một số người mà ta mong muốn không ngừng được mở rộng.
Để kết luận, chúng ta hãy nêu lại công thức của Freud, trong đó không phải là không có chút hài hước:
“Công việc
phân tích là tế nhị và khó chịu; người ta không thể sử dụng nó như sử
dụng một chiếc kính kẹp mũi mà người ta kẹp vào để đọc sách và bỏ ra khi
bắt đầu đi tản bộ” (NCP.201).
Vậy thì
chúng ta hãy đi tản bộ để tìm kiếm nếu không phải là cái kính kẹp mũi
tốt nhất để đọc cho giỏi, thì chí ít cũng một cái kính kẹp mũi tốt để đọc cho tốt hơn.
II. Đọc cùng Freud
“Từ việc
khám phá các giấc mơ, người ta được dẫn dắt tới trước tiên là phân tích
các sáng tạo thi ca, sau đó là các nhà thơ, các nghệ sĩ [...], những
vấn đề quyến rũ nhất với tất cả những ai ưng áp dụng phân tâm học”.
Để bắt
đầu, xin kể một giai thoại: bịa hay thật không biết, nhưng nó nói đúng.
Một người nào đó hỏi Freud rằng thầy của ông là những ai, người sáng lập
ra phân tâm học đáp bằng một cử chỉ hướng về những giá sách trong thư
viện của ông nơi hiện diện những công trình lớn của văn học thế giới…
Freud say mê đủ loại văn chương:
kẻ ngốn sách đồng thời là một độc giả tinh tế. Văn hóa của ông là thứ
văn hóa cách đây một trăm năm người ta dạy ở các trường trung học nước
áo: cổ điển, nhưng đa dạng hơn, phổ quát hơn, hiện đại hơn thứ văn hóa
tương tự ở Pháp. Ví dụ, những tên tuổi trở đi trở lại nhiều nhất dưới
ngòi bút của ông là các tác giả đã được thừa nhận vào năm 1870:
Aristophane, Boccace, Cervantès, Diderot, Goethe, Hebbel, Heine,
Hésiode, Hoffmann, Homère, Horace, Le Tasse, Milton, Molière, Rabelais,
Schiller, Shakespeare, Sophocle, Swift; còn về các nhà văn đương thời:
Dostoievsky, Flaubert, Anatole France, Ibsen, Kipling, Thomas Mann,
Nietzsche [1], Schopenhauer, Bernard Shaw, Mark Twain, Oscar
Wide, Zola và Stefan Zweig. Cái mà ông rút ra từ những sự đọc của mình,
trước hết đó là những định thức thành công thức đã in dấu vào trí nhớ
của ông và giúp ông điểm xuyết vào văn bản của mình các trích dẫn theo
thông lệ của lối viết văn hay thuộc thời đại ông. Đặc biệt đó là một
hiểu biết về những động cơ thúc đẩy con người hành động, trước tiên là
bằng sự tiêm nhiễm ảnh hưởng (cái vốn liếng minh triết và kinh nghiệm mà
chúng ta ai cũng thâu lượm được qua tiếp xúc với những tác phẩm tiêu
biểu), sau đó là xuất phát từ sáng kiến riêng của mình để học tập các
thiên tài đã đi trước ông, mà không biết, trên con đường của những khám
phá lớn về tâm lý học. Người ta thường thấy ông tuyên bố xác tín của
mình rằng những văn bản nổi tiếng bất hủ, có thể là những người dẫn
đường như: “Và hóa ra là điều này những tiểu thuyết gia và những kẻ
hiểu thấu trái tim con người đã nắm được từ lâu rồi những ấn tượng của
giai đoạn non nớt đầu tiên của cuộc đời để lại những dấu vết không thể
xóa được [...]. (MVP, 42)
Freud sửng
sốt say mê trước khả năng tiên kiến phi thường của những trí óc ấy, họ
vốn không có phương tiện để phân tích, ông cảm kích vì các phán đoán,
miêu tả và truyện kể của họ, nhưng không choáng váng đến mức mù quáng:
ngược lại, ông bị kích thích phải tìm hiểu. Đấy là sức mạnh của những
nghiên cứu của ông, của những nỗ lực đểáp dụng phương pháp khoa
học của ông, phương pháp mà ông dần dà phát hiện ra, vào cái ẩn ngữ có
thể nói là chính nó đã khải thị cho ông.
1. “Áp dụng” phân tâm học?
Thuật ngữ áp dụng không
nên hiểu một cách sai nghĩa. Thường thì nó gợi ra rằng trong một lĩnh
vực nào đó người ta sử dụng các nguyên tắc và các phương tiện thăm dò
thuộc một khu vực tri thức ở bên ngoài lĩnh vực trên, tùy trường hợp
được gọi là “khoa học cơ bản” hoặc “khoa học bổ trợ”.
Cũng vậy, người ta sử dụng toán học cho tất cả các môn khoa học chính xác và kể cả (thống kê học chẳng hạn) một vài khoa học nhân văn;
hoặc giả người ta áp dụng hóa học bức xạ vào khảo cổ học, cổ sinh học
nhờ sử dụng các bon 14 để xác định niên đại của một dụng cụ bằng đá hay
một bình gốm cổ. Nhưng, trong trường hợp chúng ta quan tâm, đó không
phải là một kiểu tính toán hay một công cụ đo đếm thuộc lĩnh vực định
lượng, mà chính là một tấm lưới giải đoán nhằm giải mã những
hiện tượng thuộc về con người mà bề ngoài rất xa cách nhau (và trước hết
cần phải chứng minh là chẳng phải chúng thật sự không đồng nhất). Tính
độc đáo đầu tiên của lý thuyết về vô thức là đã chỉ ra rằng sự tách biệt
giữa những thái độ và hành động khác nhau của con người chỉ ở bề mặt.
Một khi đã xác định được là có sự tiếp nối giữa đứa trẻ và người lớn,
“người nguyên thủy” và “người văn minh”, cái khác thường và cái thông
thường, cái bệnh lý và cái bình thường, thì người ta sẽ thấy ngay lập
tức chiếc hố sâu được lấp đầy, chiếc hố ngăn cách các sản phẩm như dấu
hiệu tiền triệu, những chuyện kể huyễn tưởng, những điều cấm kị của các
cư dân Polynésie, cách tổ chức và hiệu lực của các trò chơi của bé trai
hay bé gái. Có một nền tảng chung – tức là cơ chế phức tạp của các xung
năng, các phương thức của sự dồn nén, những mưu mẹo của ham muốn tình
dục – cho những ứng xử lạ lùng và quen thuộc của các loại cá nhân khác
nhau, những lớp tuổi khác nhau, những tập thể người khác nhau mà người
ta gặp gỡ trên bề mặt hành tinh. Một giấc mơ, một trò chơi, một nghi lễ,
một hội kín, một huyền thoại, một truyền thuyết, một ngụ ngôn, một sử
thi, một câu xướng trong trò chơi con trẻ, một tiểu thuyết, một trò đùa,
ma thuật của một bài thơ, tất cả chỉ tạo nên những đối tượng nghiên cứu
riêng biệt cho những chuyên gia cứ tưởng rằng mình đang làm việc trên
những chất liệu không đồng nhất. Bắt đầu từ thời điểm trong đó những
hiện tượng người này ở một cấp độ nào đó được coi như là những hiện thực
hóa của cùng một Vô thức (chữ viết hoa nhằm xác định rằng đây là nói về
hệ thống chứ không phải về một cơ cấu cá nhân – đây không phải là dấu
hiệu của sự thiêng hóa) thì việc cùng một người diễn dịch đảm trách điều
này trở nên hợp thức. áp dụng phân tâm học vào một lớp những đối tượng
tâm thần đặc biệt, đó chính là quan sát cách thức mà sự ham muốn biểu
hiện ra qua chất liệu, bối cảnh, cơ quan, thiết chế, dữ kiện văn hóa
không thể phân hóa nhưng tuân theo cùng những quy luật.
Từ “áp
dụng” ở đây không mang cái nghĩa có thể xếp chồng lên những nghĩa mà nó
nhận được ở nơi khác; đây không phải là trò chơi khắc xuất khắc nhập với
một khoa học kế cận, càng không phải là lưu đầy phân tâm học đi bất kỳ
nơi đâu: dù thuận tình hay miễn cưỡng, việc phân tích các quá trình vô
thức có thiên hướng can thiệp ở bất cứ nơi nào có “trí tưởng tượng” hoạt
động, có nghĩa là những xúc động, một tác phẩm hư cấu, thậm chí rộng
hơn là một tác phẩm miêu tả và những hiệu quả tượng trưng. Sự phân tích
này có thể tự coi là hiệu quả mỗi lần con người tự xét lại mình, và mỗi
lần hoạt động nhận thức của nó ra khỏi những định đề, khỏi vật lý học và kỹ thuật để
quan tâm đến các cạnh khía “cụ thể” của sinh tồn và của lịch sử, của xã
hội và của cá nhân. Nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà vật lý học,
người kĩ sư bước ra khỏi chuyên môn của mình chỉ còn là, nếu ta
dám nói như vậy, những con người; Freud, chính ông, chiếc kính bất ly
thân kẹp trên sống mũi, nhìn họ làm việc, nghiên cứu họ cả bên ngoài
công việc và, chúng ta chớ quên điều này, ông cũng tự nhìn chính mình
làm việc và không hề rời mắt khỏi bản thân trong khi trí óc ông nghỉ
ngơi hoặc lang thang đâu đó. Chiếc kính kẹp mũi, chẳng bao giờ có chuyện
ông bỏ nó xuống, bởi lẽ ông cống hiến toàn bộ thời gian của mình để
giải mã cái văn bản của Nhân loại: tóm lại, ông không ngừng đọc! [2]
2. Một bài học đọc
Điều đáng
lưu ý hơn nữa là mỗi khi đọc một cuốn sách ông không ngừng hành động như
một nhà phân tích: ông chăm chú lắng tai đối với điều nghe được trong
văn bản viết. Tuy nhiên sẽ là sai lầm khi tưởng tượng rằng ông đọc “giữa
những dòng chữ”, chập chờn mơ mộng tới những gì mà điều đó gợi ra hoặc
làm cho nhớ lại. Không phải nhà tiên tri, cũng không phải người ôm đồm
các ý tưởng – xin đọc vấn đề này ở Sarah Kofman trong cuốn Tuổi thơ của nghệ thuật -, Freud
là một nhà diễn giải, luôn luôn chú ý đến từ, ngữ, đến câu, đến hành
ngôn. Người ta nói rằng ông thích trích dẫn (thậm chí thường trích dẫn
cả những định thức của chính mình): điều đó, vượt quá một thời thượng,
chứng tỏ rằng ông coi trọng chữ chứ không chỉ coi trọng “tinh
thần” của những phát ngôn mà ông đề cập đến. Ta sẽ trở lại tính cách mẫu
mực của thái độ ấy, lý do và những hậu quả của nó; tạm thời hãy nói
rằng sự gắn bó với bản viết đã giữ Freud khỏi rơi vào siêu hình
học, khỏi sa vào một thứ chủ nghĩa thần bí không thể đứng vững được về
mặt lý thuyết. Một Jung, chẳng hạn, đã không tuân thủ được tính nghiêm
ngặt cẩn trọng ấy và, ngay từ trước Thế Chiến Một, đã cần phải cho Jung
hiểu là Jung đã đi lạc vào một hình thức mới của tâm lý học, hình thức
này không xứng đáng mang danh hiệu phân tâm học.
Về mặt
đào tạo, người thầy thành Viên vừa là một bác sĩ vừa là một bác học, và
ông thầy ấy bao giờ cũng từ chối không coi mình là một nhà triết học:
trước tiên ngăn ông lại là những sự kiện, sau đó là những cơ cấu trong
chừng mực chúng trình bày các sự kiện, tất cả các sự kiện và chỉ các sự
kiện mà thôi. Sự chú ý đến các chi tiết gắn liền với một cách làm khoa
học quan tâm lắng nghe những lời nói chính xác của một người bệnh, thưởng thức diễn ngôn đích xác của
nhà văn. Bằng việc ngoại suy, người ta rơi xuống vực thẳm, trở thành
người đoán mộng, nhà tiên tri, thầy bói làng. Vở bi kịch Oedipe – Vua sẽ
giống cái gì nếu như nó kết thúc bằng việc phát lộ sự loạn luân và một
hình phạt nào đó với nhân vật chính? Điều quan trọng là Oedipe, sau khi
nhận thấy mức độ nghiêm trọng của tội lỗi mình phạm phải - “một cách vô thức”, bởi
lẽ lời phán truyền của thần linh không sáng sủa gì hơn một điềm triệu! –
đã không đi đến tự vẫn hoặc tự cầm tù suốt đời: bằng chiếc trâm lấy
trộm của Jocaste, anh ta đã tự chọc thủng đôi mắt; để tự trừng phạt “ở cái nơi mà anh ta phạm tội”, tất nhiên, anh ta tự thiến nhưng một cách tượng trưng, bằng
cách đảo ngược ngay chính hành vi của tội ác, bởi lẽ chính một cái gì
đó của người mẹ – người vợ sẽ đánh vào cái nơi sống còn nhất của anh
ta, “đôi tròng mắt” và rõ ràng bằng đôi mắt đó anh ta
đã thèm muốn nhan sắc phụ nữ của người mẹ – người vợ; như vậy Oedipe đã
trả cái giá đúng, là cái chết của lòng ham muốn, cốt để từ nay sống
trong đau khổ và tang tóc, thay vì – vả lại như có một khoảnh khắc anh
ta đã mong làm như vậy – nhảy xuống biển, nơi anh sẽ được nếm trải ân
sủng kép là gặp được mẹ và tìm được cái chết [3]… Ở đây Freud
không đứng vào địa vị của Pythie, người đã tiên đoán theo sự gợi ý của
Apollon, ông đứng vào địa vị của người trợ lý của ông ta (những người
Latinh sẽ nói làinterpres), của người trung gian môi giới, của người đứng giữa lời
nói khó hiểu của thần linh và đôi tai của nhà tư vấn; ông đứng giữa
những gì mà tác giả bi kịch tuyên bố theo nghĩa đen và những gì mà chúng
ta được phép cảm nhận ở đó, khi xét đến cả những cấu trúc vô
thức biểu hiện ở đó, những thôi thúc tình dục muốn mở ra ở đó một con
đường bất chấp sự chống đối của kiểm duyệt.
Ý chúng
tôi giờ đây không phải là thảo luận về giá trị của một cách giải mã,
cũng như tính hợp pháp của việc “áp đặt” cho một truyền thuyết được
chuyển thành kịch thơ một cách đọc diễn giải theo phong cách phân tích
hơn là một sự chú giải các điều thần bí hoặc một sự chuyển thể mang tính
ý thức hệ. Chúng tôi phải nhấn mạnh rằng đọc với chiếc kính kẹp mũi của
Freud, đó là đọc trong một tác phẩm văn học, với tư cách là hoạt động
của một con người và là kết quả của hoạt động ấy, cái điều tác phẩm đó nói mà lại không để lộ điều nói bởi vì tác phẩm không biết điều đó, đọc được điều tác phẩm không nói qua cái điều tác phẩm chỉ ra và là do tác phẩm chỉ ra điều đó bằng diễn ngônnày chứ không phải diễn ngôn khác. Không có gì là vô cớ, cái gì cũng có ý nghĩa; và điều báo hiệu cho Freud, đó là những chồi mầm của
vô thức. Văn bản chẳng hề biết cũng chẳng hề muốn song nó là một bản
mật ước có thể và phải được giải mã. Tại sao? Trước hết, nhất định như
vậy, là để giúp cho nhà phân tâm học làm chủ được các phương pháp “diễn
dịch” của mình (việc này chẳng mấy giống với công việc của một dịch giả
theo nghĩa thông thường, như ta sẽ thấy sau này) và để bảo đảm những
định đề lý thuyết của nhà phân tâm học bằng cách kiểm tra giá trị phổ
biến của các phương pháp đó; điều lợi ích này là có thực đối với sự hiểu
biết mà con người có được về chính bản thân mình. Nhưng trước hết,
trong vấn đề liên quan đến chúng ta, để cho phân tâm học giúp cách đọc
làm sáng tỏ một sự thật của diễn ngôn văn học, trang bị cho lĩnh vực
thẩm mỹ này một kích thước mới, làm vang lên một tiếng nói khác khiến cho văn học nói với chúng ta không chỉ về những người khác, mà còn về con người khác ở trong.
Việc giải
đoán dẫn đến một kiểu lợi ích hoàn toàn đặc biệt. Vì đây là một công
việc lao động, người ta thích tự nhủ rằng việc đó sẽ được đền đáp. Tính
ra được trước hết là sự thỏa mãn hiểu biết (kể cả trong ảo tưởng, phải
thú thật điều này), cái niềm vui đã khám phá ra một bí mật, bất chấp
những khó khăn đã nhận biết được một nghĩa không chịu bày ra rõ ràng
hiển nhiên: phân tâm học sẽ nhìn thấy ở đó một tiếng vọng của những tò mò xa
xưa của đứa trẻ đối với tất cả những gì mà trong sự im lặng của bố mẹ
và của cơ thể là có liên quan đến sự khác biệt của giới tính và của các
thế hệ, đến sự huyền bí của sinh nở, đến những nguyên nhân của khoái lạc
hoặc của các sự cấm đoán. Niềm hoan hỉ, để không trở thành vô thức, cắm
sâu gốc rễ của nó vào trong những ấn tượng lâu đời đã bị lãng quên, và
chắc hẳn là giao thoa với một niềm hoan hỉ khác còn khó nhìn thấy hơn
nữa, những cái vô thức với nhau.
Loại
sản phẩm tưởng tượng, mà ở trung tâm của chúng sự ham muốn cho các cấu
trúc của nó vận hành, không phải phong phú đến vô hạn, bởi các chủ đề
của nó hạn chế ở những tổ chức cổ sơ (môi miệng, hậu môn, dương vật và
những thế vật của chúng) và trong khuôn hình tam giác vừa đơn giản vừa
phức tạp của Oedipe: vậy là người ta có thể tưởng tượng rằng vô thức của người đọc khai thác những thuận lợi được cung cấp để tránh né sự dồn nén, một
mặt bằng cách nhận ra ở kẻ khác những ngón nghề, sự khéo léo giúp hắn
lừa gạt được khớp mình tài hơn sự kiểm duyệt của chính hắn, một kiểu
thông đồng, có thể như vậy, tại đó những màn kịch điển hình và những
trao đổi với nhau. Nguồn lạc thú thứ ba trong sự kéo dài của những lạc
thú trước đó, một kiểu trạng thái chuyển di, nó dường như tự thiết lập khi quan hệ với một văn bản, thứ văn bản có khả năng gây ra những sự đồng nhất hóa, huy động những đầu tư cảm xúc mạnh mẽ, thực hiện một kiểu quyến rũ đối với cái tôi.
Sự say mê
mà người ta cảm thấy đối với một cuốn sách, ít nhất là trong thời gian
đọc, “thu hút mọi năng lực của tâm hồn”, như Pascal đã nói: điều đó gần
như một hành vi yêu đương. Dù cho người ta cảm thấy điều đó một cách rõ
rệt hay không, thì những mối liên hệ nảy sinh cho phép một hành động
trong hai nghĩa: vô thức của riêng tôi biến đổi cái nhìn của tôi đối với
cái tôi đang đọc và cái cuốn sách phác ra trong bóng tối mờ mờ nuôi
dưỡng trong tôi những mộng mơ mang một màu sắc bất ngờ. Tất nhiên, đọc
không phải là chữa bệnh; nhưng người ta có thể nghĩ rằng, trong khi chữa
bệnh nhà phân tích mời gọi tôi và thầm lặng giúp tôi đọc cái văn bản mà
lòng tin cậy của tôi viết ra trên ghế đivăng và tặng cho cả hai chúng
tôi.
3. Các sách và các bài viết của Freud
Freud đã
giữ lại được rất nhiều từ những sách ông đọc như một con người trung
thực. Ông đã cảm thấy những lạc thú của mọi người đọc, và cả những lạc
thú của một độc giả am hiểu hơn, kẻ lắng nghe trong một cuốn sách cái vô
thức diễn lại những huyễn tưởng của nó và thẩm định công việc của nó),
nhưng ngoài ra, khi đọc, ông còn thu lượm được những chỉ dẫn quý báu cho
sự tìm kiếm của ông, cũng như những bằng cớ chứng tỏ tính hữu hiệu và
sự năng sản của các giả thuyết của ông [4] . Những ai có một khái niệm về sự nghiệp của ông đề biết rằng ông đã viết về các nghệ sĩ, các nhà văn, những hiện tượng văn học,
những tác phẩm đặc biệt. Ngay bây giờ, chúng tôi cung cấp với sự chỉ
dẫn của bản in bằng tiếng Pháp trong đó có thể tìm đọc được tác phẩm sắp
xếp theo trật tự thời gian, một danh sách những cuốn sách hay những bài
viết chính mà ông đặc biệt dành cho những vấn đề này.
1907 Mê sảng và những giấc mơ trong “Gradiva” của Jensen (DRG).
1908 Sáng tạo văn học và giấc mơ tỉnh thức (một đầu đề hay hơn sẽ là: “Nhà thơ và trí tưởng tượng, trong EPA).
1910 Một kỷ niệm thời thơ ấu của L. de Vinci (SLV).
1913 Đề tài về ba chiếc rương (“Sự lựa chọn những chiếc rương,trong EPA).
1914 Bức “Moïse” của Michel-Ange (trong EPA).
1916 Một vài kiểu tính cách do phân tâm học phát hiện (trong EPA).
1917 Một kỷ niệm thời thơ ấu trong “Dichtung und Wahrheit” của Goethe (trong EPA).
1919 Sự lạ lùng đáng lo ngại (Das Unheimliche, trong EPA).
1928 Dostoïevsky và kẻ giết cha (bản dịch của J.B. Pontalis - Lời tựa cho cuốn Anh em nhà Karamazov, Nxb Gallimard)
Trong một
cuốn sách tự thuật, khi trình bày những khả năng của học thuyết của mình
đối với cái mà ngày nay người ta gọi là những nghiên cứu liên ngành,
tác giả tuyên bố: “Phần lớn những áp dụng phân tích này do những công
trình của chính tôi mở đầu”. (MVP, 79). Câu nói này có một âm hưởng đặc
biệt khi người ta giới hạn nó trong trường nghiên cứu văn học, bởi hiển nhiên rằng, trong lĩnh vực này Freud đã mở đường cho mọi kiểu tiếp cận, từ nghiên cứu cảm xúc thẩm mỹ vàtính sáng tạo nghệ thuật đến việc đọc một văn bản duy nhất, thông qua sự phân tích những thể loại, phân tích những môtíp và phân tích những nhà văn. Chúng
tôi sẽ xuất phát từ công trình của ông mỗi khi chúng tôi nghiên cứu sự
phát triển của công trình ấy qua những người thường viện dẫn ông, các
nhà phân tích hay các nhà phê bình văn học.
Còn
cần phải có vài nhận xét về công trình của một độc giả mẫu mực. Nhận xét
đầu tiên coi trọng sự quan tâm thường trực trong các bài viết có tính
chất lý thuyết và kĩ thuật của ông luôn dựa vào các tên tuổi lớn và các
tác phẩm lớn của nền văn học thế giới. Trường hợp Oedipe đã được nghiên
cứu suốt cuộc đời của Freud, trong thực tế văn học của nó cũng như với
tư cách mặc cảm chủ chốt, kể từ bức thư gửi Fliess ngày 15 tháng 10 năm
1897 đến tác phẩm Tóm tắt phân tâm học(1938). Nhận xét thứ hai sẽ
làm rõ vấn đề là, trong một dịp đặc biệt, Freud đã tiến hành việc phân
tích lâm sàng một người bị hoang tưởng chỉ qua việc nghiên cứu cuốn tự
truyện của bệnh nhân này: ông chủ tịch Schereber nổi tiếng (trong CPS). Nhận
xét thứ ba: Chắc hẳn vì ưa thích rõ ràng đối với những tác phẩm của các
nhà văn mà văn chương được dụng công kĩ lưỡng và đang phát huy công
dụng nhiều hơn, nên ông có phần ít đi sâu nghiên cứu huyền thoại và
folklore (ông giao phó việc này cho Otto Rank một phần, Théodore Reik và
Géza Roheim phần khác, MVP, tr.85.86). Vì vậy, những phân tích về Vật tổ và cấm kị xuất phát từ những tư liệu dân tộc học gốc gác ít hơn là từ những kiến tạo hoặc giải thích do nhà nhân học Frazer đề xuất.
Cuối cùng,
bản danh mục ở trên đã gác sang bên một loạt tác phẩm không đề cập trực
tiếp, rõ ràng đến những đối tượng “văn học”, nhưng những cống hiến của
các tác phẩm đó có ý nghĩa nền tảng đối với toàn bộ tư tưởng của Freud
về quan hệ của vô thức đối với ngôn ngữ; ba trong số các tác
phẩm này có tầm quan trọng rất lớn đã được soạn thảo và công bố trước
mọi công trình áp dụng phân tâm học vào văn học, đó là những tác phẩm đề
cập đến giấc mơ, sự nói nhịu và những lời dí dỏm. Mọi thứ diễn ra như thể tác giả của chúng đã học cách đọc ở
các tác phẩm ấy bằng việc xác định những điều kiện của một sự đọc sâu:
chúng ta không thể làm gì khác hơn là đặt mình dưới sự hướng dẫn của ông
và cùng học theo cách của ông.
III. Đọc cái vô thức
“Nghệ
thuật là lĩnh vực duy nhất trong đó sức mạnh toàn năng của các ý tưởng
được duy trì cho đến tận thời đại chúng ta. Chỉ trong nghệ thuật mới
có câu chuyện rằng một người bị các ham muốn khuấy đảo đã thực hiện một
cái gì đó như là một thỏa mãn; và nhờ có ảo ảnh nghệ thuật, trò chơi
này làm nảy sinh những xúc cảm như do một cái gì đó có thực. Thật có lý
khi người ta nói về sự thần diệu của nghệ thuật, và nghệ sĩ thì được ví
như người có ma thuật”. (S.Freud, Tot, 106)
Giấc mơ là “con đường hoàng đạo” dẫn đến vô thức. Điều này là đúng trong lịch sử, hoặc gần đúng như vậy, bởi lẽ Giải đoán các giấc mơ [5] là
cuốn sách đầu tiên được ký tên chỉ một mình Freud – và thật lý thú khi
cuốn sách này “xuất hiện” (sao mà hiếm hoi!) trên giá của các hiệu sách
suốt những tuần lễ cuối cùng của thế kỷ XIX. Điều này còn đúng ở chỗ các
giấc mơ đã giữ vị trí hàng đầu trong sự phát triển của cuộc phân tích
đầu tiên,cuộc tự phân tích của Freud: một phần đáng kể những tư
liệu này là từ người mơ mà Freud hiểu rõ hơn ai hết và ông còn nắm chắc
trong tầm tay. Điều này vẫn còn đúng trong thời đại chúng ta, bởi lẽ
nhà phân tích mời gọi người bị phân tích [6] nhớ và ghi những
giấc mơ của họ (về ban đêm) cũng như những mộng mơ (ban ngày) để rồi kể
lại trong những buổi thăm khám và dùng chúng làm dẫn liệu của hoạt động
mở đường tiếp cận tới những ham muốn bị dồn nén.
Quả thật, Freud đã nhận thấy rất sớm
rằng giấc mơ biểu lộ sự trá hình của một ham muốn bị lãng quên – hoặc ít
nhất là một thử nghiệm để hoàn thành – nỗi ham muốn ấy đến nẩy mầm trên
việc thực hiện một mong ước thời sự hơn, bằng cách sử dụng các yếu tố
và sự kiện của ngày hôm trước. Do tự hỏi về những lý do vì thế mà những
mong ước thầm kín (ý tưởng tiềm ẩn) tự biến đổi để hình thành câu chuyện
không đầu không đuôi đó, thành cái chuỗi hình ảnh kỳ lạ ấy, chuỗi hành
động và lời nói mà tất cả chúng ta đều biết rõ (nội dung biểu hiện), ông
đã bị dắt dẫn tới chỗ xếp đặt giấc mơ vào cùng một chỗ với một ký hiệu,
tìm cho nó một nguồn gốc, một giá trị, một ý nghĩa ngoài cái ý nghĩa là
bảo đảm việc duy trì giấc ngủ (nhu cầu sinh học). Lâu dài, toàn bộ lý
thuyết về Vô thức đã tìm và đến dựa vào việc mô tả một vài cơ chế cụ
thể. Nhưng, giấc mơ mà cuộc phân tích là câu chuyện kể mà người mơ mộng
nghĩ ra trong trạng thái thức, ngay từ sau giây phút mà anh ta có lại ý
thức; cái mà chúng ta đã nhìn thấy, nghe thấy, gánh chịu và bị bắt buộc,
đôi khi thậm chí nghĩ tới, trong suốt trạng thái kém tỉnh táo, chúng ta
chỉ biết chúng qua việc chúng ta nhớ lại lúc thức giấc, chúng ta kể lại
với mình cái đó, chúng ta có thể kể lại cái đó với người khác: đó là
một cái gì đó đã có ghi chép lại; đó là cái mà ngôn ngữ học sẽ gọi là
một tự sự.
1. Hoạt động của giấc mơ
Một giấc mơ biểu hiện ra như một văn
bản: những câu viết liên tục vạch ra một chuỗi tiếp nối các hành vi của
cảm giác, những ý tưởng cụ thể (đó là những trình bày), cả lớp mang màu sắc niềm vui hay nỗi chán chường hoặc là một tỉ lệ thay đổi giữa hai tình cảm đó (đó là xúc cảm).
Chúng ta hãy thỏa thuận với nhau rõ ràng là, đây không phải là một
thông điệp của một “ai đó” ẩn kín trong thâm tâm chúng ta gửi đi, đến từ
những góc sâu của tuổi thơ ấu, gửi tới địa chỉ “một cái tôi” sẽ phải
tiếp nhận nó, giải mã nó và tùy tình hình có câu trả lời thích đáng; một
cách nhìn đơn giản như vậy sẽ là sai lệch tất cả. Giấc mơ không nói
cũng chẳng nghĩ ngợi: Freud nói quả quyết rằng giấc mơ là một hoạt động
(IDR – chương VI). Ông so sánh giấc mơ với một câu đố: “Các bậc tiền bối
của chúng ta – ông nói – đã phạm một sai lầm là muốn giải thích giấc mơ
như một bức tranh vẽ” (trang 242) [7], trong khi những bức
vẽ nhỏ biểu hiện, “có mặt ở đó” để dành cho các chữ, các âm tiết, các từ
cần phải đồng nhất hóa và tập hợp thành một câu.
Không có bất kỳ ai để đánh bức điện
tín, cũng chẳng có một ai để giải mã câu đố – ngoại trừ khi việc phân
tích can thiệp vào đó. ở đó có sự ham muốn, rất khác với nhu cầu, nếu
không sẽ có thể thỏa mãn được nó và bắt nó phải im tiếng: ấy vậy mà cái
đó gào thét không ngừng ở điểm phát âm của cơ thể và tâm lý của chúng
ta, những tiếng kêu vui mừng và những tiếng kêu tuyệt vọng; có sự ham
muốn luôn luôn sẵn sàng nắm lấy một cơ hội để mở ra một con đường đi đến
tận những nơi mà ở đó sự ham muốn có may mắn khiến cho người ta nghe
thấy tiếng nói của nó, đến tận sàn diễn ở đó nhà hát thường nhật của
chúng ta biểu diễn, một nhà hát ở đó, ngay sau khi ý thức tỉnh táo ngừng
việc áp đặt vào một đối tượng hoặc một mục tiêu rõ rệt, các nhân vật
hoạt động một cách thường trực trong một cảnh trí nhái lại hoặc thuật
lại những chuyện xưa. Những kỷ niệm còn tươi rói của ngày hôm trước tiếp
tục tồn tại, được sắp xếp mơ hồ tùy theo những nỗi bận tâm của người
đang ngủ (quan trọng hay thứ yếu, không một ai có sự lựa chọn) và một sự
thúc đẩy của vô thức – từ cái mà theo nghĩa sát sao không thể nào xuất
hiện như vậy trước mặt ý thức – tới chiếm lĩnh vị trí của nhà đạo diễn
bằng cách áp đặt lên cái bức tranh ấy những mảnh nhỏ của kịch bản của
chính bản thân mình. Lỗi lầm chủ yếu của sự so sánh này nằm ở chỗ là mọi
khung cảnh đều giả định một công chúng; trước mặt sàn diễn của giấc mơ,
không khác gì trong các hành lang người ta sẽ không thể tìm thấy những
khán giả cũng như các kĩ thuật viên; ngay cả chỗ ngồi của người nhắc vở
còn bỏ trống, thậm chí còn như tỏa ra những làn hơi nước, những tiếng
sôi lục bục, những luồng gió lùa.
Nếu như có một người có thể tiếp nhận
những chuyện kể ấy, một nhân chứng của cái hoạt động cuồng nhiệt ấy, thì
chúng sẽ không thể xảy ra: người ta chỉ có những bản sao lại sau khi
câu chuyện đã kể; không có con đường “trực tiếp”, “những bản ghi chép”
chọn lọc một cách hậu nghiệm. Nói rộng thêm ra, sự ham muốn của giấcmơ
vào lúc nó biểu lộ ra thì nó cất tiếng để mà không nói gì cả. Sự việc
cất tiếng (việc phát âm) cần thiết với câu chuyện sau lý do tồn tại;
chính là bằng việc đã nói ra (đùa nghịch) mà nó hoàn thành số mệnh của
nó và biết được hình thái thỏa mãn duy nhất của nó: nếu như người ta
muốn thổ lộ thì nó biểu hiện ra bên ngoài và trút bỏ phần cốt lõi của
nó, nó không đợi chờ một ai đó đến trả lời nó hay bổ sung cho đầy đủ.
Điều quan trọng đối với vô thức nằm ở trong cung cách mà nó điều khiển
các diễn viên của nó diễn xuất, cường độ giọng nói và cử chỉ mà nó yêu
cầu các diễn viên thực hiện, những trò nhào lộn mà nó bắt buộc họ làm,
và một cách thức nào đó co kéo kịch bản của chúng vốn được học thuộc
lòng một cách đáng yêu. Phải nhìn thấy trong nó một sức mạnh và một hình
thái không phải là một bài biện luận, một lời thỉnh cầu, một bản tuyên
bố, một diễn văn khai mạc phiên tòa, và cũng chẳng hề là một tập hồi ức.
“Nó không hề tạo thành một bản biểu thị có tính xã hội cũng chẳng hề là
một phương tiện để tự bộc lộ” bản thân Freud nói vậy (NGP, 14). Từ giấc
mơ rút cục chứa đựng ba hiện tượng tách biệt: một xung năng ham muốn
(tràn ngập sự vật), một chuỗi đứt đoạn những trò diễn, và chuyện kể mà
tôi dựng lại về sau, về cái vở kịch câm ấy, tôi (hình như vậy) đồng thời
là gian phòng, sàn diễn, cầu thang, các diễn viên, nhà đạo diễn – những
ảo ảnh, những con rối, những nét khắc kỳ dị, những bóng tối…
Hãy để cho học thuyết phân tâm học cái
công việc liệt kê những xung năng tình dục và để cho người thầy thuốc
công việc mở lối cho một môn triệu chứng học; điều mà chúng ta quan tâm ở
đây và lúc này, đó là hoạt động của giấc mơ, nói cách nào đó giữa ham
muốn và chuyện kể của nó – một ham muốn không thể nói ra được, không bao
giờ có hình thái, mà cuối cùng “câu chuyện kể “của nó” sáng tác ra [8].
Bởi lẽ ở điểm này chúng ta gặp lại một hoạt động tâm lý mà chúng ta
không ngừng đo được những hiệu quả. Văn bản (như người ta hiểu chuyện đó
bây giờ) bao gồm hoạt động ấy và do hoạt động ấy mà có. Một loại độc
đáo của hoạt động, giống như nguyên liệu được sản sinh ra từng bước qua
công nghệ làm biến đổi chúng và tập hợp chúng lại để có được sản phẩm
cuối cùng (đó chính là cái mà người ta gọi là hiệu quả về sau) và một
loại độc đáo của bài văn, khi giải mã nó cung cấp một diễn ngôn, hay
đúng hơn diễn ngôn không địa chỉ, không có ý định sẵn, không có nội dung
cụ thể.
Cần
phải cân nhắc từng cái một trong số từ ngữ: khoảng trống mà chúng khoanh
vùng, bởi lẽ chúng là âm tính, đó chính là cái khoảng không mà việc đọc
sách sẽ hoàn chỉnh đầy đủ diễn ngôn văn học và ở đây tuyệt nhiên không
có trò chơi chữ nào. Không có người tiếp nhận rõ ràng: một cuốn tiểu
thuyết của Stendhal, ý đồ cho là nói về những năm 1820 và đã thú nhận là
chỉ có thể hiểu được nó “một trăm năm sau” không hề nhằm vào những
người đương thời cũng như những người Pháp, đặc biệt hơn là cả chúng ta
ngày nay hay một người Eskimo vừa mới biết chữ; công chúng của cuốn tiểu
thuyết là Con người, hay là bất kỳ ai biết đọc. Không có thông điệp:
chẳng cho một ai riêng biệt, thử hỏi liệu có thể là người ta đòi hỏi hay
dạy bảo bất kỳ điều gì không? Cuốn La Phèdre của Racine phải chăng muốn
chứng tỏ là niềm say mê là nguy hiểm, phải chăng đó là điều mà người ta
phải chất vấn cuốn sách. Nếu như đó chỉ là chuyện ấy, nó sẽ chịu chung
số phận của những cuốn chuyên luận dành cho việc giáo dục các thiếu nữ.
Không có người gửi đi: Bản thân Racine, phải chăng ông cho là có một mục
đích khác hơn là viết một vở bi kịch hay về một luận chứng nổi tiếng?
Một bài thơ không tự thu hẹp trong cái mà nhà thơ “cảm thấy”, cũng không
phải vào cái mà những hình ảnh “muốn nói”, cũng chẳng trong cái “ấn
tượng” mà một cá nhân như vậy sẽ phải cảm thấy khi bị đặt vào bước thăng
trầm của lịch sử.
Phép loại suy giữa giấc mơ và văn bản văn học, chắc chắn là Freud đã không tạo dựng như vậy: ông nói một ngôn ngữ khác, phần lớn ông là tù binh của một quan niệm khác về tác phẩm nghệ thuật (biết rằng, sub spécie acternitatis,
một ý tưởng sâu sắc được trình bày dưới những hình thức bề ngoài hài
hòa). Nhưng ông đã mở con đường đi tới việc viết lại giấc chiêm bao
thành những từ ngữ của văn bản và ngược lại. Nhất là, ông đã cởi bỏ
những quy tắc chuyển hóa, những quy tắc này được áp đặt cho cái
mà ông gọi là “những nội dung vô thức”. Bởi lẽ, Freud đã kế thừa từ thế
kỷ của ông một cách nhìn thực chứng và vật thể đối với những gì được
“ninh nhừ” trong cái “nồi hầm của bà phù thủy”, trong khi đó ngôn ngữ
hiện đại lại tìm cách xây dựng lại một tiếng nói khác, được nhấn mạnh
trong diễn ngôn tuân theo lô-gích của chính nó [9] (có nghĩa là trong diễn ngôn phổ biến). Những quy tắc chuyển hóa này hoặc những tiến trình nguyên cấp,
chúng ta hãy nêu ra một cách nhanh chóng: – Chúng có bốn quy tắc: 1)
chỉ công thức hóa cái gì có thể hình dung ra (thoáng thấy và nhất là
nhìn rõ): giấc mơ, giống như một cuộn phim câm, có thể kể ra, nhắc lại
những câu nói thực sự được phát âm nhưng nó phải chỉ ra cái mà nó kể
lại; 2) mọi đối tượng – người, địa điểm, vật – có thể tập trung nhiều
đối tượng khác ở hai đầu của đường dây chuyển hóa (một tập hợp cha, anh,
đối thủ, kể cả một nhân vật nữ; ngoài ra, cần có ba phụ nữ để vật thể
hóa khuôn mặt người mẹ); 3) cái chủ yếu nói chung bị chuyển dịch về một
vị trí phụ trợ, và một chi tiết nhỏ nhặt lại giữ vai trò chủ yếu; 4) lớp
màn tập hợp những yếu tố vô thức tỏ ra được nhào nặn một cách nguyên
cấp, cho nên phần lớn thường sơ sài, thành một kịch bản tự thuật hoặc bi
kịch (mà Freud gọi là “mặt tiền” của giấc mơ). Giả định rằng người bị
dồn đẩy, bị đặt dưới sự kiểm duyệt, không được quyền cất tiếng nói rõ
ràng và rành mạch, – bằng cái tiếng nói phát biểu về sự thật, là tiếng
nói của những quá trình thứ cấp như những quá trình mà Aristote đã mô tả
chúng dưới cái tên là những nguyên tắc lý tính – anh ta phải tự bày tỏ
thông qua bốn đường ống ngoằn ngoèo của cái nồi chưng cất là giấc mơ – ở
đầu ra, chúng ta đụng chạm tới một bài nói có vẻ là dị dạng và nhiều
khuyết tật, trên thực tế đã bị biến đổi và có những âm sắc khác đi: câu
nói ẩn ý, nói một chuyện kể hiển hiện đôi khi hết sức rối rắm nhưng luôn
luôn nổi tiếng là có thể giải thích được ngoại trừ đối với cái dấu vết
nhỏ bé ở đó có thể đoán định ra nguồn gốc của nó, cái “rốn” của nó
(Freud). Bởi lẽ, trong khuôn khổ của tâm thần, mọi thứ phải tuyệt đối
xác định rõ rệt, ở đó không có chuyện cho vấn đề may rủi, chỉ cần tái
biến hóa cái đã cho biết – nhưng dù sao vẫn cứ tôn trọng cái sẹo cũ, nó
phát hiện ra điều phỏng đoán.
2. Những mưu mẹo của ngôn ngữ
Cái hình
mẫu hoạt động này xuất hiện lại trong những kịch bản của mơ mộng (đó
chính xác là huyễn tưởng) cũng như trong những “huyễn tưởng vô thức”
được dùng làm “khuôn mẫu” cho mọi hư cấu, trong đó một đề tài thỏa mãn
lòng ham muốn của mình trên kiểu cách tưởng tượng bằng việc tự hình dung
điều đó cho chính mình. Một vài những tác động của nó, xuất hiện lại
tronglao động thi ca của ngôn ngữ, và nhân đó người ta có thể
nhắc lại từ ngữ đẹp đẽ của Baudelaire nói về “một tu từ học chiều sâu”.
Theo một nghĩa, những quá trình nguyên cấp tiến hành theo cùng một cách
thức như những chuyển nghĩa của truyền thống tu từ học: ẩn dụ, hoán dụ,
đề dụ v.v… ít nhất nếu không phải nói rằng tu từ học cổ điển, cho đến
một điểm nào đó, bằng việc phân tích các hình thái của diễn ngôn, đã tìm
lại được những cơ chế của ngôn ngữ mộng mị? Trong mọi trường hợp, những
công thức được sử dụng nhiều nhất, biết rằng những chuyển nghĩa dựa
trên một sự thay thế bằng dáng vẻ tương tự, tính kề cận, và phụ thuộc,
giữ vị trí chủ chốt trong mỗi hệ thống [10] và chính là như
vậy mà sự tích tụ tiến hành. Còn về việc chuyển dịch, nó chứa đựng nhiều
những ngón nghề mà các hình thái biểu đạt sử dụng (nói ám chỉ, ngoa dụ,
nói giản lược, nói ngược đời, nói giễu cợt, nói lửng v.v…). Sự việc là
như vậy người ta có thể kết hợp tu từ học và việc ngôn ngữ hóa một cách
cạnh khóe lòng ham muốn, khẳng định khuynh hướng rõ rệt trong ngành phân
tâm học Pháp hiện đại đã che giấu trong bóng tối, kiểu hình mẫu nhiệt
động học của Freud (chúng ta hãy nói bằng hình ảnh: dựa cơ sở vào những
nồi áp suất), để có lợi chomột cách xử lý các hiện tượng theo ngôn ngữ
học. “Vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ”, đó là một trong những
tiên đề nổi tiếng do Jacques Lacan đề xuất – tiên đề thứ hai nói: “Cái
vô thức là diễn ngôn của Kẻ khác”, điều cho phép nghĩ rằng chủ thể (Tôi)
hình thành như một diễn ngôn cạn nghĩa.
Nói cho đúng, học thuyết Lacan đã mở ra [11] một
sự tái định hướng do sự có sự nhấn mạnh của ông rằng phải gắn chặt sự
thực hành công trình nghiên cứu giấc mơ ấy với việc coi trọng chất liệu
tiếng nói. Quả thực, người ta không thể hoàn toàn chỉ dựa vào những sách
viết về giấc mơ, kể cả khi chúng có nhiều hơn mức người ta vẫn nghĩ
(1901: Giấc mơ và sự giải đoán giấc mơ; 1911: Việc sử dụng sử giải đoán các giấc mơ trong phân tâm học (trong TPS); 1915: hai trăm trang sách của phần hai cuốn Nhập môn phân tâm học; 1917: Bổ sung Siêu tâm lý học cho học thuyết về giấc mơ(MEY)). Có hai cuốn sách khác [12], vẫn là ở trong bước đầu sự nghiệp của Freud, nói về những hiệu quả của vô thức trong bài nói: Tâm bệnh học trong đời sống thường ngày (1901) và Lời nói dí dỏm trong mối quan hệ của nó với vô thức (1905).
Cuốn thứ nhất, một nửa dành cho việc
phân tích những hiện tượng liên quan đến ngôn ngữ. Người ta gặp thấy ở
đây hai đoạn nổi tiếng tái hiện lại những lý do vì sao bản thân Freud đã
không thể ngay tức thì tìm thấy một tên riêng (“Signorelli”, PVQ, 5-11)
và một trong số người đối thoại của ông cái từ nước ngoài mà
ông tìm cách nêu ra, “aliquis” (aliquis, ibid 13-16), cũng như một
chương nói về việc quên hẳn những thể từ và những chuỗi từ: bằng ấy cuộc
phân tích gợi cảm.
Đây là
vấn đề gì? Nói chung, từ cái mà một cái biểu đạt – theo nghĩa ngôn ngữ
học: tính vật chất âm thanh hay hình ảnh của một dấu hiệu, âm thanh hay
chữ viết – chấp nhận, dưới hình thái chính xác hay dưới một hình thái
gần giống, một cái được biểu đạt
– một giá trị của nghĩa mở rộng, tên gọi – cái được biểu đạt ấy vào một
thời điểm định sẵn, sẽ không có thể tiếp nhận được bởi ý thức và tức
khắc bị đẩy lùi, tuy rằng ngữ cảnh và đoạn câu còn lại gọi nó đứng vào
vị trí của nó. Một nữ thanh niên áo trong một câu lạc bộ nam giới muốn
gợi lại cuốn tiểu thuyết tiếng Anh mà cô ta vừa hoàn thành và nói về
Chúa Jêsu: đó không phải là Quo vadis? Đó là của Lewis Wallace… người ta
đã có thể xác định là Ben-Hur; vậy mà, âm thanh Hur gần với từ tiếng
Đức Hure (đồi bại) và đọc từ ấy lên sẽ có thể tưởng như là một lời mời
gọi tính dục, điều trước kia là vừa trơ trẽn vừa láo xược. Trường hợp
những tiếng nói nhịu lại còn điển hình hơn nữa, cũng không khác đi là
mấy. Thay vì một lỗ hổng trong lời nói, đó là một khách không mời mà tới
xuất hiện và phản ánh – sai lệch một nguyện vọng, một cuộc chiến, một
nỗi lo lắng không nói ra được. Một quý bà than phiền rằng chị em phụ nữ
đã phải chi phí cả một kho báu tài khéo léo và sự chăm sóc để làm vừa
lòng đàn ông miễn sao họ không đến nỗi quá xấu xí “lúc này – bà nói với
cử tọa đang sửng sốt, miễn là họ có đủ năm ngón tay…” (nếu hiệu quả như ý
muốn, người ta sẽ có một câu chuyện vui đùa, cợt nhả!) Nói nhịu, phải;
nói nhịu calami? cũng vậy. Viết thư cho nhà phân tích của mình, một
người Anh cho rằng những cơn chóng mặt của mình là do một luồng gió lạnh
đáng nguyền rủa, nhưng thay vì “that damned frigid wave’, ngòi bút của
anh ta lại ghi một cách nghịch ngợm “wife”: tội phạm chính, đó là cô vợ
lãnh đạm. Những sai lầm trong đọc sách cũng tương tự. Một người lýnh đọc
một bài thơ yêu nước: những người khác đi “chết cho tôi” trên tuyến
đầu, và tôi, tôi sẽ ở lại hậu phương nơi đây ư? “Tại sao không?” – lẽ ra
là “Tại sao là tôi?” (“Warum denn nicht?” /Warum denn Ich”?). Mỗi một
lần nhầm lẫn như vậy là do Kẻ khác trong diễn ngôn nội tâm hay biểu đạt
ra ngoài đã nói lên sự thật về lòng ham muốn của tôi bằng cách lợi dụng
cái khả năng do người biểu đạt cung cấp để thực hiện một động tác len
lỏi (đó chính là nghĩa thứ nhất của từ nói nhịu) và sự việc là các ví dụ
ấy được vay mượn trong cuốn sổ ghi chép của tiền ý thức – có nghĩa là
vay mượn ở cái gì tạm thời nằm ngoài lĩnh vực của ý thức nhưng có thể
quay lại nơi ấy – cũng không thay đổi được gì trong câu chuyện, – và
trên những trò chơi của âm thanh ấy, người ta thừa biết điều đó, thơ ca
không ngừng dựa vào đó để nói nhiều hơn là những gì đã nói ra; vậy là
những từ ngữ có vần phải chăng là gần gũi do tính đồng nhất bộ phận với
những âm thanh và tiếng vang ấy kích thích một cái chạm nhẹ hay là một
cuộc gặp gỡ của những ý nghĩa.
Tác phẩm thứ hai có tính phổ biến nhằm vào đối tượng là lời nói dí dỏm “Cuốn sách của tôi nói về Wiz là
thử nghiệm đầu tiên áp dụng phương pháp phân tích vào những vấn đề của
mỹ học” sau này Freud sẽ nói như vậy (CLP.113). Theo một cung cách có
phần lộn xộn và đôi khi phỏng chừng, như mới đây Tzvetan Todorov [13] đã
phát hiện điều đó, – bởi lẽ ông đã không có trong tay những khái niệm
cũng như những kiểu phân loại của những nhà tu từ học hiện đại được
trang bị ngôn ngữ cấu trúc – Freud tích lũy một số lượng gây ấn tượng
những ví dụ về những từ ngữ đẹp, với ý định công khai là thử nghiệm xem
liệu có phải “những đề xuất gợi ý bởi việc nghiên cứu các giấc mơ có
thực sự được khẳng định bởi việc nghiên cứu tinh thần hay không” (MRI
255).
Bộ sưu
tập những câu chuyện ngộ nghĩnh ấy, người ta cảm thấy là tác giả vui
mừng được sáng tác và nêu ra, thậm chí bất chấp mọi lo lắng phải giải
thích: ông cung cấp cho chúng ta một tuyển tập thật sự về những câu
chuyện ấy, đặc biệt là về những câu chuyện của người Do Thái, bởi lẽ
những câu chuyện ấy làm cho ông xúc động mãnh liệt. Tuy nhiên, trên thực
tế ngay từ bản thảo thứ nhất hoàn thành, ngay ở những trang sách đầu
tiên, hình như mọi chuyện đã rõ ràng. Nhà thơ Heine, trong một màn kịch
đệm, đưa ra một nhân vật tiểu thị dân khoe khoang rằng một hôm anh ta
được ngồi gần nam tước Rothschild, nam tước “đã đối xử với anh ta theo
một cung cách hoàn toàn thân thiết của một nhà triệu phú”
(famillionnaire) – anh ta nói vậy. Từ này là sản phẩm của sự tích hợp,
ghép nối những tính từ familier (thân thiết) và millionnaire (triệu phú;
xung quanh một âm tiết chung: mil… đó là cái mà người ta gọi là một từ
ghép chung, một cách thức thông dụng và phong phú. Trong chuyện này, đâu
là hoạt động của vô thức? Freud đã gắng sức giải thích với chúng ta vì
sao Heine đã không sáng tạo ra một cách hầu như ngây thơ một từ thông
minh kiểu đó, kể cả nếu như một cách có ý thức, nhà thơ cũng chỉ muốn có
được một hiệu quả khôi hài trong cái trang sách ấy của cuốn Những quang cảnh của chuyến đi.
Nói đến đặc điểm tinh thần cũng như giấc mơ giả định do một nhà tiểu
thuyết hay một nhà viết bi kịch tưởng tượng ra rằng không thể nào xử lý
khác với một giấc mơ được chép lại “từng từ một” trong một cuốn sổ thầm
kín: cho rằng người ta có thể sắp xếp mọi mẩu nhỏ của một giấc mơ dành
riêng cho một hoàn cảnh hư cấu, người ta sẽ mắc lừa bởi lẽ, kinh nghiệm
đã cho thấy điều đó, giấc mơ ấy được tái hiện lại phục vụ cho một nhân
vật cũng chứa đựng những ý nghĩa vô thức như một giấc mơ thực, hay rằng
phần còn lại của vở kịch và cuốn tiểu thuyết (chúng ta sẽ trở lại vấn đề
này sau). Nói cách khác, trong trò chơi chữ này, chúng ta sẽ gặp một
kiểu tích hợp vốn không trở lại thường xuyên trong giấc mơ như những
nhân vật chồng chất lên nhau hoặc những đồ vật hỗn độn (theo kiểu
Chimère), nhưng kiểu tích hợp ấy giả định sự can thiệp của cùng một tiến
trình: hai thành tố hoàn toàn của lời nói được tập trung lại. Cách viết
rút gọn được chuyển vào sự cấu tạo từ ghép có hai hiệu quả: nó phản ánh
những vấn đề tài chính của nhà thơ Heine (vốn biết quá rõ được đối xử
thân thiết bởi một nhà triệu phú có nghĩa là gì) và mặt khác, nó làm nảy
sinh một nụ cười ở người nào đó hiểu được tầm cỡ trào phúng của câu nói
đùa này [14].
3. Trò chơi chữ
Chúng
ta sẽ không nhấn mạnh đến những lý do kinh tế dâm dục mà theo Freud đã
bào chữa cho hiện tượng được giải tỏa nhờ tiếng cười, sự điều hòa những
căng thẳng nằm ngoài vấn đề của chúng ta. Chúng ta cũng không đi sâu
thêm vào những tinh tế đa dạng vốn cho phép xếp bên cạnh từ hỗn hợp
những từ đảo ngược, phỏng chừng, bóng gió, chơi chữ, và những nhầm lẫn
khác trong lý lẽ: Todorov đã xem xét lại một cách thích đáng những phân
biệt của nhà phân tâm học, ông đã sắp xếp lại trật tự vốn từ vựng quá
mức của nhà phân tâm học. Dù sao, ông cũng có phần nào kết tội Freud là
theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa tinh hoa (op. cit. 314)
vì đã ghi chép rằng những trò chơi chữ này trước hết là đặc tính của
những người nguyên thủy, những đứa trẻ, những người mắc tâm bệnh, kể cả
những người say rượu. Quả thực người ta đọc được như sau.
“Đặc tính chủ yếu của từ dí dỏm,
chúng ta đã tìm thấy điều đó, theo phép loại suy liên quan với việc cấu
thành giấc mơ, trong một thỏa hiệp được sắp xếp bởi việc cấu tạo “tinh
thần”, giữa những đòi hỏi của sự phê phán lý tính và xung năng thúc đẩy
việc không chối bỏ cái niềm thích thú có trước ấy vốn gắn liền với câu
vô nghĩa và trò chơi chữ” (MRT, 314).
Ngoài ra Freud tuyên bố rằng ông thấy
dễ dàng “trong một tập hợp hỗn tạp những yếu tố tu từ học”, trong việc
“kết phối các từ và các ý tưởng mà không quản ngại đến ý nghĩa của chúng
“hơn là trong việc sử dụng chúng một cách lôgíc, có trật tự, nghiêm túc
(189). Tựa như việc trở lại với những niềm vui ban đầu ấy cắt đứt một
nhận thức nào đó về hoạt động “tiêu biểu” và tựa như một mặt Freud cho
rằng sự phong phú của các biểu tượng “có thể được gán cho một bước thoái
lùi cổ xưa trong bộ máy tâm lý (NCP, 29), Todorov, đến mức hiểu lầm về
từ thoái lùi và gán cho nó một giá trị xấu xa [14], kết luận về một thứ bệnh cận thị dẫn dắt nhà lý thuyết đi tới chủ nghĩa vị kỷ và chủ nghĩa vị tộc (dân tộc trung tâm).
Quả thật,
và đây là một trong những bài học chủ yếu của cuộc khảo sát về những
hình thái của đường nét trí tuệ, nếu như có một khoái lạc của những trò
chơi chữ, thì biểu hiện của nó phải ở con chữ: trò chơi chữ tạo ra khoái
lạc. Bởi lẽ, khi còn là con trẻ, chúng ta từng được tự do chơi chữ và
thích thú với chuyện đó. Một trong những hình thái của tiến trình nguyên
thủy, chúng ta đã nhìn thấy nó qua việc đi từ giấc mơ đến lời dí dỏm,
đó là nhầm lẫn hay đúng hơn là không phân biệt các từ và các vật, những
hình ảnh qua câu nói và những hình ảnh cụ thể. Những sự thực vật lý
thường hay hiện hữu trong ảo ảnh ở mọi trường hợp hình ảnh của chúng
được tưởng tượng ra lại không phải là tưởng tượng theo nghĩa của hão
huyền: đối với đứa trẻ, chiếc ghế là một con tàu: gian phòng là đại
dương v.v… Những thực thể qua lời nói, đối với nó không phải trước hết
là cái nghĩa ló ra một cách phập phù qua một âm thanh định sẵn mà là
những đồ vật vật chất thực sự, chúng chui vào lỗ tai, được viết ra với
những khối hình, bước ra từ cửa miệng hay từ đôi bàn tay, liên quan đến
những hoạt động của cơ thể, thâm nhập vào một sơ đồ xúc cảm, thậm chí
bám rễ sâu vào da thịt (xem phân tích của “Fort / Da”, EDP, tr. 15-19).
Với những vật trong đầu và những từ ngữ
giữa các ngón tay, một đứa trẻ tự xây dựng nên những thế giới mà chúng
ta coi đó là những trò chơi tốt – hay không tốt? – Có khi chúng ta tuyên
bố là khó hiểu và vô bổ. Nhưng đó là tất cả với trẻ em, đó là trò chơi
và là sự thiêng liêng. ở đó vô thức nói, trái tim rộng mở và miệng ngậm
chặt.
Và tất cả cái đó không mất gì cả. –
Ngược lại, cái đó mang lại – khoái lạc, hạnh phúc được tái sinh những
thú vui tiền sử, thú vui có trước ý thức và có trước việc đo đếm thời
gian. Điều đó diễn ra một cách tự nhiên, kể cả khi phải có một cố gắng
lớn, thì trong niềm hưng phấn của đứa trẻ ngây thơ (vừa mới sinh), sự
nhọc nhằn đối với nó là không đáng kể, bởi lẽ đời sống vật chất của nó
do Người khác chăm lo. Cần phải trở lại vói kích thước dâm dục, có nghĩa
là giới tính theo nghĩa của Freud, của tất cả những trò chơi này.
Sau
đây là điều mà Todorov quên, sau khi đã tôn vinh Freud với cuốn “Lời nói
dí dỏm” là “tác phẩm ngữ nghĩa học quan trọng nhất trong thời đại của
ông”, thì lại nhận xét rằng, Freud “đã mô tả các hình thức của toàn bộ
quá trình tượng trưng, chứ không phải của một chủ nghĩa tượng trưng
vô thức” (op. cit 316), rồi lại còn đặt vào cùng một bình diện sự giải
thích phân tâm học và chú giải học Thiên chúa giáo (ibid, 320). Thật là
một méo mó nghiêm trọng. Bởi lẽ nói rằng cái vô thức theo kiểu Freud sẽ
được tạo thành bởi các loại sơ đồ và cổ mẫu được bố trí một cách tiên
nghiệm ở trung tâm của con người để tỏa sáng nhiều mức tùy theo các lĩnh
vực hoạt động của người đó (nhận thức, vận động, ý nghĩa nội tại v.v…
xem Gilbert Durand), đó là tái sáng chế một siêu việt, đó là chôn vùi
trong “linh hồn” những ý niệm mà Platon đặt ở trên trời; và xuất hiện
hình bóng bí hiểm của Jung, nhà tiên tri và nhà siêu hình học của cái
gọi rất đúng là “tâm lý học những chiều sâu”. Phân tâm học, học thuyết
của Freud, không thể rời bỏ Vô thức và tính dục – hay nếu như ta muốn
gọi bằng một cái tên khác là Ham muốn – không thể tách rời được, bởi lẽ
chúng cùng nảy sinh và tạo thành một cặp đôi – trong lịch sử các ý tưởng
cũng như trong lịch sử của mỗi con người. Mọi sự đọc Freud mà lãng quên
hay bỏ qua một trong hai từ đó hay sự kết nối của chúng thì đều là gian
lận.
Để khẳng định, đây là một trích đoạn dài sẽ dẫn chúng ta quay về với khái niệm, chủ yếu đối với chúng ta là thái độ chơi đùa:
“Mọi
đứa trẻ khi chơi đùa cư xử như một nhà thơ (ngày nay chúng ta sẽ nói:
nhà văn) với ý nghĩa là nó tự tạo cho mình một thế giới, hay chính xác
hơn, nó chuyển dịch những đồ vật của thế giới mà nó đang sống theo một
trật tự mới phù hợp với nó [...]. Nó coi trò chơi của nó là rất nghiêm
túc, trong trò chơi ấy nó sử dụng những khối lượng xúc cảm lớn. Cái trái
ngược với trò chơi không phải là cái nghiêm túc, mà là cái thực tế
[...]. Không có bất cứ thứ gì ngoài những chỗ dựa ấy [do các đồ chơi có
thể sờ mó được cung cấp) có thể phân biệt được trò chơi của đứa trẻ với
“giấc mơ tỉnh thức” [huyễn tưởng]” (EPA. 70).
Điều khẳng
định là huyễn tưởng được gợi lên qua sự mơ mộng ban ngày chỉ có nguồn
gốc và ý nghĩa thực sự là tình dục: giấc mơ, trò chơi, tác phẩm hư cấu;
huyễn tưởng là sự biến dạng đã hoàn tất của một ham muốn bị dồn nén – và
mọi ham muốn vô thức “có xu hướng tự thực hiện bằng việc thiết lập lại
theo những luật lệ của tiến trình nguyên thủy những dấu hiệu gắn liền
với những kinh nghiệm đầu tiên của sự thỏa mãn” (VLP, 120), điều này đưa
chúng ta trở lại với những mối quan hệ tính dục mà hài nhi (đứa nhỏ còn
chưa biết nói) đã duy trì với mẹ nó thông qua cơ thể tính dục hóa của
mẹ nó. Tóm lại, chơi đùa chính là chơi lại những trò chơi đã quên lãng
và bị ngăn cấm, chính là sự “thích thú” được nhắc lại và lặp lại những
hưởng thụ đã đánh mất. Chơi đùa với các cơ quan của cơ thể cũng thú vị
như với các đồ chơi, bạn bè, các cấu trúc cú pháp phức tạp hay các từ
ngữ. Và chính bởi vì là một bộ phận của trò chơi mà văn học một mặt nổi
danh là chẳng giúp ích cho cái gì cả, mặt khác bao giờ cũng mang đến
những khoái lạc khó tả.
Nhưng văn học là một trò chơi nhọc
nhằn: cái nghiêm túc chủ trì việc sáng tạo ra nó càng đòi hỏi nhiều sức
lực hơn, những công trình của nó phức tạp hơn. Bởi lẽ đây là (tất nhiên
là một cách vô thức) việc xóa đi những dấu vết của quá trình nguyên thủy
bằng cách dìm sâu nó vào giữa những quá trình thứ yếu vốn tỏ ra là ít
hay nhiều bị lung lay. Nhà văn thường thường làm việc trong một ngôn ngữ
phù hợp với các cách sử dụng ngữ pháp của đại chúng, một diễn ngôn nửa
phần là hợp lý và hầu như bắt chước, so với những điều kiện của hiện
thực; nhưng nếu nhà văn đi theo những diễn đạt “tự do”, nếu anh ta có
quyền có một cái nhìn “phóng túng” về các vật, v.v… thì người ta biết rõ
rằng đó là những đòi hỏi của “nghệ thuật”. Không có sự dấn thân của
toàn bộ con người, không có sự vận dụng trí thông minh, một trình độ văn
hóa của nhà văn, và cũng cả không có “một chút điên rồ”, khiến cho
trước con mắt công chúng nhà văn là một thứ trẻ con lớn tuổi hay là một
tai họa không tự vệ được, thì cũng không có thể có cái đẹp. Để có hiệu
quả và được biết đến, một văn bản văn học không được xuất hiện hoặc quá ư
công thức hoặc hoàn toàn đùa giỡn: văn bản cần có một tỉ lệ thích hợp
giữa cái chính thức và cái ngoại lệ mà phần lớn các độc giả sẵn sàng
nhất trí dành cho tuổi ấu thơ của chính họ; họ thích những sự chênh
chệch lớn và tiếp nhận chúng với niềm vui, với thiện cảm, tránh khỏi mọi
lo ngại. Mỗi người tự nhớ lại cái thời trong đó anh ta sống thực với
những ham muốn của mình, trong đó ngôn từ làm ra thế giới, thời gian là
chiếc gậy của nàng tiên và tấm thảm bay, tóm lại, thời của ma thuật.
Ma thuật,
nói cách khác là “sự toàn năng của tư tưởng” từ lâu được cấu thành với
nguyên tắc của sự thật. ở người lớn tuổi văn minh, mà ngay cả những trò
chơi với họ cũng thiếu vắng tính phóng túng và vô tư thì chỉ còn biết có
hai nơi mà ở đó còn sót lại sự tự do của điều vô nghĩa, mà ở đó tinh
thần phê phán của anh ta còn tha thứ cho tình trạng trung hòa: đó là sự
hài hước và nghệ thuật.
IV. Đọc con người
Người ta
chuộng đi từ cái có vẻ ít đặc biệt nhất trong văn nghệ tới cái minh định
nó tức thời nhất, từ những nội dung phổ quát tới những vận hành bí mật
của nghề viết.
“Người
ta thấy miền tưởng tượng là một “kho chứa” được hình thành khi có sự
chuyển đổi đau đớn từ nguyên lý khoái lạc sang nguyên lý thực tế nhằm
tạo ra cái thay thế cho sự thỏa mãn xung năng mà cuộc sống buộc phải từ
bỏ. Người nghệ sĩ giống như người loạn thần kinh, anh ta tự rút vào thế
giới tưởng tượng ấy, cách biệt khỏi cái hiện thực không làm anh ta thỏa
mãn. Nhưng khác với người loạn thần kinh, người nghệ sĩ biết cách làm
thế nào tìm lại được con đường hiện thực vững chắc. Các tác phẩm của anh
ta là sự thực hiện tưởng tượng những khát vọng vô thức giống hệt như
những giấc mơ. Vả chăng, giấc mơ và tác phẩm có điểm chung đều là sự
thỏa hiệp, vì cả hai đều phải tránh đương đầu trực tiếp với các lực dồn
nén. Tuy nhiên, trái với những sản phẩm giấc mơ phi xã hội và mang tính
tự si, tác phẩm sáng tạo của nghệ sĩ bộc lộ khả năng khơi gợi mối đồng
cảm ở những người khác, đánh thức và làm thỏa mãn chính những khát vọng
vô thức ấy nơi họ”. (S. Freud, MVP, 80.)
Cho tới
đây, chúng ta đã cố nhìn xem xuất phát từ những giả thiết nào, với những
công cụ tiếp cận nào, ở bối cảnh chung của các quan hệ giữa người với
người nào mà lý thuyết của Freud có thể sẽ đưa việc nghiên cứu về những
vấn đề do mỹ học văn học nêu lên đến một vài kết quả; đấy chỉ là vấn đề
về những điều kiện của nghệ thuật, về quá trình sản sinh và hoàn thiện
nó chứ không phải về những tác phẩm tạo nên nền văn học, những tác phẩm
vốn đã được và vẫn đang thực sự được sáng tác và công bố. Phần những
công trình phân tâm học dành cho các tác phẩm viết lại càng nhiều hơn và
đáng quan tâm hơn. Một lần nữa, chúng ta lại thấy Freud mở đường. Nhưng
con người thiên tài này tuy khơi mào lên toàn bộ mảng nghiên cứu, song
ông lại không quan tâm với sức nặng tương ứng đến các linh cảm của mình.
Trải suốt hai chục năm, các tác phẩm của ông không chủ trương vạch lại
quá trình phát triển tư duy nghệ thuật,
cũng không chủ trương chỉ ra các ưu tiên. Lịch sử phân tâm học thời ông
và sau ông được định hướng tốt hơn. Tóm lại, trừ Freud ra, ở đây hình
như người ta sẵn lòng xác định ba loại quan tâm, ba trung tâm lợi ích
được khai thác không đồng đều tùy thời kỳ, đó là: Con người, một người,
và các tác phẩm.
Người ta
chuộng đi từ cái có vẻ ít đặc biệt nhất trong văn nghệ tới cái minh định
nó tức thời nhất, từ những nội dung phổ quát tới những vận hành bí mật
của nghề viết. Giống như nhát cắt kín đáo đánh dấu xung quanh môi trường
thế kỷ, được gắn với sự phát triển của tư duy cấu trúc luận, hoặc ít ra
được gắn với những phương pháp phân tích cấu trúc: hiện tượng luận
về những trải nghiệm tâm lý đã nhường bước cho tổ hợp của những quan hệ
năng động đang hợp nhất các đơn vị rời rạc mà người ta tách biệt ra
trong các sự kiện của nhân loại. Phân tâm học không xa lạ với biến đổi
mới này, nó tác động đến trường kiến thức và người ta đã dán cho nó nhãn
hiệu “cái chết của chủ thể”, bởi vì con người bị truất ngôi, bị tước
đoạt chủ quyền mà anh ta được mặc nhiên thực thi trên thực tế bên trong
và bên ngoài con người anh ta. Có nhắc lại như ở thời cổ điển cũng không
thể được: “Tôi là chủ của tôi và cũng là chủ của thế giới”, Freud, Marx
và Nietzsche, các “triết gia hoài nghi” đã vượt qua khỏi chỗ đó (xem
Michel Foucault), còn các khoa học nhân văn (xem Cl. Lévi-Strauss hoặc
Edgar Morin) thì đang sa vào lỗ hổng.
1. Con người và biểu trưng
Chương
này được đặt tên là “Đọc Con Người”, vậy thì nghịch lý ở chỗ nào? Rất
đơn giản, bởi vì tên gọi này viết bằng chữ hoa, có vẻ là thứ duy nhất
dùng để nhóm họp lại cái điều nằm giữa lý thuyết về bộ máy tâm trí hoạt
động trong bộ nhớ mỹ học và những hiện thực hóa riêng biệt của nhà văn.
Một cách cụ thể hơn, khoảnh khắc đó sẽ làm chuyển đổi toàn cảnh những
phương thức tiếp cận khác nhau về đối tượng văn học nói theo nghĩa hẹp
(tức là nhà văn và văn bản). Chúng ta sẽ gặp bốn đề mục: truyện kể mẫu,
típ và môtíp, thể loại văn học,
mô hình hình thức. Để chốt lại ý tưởng, có thể đưa ví dụ: truyện thần
tiên, trường hợp Don Juan, truyện huyễn tưởng, sự nhấn mạnh một ẩn dụ.
Những phạm trù mà Gérard Genette (Palimpsestes [15], Seuil, 1982) muốn
gọi là phạm trù xuyên văn bản, bởi vì văn bản và nhà văn đặt chúng vào
trong tác phẩm, khai thác chúng, trông cậy vào chúng với một cách thức
hay một cường độ độc đáo. Chúng không phải là cái đặc hữu của một thời
đại, một ngôn ngữ, một cá nhân hay một truyện kể duy nhất nào cả; chúng
không có dấu hiệu nguồn gốc; không thể gán việc phát minh ra
chúng cho một ai đó cụ thể. Tóm lại, có thể nói chúng thuộc tài sản
tượng trưng của nhân loại, với tất cả những đặc tính khả biến. Do chúng
không ngừng được lấy lại, viết lại, sử dụng lại, chúng được ghi vào cái
truyền thống, như người ta nói, đang tan biến vào màn đêm thời gian, và
cũng như người ta có thể sẽ nói, đang tan biến vào màn đêm cái vô thức.
Hai vấn đề
nổi lên khi nói về những giá trị chung đối với nhân loại. Nếu thấy
người ta có vẻ như quên chỉ rõ các nhân tố tư tưởng cụ thể xác định nên
thời gian và phạm vi ảnh hưởng của văn hóa, các nhà sử học, nhất là nhà
sử học mác-xít nghiêng về nghi ngờ một quan điểm ý hệ, liền bác bẻ: thứ
“nhân loại” đó là cái gì vậy? Mặt khác, nếu anh tìm kiếm những “giá trị
chung”, anh sẽ giết chết tính độc đáo làm nên cái giá của tác phẩm nghệ
thuật, các nhà văn học thuần túy sẽ phản kháng như vậy; họ lo ngại thấy
ngay cả ý tưởng về cái đẹp thông qua tính đặc sắc của thiên tài cũng bị
xem xét lại, nhưng họ quên mất rằng theo họ sự khác biệt là ở vấn đề
“phong cách”, cách xử lý đề tài hơn là về nội dung (mà họ liên hệ với
con người của thời nhân loại cổ điển dễ dàng hơn là với con người của
thời vật chất hữu tính). Chúng tôi sẽ không quay trở lại những cuộc công
kích diễn ra công khai nhiều lần ấy nữa, trừ khi đáp ứng cách lập luận
như vậy; với những cuộc công kích đó, dễ dàng chỉ ra cho họ cái nguồn
gốc của họ – phân tâm học cáo giác họ như những kẻ chối cãi [16]; chỉ
cần một vài từ để hiệu chỉnh là đủ. Trước khi phát triển khả năng kỹ
thuật, cái làm nên Con người chính là sự xuất hiện ước muốn ngoài lề,
phụ thêm vào cái nhu cầu. Đứa trẻ sinh ra non nớt, cần phải quan tâm đến
nó trong suốt thời gian mười hai năm trước khi nó đủ khả năng tự sống
sót được. Có lẽ bí mật những tình cảm gắn bó đặc thù của đứa trẻ là ở
chỗ đó; những gắn bó đòi hỏi phải có chế định về cấm kỵ loạn luân – đây
là điểm duy nhất qua đó đời sống tâm lý sâu thẳm được gia nhập vào một
câu chuyện chỉ liên quan chút ít với cái Lịch sử chung, bởi vì tất cả tự
diễn ra giữa đứa con và cha mẹ. Cái Vô thức vận hành một cách hiển
nhiên bằng thứ ngôn ngữ tuân theo những điều kiện về không gian và thời
gian, còn các quá trình sơ khởi thì lại mang tính “phi lịch sử”, chúng
không biết tới thời gian có tính định hướng (quá khứ – hiện tại – tương
lai). Mặc dù cái siêu tôi tích hợp những yếu tố riêng vào mỗi cơ cấu văn
hóa, nhưng hoạt động của nó lại phụ thuộc vào một cơ chế bất di bất
dịch; cái ấy được hình thành từ những xung năng cũng ổn định như cái nền
tảng sinh lý; còn cái tôi thì với nghị lực độc lập bền bỉ, tác động và
bảo vệ các phương tiện thực hành mà nó trông cậy để xác định vị trí cho
mình trước thực tế. Kể từ những tiếng vang đầu tiên của Malinowski, cuộc
tranh luận “tính văn hóa” của phân tâm học đã diễn ra dai dẳng và các
nhà xã hội học ngày nay công kích “thói duy phân tâm học” (như một sự
ứng dụng ở phương Tây) nhiều hơn là công kích vào lý thuyết về Vô thức.
Về phía phân tâm học, sự nghi ngờ của các chuyên gia văn học đối với chủ
nghĩa Freud gắn với thành kiến chung chống lại những môn khoa học không
phải là lịch sử (với nhiều biến cố) và ngữ văn; người ta tiếp tục gợi
lên rằng động cơ và ý nghĩa của khát vọng có nguồn gốc tính dục là ít
nhiều làm mất phẩm giá, mất nhân tính; đôi khi nhân danh một thứ chủ
nghĩa duy lý quá đà và với một nhiệt huyết của kẻ ngu dân, người ta chế
giễu mọi mưu toan nhằm thoát khỏi việc nhắc đi nhắc lại tâm lý và tiểu
sử một vị thánh, vốn chỉ rặt nói về Niềm say mê, Giá trị, Lý trí bằng
ngôn ngữ Aristote, người ưa thích nói rông dài về cái Thần bí và Vinh
quang của một vị Thần mà ta không chạm tới được bởi vị Thần đó là thiêng
liêng, hoặc để cho vị Thần đó vẫn là thiêng liêng… Nghiêm trọng hơn,
người ta sợ cái ý tưởng cho rằng các Văn bản có thể không có một nghĩa
(tốt) cố định mãi mãi (“việc đời được chia sẻ tốt hơn chăng”?) nhằm đảm
bảo sự cao thượng của chúng ta cũng như tạo thuận lợi cho những giải
thích lòng vòng của chúng ta. Và người ta ghê tởm phải gắng trang bị một
cỗ máy khái niệm “mới”; với sự trợ giúp của cỗ máy đó, công cuộc nghiên
cứu Văn học có lẽ sẽ tiến bộ, một Văn học vốn hiến dâng làm nơi sùng
tín cất giữ những khái niệm và tư tưởng vĩnh hằng: cái nơi cất giữ đó
gần đây có lẽ chuyển thành bãi rác công cộng, thậm chí thành nơi quàn
xác chết.
Những
người ủng hộ một nhân học thực chứng phỏng theo chủ nghĩa hành vi hay
chủ nghĩa duy vật lịch sử trước kia, cũng như những người vẫn gắn bó với
quan niệm nhân văn của sự kiện văn học, thảy đều chối từ nguyên lý về
hoạt động tượng trưng hóa không tuân theo các quy luật về trao đổi đơn
thuần và có quy tắc. Quan điểm phân tâm học khiến họ phát hoảng vì nó
buộc họ không được suy nghĩ bằng ngôn từ mã hóa nữa, thậm chí còn không
được hình dung rằng con người là chủ nhân các mã “của họ”. Quả thực là
tiện lợi nếu thế chỗ cái so sánh bằng cái được so sánh của nó; cũng
không kém phần xác thực rằng tính tương đương tạo nên lý thuyết về ký
hiệu (và những việc làm mang tính chất “ký hiệu học”) lại vô giá trị ở
kiểu loại tượng trưng và rằng cần chấp nhận chữ diễn dịch (interpréter)
khi định từ bỏ chữ dịch thuật (traduire). Về thực thể Cái vô thức, đối
với một chủ thể không bao giờ tồn tại, thì ở nơi mà người ta tin là có
nó, ngôn từ được tuôn ra vô tận bởi ý nghĩa mà nó hứa hẹn – cái ý nghĩa
chỉ xấp xỉ đạt được, chỉ gần vượt qua được trong cuộc sống thường ngày
(và theo cách tạo thỏa mãn trong bối cảnh siêu mã hóa của kỹ thuật). Sự
can thiệp của người nói và của người nghe ở môi trường thông điệp giả
làm rối nhiễu toàn bộ hiệu quả của ngôn ngữ, về nguyên tắc được dành để
trao đổi thông tin. Một chút ẩn dụ làm sai lệch nghĩa trong xu hướng sa
đà không sao dừng lại được, vậy làm thế nào để ẩn dụ trở thành trung
tính?
Chúng ta
hãy lấy ví dụ câu đố nổi tiếng mà Oedipe đã giải được. Con quái vật
Sphinx – mà người Pháp bảo là giống đực, người Hy Lạp và La Mã cho là
giống cái, người Ai Cập thì lưỡng lự về giới tính của nó, chúng ta hãy
cứ chấp nhận rằng điều đó không quan trọng -, quái vật hỏi “con vật nào
buổi sáng đi bằng bốn chân, buổi trưa đi bằng hai chân, còn buổi chiều
đi bằng ba chân”; Oedipe, người khôn ngoan, đoán ra đó là “Con Người”,
trải qua các giai đoạn trẻ con, người lớn, rồi về già phải chống gậy.
Nhà huyền thoại học [17] diễn giải lại theo kiểu mã vũ trụ như sau: Con
người giống như Mặt trời (mọc, thiên đỉnh, lặn), vua-pharaon là một vị
thần. Nhà phân tâm học sẽ nói: hẳn rồi, nhưng chúng ta cũng đọc thấy:
đứa bé con, đứa trẻ vô giới tính giai đoạn ẩn tàng [18], cậu thiếu niên,
trong đó, thành phần thứ ba đồng thời vừa là cây gậy tình cờ trên đường
đập vào ông bố, vừa là cái dương vật để sở hữu bà mẹ (Oedipe đã tỏ rõ
điều đó), lại còn là cục phân thải ra để nịnh mẹ nữa, kể cả đứa trẻ được
ông bố đón nhận và chờ đợi, cuối cùng, một thành phần mà người ta có
thể bị tước đoạt và thế là v.v. Đối với người dựa trên các nền tảng lý
thuyết Freud, toàn bộ việc hình thành yếu tố tượng trưng đều nằm dưới
dấu hiệu của cái này, bởi vì, luôn luôn có một cái khác để thay thế, để
đưa vào trong hàng loạt các điều thêm thắt.
Sự giải
thích không ngừng được lấy lại và bắt đầu lại, nó bất tận như sự phân
tích trị liệu. Và cũng giống như sự phân tích đó, người ta chỉ tạm ngưng
giải thích khi đạt được sự thỏa mãn tạm thời, trong mọi trường hợp tạm
thời, về một cái gần như tạm thời, bởi vì, rốt cục thì vào cuối câu
chuyện, cả hai đều sẽ vấp phải cái công thức không rõ ràng về ham muốn
nguyên thủy, cái rốn của huyễn tưởng. Để thuận tiện, người ta thường
dừng việc giải thích và phân tích ở một trong những cách trình bày chính
tắc, nhấn mạnh theo sự phát triển của bộ máy tâm thần và người ta gọi
tên là huyễn tưởng nguyên thủy, bởi lẽ có sự trở lại tí mẹ, cảnh tượng
nguyên thủy, quyến rũ, thiến hoạn. ở giới hạn cuối cùng, bất kỳ biểu
tượng nào cũng được ghép vào một trong những sản phẩm sơ khởi ấy; chính
vì vậy, chẳng nghĩa lý gì khi nói về cái vô thức tập thể [19]: tất cả
những điều cá nhân khởi thảo ra và những lời lẽ không khác mấy của quần
chúng (vox populi) phao truyền đi đều có căn nguyên ở đây, nếu không nói
là cấu trúc của nó nằm ở đây. Cũng chính vì vậy, lợi ích của việc đọc
các văn bản văn học theo kiểu phân tâm học không dừng lại với việc giải
mã, mà cùng với việc giải mã, nó thống kê ra và gỡ nút những sợi chỉ tạo
nên trò chơi biến đổi; chúng ta không cần giữ lại cái phương trình ẩn
dụ (còn gì vô vị hơn một sự bằng nhau? cuối cùng thì luôn luôn = 0!), mà
nên giữ lại chính quá trình ẩn dụ và chặng đường ẩn dụ hóa như thế.
Không phải là kiểm kê biểu tượng, mà là sự vận hành quá trình tượng
trưng hóa. Biểu tượng không phải là chìa khóa, đó là lao động.
2. Huyền thoại, cổ tích và truyền thuyết
Hãy tiếp
tục giả thiết rằng, khái niệm phân tâm học đem đến cái gì đó khiến cho
cuộc tiếp xúc của chúng ta với các nền văn học thế giới được sáng tỏ
hơn, làm sáng rõ hơn, phong phú hơn. Địa vị nào vinh dự ấy, hãy bắt đầu
từ những câu chuyện mang tính tượng trưng mà các bộ tộc, tộc người, dân
cư, các nền văn minh vẫn kể cho nhau nghe, những câu chuyện trong đó có
thuật lại cuộc phiêu lưu của nhân vật chính (người hoặc con vật), thời
“ngày xửa ngày xưa”; nhân vật đó là yếu tố tiết lộ chất kết dính của
nhóm, nhưng trên hết nó thể hiện nguồn gốc tập quán mang sức mạnh luật
pháp. Từ những điều quy định chặt chẽ không thể không tuân thủ đến những
lời khuyên đơn giản về đạo lý các dân tộc, toàn bộ lĩnh vực luật pháp
gọi là “tự nhiên” đều tìm thấy sự biện minh trong những văn kiện kiểu
như vậy; đó chính là cái Người xưa gọi là “luật bất thành văn”, còn ngày
nay chúng ta cảm nhận đó như là phần chính yếu của các phong tục tập
quán truyền thống, khó mà xác định được những gò bó về tư tưởng của các
phong tục đó. Từ bao thế hệ, người ta chỉ còn thấy trong những câu
chuyện này rặt những “chuyện đời xưa” kể cho bọn trẻ con nhằm thỏa mãn
tính hiếu kỳ của chúng – còn bọn trẻ thì đòi kể chuyện để từ đó rút ra
một cách vô thức quyền được hưởng những huyễn tưởng của chúng ở miệng
của người kể chuyện
trong gia đình. Phần đông các truyện kể này, vốn được trích từ những
tập văn cổ nhất hoặc ở nguồn truyền khẩu, đã được thể loại bi kịch hay
anh hùng ca, thậm chí cả những tiểu thuyết đầu tiên khai thác. Chúng lấy
những tên khác nhau tùy theo bối cảnh văn hóa nhìn nhận chúng tới ghi
danh (bằng trí nhớ và bằng chữ viết) như: huyền thoại (mythe) ở những
tôn giáo đa thần, truyền thuyết (légende) ở những tôn giáo nhất thần,
anh hùng ca gia đình (saga) và sử thi trung đại (geste) ở những tín
ngưỡng thờ cúng một anh hùng dòng họ hay dân tộc, truyện cổ (conte) bi
thảm hay tuyệt vời (truyện thần tiên) dành cho công chúng có tiếng là
ngây thơ và phàm tục. Chiều kích, ngôn ngữ, sự tinh tế của chúng thay
đổi vô biên. Tất cả chúng đều có những điểm chung ban đầu nằm ngoài lề
nền văn học chính thức với tiêu đề danh mục văn học dân gian
hoặc văn học cổ, sau đó và trước hết được dịch phóng chiếu vào một quá
khứ ít nhiều xác định (“Có một lần…”), dàn cảnh một ngoại hình huyễn
tưởng mà mức độ trau chuốt thi ca của nó không có vẻ gì quá lôi cuốn với
độc giả phương Tây hiện đại [20].
Nếu có một
sơ đồ tổng quát, có thể khoanh sơ đồ đó lại bằng cuộc đấu tranh của
nhân vật chính chống lại những thế lực thù địch cho đến lúc thắng lợi,
sau đó, kết cục có thể là hoặc nhân vật được thần thánh hóa (cái chết vì
đã vi phạm điều cấm, tiếp theo là sự thay hình đổi dạng hoặc hóa thân
thành thần), hoặc dẫn tới bản năng giới tính sinh sản (“Họ lấy nhau và
có rất nhiều con”) – sơ đồ được gọi là sơ đồ thụ môn bởi vì người ta bắt
gặp nó ở tất cả các nghi lễ trưởng thành [21]. Cho dù có sự sai biệt
nhỏ đó, nhưng việc thụ môn thực sự hay mang tính nghi lễ đều bắt buộc
người trẻ tuổi phải bắt chước một kiểu tái sinh cần mẫn, kiểu chinh phục
hay kiểu tu khổ hạnh; trong quá trình diễn biến đó, con người học hỏi
được cách chấp nhận những khước từ mà thực tế sẽ áp đặt cho; đấy là một thiết chế xã hội
nhằm hội nhập các thành viên của nhóm vào quy chuẩn (đôi khi là quy
chuẩn của tầng lớp tinh hoa, nhưng điều này chẳng hề làm thay đổi sự
việc). Còn các truyện kể, cho dù chúng có được kịch tính hóa hay không,
và thậm chí chúng có được diễn trên sân khấu đi chăng nữa, thì chúng
cũng chỉ đóng vai trò niềm vui thích: ngay cả nếu cái ý thức cần phải
rút ra bài học kinh nghiệm thì các lớp dưới sâu vẫn thích thú hoàn thành
những huyễn tưởng được khêu gợi.
Chúng ta
sẽ không trở lại những đóng góp của Freud vào lĩnh vực liên quan đến
huyền thoại Oedipe [22]- nó đã thành “mặc cảm” của những điều mà ông sắp
đặt thành nhiều lớp kịch bản tiêu biểu gọi là các huyễn tưởng khởi
nguyên. Nhận xét về huyền thoại là của ông: “Huyền thoại là những thứ
còn sót lại đã bị biến dạng của các huyễn tưởng ham muốn của toàn thể
các dân tộc, những giấc mơ lâu đời của nhân loại non trẻ” (EPA, 79). Ông
tra vấn chất liệu mà các nhà dân tộc học cùng thời cung cấp cho ông
(Vật tổ và Cấm kỵ, 1912) [23]. Ông đã khích lệ một số người trong số các
môn đệ đầu tiên của ông hãy đẩy mạnh nghiên cứu theo hướng ấy. Người ta
làm quen trước hết một nghiên cứu của Karl Abraham: Giấc mơ và huyền
thoại (1909) tập trung quanh huyền thoại về Prométhée; của Otto Rank:
Huyền thoại về sự ra đời các anh hùng (1909), nghiên cứu này chứng minh
rằng mọi sứ mệnh anh hùng đều được tiền định bằng một sự trắc trở khi ra
đời (cơ thể dị dạng, cha mẹ “bất bình thường”, v.v…)[24]; các công
trình của Géra Roheim, nhà dân tộc học đồng thời là nhà phân tâm học, về
những người bản xứ ở Mélanésie và về các huyền thoại gần với chúng ta
hơn (Castor và Pollux, Danaïdes) [25].
Ngoài
những đóng góp này, cần phải kể thêm các nghiên cứu gần đây hơn của Marc
Soriano (chủ đề các cặp sinh đôi ở những truyện thần kỳ, Truyện kể
Perrault, Gallimard, 1968), của Bruno Bettelheim (Phân tâm học các
truyện thần tiên, Laffond, 1976) và của bản thân tôi [26] cũng như những
nhận xét mang tính lý thuyết của Didier Anzieu [27], của nhà sáng lập
phân tâm học tộc người Georges Devereux [28], của người khởi xướng một
“câu chuyện phân tâm học” Alain Besançon [29] và của người khởi xướng
phân tâm học xã hội Gérard Mendel [30].
3. Típ và môtíp
Khó mà
phân biệt được các công trình về những truyện kể “nguyên thủy” ấy với
những nghiên cứu dành cho một bên là các môtíp thấy có ở khắp nơi, bên
kia là các nhân vật điển hình minh họa cho, như người ta nói, một khía
cạnh của kiếp người.
Otto Rank
chú ý đến, chẳng hạn, Môtíp loạn luân (1912) ở những tác phẩm văn học và
truyền thuyết: cái “môtíp” này đã từng hay vẫn là câu chuyện về Oedipe,
do Ernest Jones nhận ra khi đem so sánh Hamlet và Oedipe [31]. Tương
tự, các nhận xét chung của André Green về cảnh tượng (Con mắt thừa, đã
trích dẫn) dựa trên sự phân tích cuộc chạm trán giữa Oedipe với con Nhân
sư, sự phân tích Orest kẻ giết mẹ, sự phân tích về Othello. Khi Sarah
Kofman đặt tên một đoạn trong cuốn sách Bốn tiểu thuyết phân tích
(Galilée, 1973) của mình là “Judith”, bà muốn trao cho nhân vật nữ này
một chiều kích mà cô ta vốn không có được trong vở bi kịch của Hebbel,
từ vở kịch này, Freud đã chỉ ra vấn đề luôn luôn được gợi nhắc trong
nghệ thuật và văn học dân gian, đó là vấn đề “cấm kỵ về trinh tiết”. Một
trường hợp phức tạp hơn trường hợp của Don Juan, nhân vật đã trở thành
đối tượng cuốn sách của Otto Rank [32], bởi lẽ típ đàn ông đó sắp xếp
các giá trị hoàn toàn theo vô thức (thói tự si, sự xuống cấp đạo đức của
đối tượng, các yếu tố đồng tính luyến ái) với những dữ liệu gắn với
lịch sử xã hội (giai cấp quý tộc phong kiến) và với lịch sử tư tưởng (chủ nghĩa vô thần báng bổ).
Cũng cần
trích dẫn cả những bài báo như bài báo của Catherine Clément về hiện
tượng lưỡng tính “Huyền thoại và dục tính”, Những tấm gương soi của chủ
thể), bài của Fernand Cambon về Cô gái kéo sợi trong một số bài thơ và
truyện cổ tích Đức (Litt., 23, 1976), và bài của Roger Dadoun về ma cà
rồng (“Hiện tượng bái vật trong các phim kinh dị”, NRP, 2, 1970), thậm
chí cả những số tạp chí như Số phận của những kẻ ăn thịt người hoặc
Những kẻ tự si (NRP, 6, 1972 và 13, 1976) – nhằm chỉ rõ một số con đường
được vạch ra ở các lĩnh vực này vốn rất giống với một khu rừng rậm.
Chính bản
thân Freud có thể đóng góp cho danh hiệu đó. Trong một tiểu luận nhỏ có
tên là Môtíp ba cái tráp (1913), ông nhắc lại vở bi kịch Gã lái buôn
thành Venise của Shakespeare; trong kịch, cô Portia bị bố bắt phải cưới
một trong ba người đến cầu hôn, người nào tìm thấy ảnh của cô, mà bức
ảnh đó lại không giấu ở tráp vàng, cũng chẳng ở tráp bạc, nó được cất
trong cái tráp bằng chì. Sau khi cự tuyệt cách giải thích theo típ các
tinh tú (Mặt trời – Mặt trăng – Sao chổi), ở đó ông thấy trong không
gian bầu trời một tia chiếu soi rọi những động cơ vô thức, Freud bèn so
sánh đối chiếu cái “môtíp một người đàn ông lựa chọn một trong ba người
đàn bà” ấy (EPA, 89) với sự lựa chọn tương tự của Vua Lia, sự phán xét
của Pâris, các truyện cổ tích Chiếc gương thần và Cô Lọ lem (trong
truyện có ba chị em): cái tráp bằng chì, cô gái câm, bà tiên thứ ba, cô
gái nghèo khổ, người em gái gặp rủi ro, đấy là bấy nhiêu bộ mặt của thần
Chết – hay thần mệnh số Atropos [33]. Đấy cũng là những bộ mặt của “ba
mối liên hệ không thể tránh khỏi của đàn ông với đàn bà”, con vật giống
cái, bạn gái thân thiết, người đàn bà hủy diệt và chung quy lại, đấy là
“ba hình thái thể hiện chính hình ảnh người mẹ trong cuộc đời: người mẹ
với tư cách là mẹ, người tình mà người đàn ông lựa chọn theo hình ảnh
của người mẹ ấy, và cuối cùng, Đất-Mẹ là người sẽ lại tiếp nhận đứa con
trở về”. (103). Xin nhớ rằng, sở dĩ môtíp xứng đáng với cái tên này, ấy
là do nó không phải là toàn bộ cốt truyện của kịch hay tiểu thuyết: văn
học dân gian rất giàu các tình tiết loại này, chúng được hòa vào một lớp
rộng lớn hơn, và chúng có khả năng cho văn học khai thác.
Cũng có
thể dẫn ra một tiểu luận khác nhan đề Một số típ tính cách do phân tâm
học nêu ra (1916). Freud viện dẫn văn học để minh họa các mẫu ứng xử phổ
quát, đó là khuynh hướng tưởng mình là “một ngoại lệ” và tự cho mình
đang gánh chịu một điều xúc phạm tự kỷ nguyên lai nên được quyền trả thù
những người khác một cách hoàn toàn hợp pháp (ví dụ vay mượn từ vở kịch
Richard III) và sự rối loạn tinh thần mang tính bệnh lý sau khi đạt
được những ham muốn từng đeo đẳng quá lâu (Phu nhân Macbeth, hoặc cô
Rebecca của vở Romersholm của Ibsen).
Vậy là
người ta có thể đi từ nghiên cứu bệnh học tâm thần thường nhật nhất đến
những gương mặt lớn mà lý thuyết về ham muốn xoay xung quanh: Erôs và
Thanatos, hay là “biển nguồn”. (chủ đề truyện Thalassa của Sandor
Ferenczi [34]; người ta có thể gợi nhắc Con Quỷ, giống như Freud đã nhắc
tới nó trong Chứng loạn thần kinh quỷ quái ở thế kỷ XVII (1923). Thậm
chí người ta đã có thể nghĩ tới những công thức hay những chiều kích
nhận thức của chúng ta xuất hiện như những khái niệm phổ quát: các yếu
tố vũ trụ Gaston Bachelard ưa thích; nhưng đấy là một cách lạm dụng ngôn
từ. Bachelard là một bậc thầy về phê bình, các bài giảng về thi ca của
ông là những áng thơ đích thực – với danh nghĩa là thơ chúng sẽ đòi một
sự bình chú [35]. Nhưng Bachelard không dùng cái từ “phân tâm học” theo
nghĩa cụ thể hay chính xác (“Khi ông nói về cái vô thức trong phê bình văn học,
ấy là trong thực tế, phần lớn thời gian ông nói về cái tiền ý thức,
thật trái ngược với Jung [người ông ưa thích nhất] cũng như với Freud,
có nghĩa là [...] về những hệ lụy không được nhìn nhận của mối chủ tâm
hiện thời”, bài vở trong tay, Vincent Therrien khẳng định [36], ông quan
tâm tới hiện tượng luận của tưởng tượng bằng lời; qua sự tương đồng,
không một phương pháp phân tâm học nào có thể diễn giải khác đi sự thầm
thì của nước, lao xao của gió, cuồng nhiệt của lửa cũng như lời lẽ mềm
dẻo hay sự nổi loạn của đất. “Phân tâm học vật liệu”, dự án này dựa trên
sự ngộ nhận. Dù sao Bachelard cũng còn kết hợp mối quan tâm đọc tốt với
sự lo lắng phải vượt qua được tính tức thời của cái nghĩa đen của từ và
“phê bình mới”
phải chịu ơn ông vì không cần ầm ĩ mà ông cũng đã kêu gọi được nó phải
đọc lý thuyết Vô thức: tác phẩm Lautréamont của ông (Corti, 1939) đã làm
thay đổi không thể đảo ngược được chân trời nghiên cứu của chúng ta,
nhất là về thi ca.
4. Thể loại văn học
Bởi vì tuy
Freud đã mở đường theo hướng truyện hư cấu, song ông lùi bước trước thi
ca, mặc dù chính ông là người luôn luôn trích dẫn các nhà thơ. Nhưng
những nghiền ngẫm nghĩ suy của ông đã dẫn dắt các nhà phân tích và phê
bình phải đặt câu hỏi về ý nghĩa của các hình thức lớn ấy của văn học mà
người ta gọi là các thể loại. Bắt đầu bằng thể loại kịch, một nghệ
thuật làm-cho-thấy và làm-cho-nói; cảnh sân khấu không được dàn ra song
song một cách ngây thơ với cảnh của giấc mơ, hay một cách rộng hơn, cảnh
của Vô thức.
Ngoài
những công trình của André Green đã khảo cứu ở trên, còn một cuốn sách
nữa cũng quan trọng không kém cần nêu ra, đó là cuốn Chìa khóa cho tưởng
tượng hoặc cảnh tượng khác (Seuil, 1969) của Octave Manoni. Trong cuốn
sách có một tiểu luận nói về “ảo tưởng khôi hài” (tr. 161-183); ảo tưởng
đó có thể theo phương thức xác tín rằng khán giả gắn bó với cái mà họ
xem (“chúng ta nên biết rằng điều đó không đúng, có như thế thì các hình
ảnh của vô thức mới thực sự tự do”, 166), cũng như gắn bó với những
hiện tượng đồng nhất và phóng chiếu mà trong đó cái tôi tự si là nơi
chuyên hữu [37], và trong đó tác động giải phóng của chúng tăng gấp đôi
nhờ sự củng cố phòng vệ của chúng ta (176); các thể loại biểu diễn phi
“cổ điển” đã được xem xét lại một cách sắc sảo: múa rối, xiếc, phim,
thoát y vũ, trò hề. Phụ lục của sách so sánh “kịch và sự điên rồ” thông
qua quá trình sân khấu hóa tự phát của các “diễn viên của thực tại”, các
loại diễn viên tồi và các loại ma ám khác. Mannoni là một nhà phân tích
say mê sân khấu; Charles Mauron trước hết là một nhà phê bình, song ông
quan tâm đến dữ kiện hình thức nghệ thuật kịch ít hơn là đến nội dung
vở hài kịch: cuốn Phê bình phân tâm học
thể loại hài (Corti, 1963) của ông nêu lên vấn đề các nhân vật truyền
thống và các tình huống kinh điển. Hài kịch là cảnh tượng diễn ra sự đảo
ngược những biểu hiện gây lo hãi thành những hình ảnh ngoa dụ về chiến
thắng: khi cậu thanh niên đầu tiên chế nhạo lão già, liền có sự trả
miếng ở cảnh tượng bi kịch, trong đó cậu con trai bị đè bẹp bởi ý chí,
lời nói, hay đơn giản chỉ bởi cái tên của ông bố. Giả thiết cơ sở căn cứ
vào hai thể thức: toàn bộ vở kịch bao hàm một nhân vật trung tâm (không
nhất thiết phải là nhân vật chủ chốt) là người thể hiện cái tôi vô
thức; “nhân vật” đó chịu đựng các hành vi gây hấn trong bi kịch và là kẻ
phạm phải các hành vi ấy trong hài kịch. Sơ đồ theo mặc cảm Oedipe được
lập dựa trên sự khác biệt giữa các thế hệ và giới tính, có thể tham
khảo thêm các giai đoạn tiền Oedipe của đời sống tâm thần (Harpagon là
một ông già có quan hệ tình địch với con trai, nhưng tính hà tiện là một
loại ứng xử gắn với hiện tượng cắm chốt thuộc thời kỳ hậu môn). Các
kịch bản kịch mục hài gắn với việc hình thành huyễn tưởng, trong đó kịch
bản là những kết tinh bị tầm thường hóa và xuyên tạc đi của huyễn
tưởng: đấy là mặt trái của huyền thoại [38].
Về tiểu
thuyết, chúng ta không tham chiếu nhiều nữa; có nhiều điều để nói nhưng
có ít thứ để đọc, bởi vì có một tác phẩm quan trọng của Marthe Robert,
đó là Tiểu thuyết của các khởi nguyên, khởi nguyên của tiểu thuyết
(Roman des origines, origines du roman, Grasset, 1972, Gallimard tái bản
1977). Với kỹ năng thành thạo, Marthe Robert [39] tìm cách định nghĩa
thể loại và cái thần của tiểu thuyết. Khi đòi hỏi có “hạt nhân nguyên
thủy” trong tiểu thuyết, bà đã đến với một nghiên cứu lâm sàng của Freud
có tên là Tiểu thuyết gia đình của những người loạn thần kinh (Le Roman
familial des névrosés), công bố năm 1909 trong cuốn sách của Rank về sự
ra đời của các nhân vật.
Đó là một
câu chuyện hoang đường, bịa đặt, nhưng ly kỳ, ai ai cũng tự kể cho mình
trong thời thơ ấu và nói chung người ta đã kìm nén nó lại (trường hợp bị
thần kinh thì nó sẽ trở lại). Trong câu chuyện ấy, đứa trẻ dần dần bị
truất địa vị hàng đầu độc tôn trong nhà. Nó đứng trước “nỗi niềm hổ thẹn
không thể giải thích nổi vì sinh ra đã chẳng ra gì, kém may mắn, không
được yêu thương”. Nó kiếm cớ để “than vãn, để tự an ủi và để trả thù”
(46). Nó giả bộ không công nhận bố mẹ mình nữa, không thừa nhận họ là bố
mẹ của nó. Nó tự tạo ra các bố mẹ khác cho mình. Nó hình dung nó là con
của một ông hoàng và ông bố ấy đang tìm kiếm nó: giai đoạn đầu là giai
đoạn “đứa con được tìm thấy”; tiếp theo, người ta hiểu rằng chuyện này
bao hàm cả lỗi của người mẹ: giai đoạn hai là giai đoạn “đứa con hoang”.
Xuất phát từ câu chuyện này và nhấn mạnh đặc tính lưỡng phân của nó,
Marthe Robert phân biệt hai loại mơ mộng trẻ con: loại mơ mộng của đứa
trẻ kỳ diệu, nó luôn luôn mong đợi ông vua bố của nó, loại mơ mộng của
đứa trẻ thực tế, nó sẽ dùng những người khác (các phụ nữ) để “đạt đến”
bằng bất cứ giá nào: loại Hoàng tử Bé và loại Rastignac. Điều dẫn dắt bà
phải nghĩ tới hai guồng chỉ lớn của thể loại tiểu thuyết, tùy thuộc
huyễn tưởng vay mượn con đường làm như thể là hay phô bày cái của nó như
thế (69): Danh sách liệt kê chi tiết các khuynh hướng chia ra “cái Bên
kia” và “Các mảng đời”, đem Swift, Defoe, Cervantès đối lập với
Stendhal, Balzac, Flaubert.
Tất cả điều đó sẵn sàng phản tư lại; tuy
nhiên, nghiên cứu về tính lãng mạn có thể truy nguyên từ một tác phẩm
khác của Freud, cuốn Das Unheimliche (rất cần làm quen với thuật ngữ
không dịch mà ta thường hiểu là Chuyện dị kỳ đáng lo). Cuốn sách từ năm
1919 này đã xác lập một số điều kiện mà một tác phẩm bình thường hay xét
về mặt kỹ thuật được gọi là tác phẩm huyễn tưởng phải tuân theo.
“Unheimlich sẽ là tất cả những gì lẽ ra phải được che giấu, nhưng lại tự
bộc lộ ra” (EPA, 173). Nó là cái khiến ta sững sờ trong khi ta có thể
dễ dàng phát hiện nó thật là thân quen, nó là cái trở về với ta từ bên
ngoài, nhưng nó đang là bộ phận ở bên trong. Tóm lại, nó là một thứ bị
dồn nén bỗng nhiên bật trở lại, trong đời sống thường nhật cũng như trên
vũ đài nghệ thuật. Tuy nhiên, đối với chúng tôi có một sự khác nhau cơ
bản, ấy là: “Trong hư cấu có nhiều việc không phải là unheimlich, mặc dù
nếu những việc đó diễn ra trong cuộc sống thì chúng có thể là như vậy
[hãy nghĩ tới các truyện thần tiên], và hư cấu có sẵn nhiều phương tiện
nhằm gây hiệu quả unheimlich vốn không có trong cuộc sống” (206). Như
vậy, Freud nghiên cứu các hiện tượng mê tín, ma quỷ, đồ vật vô tri mà
lại có sinh khí, chuyện kể của Hoffman Người cát (xoay quanh việc thiến
hoạn) và ông kết luận về ba mẫu ví dụ rất rõ ràng: chuyện Cái tay bị
chặt cụt và hóa thành xác ướp của Kho báu của Rhampsenit khiến chúng ta
lạnh toát người; chuyện kể của Hauff mang tên đó lại đưa chúng ta mắc
vào bẫy hư ảo, cho ta cảm nhận một sự khiếp sợ thú vị, con ma mà Oscar
Wilde xui khiến trong chuyện Con ma ở Canteville làm chúng ta buồn cười
vì tác giả nói về nó bằng giọng đùa cợt [40].
5. Các mô hình khác
Các thể
loại dù lớn, dù bé đều không phải là lĩnh vực duy nhất mà ở đó, phân tâm
học can thiệp vào những khía cạnh về hình thức vốn ít nhiều được mã hóa
từ những điều bắt gặp trong không gian mỹ học. Cách đây chừng mười lăm
năm, các nhà phân tích quan tâm tới vấn đề này đã nghiêm túc nhận ra
tính cấp thiết phải tham gia vào một thứ phân tâm học về hình thức. Có
thể lấy ngày diễn ra Hội nghị ở Cerisy năm 1962 làm mốc (các báo cáo của
Hội nghị đã được nhà xuất bản Mouton công bố năm 1968 có tên là Trao
đổi về nghệ thuật và phân tâm học), chủ yếu nhờ có Nicolas Abraham và
Janin Chasseguet-Smirgel [41]. Henri Lafon trong bài “Thấy mà không được
thấy” (Thi pháp học, 29) đã phát hiện ra cái ảo ảnh ngầm ẩn ở một bản
đúc chuyện kể thế kỷ XVIII. Còn bản thân tôi, trong cuốn Gradiva theo
nghĩa đen, tôi đã thử chứng minh lối viết của W. Jensen chuyển chỗ một
“cái nhìn bái vật giáo” lên các đồ vật như thế nào.
Từ một
phía khác và ở một tinh thần hoàn toàn khác, nhất thiết phải đề cao
những công trình của hai nhà lý thuyết [42] Jean-François Lyotard [43]
và Jacques Derrida[44]. Chúng ta đã nhắc tên họ đây đó. Vốn là những
triết gia theo nghĩa hiện đại nhất của danh hiệu này, tư tưởng của họ
được hình thành trong quá trình thực hành văn bản. Họ làm việc tuy ở
ngoài lề phân tâm học, nhưng lại ở trong lề các văn bản Freud và của
diễn ngôn văn học. Không thể tóm tắt những phân tích của họ trong khuôn
khổ hạn hẹp như thế này, vì vậy, chúng tôi xin chuyển việc tóm tắt đó
cho độc giả.
V. Đọc một người
“Chỉ
có một trong hai điều xảy ra: hoặc chúng ta đã diễn tả thành bức biếm
họa thực sự khi gán cho một tác phẩm nghệ thuật vô hại những ý đồ mà
ngay cả tác giả của nó cũng không dự cảm được – do đó một lần nữa chứng
minh việc tìm thấy những cái ta tìm kiếm và bản thân ta tin chắc vào đấy
thật là dễ biết bao [...] hoặc tiểu thuyết gia có thể hoàn toàn không
biết đến những diễn tiến và ý đồ ấy nên anh ta thực lòng phủ nhận đã
biết chúng, tuy nhiên, chúng ta đã không tìm thấy trong tác phẩm của anh
ta bất cứ thứ gì vốn không có ở trong đó. Chắc chắn chúng ta khai thác
cùng một nguồn, chúng ta nhào trộn cùng một thứ bột, mỗi thứ theo phương
thức riêng của chúng ta”. (S. Freud, DRG, 241-242)
Từ bây giờ chúng tôi sẽ giới hạn lại đối tượng cho rõ hơn, đó là nhà văn và tác phẩm.
Để bù lại, sẽ phải phân biệt về góc độ tiếp cận. Suốt năm mươi năm sau
khi công bố những tác phẩm lý luận quan trọng đầu tiên của Freud, hầu
như chỉ có các nhà phân tâm là nghiên cứu văn học.
Họ làm
điều đó vì bận tâm đến tác giả. Do vậy, từ khoảng mười lăm năm nay, một
số phê bình văn học hình thành theo lối phân tích tâm lý có xu hướng
đánh giá cao những giá trị vô thức mà diễn ngôn văn học đưa vào trong
tác phẩm.
Sự phân
chia kép đó vẫn chưa đủ. Trong số những người từng nhắm tới và nay vẫn
luôn nhắm tới tác giả, người ta nhận thấy mối quan tâm đã được dịch
chuyển từ con người cá nhân (cứ cho là: thiên tài và chứng thần kinh của
anh ta) sang nhà văn. Có hai thái độ cùng song song tồn tại: hoặc người
ta quan tâm đến toàn bộ sáng tác nổi tiếng của người sáng tạo cũng như
những chứng cớ bên ngoài về cuộc đời người đó nhằm vạch ra bản tiểu sử
đầy đủ nhất của anh ta; hoặc người ta lựa chọn chỉ nghiên cứu các tác
phẩm văn học nhằm lọc ra cái đặc sắc ngầm ẩn của một tác phẩm, so sánh
tác phẩm đó với những nguyên lý do tác giả lập nên. Ngoài ra, có một số
độc giả kỳ cục “nghe” các tác phẩm, thậm chí không đếm xỉa gì khác ngoài
việc chúng là những tác phẩm nằm trong toàn bộ một sự nghiệp văn
chương; song ở đấy người ta vẫn có thể đặt một bên là thái độ nhằm giải
mã ý nghĩa tượng trưng của một tác phẩm, và bên kia là thái độ hướng tới
quan sát chính hoạt động của cái vô thức trong văn bản. Vậy thì đây là
nhãn dán trước khi làm cho bản trình bày trở nên tinh tế: bệnh lý học;
phân tâm học tiểu sử; phê bình phân tâm học; phân tâm học văn bản, mà
đối tượng nghiên cứu của chúng là tính hiện thực của một văn bản hoặc
việc hiện thực hóa một tình thế đặt ra trong văn bản. Lẽ dĩ nhiên giản
đồ này đáp ứng trước hết cho ước muốn trình bày sáng sủa, bởi vì phần
lớn các nghiên cứu chồng chéo hai hay nhiều trục và đưa ra ở các hướng
rẽ của chúng một số nhận xét vốn có thể tìm được chỗ ở nơi khác.
1. Bị lôi kéo vào thứ mình đọc
Từ tất cả
những điều chúng ta đã nói ở các chương trước có thể suy ra rằng, đọc
theo kiểu phân tâm học không so được với các kiểu đọc khác. Đọc phân tâm
học đòi hỏi phải có sự đầu tư của cá nhân người đọc. Không những cần kỹ
năng thành thạo lý thuyết Freud, chẳng hạn phải hiểu biết thấu đáo về
lịch sử thời đại hoặc về ngôn ngữ, mà còn đòi hỏi một sự đầu tư vô thức.
Trong toàn bộ phương pháp đó có một phần về huy động cảm xúc mà cường
độ ở đấy cực mạnh. Các hiện tượng bóp méo quy kết cho độc giả có vẻ trầm
trọng lên từ thực tế những thái độ kháng cự hoặc nhiệt tình hăng hái:
một phản ứng chuyển dịch ngược [45] có thể xuất hiện, các quá trình hình
thành sự thỏa hiệp có trong chúng cái mà từ đó khơi mào cho phản ứng
dây chuyền hoặc xây dựng nên bức tường mù quáng thực sự.
Người ta
biết các nhà phân tích chỉ là nhà phân tích bởi họ đã thực hiện cuộc
phân tích cụ thể của riêng họ (đôi khi được gọi là phân tích “chuyên
môn”) nhằm duy trì sự tiếp xúc tương đối tự do với vô thức của họ và chế
ngự các phản ứng của họ trước sự chuyển dịch của bệnh nhân. Mặt khác,
khi cuộc phân tích chuyên môn kết thúc thì nó cũng không làm dứt được
tình trạng tự quan sát ráo riết; nó được kéo dài thành cuộc tự-phân tích
ít nhiều mang tính thường xuyên (và định kỳ được kiểm tra đối chứng với
một đồng nghiệp). Cuộc tự-phân tích này đạt mức tập luyện tốt nếu có sự
tu chỉnh thường xuyên của học thuyết. Công tác lâm sàng tự hoàn thiện
trong việc lấy lại thăng bằng và đặt vấn đề xem xét lại những khái niệm
đã học. Mọi nhà phân tích đều vừa là nhà thực hành vừa là nhà lý thuyết.
Chính vì vậy, một số nhà phân tâm học đòi hỏi phải có luật cho ai đó có
kiến thức mà muốn vận dụng những công cụ của Freud. Cần phải là nhà
phân tích – có lẽ trong thực tế, là người được phân tích thôi thì không
đủ chăng? – để một mặt có được sự “chú ý bồng bềnh” càng ít bị bó buộc
càng hay [46], và mặt khác, để có quyền hội nhập và sắp xếp những khái
niệm mà sự tiếp thu chúng thực sự chuyển sang việc lý thuyết hóa chung,
còn việc lý thuyết hóa này lại chuyển sang thực hành [47].
Dĩ nhiên,
nếu có được những nhà phân tâm học đoạn tuyệt với mọi đòi hỏi khắt khe
của việc đọc văn học và những nhà phê bình có thời gian rảnh rỗi để làm
phân tích thì đấy sẽ là điều lý tưởng. Cần phải là một nhà hiện thực chủ nghĩa
và phải biết chấp nhận việc thông thường chỉ gặp được một sự thiếu hụt
kép. Ngoài ra và xin nhớ cho: không một phương cách nào làm nổi rõ được
chân lý. Hãy lấy một trường hợp cụ thể. Người ta vẫn biết cái đoạn trong
cuốn sách Tự thú, Rousseau kể lại rằng ông ta đã trưng ra trước các mỹ
nhân dạo chơi trong vườn ở Turin “cái vật kỳ cục” chứ không phải là “cái
vật tục tĩu”. Khi đọc đoạn văn ấy với tư cách nhà phân tích [48], Guy
Rosolato tuyên bố rằng Jean-Jacques chứng minh “là người đầu tiên, mặc
dù ông phủ nhận” và rằng ông đã nói dối chúng ta về chuyện đó. Bằng
chứng là: khi trở lại miền Savoie, trên đường đi ông kiếm tiền bằng cách
“phô ra trước những kẻ hiếu kỳ một cỗ máy thủy lực làm ông mê mẩn, một
đài nước của Héron, một cái máy phun tia nước tuyệt vời”. Đấy là chưa kể
trước đó ông đã từng đánh đổ bình nước lên váy của cô De Breil khi dọn
bàn ăn cho cô [49]… Lần theo sợi dây nghiên cứu tiểu sử tâm lý [50],
Pierre-Paul Clément quả quyết tin vào nhà văn: ông ấy phô mông ra vì đấy
là chỗ ông đặc biệt ưa thích. Bằng chứng là: những cái đét vào mông để
cười không thể quên được của cô Lambercier và cô Goton trẻ trung… Vậy
thì: đằng trước hay đằng sau? Dối trá hay thú nhận chân thành? Làm sao
quyết định được điều đó? Ai dám cả gan nói rằng nhà phân tích có lý
chống lại nhà phê bình, vì lẽ mỗi người đã có sự lựa chọn của mình trong
lúc hiểu rõ những luận cứ mà người kia dựa vào? Các ví dụ cụ thể chỉ có
thể đem lại một câu trả lời nước đôi, được chỉnh sửa lại cho hợp với
hoàn cảnh, trường hợp. Mỗi độc giả sẽ lựa chọn tùy ý hoặc là cái anh ta
ưa thích hơn (và làm sao có thể trách cứ được anh ta về điều đó?), hoặc
là cái tương ứng sít sao nhất với thực tiễn thói quen của anh ta (có thể
hiểu là thói quen đọc sách), hoặc nữa là cái hòa nhập tốt nhất với
quãng thời gian đọc hiện tại của anh ta, với cách nhấn đặc biệt từng từ.
Còn gì nữa nhỉ?
Các yếu tố
trả lời dường như cho phép trao giải thưởng nào đó cho công trình của
một người không phải nhà phân tích tâm lý (tuy nhiên người đó được giả
thiết không phải là người hoàn toàn mù tịt về phân tâm học) đã hiện rõ
trong thớ chẻ chia tách được gợi nhắc ở trên, một người hoặc nhiều văn
bản. Rosolato dễ dàng hợp với giả thiết về sự chối bỏ hơn bởi vì công
việc thực tiễn khiến ông hàng ngày phải đương đầu với những ấn tượng
kiểu như vậy, và còn bởi vì, do được đảm bảo chắc chắn về quyền lực của
mình, nếu không muốn nói là về tính tự chủ bản thân, ông ít do dự hơn
nhà phê bình trong việc xem xét xem văn bản có tính chối bỏ hay không:
nếu như thường xuyên có biểu hiện một người phân tích chối bỏ (anh ta đã
từng bộc lộ, anh ta sẽ tự bộc lộ ra), song phải có can đảm mới quyết
định được rằng một phát biểu bằng văn bản là đáng nắm lấy mặt sau, vì
việc kiểm tra (tế nhị) hoàn toàn thuộc phận sự của độc giả xuất phát từ
một số nhất định các phát biểu. Hơn nữa, nhà phân tích tâm lý vốn quen
“bàn về” con người – những người chỉ có thể đúc rút lại thành các lời
nói qua phương pháp loại suy và dù sao đi nữa, họ có thể sản sinh vô tận
những lời nói khác; nhà phân tích vật lộn với cả những kháng cự đang
diễn ra trước mặt hoặc đang âm vang trong anh ta; anh ta tác động tới cả
hai, trong không gian biệt lập của buồng làm việc. Còn nhà phê bình thì
không có công chuyện gì với những con người sống động, mang tính thời
điểm và khó lường trước; anh ta làm việc với những diễn ngôn quen thuộc,
bất biến; anh ta hoàn toàn đơn thương độc mã làm toàn bộ công việc phân
tích, đưa ra cho văn bản các câu hỏi và trả lời mà chúng sẽ còn trở lại
với anh ta, mặt khác, anh ta đồng thời vận hành cả ba thứ: nguồn gốc vô
thức của văn bản, những tác động của cái vô thức của nhà phê bình, sự
hiện hữu thường xuyên của vị độc giả của riêng anh ta, nhà phê bình. Đây
là yếu tố cơ bản: giữa quyển sách, cái bàn và bài nghiên cứu phân tích
được viết ra không có sự bí mật như giữa chiếc đivăng và ghế phôtơi. Nhà
phê bình miệt mài với phân tâm học văn bản làm việc với cái mọi người
đều đã biết, đã thấy, anh ta công bố công trình của mình bằng văn bản,
mỗi người đều có thể phán xét về văn bản đó. Anh ta mạo hiểm, chắc chắn
là những mạo hiểm vô biên so với những mạo hiểm của nhà phân tâm, bởi vì
tuy anh ta không có quan hệ gì đến số phận tương lai của một con người,
song theo cách nào đó anh ta lại có quan hệ đương nhiên với chất lượng
thành tích của mình về phê bình và do đó, với sự định giá năng lực của
anh ta. Anh ta thường xuyên phải chịu sự kiểm soát, điều đó khiến anh ta
phải thăm dò, nghiên cứu một cách “nghiêm túc” và “quang minh chính
trực” nhất mọi khía cạnh của những giải thích mà anh ta sẽ cả gan đưa ra
trước sự kiểm soát của nhiều người khác, cả nhà phê bình lẫn nhà phân
tâm.
2. Phân tích tâm lý tác giả: những bậc tiền bối vĩ đại
Vấn đề ở
đây không phải là vội vàng giải quyết dứt điểm trận cãi vã vô cớ và bột
phát. Bối cảnh phân tích trước một sự kiện văn học không hề có điểm
chung với bối cảnh phân tích tâm lý trị bệnh, ngay cả khi hiện tượng dồi
dào của văn học phân tích dành cho nghiên cứu các nghệ sĩ đến một lúc
nào đó có thể sẽ đem lại sự thay đổi.
Chúng ta
sẽ không sa đà về những đóng góp của Freud. Một sự đóng góp liên quan
đến kỷ niệm thời thơ ấu trong cuốn sách Dichtung und Wahrheit của Gœthe
(1917) xứng đáng được lưu ý: người ta tự hỏi tại sao nó lại có mặt trong
các Tiểu luận về phân tâm học ứng dụng (tập sách của Marie Bonaparte),
nếu không vì dựa vào tên tuổi uy tín của Gœthe; vấn đề đấy là về nhà văn
vĩ đại nhất viết bằng tiếng Đức, nhưng đấy cũng có thể là về người hàng
xóm cùng cầu thang với bạn. Freud quan tâm đến một kỷ niệm của nhà thơ
từ hồi ông này bốn tuổi (ông đã từng ném bát đĩa của nhà qua cửa sổ để
ngầm phản đối việc mẹ đẻ thêm em trai) trong viễn cảnh của ký ức – màn
chắn [51], so sánh nó với dăm bảy chứng cớ tương tự của những bệnh nhân
của ông. Phần đóng góp mang tên Một kỷ niệm thời thơ ấu của Léonard de
Vinci (1910) có vẻ không phù hợp chút nào khi nói về một họa sĩ kiêm kỹ
sư; mặt khác, nó chứa đựng sự mở đầu lý thuyết hóa các xung năng xuất
phát từ ham muốn hiểu biết vốn đã bắt rễ trong thái độ tò mò về tính
dục, điều này lý giải tính hữu ích của nó theo nhãn quan các nhà phân
tâm. Nhưng theo chúng tôi, từ đó có cái mở ra con đường dẫn tới những
hiểu lầm tồi tệ, đồng thời mở ra một sự vận hành hoàn toàn tích cực.
Những sự
hiểu lầm: Freud không chỉ xây dựng nên một kết cấu mạo hiểm dựa trên các
yếu tố vay mượn (hình ảnh con chim kền kền ở váy của nữ thánh Anne bắt
nguồn từ Pfister) và mang tính phiêu lưu (chim “kền kền” trong văn bản
tiếng Italia là “nibbio”, tức là con chim cắt, nó biến thành hư vô nếu
đối sánh với các huyền thoại Ai Cập), ông còn căn cứ vào các trang phục
Vinci sắm cho đám thợ học nghề trẻ tuổi của mình cũng như căn cứ vào
khuôn mặt ái nam ái nữ của thánh Jean để đưa ra chẩn đoán về tình trạng
đồng tính luyến ái (có tính chất “thụ động thuần khiết”), đấy là người
và là cái minh xác một sự cắm chốt có vẻ như là với người mẹ… Thực tiễn
tích cực hơn, ấy là phân tích những “nụ cười của Léonard” so sánh với
nàng Mona Lisa như sự phát hiện muộn màng về quá trình hình thành huyễn
tưởng, ở đó trình bày về người mẹ vắng mặt và ở đó biểu lộ một dạng
quyến rũ không phải của người mẹ, cũng không phải của người mẫu; sự
quyến rũ ấy trở nên khả dĩ bởi vì “toàn bộ cảm xúc đã được đầu tư trước
bằng ham muốn”[52]; nếu như nụ cười thứ nhất thoáng có chút lo âu, ấy là
bởi đã có sự trở lại của một kẻ bị dồn nén: sự dồn nén một khi được cởi
bỏ (và đã được cởi bỏ một lần) thì những nụ cười tiếp theo sẽ hé lộ
“dịu dàng hơn và thanh thản hơn”, như Freud nhận xét (SLV, 106). Người
ta tìm thấy ở đó mầm mống cái tương đương lối đọc kiểu phê bình phân tâm
bằng phương pháp xếp chồng văn bản.
Trong số
các môn đệ của Freud, có hai người sau này sẽ minh họa cho cái mà ta có
thể gọi là “sử dụng yếu tố y học” vào nghiên cứu nhà văn. Người thứ nhất
theo phương thức triệt để, do đó nằm ngoài lề so với các đối tượng của
nghiên cứu văn học: đó là René Laforgue, người quan tâm tới “trường hợp”
một nhà thơ trong cuốn sách mang cái tên đầy ý nghĩa, cuốn Sự thất bại
của Baudelaire (Denol & Steele, 1931). Nhiều tác phẩm và tài liệu
phục vụ cho tiến trình mô tả lâm sàng về chứng bệnh loạn thần kinh do
thất bại: tác giả của tập thơ ác hoa cũng không bị đối xử khác đi so với
người hàng xóm cùng chiếu nghỉ với ông.
Phong phú
hơn nhiều, bứt lên được nhờ có nhiều quan điểm với tham vọng tâm bệnh
học, cuốn sách của Marie Bonaparte dành viết về Edgar Poe (E.P., cuộc
đời, tác phẩm, Denoel & Steele, 1933; PUF, 1958) là một công trình
hoành tráng của phê bình phân tâm học, hết sức tiêu biểu về những chủ
định cũng như về ngôn ngữ của các bạn đồng hành và kế tục kề cận của
Freud. Là công trình để thăm viếng, nó đáng được khử đi mọi bụi bặm.
Phân tâm học tiểu sử và phê bình phân tâm học tìm được ở đấy cái để mà
thỏa mãn, bởi đối tượng cũng như bởi phương tiện tiến hành – người mẹ,
sớm qua đời, được chuyển đặt vào các chu trình: người mẹ chết – sống,
phong cảnh (biển, sữa, băng), người đàn bà bị sát hại; sự bất lực tình
dục bị tiền tệ hóa trong một môtíp lặp đi lặp lại về què cụt chân tay
hoặc môtíp bị chôn sống v.v…-, còn loại phê bình thời sự hơn thì làm nổi
lên ở đó mối quan tâm xem xét một cách hệ thống những tác động của quá
trình sơ khởi và làm sáng tỏ những hình thức thích hợp (chẳng hạn loại
truyện kể kỳ ảo). Chúng ta phải bái phục nói rằng tài năng của nhà phân
tâm đã vượt xa điều mà Marie Bonaparte mong muốn và định làm.
3. Các nhà “phân tâm học tiểu sử”
Cũng có
thể nói về tài năng như thế khi nhắc tới bốn tên tuổi lớn (theo ý chúng
tôi) của phân tâm học, đó là: Delay, Laplanche, Moré và Fernandez. Hai
thầy thuốc thực hành, hai nghiên cứu văn học, nhưng có biết bao uốn lượn
cá biệt. Jean Delay[53] căn cứ vào lý thuyết phân tâm học các chứng
loạn thần kinh để giải thích về sự sáng tạo có thể trở thành một giải
pháp cho những xung đột vô thức, một cơ chế bảo vệ có hiệu quả:
“Một tác
phẩm như tác phẩm của André Gide là một cách giải tỏa ức chế tâm lý thực
sự; chính xác là như vậy bởi vì nó chỉ được viết ra khi tác giả của nó
gặp một số khó khăn cá nhân. Anh ta đã đạt được trong và qua các nhân
vật của mình một sự khách quan hóa toàn bộ khuynh hướng của anh ta; đã
thực hiện những nhận thức và chuyển dịch (tích cực hoặc tiêu cực) đối
với các song trùng của mình; và cuối cùng đã hiện thực hóa một quá trình
tự phân tích thực sự” (t. II, tr. 646).
Bệnh lý
không còn dẫn đến thất bại nữa mà nó cho phép có sự bùng nở về nghệ
thuật, tác phẩm nghệ thuật trở thành một thứ “sức khỏe nhân tạo”; sẽ
nhận ra điều ấy nếu sau khi miêu tả xong bối cảnh gia đình và trạng
huống thời thơ ấu, ta xếp đặt các giai đoạn hoạt động văn học kề cận với
các sự kiện của tiểu sử và quá trình phát triển ý thức tâm lý – ở
trường hợp của Gide, ta thấy điều đó khá rõ. Đến mức có thể thu được một
bức chân dung tác giả hoàn chỉnh hơn cả bức mà Sainte-Beuve hằng mơ ước
và một bản khái lược về những điều mà các công trình của tác giả muốn
trình bày về mình.
Jean
Laplanche [54] lại chú ý tới Hửlderlin với một hiện tượng tế nhị theo
cách khác so với hiện tượng một chứng loạn thần kinh đã kết luận chắc
chắn, ấy là: nhà thơ người Đức đã trải qua ba mươi sáu năm, tức là nửa
cuộc đời, trong nỗi cô đơn của cái “tháp” Tỹbingen, nơi chứng bệnh tâm
thần phân liệt của ông đang thiêm thiếp ngủ. Đứng trước tác giả (đối
tượng phân tích – B.T.) của mình, nhà phân tích trù tính “hiểu được tác
phẩm và quá trình phát triển hướng tới ở trong chứng điên thể hiện qua
một lối vận động duy nhất; cái lối vận động này có lẽ được nhấn mạnh như
một logic biện chứng và nó đa tuyến như một đối trọng” (13). Công cuộc
dẫn dắt tới sự hiểu biết, trong trường hợp này, đã diễn tiến tốt đẹp với
sự pha trộn đáng khâm phục giữa tinh thần thẩm mĩ và tinh thần hình
học. Tuy nhiên, dự án tầm xa của việc nghiên cứu này nhắm tới mục tiêu
“giải thích tác phẩm theo một số khái niệm nhất định về chứng loạn tâm
ít hơn là nghe hiểu được và làm sáng tỏ lối nói thi ca của chứng điên”
(14). Mục đích của thầy thuốc lâm sàng và mối bận tâm của nhà phê bình
là không thể tách rời.
Marcel
Moré [55] ít được biết đến bao nhiêu thì tác giả ưa thích “của ông” lại
nổi tiếng bấy nhiêu. Những cuốn sách ông viết về Jules Verne được hình
thành từ nhiều bài nghiên cứu rải rác, có lợi thế về sự ít tính giáo
điều cũng ngang với bất lợi về cách sắp xếp để lại nhiều lỗ hổng. Moré
đã quan sát tỉ mỉ thời thơ ấu và tuổi thanh niên của nhà tiểu thuyết
tương lai, đủ để kết luận về những khó khăn bên phía hình ảnh của người
bố và để đoán trước sự tồn tại một chuyện “bí mật” mà chúng ta ghi nhận
được những tác động của nó thông qua nỗi ám ảnh ở Verne về các thông
điệp đã bị mã hóa, các câu đố và câu nói khó hiểu khác. Các giải thiết
do nhà phê bình tưởng tượng ra đáng phải thận trọng và với chúng ta đáng
giá bằng hàng trăm cuộc dạo chơi giữa “khu rừng hoang sơ rậm rạp” của
Những chuyến du hành kỳ thú. Lần này nhà tiểu thuyết đã tìm được một độc
giả ngang tầm với anh ta, ấy là người quan sát, bao dung độ lượng và
tinh ranh xảo quyệt hơn ta tưởng.
Về cuốn
Thất bại của Pavese của Dominique Fernandez (Grasset, 1967) – thật đáng
tiếc cái tên này khiến liên tưởng tới tên cuốn sách của Tiến sĩ Laforgue
về Baudelaire – chúng tôi sẽ ít nói đến sự việc; để nhấn mạnh vào phần
“Nhập môn phân tâm học tiểu sử” của cuốn sách (NRP, 1, 1970). Trước khi
tiến hành khảo sát về tác giả cuốn Mùa hè tươi đẹp, ông viện dẫn Marie
Bonaparte, Delay, Laplanche làm mẫu, đối lại với Bachelard và Mauron;
ông sử dụng phương pháp phức hợp, khéo léo chơi những con bài chủ nghĩa
chiết trung của mình; phương pháp ấy kết hợp hiện tượng luận về sự tưởng
tượng (nước và nhất là không khí) với lối đọc những văn bản hư cấu vừa
muốn theo “chiều ngang” (lịch đại, Delay), vừa muốn theo “chiều dọc”
(xếp chồng văn bản, Mauron); phương pháp ấy kết hợp cái vị trí xác định
đã được gán cho “những chấn thương trong thời thơ ấu” với mối quan tâm
lần theo dấu vết những điều dối trá hay che đậy của nhà văn liên quan
tới quá khứ riêng của anh ta – bao gồm cả việc anh ta khước từ công nhận
mình đã từng đọc Freud! Từ những chứng cứ đầu tiên cho đến thời điểm tự
tử, quãng đời tồn tại của Cesare Pavese đã được định vị, được chỉnh
sửa, lấy thêm sức sống và trả lại cuộc đối thoại của anh với toàn bộ tác
phẩm.
4. Vị trí của phân tâm học tiểu sử
Có thể đặt
lại tên cuốn tiểu luận về phương pháp là tiểu luận “Bảo vệ và minh họa
phân tâm học tiểu sử”, càng có lý hơn vì sự vật tồn tại trước khi bị
“đưa vào”. Minh họa bởi lẽ những ví dụ cụ thể nhiều vô số và có sức
thuyết phục; bảo vệ bởi lẽ nếu người ta liều nói ra thì D. Fernandez
viết ngay lập tức, không thoái thác được, cứ như thể ông hiểu rõ phải
tranh đấu vì một lý do sống còn (bởi vào khoảng giữa chục năm phân cách
Pavese với khuôn mẫu có trong Tuổi trẻ của Gide, quả bom Mauron đã phát
nổ). Các tiên đề và định đề kết nối với nhau chặt chẽ. Cần phải chiếm
lấy mảnh đất để hoang một cách vô lí, bởi vì các nhà tiểu sử học cổ điển
(“cây nào, quả nấy”, Sainte-Beuve) đã không đẩy những điều tra của họ
tới tận những nguồn thông tin bị vùi lấp ở bên dưới các văn tự, trong
khi đó thì “phê bình văn học [...] nghiên cứu tác phẩm như thể chúng
được sinh ra từ một bộ óc thuần khiết” (33); thế mà “con người ở cội
nguồn tác phẩm, nhưng con người ấy là cái gì thì điều này chỉ có thể nắm
bắt được trong tác phẩm”; như vậy, “có thể định nghĩa nhiệm vụ của phân
tâm học tiểu sử là sự nghiên cứu về tác động tương hỗ giữa con người và
tác phẩm, về tính đơn nhất của người và tác phẩm đó được thâu tóm trong
những động cơ vô thức của anh ta. [...] Lẽ dĩ nhiên, lĩnh vực ưa thích
của nghiên cứu đó là thời thơ ấu của nghệ sĩ” (34). Qua tác phẩm, cần
hiểu được “không chỉ riêng các chủ đề, mà còn cả những đặc tính hình
thức”, những thể loại ưu tiên lựa chọn từ ngữ. So với các loại tiểu sử
cũ, thấy có hai khác biệt đáng chú ý, ấy là: “Nhà phân tâm học tiểu sử
không còn bảo rằng: người nào, tác phẩm ấy nữa, mà nay anh ta nói: đứa
trẻ nào, tác phẩm ấy (38); loại tiểu sử về các vị thánh mong muốn thiên
tài phải biết thoát khỏi những thăng trầm của số phận, loại nghiên cứu
về bệnh lý thì giải thích làm thế nào con người có thể chuyển những nỗi
bất hạnh thành vàng, trái với cả hai loại trên, “nhà phân tâm học tiểu
sử [...] cho rằng các tác phẩm không độc lập với đời sống, mà cũng chẳng
lệ thuộc vào mối quan hệ nhân quả nào” (39). Mauron viện tới “huyễn
tưởng”, Laplanche viện tới một sự “há hốc tượng trưng”, thế nhưng trái
lại, Fernandez lại áp đặt sự cấp thiết phải “đo lường mức độ ảnh hưởng
các sự kiện đối với tác phẩm”. Bằng cách dẫn ra những chứng cứ nội tại
(thư từ, nhật ký) và những chứng cứ ngoại cảnh (người đương thời),
phương pháp “đối chiếu so sánh với những trường hợp trong tiểu sử” sẽ
thế chỗ cho những cách liên kết tự do của kỹ thuật Freud (41). Nói chung
nên tránh liên hệ toàn bộ với duy nhất quá khứ của cá nhân, bởi vì rút
cục tác phẩm nghệ thuật là “một biểu tượng tương lai của sự tổng hợp cá
nhân và của tương lai của con người” (44). Kết luận nhấn mạnh tính chất
tất yếu “mang tính phỏng đoán” của bức chân dung tiểu sử phân tâm, do
một người thực hiện, nghĩa là do một người “tự bồi bổ cho mình” bằng
cách dựa vào “những liên hệ xúc cảm phong phú”, nhờ những xúc cảm đó,
nhà chú giải kinh thánh trở thành kẻ tiếp tay cho người sáng tạo (48).
Bản tổng
kết cương lĩnh trên [56] thể hiện rõ mối liên kết đặc biệt và nó được
đưa ra với một lòng can đảm đáng lưu tâm thảo luận. Chỉ cần đọc nó thôi
là sẽ phát sinh hàng đống câu hỏi. Theo nhãn quan của nhà phân tích tâm
lý, thế nào là “cuộc đời” của một con người? Làm thế nào lựa chọn được
giữa ba “chân lý”: hồ sơ lịch sử, trải nghiệm cá nhân và cái đã được chế
tác ra trong tác phẩm nghệ thuật? Nhà tiểu sử tâm lý áp đặt cho nhà văn
loại “nối tiếp” nào? Tính chủ quan của nhà văn này sẽ đi tới đâu khi
người ta nghiên cứu “tiểu sử” của anh ta từ bên ngoài? Một cách chính
xác thì cái gì khiến cho cuộc thực hành nghệ thuật và cuộc thực hành phê
bình đáng giá như một sự “chữa bệnh” của tác giả cũng như của nhà vẽ
chân dung, dù là việc chữa đó thành công hay thất bại? Những câu hỏi
không có trả lời. Janine Chasseguet-Smirgel [57] từng ghi chép về trường
hợp Marie Bonaparte-Edgar Poe rằng những sự kiện trong tiểu sử “không
còn có ý nghĩa gì nữa vì có đến một phần ba sự kiện liên quan đến thầy
thuốc trong quá trình chữa bệnh”: chủ thể có lẽ không ở cái nơi anh ta
tin là đang ở đó, ý nghĩa các hành vi của anh ta chắc chắn là khác so
với cái mà những người khác trông thấy; đối với nhà phân tâm, cái đáng
quan tâm chính là cái mà người làm phân tích đem khớp nối (bằng huyễn
tưởng) lên cuộc sống cụ thể của anh ta và cung cấp điểm xuất phát của
một kiến tạo đang tái vạch lại các trò chơi và những thách thức lòng ham
muốn vô thức của anh ta. Chẳng hạn, với sự gợi nhắc về cha mẹ đã mất
sớm, người ta sẽ đối lập việc phân biệt giữa sự khuyết thiếu (có thực),
sự tước đoạt (tưởng tượng) và sự thiếu vắng (tượng trưng) – đứa trẻ có
thể tin tưởng, có thể sống trong cảnh bị bỏ rơi bởi một người mẹ quá
hiện hữu hoặc nó có thể tìm thấy một hình ảnh mẹ làm nó thỏa mãn nơi cô
bảo mẫu, người dì, thậm chí người cha. Vậy chúng ta hãy cho là Anne
Clancier có lý vì đã xếp Dominique Fernandez, nhà phê bình và nhà lý
thuyết, vào cùng hàng ngũ với những người ủng hộ loại phê bình tâm lý
học, bởi vì cả mục tiêu, phương pháp lẫn cơ sở lý thuyết đều không được
đóng con dấu phân tâm học được hiểu theo nghĩa hơi hẹp một chút.
5. Vấn đề tác giả
Chúng ta
đã thấy ngay cả Freud cũng quan tâm tới con người của Vinci; dường như
chúng ta có thể lắng nghe ông giao nhiệm vụ cho các nhà phân tích phải
“nghiên cứu xem tác giả đã xây dựng tác phẩm với phông cảm xúc và ký ức
cá nhân nào và cái phông ấy đã được đưa vào trong tác phẩm bằng con
đường nào, qua quá trình nào” (DRG, 245), hoặc chúng ta cũng có thể nghe
Ernest Jones tuyên bố điều gì đó tương tự với đoạn mở đầu cuốn Hamlet
và Oedipe. Tất cả mang ý nghĩa rõ ràng rằng mọi người chúng ta, dù là
nghiệp dư hay chuyên nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật, đều bị mê hoặc
bởi nghệ sĩ, bởi cội nguồn nhân văn của tác phẩm. Ngoài sự mê hoặc đó
(mà chúng ta đã từng lưu ý), cần kể thêm sức nặng của thói quen (hay sức
ép của hệ tư tưởng) và chúng ta sẽ hiểu tại sao ngay cả các nhà phân
tâm học cũng có thể khuỵu xuống dưới gánh nặng. Con người của thế kỷ XX
cảm thấy khó quyết định dứt bỏ ý tưởng về Con người mà kiến thức của ông
ta vẫn thường dựa vào kể từ Protagoras (triết gia ngụy biện Hy Lạp thế
kỷ V trước CN. Ông cho rằng toàn bộ kiến thức của chúng ta đều đến từ
cảm giác – ND) (xin xem Michel Foucault); phân tâm học cảm thấy khó rút
ra những kết luận logic (nhưng khó chịu, xin xem Freud trong cuốn Một
cái khó của phân tâm học, được dẫn trong Dẫn luận) về sự tồn tại của Vô
thức. Nếu cái Vô thức được xác định như là hoạt động của Người khác
trong lời nói – sự ước chừng này ám chỉ tương đối rõ một ham muốn khẩn
khoản không nơi chốn, không ngôn ngữ, nó là lời thỉnh cầu không ngưng
nghỉ và khó nắm bắt của Người khác ở trong mỗi người (sự đòi hỏi và tìm
kiếm, xuất phát từ Vô thức và hướng tới Vô thức) – do đó, nếu nó không
có ý thức riêng của chủ thể, cũng không có trạng thái toàn vẹn để có thể
tích hợp nó vào đó, không có bản sắc để đảm bảo tìm được ở nó một “tính
liên tục” [58] khác với cái liên tục xa lạ và không thể hình dung nổi
của ham muốn “của nó”, thì phải chăng nó đã không bị mạo hiểm với nguyên
tắc muốn dựa vào cặp chị em mê hoặc là sự liên kết và cố kết? J.
Chasseguet-Smirgel và A. Clancier, cả hai bà đều có mâu thuẫn trong lĩnh
vực phương pháp, bởi vì sự thật không phải ai chú ý đến con người thì
cũng chú ý luôn cả tác phẩm và rằng người ta có thể chuyển từ người sang
tác phẩm như một lẽ tự nhiên. Hẳn là như vậy. Song, nhắc lại rằng trò
ảo ảnh là sự trung gian bắt buộc để đi từ lời nói tới trải nghiệm cuộc
sống, phải chăng thế là đủ rồi? Điều cần phải chối bỏ nên chăng là bản
thân hành động quan tâm tới con người trú ngụ ở đằng sau tác phẩm, hoặc ở
xung quanh tác phẩm đó, hoặc ở chính giữa nó, hoặc thậm chí tản mác ở
những nét rời rạc tạo nên “hình ảnh ở tấm thảm”?
Chúng ta
hãy đi cho chót và nếu có thể thì hãy đi đến tận cùng thấu đáo. Không
đem theo tranh luận bên cạnh việc nghiên cứu nguyên nhân. Không buộc tội
những thứ còn lại của một hệ tư tưởng đang sắp tàn lụi, mang tính siêu
hình, chính trị, tôn giáo – nào là Con người, Con người Vĩ đại, Linh hồn
hoặc Nhân cách, tức là tất cả những gì người ta sùng bái tôn thờ! Cũng
không huy động ngay cả phân tâm học để tìm ra dấu vết một hiện tượng
sùng bái (lại một sự sùng bái nữa, hoặc vẫn là sự sùng bái ấy!) về Người
cha đã chết, hoặc về Người cha không hẳn là đã chết nhưng uy quyền của
Người đang đông cứng lại, mà các đặc quyền của Người về mặt xã hội (ở
cấp độ cuối cùng là đặc quyền về tính dục chăng?) đang đe dọa toàn bộ
công việc của mọi người. Chúng ta hãy đặt những câu hỏi sáng rõ mà không
đợi có trả lời, bởi vì những câu hỏi đó thỏa mãn với việc cho hiện ra
trần trụi những thái độ lừa phỉnh, hoang đường, tưởng tượng, đó là: 1)
Tại sao người ta cứ muốn bằng mọi giá văn bản phải là một người và con
người phải là trong văn bản? 2) Tại sao người ta cứ muốn bằng mọi giá
một văn bản phải gửi tới cho một người đứng trước nó và con người phải
giải thích văn bản “của hắn”? Và chúng ta hãy xếp đặt hệ thống các điều
khẳng định này như sau: 1) văn bản là cái qua đó con người “khác đi”,
làm cho khác và bị khác, một cách vô cùng – lối viết là sự sai biệt (bài
học Proust) và sự tự chủ (bài học Valéry); 2) văn bản được đọc ở không
gian của tính văn bản, nghĩa là bên ngoài của hiện thực (văn học không
phải là cái thực tại), bên ngoài quan hệ nhân quả (hư cấu không có nguồn
nào khác ngoài hành động giả vờ hoặc lấy lại một số hư cấu vẫn có từ
trước), bên ngoài tính pháp chế (một bài viết không chỉ có một nghĩa duy
nhất và ý đồ của nhà văn không được hưởng thụ bất kỳ ưu đãi nào); phụ
thêm vào đó, nó ở bên ngoài tầm chi phối của sự trao đổi, của tính sinh
lợi cũng như của sự giao tiếp (xin xem Jean Baudrillard). Tóm lại, tác
phẩm nghệ thuật, và do đó lời nói làm nên tác phẩm nghệ thuật, chính là
cái không dính gì với cái Cùng Một, bằng bất cứ cách nào; đưa tác phẩm
về cùng một, bắt nó trở lại cùng một – cùng một ý nghĩa, cùng một “chủ
thể”, cùng những con người, cùng những lối sống – sẽ là phương cách chắc
chắn nhất để hủy hoại tác phẩm, để làm thui chột đến tận khái niệm của
nó. Vấn đề là phải biến nó thành một tác phẩm nghệ thuật giữa các tác
phẩm nghệ thuật khác, nói cách khác là giữa cùng những tác phẩm ấy,
những tác phẩm tự phân chia các quy tắc của thực tại. Thực tại biểu hiện
ở phương thức của tính nhất quán, sự giống nhau, khả năng trao đổi lẫn
cho nhau, tính hàng loạt, tính thời gian có định hướng và được theo
đuổi, những chuỗi liên kết logic và những chiến lược áp bức… Một tờ ngân
phiếu, một bức điện tín, một tờ báo, một cuốn giáo khoa, ấy là những
sản phẩm, được vẽ ra, được gửi đi, được dùng để trả nợ, được ký gửi –
nhưng, nếu chúng ta bảo đó là nụ cười thì sao nhỉ? Nhất là khi nụ cười
ấy lại giống với nụ cười của chú Mèo vắng mặt trong truyện Alice ở xứ sở
diệu kỳ!
6. Trường hợp tự truyện
Coi tác
phẩm văn học là kết quả thay vì trình bày nó như nguồn gốc tuyệt đối,
xem nó như phản ánh, kết quả, dấu vết của tác giả: bấy nhiêu cũng ví
bằng bảo nó là sự đổ nát, di hài, tàn dư, và được sinh ra từ sự thất
bại. Mỗi tác phẩm công bố kèm theo một chữ ký (nó chẳng qua chỉ là cái
địa chỉ để người ta gửi tới những lời ca ngợi hoặc chửi rủa), mỗi cuốn
sách được lăng xê là sự khởi đầu của một chuỗi tiếng vang cùng với nhiều
văn bản khác; và chính độc giả là người chủ trì trong cái nghi lễ tập
hợp ấy mà không phải đọ sức với tác giả, không phải tham chiếu cái gì
khác ngoài với cái văn bản trong số các văn bản khác vào thời điểm tức
thời văn bản đó được bỏ vào lò với một tia lóe rực rỡ. Dường như chỉ có
mỗi một trường hợp [59] là cần đến cách ngoại suy cho con người, ấy là
khi văn bản được dàn dựng như sự trình bày lại về con người đó; trường
hợp này gọi là tự truyện.
Có lẽ
chúng ta vẫn chưa thể đề ra một công thức kiểu như “tự truyện bắt nguồn
từ tiểu sử tâm lý”, cho dù có nói thêm “và chỉ nó mà thôi” (nhưng dĩ
nhiên không bao giờ nói: “và chỉ từ nó mà thôi”). Dù sao đi nữa, rõ ràng
câu chuyện về một người do chính người đó thuật lại đã kéo theo việc
người đó phải xem xét lại những cái có liên quan đến anh ta mà anh ta đã
viết ra, có thể là đúng hoặc sai, ca ngợi hoặc dè bỉu… [60]
Chúng ta
hãy bắt đầu bằng cách đưa ra phản nghiệm. Để hoàn toàn bình thản chơi
theo luật của tác giả, một nghiên cứu mới đây chỉ dừng lại sau khi đã
xác định được tầm quan trọng của tự truyện trong toàn bộ tác phẩm mà
nghiên cứu đó đề cập: “Khoảng cách giữa nhà văn này và sáng tác văn học
của ông là vô cùng nhỏ bé; toàn bộ các tác phẩm của ông thể hiện sự dàn
cảnh của một cuộc đời duy nhất, đó là cuộc đời ông [...]“[61]. Cũng
như, một nghiên cứu khác nhấn mạnh về một khía cạnh khác: “Nếu Vailland
không bỏ mặc các Bài viết tâm tình ở đó ông đã ký thác những giấc mơ lúc
thức cũng như lúc ngủ của mình [...] thì phương pháp phê bình
tâm lý có lẽ đã là phương pháp duy nhất khả dĩ. Nó không còn là duy
nhất khả dĩ từ lúc chúng ta có được [...] cái tương đương một sự khơi
mào phương pháp tự phân tích”[62]. Một nghiên cứu thứ ba, tuy vẫn hết
sức đáng quý và chương đầu xử lý kiên quyết những vấn đề của chúng ta,
song nó vẫn có tính nước đôi (“Chúng ta thấy việc viện tới yếu tố tiểu
sử có vẻ hết sức hữu ích – nhưng đấy vốn không phải là phương pháp phân
tâm học tiểu sử coi sự trải nghiệm là yếu tố hàng đầu”), nó đặt vấn đề
“nếu có một tác phẩm mà sự phân tích nó có thể giải hòa được yếu tố tiểu
sử với yếu tố văn bản thì hẳn đấy là tác phẩm của Camus”[63].
Khi thực
sự là vấn đề về một tác phẩm hoặc một tập hợp công trình mang tính tự
truyện thì việc triệu tập các dữ liệu hộ tịch và lịch sử có vẻ hợp lẽ
nếu ta muốn bước vào trò chơi do tác giả lập ra. Trường hợp của Rousseau
là sáng rõ. Trong công trình đã trích dẫn và là kiểu mẫu của thể loại,
P.-P. Clément chăm chú theo dõi nhà văn này, người từng kêu lên thông
qua miệng của nhân vật Saint-Preux: “Sung sướng biết bao vì đã tìm thấy
giấy mực! Tôi dãi bày điều mình cảm nhận để làm dịu bớt tình cảm thái
quá, tôi làm thay đổi những nguồn cơn của mình bằng cách thuật lại
chúng”, và đối với nhà văn ấy, nghệ thuật hiển nhiên là sự thăng hoa;
nhà phê bình nhấn mạnh niềm vui được viết ấy, chỉ ra cả (thậm chí nhiều
hơn) hiệu quả của tác phẩm đối với con người lẫn điều ngược lại, nhưng
cũng không bỏ qua việc đánh dấu chẳng hạn tầm quan trọng mối oán hờn của
người anh trai đối với cậu thanh niên Jean-Jacques. Vấn đề đây là một
trường hợp giới hạn, chúng tôi có lẽ không dám thô lỗ nói rằng vậy đó là
một trường hợp khả nghi. Nhưng mặt khác, người ta có quyền tìm thấy
niềm vui được đọc trong tự truyện một tiểu thuyết thuộc loại đặc biệt, ở
đó, nhân vật chính kiêm người kể hoàn toàn có thể chuyển thành một
người hư cấu. Trong một cuốn sách mang tính chất quyết định, Philippe
Lejeune [64] đã xây dựng được những căn cứ, thể thức và hiệu quả của
“hợp đồng” thiết lập với độc giả cái dự án do nhà văn thực hiện cung cấp
truyện kể về đời mình. Nếu như có hợp đồng, “hiệu lực hợp đồng có giá
trị về mặt lịch sử” liên quan đến “một thị hiếu đọc cũng như một loại
hình viết” (45), thì sẽ có nền văn học chứ không có tài liệu cho các nhà
sử học, từ ấy, tác giả chỉ có được cái thực tế mang tính chất văn học.
7. Phê bình phân tâm học, hay Charles Mauron I
Để chốt
lại, chúng ta hãy nhắc lại rằng nói chung công việc phê bình văn học chỉ
cần lưu ý việc tác giả đã trở thành văn bản. “Người sáng tác” trong
“hiện thực” của y là việc của các nhà nghiên cứu lịch sử văn học,
các nhà sử học nói chung hoặc các nhà xã hội học, các nhà phân tâm học,
những người đang đặt câu hỏi về tính sáng tạo. Quan điểm của Charles
Mauron [65] rất rõ ràng, điều đó suy ra từ những tuyên bố của ông về
nguyên tắc như: chỉ đến cấp chung thẩm người ta mới cần xem xét tới tiểu
sử, mục đích để kiểm tra xem liệu việc “phân tích theo kiểu phê bình
phân tâm học” có dẫn tới hợp pháp hóa được tất cả những lang thang thơ
thẩn, và nói thẳng ra là những huyễn tưởng của độc giả hay không. Sự
thận trọng đáng quý, tuy nhiên nó không phải là không có vấn đề. Dù sao
thì tác phẩm của Mauron ngay từ khi được biết đến (Genette) [66] và
trong những năm tiếp theo (Mehlman) [67] đã trở thành đối tượng những
nghiên cứu nhấn mạnh các nguy cơ và sự chệch hướng bên trong tác phẩm,
mặc dù vẫn tỏ lòng kính trọng ông là người tiên phong về công việc ấy.
Về cái cốt lõi là phương pháp xếp chồng văn bản, chúng tôi sẽ có dịp trở
lại sau bởi vì phương pháp này thực hiện ở ngoài con người. Còn bây giờ
cần lưu tâm đến những trật trẹo ở Mauron giữa các tuyên bố về ý định,
các nguyên tắc mang tính lý thuyết và việc tiến hành trong thực tiễn. Về
điểm thứ hai thì các tính chất nước đôi là hiển nhiên, bởi vì con người
bị tống khứ qua cửa chính với danh nghĩa tiểu sử lại bao vây các cửa sổ
để vào nhà dưới dạng “huyền thoại cá nhân”, trong khi đó thì sự mâu
thuẫn giữa “cái tôi xã hội” và “cái tôi sáng tạo” dâng lên mũi của phân
tâm học một làn hơi bốc mùi dị giáo.
Người ta
biết rằng, bằng một số phương pháp độc đáo, Mauron nêu ra được các phép
ẩn dụ nhấn đi nhấn lại trong một tác phẩm, nhằm đem lại lối diễn đạt
tượng trưng cho tác phẩm ít hơn là nhằm làm nổi bật cái mạng lưới hình
thành nhờ các mối quan hệ đang tồn tại giữa chúng. Từ các quan hệ ấy, dĩ
nhiên là quan hệ vô thức, Gérard Genette nhận xét rằng người ta chuyển
sang “những hệ thống hình tượng kịch tính rộng lớn hơn và phức tạp hơn,
cấu thành nên cái mà Mauron gọi là huyền thoại cá nhân của tác giả”
(135). Jeffrey Mehlman tiếp tục cuộc phân tích nhằm chứng minh rằng có
một sự “chia tách giữa phương pháp văn bản và lý thuyết về tác phẩm; lý
thuyết này xa lạ đối với ông và nó đe dọa một cách khéo léo việc đầu tư
cho tác phẩm” (383). Thực tế trong thời gian đầu, huyền thoại cá nhân là
“hình ảnh thay đổi khó nắm bắt của thực thể chủ quan bị cắt vụn, [...]
luôn chạy trốn trước nhận thức mang tính phê bình” (379). Chính vì được
quan niệm như vậy nên huyền thoại cá nhân đang lật nhào khái niệm cổ
điển về cá tính. Song Mauron đã chịu ảnh hưởng của Kris, nhà phân tâm
học người Anh, cùng giả thuyết của ông này về “cái tôi – người trung
gian”: ấy là trong trường hợp theo ông ta, tác phẩm được hưởng đặc quyền
“tái lập trạng thái hiệp thông hoàn toàn từ trước khi ra đời” và trở
thành “một dự án tích hợp tâm thần giữa huyền thoại cá nhân (mang tính
vô thức) và thế giới quan (mang tính hữu thức)” (381). Công trình nghiên
cứu lớn cuối cùng của người sáng lập ra lối phê bình phân tâm học về
mặt này là rất đáng lưu ý: cái ông Beaudelaire của Các bài thơ ngắn bằng
văn xuôi đã dàn cảnh các cuộc phiêu lưu của “cái tôi sáng tạo” bị xé ra
thành bốn gương mặt của chủ thể, đó là Quốc vương, Thằng hề, bà Góa và
con Điếm, những gương mặt bất chấp gốc rễ huyễn tưởng của chúng, vẫn bị
ngoại vật hóa một cách đặc biệt.
Theo kết
quả khám phá của Genette, cái đã từng có thể trở thành một cách đọc phân
tích văn bản, cái có lẽ đã hoàn toàn xứng với tên gọi “đọc tâm lý”, nay
biểu lộ ra ở cuộc thử nghiệm một dạng nhẹ bớt của phân tâm học tiểu sử,
với điều kiện đấy là của một bộ máy có phương pháp cụ thể, chúng ta hãy
nhấn mạnh điều ấy. Mối nguy hiểm xuất hiện ngay khi Mauron say mê với
tham vọng tác động ở quy mô toàn bộ các tác phẩm. Kỹ thuật cực kỳ phong
phú, song nó vận hành trên lưỡi dao sắc, điều này càng đúng biết bao vì
người ta thấy đau đớn khi phải dừng lại ở ngưỡng sự hiện diện của con
người. Kỹ thuật chính đáng với điều kiện nó không gục ngã vì choáng váng
về “chân dung của nghệ sĩ”. Như kẻ hoàn toàn bị dồn nén, tác giả luôn
luôn tìm cách tránh né sự kiểm duyệt!
Chắc chắn
sai lầm duy nhất của Mauron, nhà nghiên cứu mạnh bạo ấy, đầu óc chặt chẽ
ấy, là đã không có cái may mắn được sống thêm vài năm nữa, bởi vì,
người ta không thể hình dung nổi ông sẽ phản ứng ra sao với sự bùng nổ
của chủ nghĩa tân Freud. Có lẽ ông sẽ sắp xếp từ đầu đến cuối công việc
thực hành của mình chăng? Người ta đã thấy một số người lợi dụng tốt sự
thay đổi gọi là “thuộc trào lưu cấu trúc chủ nghĩa” (hay “ngôn ngữ học”)
diễn ra cách đây khoảng chục năm.
Chúng ta
hãy đưa ví dụ hay nhất ở một người đi tiên phong mà ta có thể viện dẫn
về sự thích ứng của người ấy trong lĩnh vực phê bình văn học; vì đang
bàn về lối đọc “chủ đề” [68] nên chúng ta hãy tìm Jean-Pierre Richard;
ông có lợi thế là một trong những người nổi tiếng nhất. Trong tác phẩm
Mallarmé (Seuil, 1961) của ông không hề nhắc tới Freud chút nào, đấy là hiện tượng học
hướng dẫn cách thức lý luận; năm 1974 ra đời cuốn Proust và thế giới
cảm xúc, trong đó, các ghi chú ở cuối trang có lẽ chiếm tới 20% tổng
dung lượng cuốn sách, tạo thành một bài đọc song song. Cách đọc “bên lề”
cần đến sự trợ giúp của phân tâm học một cách thường xuyên và hiệu quả;
cách đọc phong phú, làm sủi tăm lên, gây sợ hãi một chút nhưng đã được
khẳng định và dù sao cũng đã được duy trì; cách đọc thứ hai tuy có vẻ
hoàn toàn có ích, nhưng không thể không ảnh hưởng đến lần đọc khác – lần
đọc khác của nó sẽ không bao giờ là y hệt nhau. Nếu muốn thì có thể tìm
thấy bằng chứng ở một số bài báo mới đây [69], trong đó đương nhiên vấn
đề là ham muốn, huyễn tưởng, hoạn thiến v.v… Hãy lưu ý rằng Richard
không còn đặt tít về Mallarmé, Hugo, Michelet nữa, mà là về Sorcière, về
Javert, về một bài thơ hoặc một trang sách. Phương pháp thay đổi đồng
thời với sự dịch chuyển của đối tượng phê bình, và sự diễn tiến dường
như đi theo hướng củng cố quan điểm của chúng tôi về vấn đề này.
VI. Đọc văn bản
“Phương
pháp tiến hành của chúng tôi gồm sự quan sát có ý thức những quá trình
diễn biến tâm lý bất bình thường ở một người khác để rồi từ đó có thể
đoán định và phát biểu thành các quy luật. Nhà tiểu thuyết thì làm khác
hẳn: anh ta tập trung chú ý vào cái vô thức tâm thần của riêng anh ta,
dỏng tai nghe toàn bộ những khả năng tiềm ẩn của mình và đem lại cho
chúng cách diễn tả nghệ thuật thay vì dồn nén chúng bằng lối phê bình có
ý thức. Điều chúng ta học được qua người khác thì nhà tiểu thuyết học
được qua cái bên trong của chính anh ta, đó là: những quy luật nào chi
phối đời sống vô thức; nhưng anh ta không hề có nhu cầu trình bày những
quy luật ấy, thậm chí cũng chẳng muốn nhận thức chúng một cách rõ ràng,
bởi vì, nhờ trí thông minh bao dung của mình, nhà tiểu thuyết đã hòa lẫn
những quy luật này vào trong sáng tác của anh ta.” – (S. Freud, DRG,
242.)
Với sự trợ
giúp của Freud đọc một văn bản (từ một đoạn tới toàn bộ tác phẩm, chiều
kích dài ngắn không quan trọng) bên ngoài tác giả [70] – nghĩa là đặt
tác giả ở ngoài việc đọc đó – là một hoạt động va chạm những thói quen
phê bình của chúng ta và gây nên sức kháng cự mơ hồ ở ngay những người
mà sự kháng cự ở họ vốn ít được chờ đợi nhất; tuy nhiên, tương lai của
các nhà nghiên cứu theo kiểu “phân tâm học văn học” có vẻ lại nằm chính ở
đấy.
André
Green bảo đảm chắc chắn rằng “mối ngờ vực ấy về những liên hệ giữa tác
giả và tác phẩm [...] trong phần lớn trường hợp đều đi kèm một đòi hỏi
về tình ái không thể không lưu ý” (Con mắt thừa, 33, chú thích). Xin
hiểu ở đấy có lẽ có cái giống như một nỗ lực đáng ngờ nhằm giết chết
người Cha để chiếm lấy vị trí của ông, bởi vì, người ta biết quá rõ điều
ấy và Boileau hoặc Sainte-Beuve còn biết điều ấy rõ hơn ai hết, rằng,
nhà phê bình là một nhà văn không thành đạt, có thể không thất bại cũng
không “bị dồn nén”, nhưng là người sợ “viết” (theo nghĩa nội động từ,
không cần có bổ ngữ: nhà văn “hư cấu” một cách tự do, “như thế” và “trên
cái không có gì”, nhà phê bình là một thợ làm khoán gắn với mảnh đất
trồng trọt của nhà văn). Dù sao đi nữa, ngày nay càng ngày càng có nhiều
nghiên cứu tìm tòi hướng theo con đường phân tâm học văn bản [71]. Phân
tâm học văn bản có những mô hình, tham vọng, phương pháp, tính đa dạng
của nó (điều này là bằng chứng cho sự khỏe mạnh). Nó hiện diện ở đây vào
lúc cuộc bay bên trên của chúng ta kết thúc, bởi vì nó là sau chót:
xuất hiện gần đây nhất, và đang thúc đẩy các quá trình can thiệp của nó
tới tận cùng, cho tới những nguy cơ dính kết với toàn bộ mũi đột phá
tiền phong – những nguy cơ mà nếu không có chúng thì cũng chẳng có niềm
hy vọng. Tất cả điều đó không phải đương nhiên là vậy. Nếu suy nghĩ ít
hay nhiều về quá khứ từ đó xuất hiện phân tâm học văn bản, thì sự lạm
phát các cương lĩnh lý thuyết sẽ đe dọa nhấn chìm nó và gán cho nó vẻ bề
ngoài của chủ nghĩa khủng bố; mặt khác, nếu được hưởng các lợi thế của
thị hiếu, thì sự sửa chữa và dò dẫm (mà phải làm nhanh!) luôn luôn là số
phận quá thường nhật của nó. Như vậy, để nhìn nhận rõ ràng về phân tâm
học văn bản cũng như để nói về nó cho đúng, thật khó biết bao.
1. “Gradiva”: bước chân vũ nữ hay bước chân thầy tu?
Một lần
nữa, chúng ta sẽ may mắn có một tiền lệ ở Freud. Nói cho đúng, là hai
tiền lệ. Nhưng chúng ta sẽ chỉ giữ lại từ “Moùse” của Michel-Ange điều
vụn vặt do khán giả đem lại (anh ta thú nhận quá liên quan vì các lý do
không thuộc thẩm mỹ) để phán xét về ấn tượng tổng thể dựa theo lực cơ
bắp của cánh tay, sự lượn sóng của bộ râu và vị trí của ngón tay. Còn
lại trên bệ của kiệt tác Sự mê sảng và những giấc mơ trong tác phẩm
“Gradiva” của Jensen là cái đầu cao và giá đỡ đẹp đẽ chừng bảy mươi năm
rồi. Bài tham khảo ít dành cho học thuyết, mà chủ yếu dành để quan sát
thực tiễn một hiệu quả hiếm hoi và hiệu quả này không phải là không có
sự nước đôi nào đó.
Câu chuyện
quen thuộc về một nhà khảo cổ học trẻ tuổi trở nên si mê một hình chạm
nổi thể hiện cái chân của một phụ nữ đang bước (cứ cho là: gradiva); anh
ta đi Pompéi để hoàn thành cuộc điều tra và bị lạc ở đấy. Sau khi tưởng
cô là một con ma, anh nhận ra cô là một bạn gái từ thời niên thiếu: cô
Bertgang (cho là: Cô gái-đẹp dáng). Cô tìm cách chữa trị cho anh, mở mắt
cho anh thấy đối tượng si mê thực sự của anh chính là cô… Đoạn tóm tắt
này không biện giải được về tấm vải tiểu thuyết rất hoa lệ, được thêu
dệt từ những việc xảy ra bất ngờ, những nhân vật phụ, những giấc mơ,
được pha trộn cả lời nói có cách hiểu kép mà chìa khóa giải mã được cung
cấp khi người ta lại đặt chân vững chắc lên mảnh đất của ham muốn được
chấp nhận. Freud tiến hành phân tích một văn bản mà văn bản này, theo
một cách nào đó, đã là câu chuyện của một phân tích, và thậm chí là của
hai, đó là: phân tích mà Zoé dẫn dắt với lý lẽ tinh tế (cứ cho là: Sống
động), và phân tích mà tác giả Jensen phải thực hiện được nhưng không
biết điều đó, cả hai phân tích đều dựa trên “linh cảm” tuyệt vời, của cô
gái si tình và của nhà thơ. Giá mà ở đó dàn cảnh được sự liên kết vợ
chồng giữa cơn mê sảng với sự thật của nó, đây chính là điều làm Freud
say mê; đây cũng chính là cái khiến một số nhà bình luận lúng túng, ấy
là: cô dâu quá đẹp. Người ta bảo văn bản sẵn lòng chiều theo lối đọc ấy
đến mức chẳng gì chứng minh được về tính hợp thức của nó như là mô hình
có thể xuất sang các lãnh địa văn học khác. Người ta còn nói thêm: người
đọc không ai sánh được này chắc hẳn xứng đáng được nhìn rõ, thế nhưng
anh ta được xác định cùng lắm là một ông chủ lý thuyết – những cơ chế
vận hành của tình cảm vô thức -, người ấy rút gọn truyện ngắn lại thành
một minh họa của chứng điên và sự chữa trị nó. Tính cá biệt của trường
hợp, hành trình rút gọn: đó là hai hạn chế đầu tiên có vẻ được thừa
nhận. Cái gì chống lại họ, nếu không phải là hai câu hỏi sau: mọi văn
bản văn học đều để ngang mức trong nó một dạng trần trụi, kín đáo, thậm
chí bí mật, của chính chức năng của nó, bao gồm cả vô thức, phải chăng
điều đó hoàn toàn chính xác? Việc một hôm nào đó bỗng nảy sinh một cái
khuôn kéo sợi ngữ nghĩa (chúng ta đồng ý rằng đối với cái khuôn đó, ngữ
nghĩa có sự cố kết đặc biệt, ấn tượng, lo âu), việc ấy do đâu mà lại mà
lại là một sự cắt xén văn bản, nếu quả thật cái tên đó là xứng đáng, bởi
qua định nghĩa, văn bản phải đem sợi ngang của nó gán cho nhiều sợi dọc
vay mượn về ngữ nghĩa? Những vấn đề thuộc chứng loạn thần kinh của
Norbert Hanold chỉ là một khía cạnh của truyện ngắn; hơn nữa, truyện bao
gồm một câu chuyện tình theo kiểu truyền thống, một chuyện kể về chuyến
du hành (Đức – Italia), một số khơi gợi ngoại lai (thời Cổ đại), v.v…
Do bất ngờ xuất hiện trước chúng ta, cái hình thể mà Freud nhận ra đã
gây nên một hiệu ứng cảm kích đột ngột, người ta đòi nó phải loại trừ
các môtíp khác; từ việc nó tổ chức được những môtíp này một cách hiệu
quả, người ta quên mất rằng còn có những cách tổ chức khả dĩ khác nữa.
Do thiếu
chỗ, chúng ta không thể quan sát tỉ mỉ cách thức lập luận mà
Freud-Gradivus vay mượn; những lỗ hổng này được lấp đầy từ trước, bởi vì
Sarah Kofman (Bốn tiểu thuyết, tr. 101-134) đã chứng minh một cách rõ
ràng và sắc sảo những lợi thế và bất lợi của phương pháp thao tác kiểu
Freud. Sau khi xem xét kỹ những nguy cơ của bài tóm tắt, hay đúng hơn là
của một số bài tóm tắt kế tiếp nhau, nhờ có chúng, những điểm nổi cộm
do lối nghe bồng bềnh của Freud nêu ra được xếp vào mạng lưới tự sự,
Sarah Kofman chứng minh rằng cách đọc chi tiết hơn, trung thành hơn với
từng chữ của văn bản có thể đem lại sự giải đoán còn phong phú hơn nữa.
Bà đặt câu hỏi then chốt cho các nghiên cứu của chúng ta như sau:
“Ai là
người cho phép lựa chọn cái nào sẽ được giữ lại hay không được giữ lại
trong bài tóm tắt? Khi làm tóm tắt, phải chăng người ta chỉ đơn thuần
xóa bỏ tính hấp dẫn của văn bản[72]? Phải chăng người ta cũng không làm
biến đổi nội dung, không làm phát sinh ra một văn bản khác?” (104).
Từ những
câu hỏi đó, người ta trở lại vấn đề: lối giảng giải dài dòng văn tự kiểu
Freud có một chức năng là giải thích, nó cho phép sự tái thiết đúng
đắn, bởi vì nó hoạt động theo cách phân tích mổ xẻ chi tiết một tác
phẩm; song nếu như sự chia nhỏ là tích cực thì sự tuyển chọn lại bộc lộ
một nguy cơ khó lường. Hơn nữa, nguy cơ này có thể trở thành thảm họa
tàn khốc là lột da lời nói khỏi tấm thân tu từ học của nó bằng cách đem
nó đi chiếu X quang. Với danh nghĩa đó, việc S. Kofman khôi phục lại
cách đọc của Freud không làm thay đổi cái cơ bản; về phần mình, trong
tác phẩm Gradiva theo nghĩa đen, tôi đã cố gắng biểu lộ một cái nhìn
chăm chú hơn tới những hiệu quả đặc biệt – có cần gọi đấy là những hiệu
quả “văn học” không? – Chính những hiệu quả ấy xui khiến cái vô thức của
độc giả, động viên nó, làm nó phải can dự vào.
2. Can thiệp vào văn bản
S. Kofman
nhấn mạnh rằng “cách đọc của Freud [...] ở đây vẫn là đọc theo lối chú
giải văn bản cổ và theo đề tài”. Nhấn mạnh như thế vừa có ích, vừa đồng
thời hơi nghiêm khắc quá (tác phẩm đó ra đời năm 1907). Diễn giải trước
hết là tóm tắt để làm việc trên những đường nét đại thể về cách tổ chức
của ảo ảnh – tức là các từ chính trong câu -, rồi sau đó hoặc cùng lúc
quan tâm đến con chữ trong văn bản, ý nghĩa của nó, bởi vì con chữ không
thể nào vô nghĩa được – cần quan tâm không những các tính từ, mà cả các
từ-công cụ, cú pháp, cách đọc nhấn từng vần, cho đến tận các âm vị,
hình vị mà thông qua chúng, việc ghi chép của ngôn ngữ được thực hiện
trong từng âm vị, hình vị ấy, tại điểm nhậy cảm gặp gỡ giữa tâm thần và
thể hệ (psyché và soma).
Chúng ta
phải thật dứt khoát về vấn đề trên, bởi vì, để khỏi rơi vào sai lầm của
lối chú giải văn bản cổ trước kia vốn chỉ phiên ra, rồi dịch và cuối
cùng là giải mã hoặc đúc kết thành những cái tương đương có tính chất
tượng trưng – , việc diễn giải đặt ra giả thiết có nhiều loại hoạt động
gắn kết một cách tinh tế với nhiều chiều kích của phạm vi hoạt động.
Đối với
cái thuộc các phạm vi hoạt động thì quy mô được mở rộng đến toàn bộ tác
phẩm theo một tuyến. Điều đó không phải là nghịch lý, chỉ cần nghĩ tới
bài thơ một câu nổi tiếng của Apollinaire nhan đề Ca sĩ:
Và sợi dây duy nhất của dàn kèn biển khơi,
khi chuyển
sang những công trình được xem xét một cách riêng rẽ và những đoạn được
quan sát bằng kính hiển vi. Điều cơ bản là thiết lập được một hàng rào
bao quanh văn bản cần đọc, đừng làm văn bản tràn ra phía ngoài, mà hãy
để nó hướng vào bên trong, cái bên trong của nó cũng đã lai láng bởi tác
động của những sự đoạn tuyệt có tính chất vô thức. Giới hạn không gian
để hoàn thành những quãng đường đi ở đó, nhận thức những chuỗi liên kết
cái được biểu đạt với tiếng vọng cái biểu đạt (có thể trong sự phủ định
hoặc ngược lại), xác định vị trí những chuyến tốc hành cần phải chạy
vòng quanh, đồng thời mang theo chiếc cano để phá vỡ sự chóng mặt, tóm
lại, nghe theo chủ ý can thiệp, tức là “trong khoảng-cho vay” như R.
Major nói[73].
Vấn đề ở
đây có hai mặt. Một mặt, người ta đưa các hình ảnh thể hiện bề ngoài có
vẻ bị tách khỏi thực tế vào mối quan hệ (bằng cách tạo ra những quan hệ
không dự kiến trước, tất cả đều chưa từng xảy ra), xúc tiến tạo dựng các
giá trị (theo nghĩa ngôn ngữ học), khước từ phân biệt rạch ròi trật tự
của khái niệm với trật tự của nhận thức, xáo trộn toàn bộ hay sắp xếp
hài hòa các từ ngữ-sự vật với các sự vật-từ ngữ: coi văn bản như một
giấc mơ mà người ta muốn làm toát ra từ đó những cú pháp tiềm tàng, bằng
cách chỉ trông cậy đặc biệt vào các từ vựng văn hóa (Freud nói: “Hoàng
đế, đó là người cha”, keo kiệt hơn ta tưởng qua một số biểu tượng dễ
nhận thấy, xem IDR, chương VI). Mặt khác, dù sao cũng giống như quá
trình người phân tích tiến hành với sáng kiến của anh ta hoặc với sự gợi
ý của chuyên gia phân tích, người ta kiếm tìm các liên kết, cái sẽ được
ghép một cách tự phát lên yếu tố đang thu hút sự chú ý do đặc tính bất
thường hoặc do sự vô vị nhạt nhẽo cùng cực của nó (“một quý bà có ria
mép rậm”/ một nhân vật “không có gì đặc biệt”?).
Những độc
giả có thái độ dè dặt sẽ kêu lên: sao lại có chuyện ấy, vậy ai sẽ làm
liên kết đây? Bạn bảo rằng: không có liên kết thì không có ý nghĩa;
không có bệnh nhân thì không có liên kết: ấy là bạn đang trong trò ảo
thuật! Không đúng, bởi chính nhà phê bình sẽ là người làm liên kết. Và
chẳng có gì phải kêu ca với miếng mồi nhử, bởi vì không có nghiên cứu
khoa học nào mà nhà nghiên cứu lại không giao thoa trong đó (Heisenberg
đã đúc kết thành quy luật, mục đích hướng tới không phải là sự tưởng
tượng mà là những “sự việc” được xác định một cách chính xác như các
phân tử vật lý vốn có thể định lượng được). Nhà phê bình liên kết mạnh
mẽ với cái nào lập anh ta làm chủ thể, tuy nhiên anh ta không liên kết
theo kiểu miễn phí, mà theo cách: cùng với các ảo ảnh của mình nhưng
không rơi vào sự tưởng tượng ngông cuồng. Bởi vì anh ta nắm trong tay
một số kỹ thuật vốn đa phần là những nghi thức khách quan hóa [74] –
chúng ta sẽ tìm gặp lại Charles Mauron ở điểm ấy – và anh ta có thể sử
dụng theo hướng có lợi cho mình cái có thể gọi là quy luật về tính phổ
quát của vô thức. Mặt khác, không nên quên rằng niềm vui cảm nhận được
cùng với sự phục hồi lại văn bản trong lúc đọc không chỉ dựa trên sự đọc
ra được, sự công nhận một ý nghĩa, mà nhiều hơn cả là dựa trên sự tổng
giác của một lao động (chẳng hạn cô đặc lại hoặc di chuyển chỗ); điều
này nói lên rằng nhà phê bình không chỉ có một tham vọng duy nhất là bổ
sung thêm một ý nghĩa mới: anh ta còn nhắm tới xây dựng lại một kiểu
kiến thiết – điều mà Baudelaire từng gọi là “trò phù thủy gọi hồn”, còn
Rimbaud thì gọi đấy là “thuật luyện đan ngôn từ”. Về vấn đề trên, có lẽ
phải công nhận các độc giả-nhà phê bình chậm trễ hơn so với các độc
giả-nhà phân tích vốn là những người từ lâu đã biết rằng ích lợi của văn
bản nằm ở trong tiến trình, trong sự trải ra của văn bản mà đối với họ,
văn bản chỉ là cái cớ cho sự khảo sát lý thuyết; các nhà nghiên cứu văn học
thường chỉ hay khao khát tìm ra và cung cấp lời giải về những cái mà họ
đánh đố, đây chính là lý do cho những ai lên án họ “làm bẹp dí” thành
tựu mỹ học.
Sự thực là
(đáng tiếc là) một số người hâm mộ nhìn thấy ở phân tâm học trước hết
một danh mục các biểu tượng: đối với họ, mọi vật thể hình trụ đều là
dương vật (nếu không muốn nói là dương vật đang cương!), mọi vật thể lõm
đều là vú mẹ, và họ tỏ ra ngập ngừng trước một chiếc mũ mềm mà tính
chất hai mặt của nó khiến họ phát cuồng! Họ chỉ tiến hành loại phân tâm
học văn bản giản lược bởi vì kiến thức phân tâm học của họ bị hạn chế.
Tuy nhiên, tình trạng kém cỏi của độc giả không có giá trị làm luận cứ,
ngoại trừ để cáo giác sự thiếu khả năng, như vậy, sự khác nhau thực sự
không diễn ra giữa những người đọc giỏi và những người đọc tồi; nó diễn
ra giữa những người sử dụng văn bản vì lợi ích của lý thuyết với những
người sử dụng lý thuyết vì lợi ích của văn bản.
Chúng ta hãy bằng lòng với lời thú nhận mào đầu cho một kiểu đọc cuốn “Bà hầu tước số 0″:
Chỉ có sự
mong muốn chia sẻ với độc giả niềm vui có lẽ đã cảm nhận được khi viết
bên lề văn bản một kết cấu sau này thành của riêng anh ta mới cho phép
nhà phân tâm học khởi đầu sự vận động như vậy”[75], hoặc: từ hai câu sau
đóng khung sự xuyên ngang đặc sắc của Người xa lạ và Sự sụp đổ:
“Từ chỗ bỏ
rơi tới chỗ cầm đọc, mỗi người đều chờ đợi một cái gì đó; hơn nữa, lúc
ấy anh ta có lý thuyết định hướng cho sự chờ đợi của mình, bất kể anh ta
có ý thức về điều ấy hay không [...] Giá có một nhà văn có khả năng đưa
ra được cách chẩn đoán thật sắc sảo và thật chính xác về căn bệnh của
người châu Âu để nói cho chúng ta biết mức độ thiên tài của Camus”[76].
“Viết bên
lề” là phát giác ra, giống như cuộc tìm kiếm một “kết cấu” cá nhân làm
phát lộ các phẩm chất, như dự định vẽ chân dung một típ người cho ta
thấy một thời kỳ nhất định. Thế nên J. Hassoun và Masud Khan đề xuất với
độc giả ngoại đạo những đường đi bất ngờ và đầy ám chỉ ngay cả khi bản
thân họ đang dõi theo qua đặc tính trong suốt một hình in chìm xa lạ với
những mối quan tâm gọi là về văn học.
Thí dụ đã trở thành mẫu mực ở thể loại này, chắc chắn đó là Jacques Lacan. Ông là người đã giới thiệu
với “Hội thảo về Bức thư bị đánh cắp”, bức thư mở ra theo lối biểu
trưng tập sách Các lối viết. Lối mở đầu thật ý nghĩa bởi vì lộ trình lưu
chuyển của bức thư nổi tiếng, từ hoàng hậu (người ta không biết bức thư
từ đâu đến với bà) đến tể tướng, rồi tới Dupin, lộ trình đó cho phép sự
phân tích cơ bản: ấy là phân tích sự chạy vòng quanh của “cái biểu đạt”
như cái cấu thành của chủ thể. Có lẽ Masud Khan sẽ nói: cách đọc hẳn là
“được dẫn dắt bởi một lý thuyết định hướng cho nó” nhằm minh họa những
quan điểm học thuyết vừa trừu tượng vừa canh tân; nhưng vào lúc đi ngang
qua đó, mặc dù vẫn góp phần chứng minh, song vô số chi tiết đã được đặt
thành triển vọng với kỹ thuật điêu luyện mê hồn – điều này có thể không
làm một người hâm mộ có văn hóa cao và một bậc thầy phải ngạc nhiên;
bậc thầy này có thể sẵn sàng viết lên tiêu ngữ “Trường phái Freud ở
Paris” câu châm ngôn Socrat đã được bổ sung: “Không ai được bước vào đây
nếu người đó không phải là nhà hình học và nhà văn”.
3. Từ những “liên kết” tới “xếp chồng văn bản” (Mauron, II)
Cách đọc
của Lacan ở toàn bộ phần đầu về Bức thư bị đánh cắp có lẽ dễ dàng đưa ra
được một mô hình [77] về sự can thiệp tích cực, về quá trình sản sinh
ra ý nghĩa, ngay cả khi cách đọc đó không tự đặt thành mẫu mực cho các
nhà phê bình sử dụng. Điều này thật may, bởi vì chẳng có gì nước đôi như
một mô hình, có thể là cái tốt nhất hoặc cái xấu nhất trong các sự vật.
Trước hết, chúng ta hãy nêu tính cá biệt câu chuyện kể của Edgar Poe, ở
cuộc điều tra ấy xuất hiện rất nhiều điều giống nhau giữa công việc của
viên thám tử tư với công việc của nhà phân tích; tính cá biệt này thậm
chí khiến chúng ta cảnh giác trước sự cám dỗ mô phỏng mò mẫm theo sự
tháo dỡ của Lacan. Tiếp theo, chúng ta hãy lưu ý rằng, bên cánh phải sân
khấu, chúng ta bố trí một kiểu mô hình đối xứng: các công trình của
Philippe Lejeune đối xứng với các công trình của Michel Leiris [78];
Tính cá biệt của họ tăng gấp đôi, bởi các văn bản nghiên cứu không chỉ
mang chất tiểu sử tự thuật, mà chúng còn xuất xứ từ một nhà văn vốn rất
quan tâm tới phân tâm học. Nhà văn ấy tự tiến hành cuộc phân tích riêng
của mình và nghề nghiệp dân tộc học của ông khiến ông càng thêm nhạy cảm
với câu chuyện của Người khác.
Leiris đã
ghi lại và thể hiện những giấc mơ của mình ra chữ viết. Ông giao cho
công chúng các mẫu về sự liên kết dưới dạng từ vựng (đặc biệt tác phẩm
mà cái tên của nó chỉ rõ phương thức gần như đảo từ: Glossaire j”y serre
mes gloses (Tôi xiết chặt những chú giải của mình vào từ vựng)[79]. Ông
đã không ngừng sáng tác những mẩu chuyện về cuộc đời ông mà ở các
chuyện đó, công việc thi vị hóa ngôn ngữ đem lại những sợi chỉ dẫn đường
chắc chắn và không giống với bất kỳ kiểu niên đại ký nào khác. Vậy là
tình trạng hoàn toàn độc đáo so với cái thông thường vẫn gặp trong văn
chương. Tuy nhiên, điều đó không ngăn được tác phẩm do Ph. Lejeune hoàn
thành; tác phẩm ấy trải ra, đọc trong ánh sáng soi rọi, giao cắt nhau và
tái giao cắt nhau, trở thành một trong những tác phẩm phong phú nhất
những năm gần đây mà một nhà phê bình có thể đưa ra. Thêm vào đó, điều
trở nên rõ ràng ở đây là một số văn bản của nhà văn nào vốn biểu lộ rõ
công việc theo dòng phân tâm học, không thể được tiếp cận mà không có sự
đóng góp của một năng lực thành thạo tương đương, cũng như người ta
không thể đọc cuốn Finnegan”s Wake (Sự thức tỉnh của Finnegan, James
Joyce, 1939 – ND) hoặc những bài thơ của Ezra Pound nếu như người ta chỉ
biết có tiếng Anh. Bởi vậy trong tương lai, đấy chính là điều cần phải
có mà các chuyên gia văn học ngày nay tự thấy ép buộc để đạt được sự đào
tạo về làm phân tích…
Công trình
của Lejeune sở dĩ có sức thuyết phục tuyệt đối đến thế có lẽ chỉ vì,
ngoài chất lượng cụ thể của nó, nó đã được hưởng lợi từ một kho chứa
những liên kết vừa thuộc từ vựng, vừa thuộc sự kiện, chính cái danh mục
tác phẩm mà Leiris có thể đã khai thác khi dẫn dắt phân tích riêng của
ông và cái danh mục ấy có lợi thế phụ trội là cung cấp đồng thời, không
phân biệt, sự hình thành văn học và sự hình thành vô thức. Người ta đoán
rằng vị thế của nhà phê bình chẳng phải lúc nào cũng thoải mái như thế.
Một số nguồn khác được đưa ra để che đậy sự thiếu thốn của chúng ta.
Hai trường hợp đặc biệt khác (đã nêu) xứng đáng được nhắc lại. Một
trường hợp đã chứng tỏ khả năng của mình, đó là trường hợp các giấc mơ
văn học, được gắn qua ví dụ Marthe Robert bàn về Flaubert (Tiểu thuyết
của những cội nguồn), Octave Mannoni nhân dịp nói về giấc mơ của
Baudelaire mà Michel Butor đã phân tích (Chìa khóa cho sự tưởng tượng)
và Jean Bellemin-Noel nói về giấc mơ của Swann trong tác phẩm của Proust
(Hướng tới cái vô thức của văn bản). Trường hợp thứ hai là trường hợp
các bản nháp[80] mà các nhà phân tâm học trước đây không nói đến (bởi vì
họ không quen chất liệu), song nó có khả năng tỏ ra hiệu quả khi đặt
văn bản dựa vào lịch sử nội tại riêng có của nó.
Về những
điều liên quan đến phần lớn văn bản văn học, dù chúng thuộc bất kỳ thể
loại nào, trước hết cần đối chiếu với phương pháp xếp chồng văn bản do
Charles Mauron phát minh và hiệu chỉnh. Chúng ta đã từng dõi theo
Jeffrey Mehlman trong bài báo của ông nhan đề Thi pháp học, 3 (1970),
với mong muốn tách riêng sự hiện diện gây ám ảnh của tác giả; bây giờ,
chúng ta lại theo dõi tiếp một nhà phê bình người Mỹ đã miêu tả hoàn hảo
cái cơ chế ấy. Vậy là Mauron xác định được trong nhiều bài thơ của
Mallarmé cũng như trong các vở bi kịch của Racine có “một mạng lưới hình
ảnh thường hằng” và trạng huống tâm lý dường như “được nhắc đi nhắc lại
từ bài thơ này sang bài thơ khác và xẹt ngang qua cái logic “nôm na”
của tác phẩm như một đường chéo” (373); mặt khác, ông tuyên bố: “mỗi
gương mặt đều có ý thức, nhưng cái tư tưởng kết buộc các gương mặt ấy
lại với nhau thì kém ý thức hơn nhiều”. Mehlman đối chiếu những “điểm ám
ảnh cố định” ấy với những điểm mấu chốt của Freud, lập ra bản dự thảo
phụ xung quanh các điểm này, đồng thời nhấn mạnh nhờ có mạng lưới (liên
kết) nên “việc nhảy xô vào cái tiềm ẩn không thực hiện qua việc dịch ký
hiệu, mà là qua sự thay đổi chỗ dọc theo bề mặt của các bài viết” (375).
Như vậy, nhà phê bình phân tâm “như Dupin (hay Freud), tạo được các
phát minh bằng cách tập trung sự chú ý của mình vào cái nơi mà mọi người
chẳng buồn nhìn đến; ông ta không chú trọng vào các văn bản, nhưng lại
để ý dến cái trò bất thường về tính âm vang cộng hưởng được thiết lập
giữa những loạt văn bản khác nhau” (377). Với những thể thức này thì
không gì có thể lặp lại được.
Tuy nhiên,
người ta có thể cho họ một tầm rộng hơn. Đưa vào vận hành giữa các bài
thơ hoặc giữa các vở kịch sân khấu, phương pháp xếp chồng văn bản cho
phép tái tạo lại mối liên kết và “logic” vô thức vốn cái này thông qua
cái kia làm sáng tỏ các đơn vị – ẩn dụ hoặc vai trò; giá trị về ý nghĩa
không nằm ở các đơn vị ấy khi chúng được xem xét riêng rẽ từng cái, giá
trị này sinh ra từ sự sáng tỏ có được nhờ quan hệ tương hợp của các
khuôn diện vốn từng phút từng giây phản chiếu một hiệu quả của ý nghĩa.
Cách bố trí (tất nhiên là mềm dẻo) mà người ta phát hiện được nhờ các
sắp xếp vị trí không thay đổi và nó vẫn độc lập với điều mà cú pháp bề
nổi muốn nói ngay lập tức, tại đây và bây giờ, đó là: cho dù cá tính của
họ rất khác nhau, Hermion, Agrippine và Phèdre đều tiến hành cùng một
cuộc chiến. Bước khởi sự đầu tiên là ở sự khước từ ý
nghĩa-đập-ngay-vào-mắt, để rồi khám phá một chuỗi bị ẩn khuất. Chúng ta
có hai biến số: quy mô các ngôn từ, phạm trù thuộc vào của các hiện
tượng tái diễn; từ bấy mới có thể khởi động các trò khác nhau. Mauron
tiến hành trong khuôn khổ toàn bộ tác phẩm: ông đối chiếu (“xếp chồng
lên nhau”) các tác phẩm, chính các tác phẩm đó đã có kích thước đa dạng;
nhưng điều mà ông tiến hành giữa ba bài sonnet hay giữa tám vở bi kịch,
người ta có thể làm được, vấn đề bây giờ phải tiến hành đối chiếu giữa
các thời điểm kịch hoặc các miêu tả của cùng một truyện (ông đã có kích
cỡ của Đi tìm thời gian đã mất hoặc của một truyện kể dài bốn trang),
giữa các đoạn văn, giữa các câu của một lớp kịch hay của một hồi kịch,
giữa các khổ thơ và câu thơ của một bài thơ.
Thực ra,
sự đối chọi khó hiểu giữa những cái được biểu đạt bề ngoài có vẻ tương
khắc mà mối liên hệ anh em của các âm tiết lặp đi lặp lại sinh ra, cái
tiếng vọng của các vần điệu ấy phải chăng đã là mầm mống của mạng lưới?
Chắc chắn đó là trường hợp có giới hạn, nhưng thuộc cùng một loại mà
chúng ta đã quen đối diện khi đọc thơ. Vậy người ta xếp chồng cái gì?
Những hình thái tu từ, những diện mạo tâm lý, những hình thể không gian,
những loạt biến đổi (bố cục) được tác động hay được thuật lại. Các giá
trị được chỉ rõ như thế tự cụ thể hóa nhờ sự hợp dính dưới con mắt chăm
chú của “người nghe” thành nhiều khối ảo ảnh, trong đó bằng cách thanh
lọc, người ta có thể sẽ tách riêng được một cái nhân vô thức. Người ta
đã từng nói điều ấy, điều ấy không đủ: khi vận hành trong khuôn khổ
những quá trình sơ khởi, cái vô thức xử lý trước hết các từ ngữ như là
những đồ vật, cưỡng ép chúng trên rìa vật chất của chúng (âm, nét viết)
trước khi sử dụng chúng như những đối tượng văn hóa (được từ vựng hóa và
ngữ pháp hóa); như vậy, nên giữ gìn ý nghĩa biểu đạt. Người ta cũng sẽ
xếp chồng lên nhau những tên riêng (về nguyên tắc không có nghĩa), những
sự lặp lại âm vị (láy phụ âm, giảm chữ), những tác động của in ấn (chữ
hoa, chữ nghiêng, chữ trắng), đồng thời cũng không quên chiều kích cú
pháp của cái biểu đạt như: cách dùng câu đẳng lập và câu phụ thuộc phải
tuân theo những nhịp điệu rõ ràng và tạo ra được những liên kết cường độ
khác nhau, các thời và thể của động từ biến đổi phong phú, những thán
từ mưu mô lừa phỉnh với những tình cảm xúc động, ngay cả hơi thở của độc
giả cũng được tham gia vào cách đọc nhấn từng từ của văn bản…
4. Thành tựu và triển vọng
Người ta
thấy ở Pháp, toàn bộ thành tựu và triển vọng được thể hiện thực tế trong
những cuốn sách và bài báo mới ra gần đây mà ta cần nêu ra. Nhưng tiếc
là ta phải nêu con số có hạn những sách báo đó, bởi chúng đòi hỏi ta
phải có năng lực gấp đôi mới nêu hết, đành nêu hết sức chọn lọc trong số
đó vậy! Vấn đề ở đây không nhằm xây dựng một danh sách người được nêu,
mà đây chỉ là một số tên tuổi có vẻ có ý nghĩa. Trước tiên cần xác định
chính xác: trong số tất cả những người hành sự vắng mặt tác giả như thế
[81], đến hôm nay không có những liên hệ nào khác ngoài liên hệ cá nhân
và từng mảng một; không có bất kỳ “trường phái” nào cũng như không có
bất kỳ tạp chí chuyên môn nào. Tất cả họ đều từng là hoặc đang là những
người riêng lẻ, những tay súng du kích bắn tỉa, không được đào tạo thuần
nhất, không giả định trước phải có nền tảng lý thuyết chung; mỗi người
tái sáng tạo phương pháp của riêng mình, đôi khi họ sáng tạo lại vào mỗi
dịp. Điều đó khiến cho sự sáng tạo sinh sôi nảy nở dễ dàng và vô chính
phủ, song ít có khả năng tạo ra các khuynh hướng. Thực sự, cái thiếu
nhất chính là những đề xuất mang tính lý luận và kéo theo đó là những
cương lĩnh về phương pháp luận. Người ta có cảm giác về khe trống giữa sự táo bạo của lối diễn giải hay lối đọc với sự khiêm tốn của triển vọng.
Tuy nhiên,
nếu có viện dẫn các nhà phê bình nổi tiếng thì thú thật là sự nổi tiếng
của họ đã được tạo dựng ở chỗ khác. Chẳng hạn, Roland Barthes cáng đáng
các mục tiêu “tiền Mauron” trong cuốn Michelet tự thuật (NXB Seuil,
1954) – ông nói ông đang tìm kiếm “những điều ám ảnh”; trong cuốn Bàn về
Racine (NXB Seuil, 1963), ông hứa hẹn giữ khoảng cách với Mauron qua
lời tuyên bố rất táo bạo thời đó: “Sự phân tích được trình bày ở đây
không liên quan chút nào tới Racine, mà nó chỉ liên quan tới nhân vật
của Racine. Lối phân tích này tránh suy diễn từ tác phẩm sang tác giả và
từ tác giả sang tác phẩm” (9); rồi sau đó dần dần ông đã mở ra một con
đường khác. Trong bài giảng của ông về tác phẩm Sarrasine (S/Z, Seuil,
1970), các khái niệm phân tích chỉ góp thêm một đồng tiền lẻ, chúng được
phân phối giữa “các mã chú giải cổ văn” và “các mã tượng trưng”. Ông
vời đến từ ngữ của Lacan để khuất phục nó, làm nó đông cứng lại thành
siêu ngôn ngữ. Cuối cùng, theo ông, dường như cái vô thức đã mất đi mọi
sức mạnh lật đổ nhằm tạo thuận lợi cho mỹ học của cái tưởng tượng. Dù
sao thì Barthes cũng đã là một trong những người đầu tiên và thuộc hàng
đầu tiên nói thứ ngôn ngữ phân tâm học “như đó là điều dĩ nhiên”, như
một nhà phê bình trung thực ở ba thập niên cuối thế kỷ XX không thể
không biết đến điều đó.
Con đường
của Serge Doubrovsky theo lối ngược lại: ông xuất phát từ địa điểm khác
(chủ nghĩa hiện sinh của Sartre) với biết bao đòi hỏi lớn lao để đến với
phân tâm học. Cuốn sách quan trọng nhất mà ông chú tâm nghiên cứu “Lối
viết và huyễn tưởng ở Proust” (đây là phụ đề cuốn Vị trí của miếng bánh
Madeleine, Mercure de France, 1974) mong muốn là – và nó đang là – “một
cuộc điều tra phân tâm học” về sự trải nghiệm bánh Madeleine: “Tôi nói
thêm ngay: của văn bản. Tôi bỏ mặc Proust cùng cái thứ đồng tính luyến
ái lăng nhăng của ông ta cho những người khác. Cũng như Freud trước tác
phẩm Gradiva của Jensen, chúng ta đứng trước một cuốn sách, chỉ thế
thôi, không có gì khác nữa. Như vậy là quá đầy đủ rồi” (21). Lối đọc này
vận hành (gây men và lan dần ra), bám chắc vào “tính văn học của dấu
hiệu” để tựa nó vào lòng ham muốn, chăm chú lắng nghe những huyễn tưởng
hòng dẫn chúng nhập vào trạng thái “loạn thần kinh viết lách” và mời gọi
giới phê bình phân tâm học biến “cái vô thức thành thi pháp”.
Tác phẩm
lớn của Proust chắc chắn sẽ phô diễn lối viết của một tác phẩm lớn. Theo
cách nào đó ông lại đưa đẩy chúng ta tới công việc tiểu sử tự truyện.
Chúng ta không trở lại bàn về Rousseau nhiều như vậy, bởi vì, như đã
thấy, Jean Starobinski và Philippe Lejeune [82] thuộc số những nhà phê
bình tự bày tỏ “một cách tự phát” bằng ngôn ngữ của Freud, mặc dù họ là
những người vốn biết nhiều thứ tiếng. Trong khi rời bỏ ngôn từ văn học
đặc biệt của tác phẩm Tự thú, mà trong tác phẩm ấy, lối phát biểu khẩn
nài rõ ràng dội lại tới nhà văn, người ta gặp được nhiều công trình
thuộc những chủng loại rất khác nhau. Nghiên cứu về một sêri tiểu thuyết
gồm có: Jeanne Bem nghiên cứu về Ba người lính ngự lâm, Richard
Droin-Yokel về Lễ phục đen của Paul Féval; nghiên cứu về môtíp trong một
tác phẩm gồm: J. Bellemin-Noel nghiên cứu về “những cây cam” trong Tu
viện thành Parme, Michel-Francois Demet về “người đàn bà-đá” trong các
tác phẩm của Ludwig Tieck; nghiên cứu về một bài thơ như: Jeanne Bem
nghiên cứu thơ của Baudelaire, Yves Gohin nghiên cứu thơ của Hugo và
Michaux; nghiên cứu về một thể loại như: J. Bellemin-Noel bàn về những
chuyện kể của Jules Verne và của Théophine Gautier hay về những bài thơ
(“Vua của người Aulnes” của Goethe); các cách đọc tiểu thuyết gồm:
Jean-Pierre Cornille đối với Jean Lorraine, Naomi Schor và André Targe
đối với Maupassant… Cuối cùng, cần phải kể đến Marcelle Marini vì những
bài viết của bà dành cho các tác phẩm Lũ ác độc và Đại tá Chabert, cần
làm nổi bật lên vì bà hết sức quan tâm đến phương pháp.
Trên đây
chỉ là lướt qua những cái tiêu biểu. Tốt hơn hết tôi chỉ còn biết tôn
vinh bài báo của tiểu thuyết gia kiêm nhà phê bình B. Pingaud (công bố
trong tạp chí NRP, số 14, năm 1976 và được in lại trong cuốn Tựa như con
đường mùa thu, Gallimard, 1979). Bài báo đó có nhan đề là một chữ cái
Hy Lạp viết hoa “W”. Sau đây là những dòng quan trọng nhất, xin trích
dẫn luôn một lúc:
“Có một sự
chệch hướng đặc thù ở truyện kể. Cá nhân tôi ngờ rằng chẳng một cuốn
tiểu thuyết nào lại có thể được tác giả của nó “lên chương trình” trước
từ A đến B. Tôi ngờ rằng việc viết ra một “câu chuyện” sao cho nó cũng y
hệt câu chuyện đối với người viết ra nó, thì việc viết ấy không phải là
một cuộc phiêu lưu theo đúng kiểu” (251).
“Chỉ sau
khi xảy ra rồi tôi mới biết được trước đó tôi muốn nói cái gì [...].
Trong lúc viết, tôi phát hiện thấy cái mà tôi đã từng biết [...]. Thao
tác viết thành công nếu và chỉ nếu [...] như trước đấy tôi không thể nói
cái gì khác ngoài cái tôi đã nói, và nếu như cái điều tôi đã nói đúng
là cái điều mà mặc dù không biết nhưng trước đó tôi đã muốn nói ra
[...]. Sự chuyển động kép vừa theo tuyến tính (sự khám phá) vừa theo
vòng tròn (sự thừa nhận) ấy có thể được trình bày dưới dạng một chữ
“ômêga” hoa [W]. Hai nét nằm ngang [...] chỉ tính chất tuyến tính (từ A
đến B). Chúng tạo thành một nét gần như là liền. Tuy nhiên, từ nét này
sang nét kia có một chỗ gián đoạn [...]. Dấu hiệu của vòng tròn, hình
vòng lên thể hiện khúc quanh của chuyện kể; khởi đầu từ sự khám phá,
chuyện kể vòng qua khúc quanh rồi kết thúc bằng cách lặp lại chính sự
khởi đầu của nó, tự nhấn xuống tại chỗ đó”. ý nghĩa bí mật của tác phẩm
“không tạo nên cái nền làm nổi bật truyện kể, cái lõi đảm bảo sự cố kết
nội tại của tác phẩm đó. Đấy cũng không phải tổng cộng của các ý nghĩa
[được rút ra qua những cách đọc phê bình khác nhau]. Có thể nói nó là
đường cong của các ý nghĩa; nhờ đường cong ấy mà các ý nghĩa tạo thành
hệ thống và chỉ rõ cái hệ thống đó: hình vòng lên của chữ ômêga. Đó là
lý do tại sao mọi ý đồ nhằm đặt tên cho đường cong này đều là vừa chính
đáng, vừa vô bổ”. Mặt khác, nhà văn nạn nhân của huyễn tưởng mà anh ta
tỏ bày, “rất có thể tưởng tượng rằng anh ta giao cho chúng ta những điều
bí mật, điều bí mật của anh ta [...]. Kết quả sẽ không bao giờ là một
sự tự thú mà người ta có thể đọc được dưới các đồ trang trí và các khúc
quanh của văn bản, bởi vì trong tác phẩm, không phải là nhà văn đang nói
nữa, mà theo cách nào đấy, chính là bản thân văn bản – một văn bản tự
đóng kín và loại trừ nhà văn ra [...]. Tương tự như giấc mơ, theo Freud,
là người canh gác giấc ngủ, người ta có thể nói rằng văn bản là người
canh gác ảo ảnh, rằng nó phiên chế sáp nhập, điều khiển nhằm biến ảo ảnh
thành bản thể riêng của nó, vậy là nó giật lấy cái bản thể ở sự trải
nghiệm của tác giả. Từ đó, phê bình phân tâm học chỉ có cơ may đạt tới
đối tượng đích thực của nó nếu như lúc khởi đầu, nó đặt được giả thiết
về một cái vô thức của văn bản [...]” (257).
Gửi gắm
vào suy tư những đường nét ấy của lối phân tích theo chúng tôi thuộc
dạng “đầu bảng” (và cứ coi như hàng trăm trang viết trên chỉ là việc bàn
tán xì xào trước) chúng tôi dừng công việc ở đây, tại câu phát biểu cơ
bản, có lẽ là câu khơi mào, về cái vô thức của văn bản [83].
Từ giữa
những năm 80 (thế kỷ XX), tôi cố gắng mở rộng phương pháp lập luận ấy,
dựa hoàn toàn trên hai ý tưởng. Trước hết, chú trọng tới những đóng góp
của sự thực dụng của diễn ngôn sẽ sáng suốt hơn là chú trọng tới những
rắc rối của ký hiệu ngôn ngữ học, bởi vì điều đó cho phép công nhận tầm
quan trọng của sự phát ngôn (nhất là cực “người thụ ngôn”, người tiếp
nhận thông tin). Tiếp theo, mỗi nhà phê bình cần tìm được một lối viết
thực sự, tìm được phong cách của mình. Người độc giả này mộng mơ trên
văn bản để lắng nghe ở đấy một lao động vô thức. Khi anh ta cầm bút viết
cho công chúng, anh ta cần khám phá ở bản thân mình các phương tiện (sự
đồng mưu, trò chơi, sự hài hước…) nhằm tạo đà mới thúc đẩy lao động đó
trong sự vô thức của những độc giả riêng của anh ta. Sự nỗ lực này là
cái giá phải trả để không những tác phẩm làm ta mơ mộng, mà còn để văn
bản tiếp tục mơ mộng nữa nếu ta muốn.
Kết luận
“Nhưng
chúng ta hãy thôi bình luận, nếu không chúng ta sẽ có nguy cơ quên rằng
Hanold và Gradiva chỉ là những sáng tác của một tiểu thuyết gia”. - (S. Freud, câu cuối cùng của cuốn RDG)
Kết luận
thế nào đây khi mà điều đó tương đương với đánh dấu sự dừng lại ở con
đường đang theo đuổi, trên lối mòn nơi dường như ta vừa mới vượt qua
được quãng đường chông gai? Người ta sẽ định vị chắc chắn hơn nữa trong
vài năm hay vài thập kỷ tới. Về tầm quan trọng, về tiếng vang của vấn đề
được gợi nhắc thì độ dài của danh mục tài liệu trong thư mục sẽ nói lên
nhiều điều hơn là một bản tổng kết. Giờ đây, điều chúng tôi có thể thử
làm, ấy là lùi lại một chút, đồng thời đặt lại đối tượng mô tả của chúng
tôi vào bối cảnh đã được mở rộng.
Trước hết,
cần nhớ lại rằng bức tranh toàn cảnh này đã chủ tâm chơi cái trò chơi
phân tâm học và văn học, nâng chúng lên thành các định đề, trình bày
chúng như những hiện tượng văn hóa có ranh giới xác định và có tính tự
trị; những hiện tượng này mang giá trị không thể tranh cãi. Điều đó
tương đương với nói rằng, về mặt tốt của chúng, chúng ta đã thực hiện
một kiểu thể chế hóa lý thuyết mà sự cần thiết của việc thể chế hóa này
làm xuất hiện trước chúng ta một giả thuyết về lao động.
Vậy là
chúng ta đã khoanh phân tâm học lại. Sát với Freud và những người theo
trường phái tân Freud nhất, chúng ta đã coi phân tâm học như sự nỗ lực
theo hướng duy vật nhằm chỉnh sửa và khớp nối lại với nhau một lý thuyết
về Vô thức, một lý thuyết về tính dục, một lý thuyết về chủ thể nói (và
viết) thành tổng thể. Đó là một lựa chọn. Người ta biết rằng về việc đó
còn có nhiều quan điểm khác nhau: Tâm lý học chiều sâu (Jung) khoét bỏ
cái nhân ham muốn tính dục, còn ở bên sườn dốc khác, phân tích – tâm
thần phân lập (schizo-analyse) (Deleuze và Guattari) tìm cách lấy đi cái
hạt chủ thể. Vấn đề ở đây không phải về các “biến thể” của Phân tâm
học, mà là về các quan niệm khác với thực tại vô thức. Chắc chắn có thể
tiếp cận nghiên cứu văn học theo nhãn quan riêng của họ, chỉ cần điều đó
được thực hiện trên các căn cứ rõ ràng, dưới cái tít không mang tính
nước đôi. Câu hỏi về tính chính thống trở thành một vấn đề giả ngay khi
người ta đặt ra các định nghĩa đồng thời viện dẫn các tên tuổi. Như vậy,
phân tâm học chính là học thuyết của Freud và của những người ủng hộ
các nguyên lý của ông, dựa vào ông. Những người “theo Freud” có thể lên
án, khai trừ lẫn nhau. Các cuộc tranh luận và đôi khi các cuộc cãi vã
của họ có dáng vẻ tích cực, phong phú. Tuy nhiên, họ không quan tâm tới
những người xuất phát từ một ý tưởng khác về Vô thức, thuộc “siêu mẫu”
hay “mẫu máy móc”; họ cũng chẳng để mình lẫn lộn với những người ấy.
Chúng tôi
đã xác định giới hạn chặt chẽ học thuyết phân tâm học của mình, nhưng
chúng tôi không hề thu hẹp khái niệm về văn học. Dù vậy, công việc thực
hành của chúng tôi được ghi vào một hệ tư tưởng nhất định, đơn giản bởi
vì công việc ấy tách riêng được một lĩnh vực ngôn ngữ, nói hoặc viết, ra
khỏi khả năng chung về nói và viết, khả năng này vốn không thật “chung”
như người ta tưởng. Chúng tôi làm ra vẻ có “thứ văn chương” hoàn toàn
hiển nhiên và hoàn toàn cần thiết mang tính lịch sử, với cùng sự cần
thiết và cùng sự hiển nhiên như môn địa lý hoặc môn giải phẫu người.
Chẳng có gì kém được bảo đảm hơn, chúng tôi biết rõ điều đó. Vấn đề ở
đây không chỉ là ám chỉ những hậu quả chính trị và những điều kiện kinh
tế của một phép chữa trị bệnh tâm thần nào đó bằng phân tích ở xã hội
chúng ta (xã hội phương Tây, thậm chí là xã hội Pháp). Mà vấn đề là gợi
nhắc một lĩnh vực phản chiếu rộng, ở đó phương pháp phân tích ngữ nghĩa
(sémanalyse) (Julia Kristeva) có thể là ngọn cờ để tập hợp. Đối tượng
của lĩnh vực này là các “phương thức biểu thị ý nghĩa” chừng nào các
phương thức ấy phản chiếu lại và cho phép xây dựng được một ngôn ngữ vừa
mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội, chừng nào các phương thức ấy
biến đổi chủ – thể – và – lịch – sử cùng nhau. Cái sự phản chiếu lại kia
nằm ở cấp độ hoàn toàn khác, nó phải nhờ đến Freud, đồng thời nhờ cả
Marx và Saussure thì mới đọc được rành rẽ những ngôn từ của họ. Trong
phạm vi nó có vẻ nhận thức lịch sử theo mẫu tấm gương lớn di động được
(và qua lại lẫn nhau chăng?), thì nó sử dụng cái vô thức như một loại mô
hình dựa trên sự tương đồng. Nghiên cứu ngôn ngữ như sự thực hành liên
chủ thể, bằng cách biểu thị ý nghĩa và vận hành cùng danh nghĩa như tính
hợp lý về kinh tế của tiền-lao động ở những mâu thuẫn bị che đậy mà “Xã
hội” tự tu chỉnh trên đó (người bị bóc lột phải chăng [giống như] là
người bị dồn nén?) và trình bày ngôn ngữ của cùng một trào lưu như là
hiện tượng ở bên trong chủ thể, dù phải phá bỏ một quan niệm nào đó về
“chủ thể”, đó chính là đưa lý luận của Freud vào một trạng huống lịch sử
và vào một sự đổi phiên tri thức luận. Dù người ta có nghĩ gì đi nữa
thì một dự án như vậy vẫn vượt xa hơn hẳn dự án của chúng tôi [84].
Điều này
không có nghĩa là người ta không biết đến quyền năng của hệ tư tưởng,
huống hồ là sức nặng của Lịch sử. Nhưng người ta quyết định làm việc ở
phạm vi ít tham vọng hơn, trong hàng rào khoa học của một lĩnh vực mà ở
đó chất lịch sử chỉ biểu lộ ra, chỉ hoạt động như là thứ chất nặng dằn
tải trọng ngôn ngữ và thứ tài sản thừa kế của cái tượng trưng. Nguyên lý
mà công việc chúng tôi dựa vào, đó là ngày nay tồn tại một lý thuyết sự
hoạt động tâm thần có vẻ mổ xẻ được, đó là ngày nay tồn tại một tổng
thể các thực hành viết vừa cổ xưa, vừa vẫn đang hiện hành, và người ta
có thể lợi dụng nghiên cứu cái hiện hành dưới sự soi sáng của cái cổ
xưa. Nếu như ở phía bên trong có một hình thức vô trùng, tiện lợi và tạm
thời, thì ngoại trừ điều kiện thực hành, cần nhìn thấy ở đấy điều kiện
về lý thuyết của cách đọc phân tâm học những văn bản văn học, bởi vì, mổ
xẻ với đôi tay quá sạch tốt hơn là với đôi tay bẩn, hoặc như người ta
nói, chẳng có đôi tay nào hết.
Cái Vô
thức, đó là cái chúng ta bị cưỡng chế phải nhắc lại một quá khứ mà chúng
ta không nhớ và phải xem như là ký ức cái sẽ không bao giờ còn được lặp
lại dưới dạng ban đầu của nó. Nền Văn học, đó là tổng thể các bài viết
được xếp đặt một cách rõ ràng dưới dấu hiệu của sự hư cấu (tách biệt với
thuật và với giáo huấn). Chúng tái chế lại cái quá khứ ấy đang run rẩy
bởi chân lý bí mật và chúng trực tiếp tìm thấy quá khứ ấy tuân theo quy
luật của sự không hiểu biết của nó. Đọc tác phẩm hư cấu với cái nhìn của
phân tâm học cho phép đồng thời vừa tặng cho văn bản một chiều kích
khác, vừa quan sát được cách viết trong sự sinh thành và trong sự vận
hành của nó. Hoạt động văn học thu được ở đó một chế độ bổ sung về
nghĩa, và được thừa nhận có xu hướng lật đổ với tư cách công việc của
Cái khác. Các cấu trúc phổ quát và tính cá biệt không thể xóa nhòa của
con người chủ thể có lẽ từ đó được đánh giá đúng đắn hơn, do đó công
bằng hơn.
Liệu có
cần tìm kiếm khắp nơi những lý do vay mượn Freud chiếc kính kẹp mũi nổi
tiếng của ông không? Điều chủ yếu phải chăng là nên cẩn thận lau chùi
chiếc kính đó và đặt nó ngay ngắn lên mũi?
Đỗ Lai Thúy và Phan Ngọc Hà dịch từ Psychanalyse et litérature PUF, Paris, 1978
Nguồn: Tạp chí Văn học nước ngoài số 2 và số 3 năm 2004. Dẫn lại theo http://evan.vnexpress.net
_________________
Chú thích:
[1] Để nói và nhắc lại rằng giữa họ
(Nietzsche và Freud – ĐLT) có nhiều điểm chung đến mức Freud không muốn
tiếp xúc với Nietzsche “quá nhiều” nhằm bảo vệ nguyên vẹn tính độc đáo
của tư tưởng riêng của ông…
[2] Về vấn đề “áp dụng”, xem Mireille Cifali, Freud pédagogue? (Freud nhà giáo dục?) Inter-Editions, 1982.
[3] Hơn nữa, Sophocle cho Oedipe nói
như thể để người ta đoán được rằng anh ta biết sự thật: tất cả mọi người
ở Thèbes nói về những kẻ gian ác giết Laios, còn Oedipe, chính anh, lại
nói “kẻ gian ác”; tất cả mọi người đòi thủ cấp của những kẻ chịu trách
nhiệm về nạn dịch hạch, chỉ mình Oedipe tìm “kẻ có tội”; sự thấy trước
có ý nghĩa, lời nói có tính tiết lộ (xem Driek Van Der Sterren,
Oedipe (1948), bản Pháp văn, PUF, 1976, tr. 49).
[4] Vì thế chúng ta hãy tán thưởng nhận xét này: “Sự chú ý đến phân tâm học ở Pháp được bắt đầu từ những nhà văn…”. (MVP, 78).
[4] Những
dịch giả đầu tiên dịch Die Traumdeutung thành Khoa học của giấc mơ: từ
“khoa học” không thể chấp nhận được xét từ cạnh khía khoa học luận và
không đúng với Deutung; Nhan đề mới Giải đoán là tốt, nhưng số nhiều của
(các) giấc mơ nhường chỗ cho số ít thì có lợi hơn, trung thành hơn và
làm rõ hơn đặc điểm của phương diện lý thuyết của công trình này.
[5] Chúng
tôi nói rõ, đáp ứng mong muốn của những người mà từ này làm cho phải
ngạc nhiên rằng đó là từ duy nhất có thể chấp nhận được: “bị phân tích”
(analysé) có thể được dùng sau sự biến, nhưng suốt buổi “thăm bệnh”,
đúng là người ngồi trên ghế đivăng phải cung cấp phần lớn tư liệu hoạt
động, người được mời đến để nói hết, kể cả việc giải thích rằng chính
bản thân người đó cũng cung cấp cho anh ta những tư liệu do đời sống
thường nhật mang lại. Người ngồi trên ghế bành lắng nghe ngoài tầm nhìn
của người ấy, là một nhân chứng, không phải người quan sát cũng chẳng
phải một giáo sư: anh ta tiếp nhận tối đa nếu có thể phần xúc cảm tác
động lên con người anh ta và những nhân vật mà anh ta phải sắm vai (đó
là chuyển di). Ta phải biết ơn Jacques Lacan người đầu tiên dùng từ
người phân tích (analysant), nay đã được dùng phổ biến.
[6] Xem những phân tích nghiêm túc của J.F.Lyotard, Discours, Figure (Diễn ngôn, Hình thể), tr. 239 – 270, và cuối chương IV.
[7] Xem ở
dưới đây thành quả quyết định của Jacques Derrida, L’Ecriture et la
différence (Lối viết và sự khác biệt), tr. 293 – 340.
[8] Mọi
trước tiên nằm trong khuôn khổ của Chính cái đó, theo định nghĩa, bởi lẽ
ngôn ngữ (logos) với những quy định ít hay nhiều võ đoán được hình
thành sao cho có thể cho phép và cải thiện việc thông tin: trao đổi các
thông tin, biểu hiện ý tưởng, mô tả sự thực được nhận biết.
[9] Dù
sao, một khác biệt: tu từ học nói chung giả định một sự lựa chọn, người
ta có thể nói “trực tiếp” hay “bóng bảy”, cái vô thức, chính nó không có
ngôn ngữ nào khác trong tầm tay – về những thủ pháp của tu từ học xem
Pierre Fontainier. Les Figures du discours (Những hình thể của diễn
ngôn), Flammarion 1968.
[10] Ít nhất, phải chăng chúng cũng đã hé mở: công lao của J. Lacan là đã mở rộng việc chuyển qua một con đường lớn.
[11] Có
thể bổ xung thêm tiểu luận ngắn để nghiên cứu của nhà ngữ học Karl Abel
mang tựa đề Des sens opposés des mots primitifs (Hai nghĩa đối lập của
các từ nguyên thủy, 1911); hoặc tham khảo những suy nghĩ của Octave
Mannoni, Clefs pour l’imaginaire, (Những chìa khóa cho tưởng tượng), tr.
63-74.
[12]
Chương sách có nhan đề “Tu từ học của Freud” trong Théories du symbole
(Những lý thuyết về biểu tượng), Seull, 1977. Cũng có thể tham khảo bài
báo của Jean – Michel Rev, Sự nhị trùng của ẩn dụ, Litl, 18-5-1975.
[13] Tất
nhiên, Freud gợi ra trường hợp những câu vui đùa nhưng chính là Sandor
Ferenczi là người đã phân tích đặc biệt hơn cái ý thích dành cho những
từ tục tĩu trong giá trị vừa chơi đùa, vừa bù đắp (câu nói tiềm ẩn) vừa
như một triệu chứng (Xem “Những từ tục tĩu” trong Phân tâm học I, Payot,
1968).
[14] Thoái
lùi: đó là trở lại những chỗ đứng trước kia trong bộ máy tâm lý, ở đó
tâm lý được cấu trúc khác nhưng không phải là “thấp hơn”; nó cũng phức
tạp và phong phú chẳng kém, chắc chắn là kém phần hợp lý hơn, nhưng lại
được đặt nhiều hơn vào nguyên lý khoái lạc (IAP, chương 22).
[15] Văn bản mới viết trên tấm da có các văn bản cũ bị xóa đi.
[16] Chúng
ta hãy nhớ lại, từ hai sự thú nhận dưới dạng phủ định ấy, Phân tâm học
biết có hai loại chính: loại phủ nhận của người loạn thần kinh (“Tôi
chắc chắn một điều, ấy là người đàn bà trong mộng của tôi không phải là
mẹ tôi”, sự vận dụng trong suốt) và loại khước từ công nhận [hiện thực]
(“Tôi biết rõ đàn bà không có dương vật, thế nhưng tôi đã trông thấy cái
ấy của mẹ tôi”. Từ đó xuất hiện hai dạng thức: người mắc bệnh tâm thần
có ảo giác thiếu vật đó, người bái vật [loạn dâm] đinh ninh niềm tin của
mình và phủ nhận sự trải nghiệm của anh ta, đồng thời chế tác ra và ướp
giữ lâu dài theo cách nào đó vật thay thế mà anh ta tôn thờ). Vậy có
thể nói điều này: bị ám ảnh trở thành con người xã hội trong tương lai,
tư duy lịch sử chủ nghĩa toan tính bỏ qua điều kiện cá nhân cơ bản của
tâm thần là thứ sẽ thoát được việc trở thành toàn bộ. Còn về phê bình
văn học kiểu truyền thống, lối phê bình này khước từ điều mà nó cảm nhận
vừa như là “sự thô tục” của tính dục, sự không thích hợp của một “sáng
tác” ở phần thoát khỏi tầm kiểm soát của ý thức và sự xem xét lại ý
nghĩa phổ quát có trước mà chủ nghĩa nhân văn muốn khám phá.
[17] Xem Marina Scriabine, ở ngã tư thành Thébes, NRF, 1977.
[18] Giai
đoạn từ năm tuổi tới gần lúc dậy thì, ở giai đoạn này, người thiếu niên
chịu gánh nặng học hỏi thực tiễn xã hội, dường như nó mất đi phần lớn sự
quan tâm dành cho các chuyện về giới tính.
[19] Vấn
đề được Didier Anzieu phát biểu trong bài báo nhan đề Freud và huyền
thoại học, NRP, 1, 1970. Đây là một trong những bài tổng thuật phong phú
nhất về vấn đề huyền thoại: “Những tiến trình vô thức – gồm các đại
diện – sự biểu hiện của xung năng, cơ chế bảo vệ, sự lo âu, các huyễn
tưởng – có số lượng hữu hạn; ở mọi lúc, mọi nơi chúng vẫn vậy: người ta
có thể nói về một tính phổ quát của Vô thức chính là theo ý nghĩa ấy.
Trái lại, cách tổ chức những tiến trình này, cách tổ hợp chúng là thay
đổi. Nó thay đổi không những ở cá nhân tùy theo giai đoạn phát triển của
libido hoặc tùy theo chứng bệnh thần kinh, nó còn thay đổi tùy theo
nhóm và giới xã hội [...]. Cách tổ chức cá nhân và cách tổ chức tập thể
của những tiến trình vô thức là độc lập với nhau ở nguồn gốc và chức
năng hoạt động của chúng. Chắc chắn các huyễn tưởng cá nhân và các huyễn
tưởng tập thể thông giao với nhau, bởi vì chúng đều được cấu tạo từ
cùng một số yếu tố cấu thành. Tuy nhiên, hiếm khi một tổ chức vô thức cá
nhân lại trùng khít với một tổ chức vô thức tập thể [...]. Cùng một
người cư xử ở đời tư tùy theo huyễn tưởng riêng của anh ta, còn ở trong
nhóm, anh ta cư xử tùy theo huyễn tưởng của nhóm đó. Số lượng các cá
nhân chia sẻ huyễn tưởng nhóm càng cao thì cái huyễn tưởng đó càng có
sức nặng, nghĩa là càng bất biến theo thời gian [...]. Một nền văn minh
được khảo cứu vẫn nhìn về cùng một huyễn tưởng trong suốt hàng nghìn
năm. Đó chính là huyễn tưởng nằm ở bên dưới cái người ta gọi là cổ
truyền”. Gần đây hơn, André Green định nghĩa huyền thoại như “một đối
tượng lưu truyền tập thể” (trong Thời suy ngẫm, 1980, Gallimard).
[20] Theo
Lévi-Strauss, tiêu chuẩn để phân biệt diễn ngôn huyền thoại với các tác
phẩm văn học đích thực, đó là “tính có thể diễn dịch” của nó: ngoại trừ
sự trùng hợp ngẫu nhiên, các truyện kể này không tham gia làm cái biểu
đạt ngôn ngữ học, do đó chúng có thể dễ dàng chuyển sang một ngôn ngữ
cận kề, điều này trái ngược với văn bản thơ ca. Sự phân biệt như vậy có
thể hơi sơ lược; nó bắt gặp một số ngoại lệ đáng chú ý (Hésiode, Ovide,
Niebelungen, Edda thuộc Sandinave, v.v…); hơn nữa, chúng tôi đọc một số
truyện sáng tác, chẳng hạn bằng tiếng Sanscrit (tiếng Phạn), giống như
là các huyền thoại và anh hùng ca, đấy là các truyện kể đồng thời vừa
thuộc tiểu thuyết, vừa thuộc triết học…
[21] Tức
là thời điểm cuộc đời có đồng thời cả bố mẹ và con cái (hoặc ít nhất là
sẽ có con cái), khi mà chủ thể được giả định cùng lúc chế ngự được sự
khác biệt thế hệ và sự khác biệt giới tính.
[22] “Một
thần thoại Hy Lạp cho phép Freud tạo ra khái niệm về bộ máy tâm thần,
vốn vừa là hạt nhân của sự trưởng thành về cảm xúc, vừa là hạt nhân của
chứng loạn thần kinh cũng như của nền văn hóa” (D. Anzieu, sđd, tr.
114).
[23] Lạ
thay trong tác phẩm này, người ta thấy Freud tưởng tượng ra một huyền
thoại, đó là huyền thoại về những đứa con của bầy người nguyên thủy,
“một hôm” chúng đã giết và ăn thịt người cha, sau đó chúng tổ chức lại
bầy đàn dưới dấu hiệu của sự hối lỗi, tôn sùng việc thờ cúng tưởng niệm
đối với cái chết của cha (bữa ăn “tôtem”, các cuộc lễ hiến sinh khác
nhau) (Xem TOT, 163 và cho đến hết sách, các giả thuyết về một số điểm
của huyền thoại).
[24] Bela
Grunberger (Thói tự si, Payot, 1971) định nghĩa người anh hùng là người
“không muốn cuộc sống của mình phải trông chờ vào bất kỳ ai”, là người
sinh ra ở hoàn cảnh khác thường và tìm thấy dấu hiệu thiên hướng của
mình trong cái bất hạnh cần phải bổ khuyết hoặc bù trừ.
[25] Xem Roger Dadoun, Géza Roheim, Payot, 1972.
[26] Jean
Bellemin-Noël, Truyện cổ tích và các huyễn tưởng của nó, “Lối viết”,
PUF, 1983; một “miếng da lừa” xuất hiện ở Khoảng giữa các dòng, 1988.
[27] Đặc biệt xin xem bài tiểu luận ở trước bài đã dẫn ở trên, “Oedipe trước khi có mặc cảm”,
Thời hiện đại, 245, tháng 10, 1966 (được đăng lại trong Phân tâm học và văn hóa Hy Lạp, Những bài viết hay, 1980).
[28] Ở đây
chúng tôi quan tâm đến cuốn sách của ông nhan đề Bi kịch và thi ca Hy
Lạp, Flammarion, 1975, đặc biệt là chương “Nghệ thuật và huyền thoại”
(trong đó “cái đẹp” được coi như phương tiện để cái tôi vô thức “thuê
cái siêu tôi”).
[29] Xin
xem Lịch sử và trải nghiệm của cái tôi, Flammarion, 1971, đặc biệt là sự
tổng thuật về phép phù thủy qua bài Mụ phù thủy của Michelet.
[30] Xin
xem Cuộc nổi loạn chống lại người Cha, Payot, 1968. Cuốn sách này cung
cấp một lối đọc đặc sắc tác phẩm Nàng Eva tương lai, của Villiers de
l”Isle-Adam. Xin xem thêm cả bài báo nhan đề “Phân tâm học và cận văn
học”, trong Các cuộc trao đổi về cận văn học (Hội thảo Cerisy, 1967),
Plon, 1970, dưới phụ đề nói rõ là: “Về cận văn học được coi như lối đi
trực tiếp nhất từ huyễn tưởng tới ngôn ngữ”.
[31] Nhà xuất bản của Pháp, Gallimard, 1967, với
lời Dẫn
nhập đáng chú ý của Jean Starobinski (đăng lại trong Quan hệ phê bình,
Gallimard, 1970). Một số bài tiểu luận khác của Jones về folklor và tôn
giáo đã được xuất bản ở nhà sách Payot (xem Claude Girard, Ernest Jones,
Payot, 1972).
[32] Don Juan, một nghiên cứu về kẻ song trùng, Denoël & Steele, 1932.
[33] Xin
xem, chẳng hạn, một giấc mơ của chính Freud, trong đó có ba người phụ nữ
là ba nữ thần định mệnh can dự vào (IDR, 181-184), giấc mơ đã được D.
Anzieu nghiên cứu, Freud tự phân tích, PUF (1959), tái bản 1975, tập 2,
tr. 473.
[34] Xuất bản bằng tiếng Đức năm 1924 và được dịch ra tiếng Pháp, Payot, 1962.
[35] Nhấn
mạnh khó khăn của sự bình chú đó là vô ích. Người ta sẽ tìm được một số
phác thảo khơi mào cho sự bình chú này ở số tạp chí L”Arc dành cho G.B.
(1970), đặc biệt với bài tiểu luận của Gilbert Lascault và nhất là bài
của J.-F. Lyotard.
[36] Cuộc cách mạng của Gaston Bachelard trong phê bình văn học, Klinsksieck, 1970, tr. 270.
[37] Nếu
người ta tự đồng nhất với một nhân vật bi kịch, người ta sẽ phóng [cái
vật xấu] lên nhân vật hài kịch (thí dụ về Tartuffe, tr. 173).
[38] Đây
chính là chỗ mà Serge Tisseron cảnh báo, Phân tâm học truyện tranh,
“Những tiếng nói mới trong Phân tâm học”, PUF, 1987.
[39] Chúng
ta trông cậy vào các công trình phê bình của Marthe Robert (nhất là ở
lĩnh vực tiếng Đức và Tây Ban Nha), song cũng phải nhờ vào một tác phẩm
tổng thuật nữa, Cuộc cách mạng phân tâm học. Cuộc đời và sự nghiệp của
Sigmund Freud, Payot, 1964, 2 tập.
[40] Hiển
nhiên đoạn tóm tắt ngắn ngủi này có giá trị minh họa cho ý định của
chúng tôi chứ nó không có tham vọng nghiên cứu tường tận sự phong phú
của một văn bản có tầm quan trọng đặc biệt vốn được viết ra ngay trước
khi xung năng chết trở thành lý luận hết sức nặng ký đối với học thuyết
Freud. Về tác phẩm Das Unheimliche, có thể đọc Hélène Cixous, “Sự hư cấu
và các con ma của nó”, Poét., 10, 1972, và nhất là Sarah Kofman, “Kẻ
song trùng và Quỷ sứ”, trong Bốn tiểu thuyết phân tích, Galilée, 1973.
[41]
Nicolas Abraham bắt đầu suy ngẫm phân tích về “các quy luật của nhịp
điệu” (trong thơ); công trình cuối cùng của ông, với sự cộng tác của
Maria Torok, có tên là Mật ngữ, Lời của Con người với lũ sói (
Lời nói đầu
của J. Derrida, Aubier-Flammarion, 1976), công trình này đẩy tới tận
cùng việc nghiên cứu những hiệu quả của cái biểu đạt ở trường hợp mẫu
của cái vô thức “đa ngôn ngữ”. Còn J. Chasseguet-Smirgel thì lấy bộ phim
Năm cuối cùng ở Marienbad của A. Robbe-Grillet làm đối tượng nghiên
cứu; bà đã tập hợp các bài viết tiểu luận trong cuốn sách hữu ích, cuốn
Vì một Phân tâm học của nghệ thuật và của tính sáng tạo, Payot, 1971,
tái bản 1977. Ngoài lĩnh vực văn học thuần túy, xin xem những tác phẩm
của nhà phân tâm học chịu ảnh hưởng của Klein và Anton Ehrenzweig (Trật
tự bị che giấu của nghệ thuật).
[42] Hãy
nhắc dự phòng thêm hai cái tên khác: Jean-Michel Rey, người đã bắt đầu
chất vấn văn bản của Freud bằng một ngôn ngữ rất mới (xem Hành trình của
Freud, Galilée, 1974 và Từ ngôn từ tới tác phẩm, Aubier-Montaigne,
1979), và Patrick Lacoste, tác giả cuốn Ông ta viết, Galilée, 1981.
[43] Xem Diễn ngôn, Hình thể, Klincksieck, 1971.
[44] Xem Lối viết và sự khác biệt, Seuil, 1967 (tr. 293-360) và Tấm bưu thiếp, Aubier-Flammarion, 1980, đồng thời xem cả bài
giới thiệu
xác đáng về vấn đề nghi vấn của Derrida ở những gì liên quan đến chúng
ta, bài “Một triết gia unheimlich” của Sarah Kofman, trong Những lệch
lạc. Bốn tiểu luận nói về J. Derrida, Fayard, 1973, tr. 149-204.
[45] Sự
kháng cự: “Tất cả những gì trong hành động và lời nói của người đang
phân tích ngăn cản con đường tới vô thức của anh ta” (VLP, 420); phản
ứng chuyển dịch ngược: “Toàn bộ những phản ứng vô thức của nhà phân tích
tác động lên người đang bị phân tích và nhất là lên sự chuyển dịch của
anh ta” (như trên, tr. 103).
[46] V.A.
Green, “Giải liên kết”, tác phẩm đã dẫn, tr. 35: “[...] mở ra được lĩnh
vực cái Vô thức, trước hết và trước tiên là vô thức của anh ta (tức nhà
phân tích – ND) – điều kiện cơ bản để nói về vô thức của những người
khác-, có nghĩa là mở ra được lĩnh vực vô thức của văn bản văn học.
[47]
Victor Smirnoff, “Tác phẩm đã đọc”, NRP, 1, 1970, tr. 53: “[những người
không phải nhà phân tích] bị buộc phải hoặc chấp nhận, hoặc từ chối khái
niệm này khác mà không thể có bất cứ phương cách nào đóng góp tạo ra
khái niệm”.
[48] Người đi tiên phong, cuộc thử nghiệm và hệ tác phẩm của anh ta, NRP, 1, 1970, tr. 27.
[49] Xem Jean Starobinski, “Bữa tối ở Turin”, Quan hệ phê bình, tr. 98-153.
[50]
J.-J.R., Từ Eros tội lỗi đến Eros vinh quang, Neuchâtel, La Baconnière,
1976, tr. 10, đoạn tuyên bố trung thành với phương pháp tiểu sử tâm lý,
và tr. 107, đoạn nói về phô bày.
[51] Hãy
nhớ lại, ký ức-màn chắn là sự hình thành thái độ thỏa hiệp, một sự pha
trộn giữa phòng vệ và dồn nén. Nó liên kết với huyễn tưởng ở cái được
sinh ra sau đó: “Cảnh tượng chim kền kền này không phải là một kỷ niệm
của Léonard mà là một huyễn tưởng ông tự xây dựng về sau và thế là ông
ta ném nó vào thời thơ ấu của mình” (SLV, 50).
[52] Sarah
Kofman, Tuổi thơ nghệ thuật, tr. 109-117, trong đó nhấn mạnh huyễn
tưởng của nghệ thuật không phải là sự tái chế từ một chất liệu vốn đã có
từ trước, mà mỗi lần nó đều được làm mới, tuy nhiên có tính chất lặp
lại.
[53] Tuổi trẻ của André Gide, Gallimard, 1956.
[54]
Hoelderlin và vấn đề của người cha, PUF (1961), tái bản 1969. Xin lưu ý
cuốn sách này là cuốn đầu tiên (và duy nhất ở đề mục đó) đã sử dụng thứ
ngôn ngữ của Lacan một cách vừa sáng rõ, vừa khúc chiết để bàn về một
hiện tượng thuộc mỹ học. Cuốn sách đề cập chứng loạn tâm của nhà thơ
bằng các thuật ngữ lỗ thủng ở thực thể chủ quan, về sự thiếu vắng ở
chuỗi những “cái biểu đạt”: chính Tên-của-người-Cha là cái đã bị vứt bỏ,
bị “truất quyền” khỏi hệ thống biểu nghĩa tạo nên chủ thể; sự lao động
thơ của ngôn ngữ cũng như môtíp cảnh lưu đày do vậy được đặt trong mối
quan hệ với phạm vi cái phủ định. Một việc khác đáng ghi nhận: cuốn sách
lúc đầu nằm dưới sự bảo trợ của Jean Delay, do ngẫu nhiên cuối cùng nó
tuyên bố tất cả muốn dừng lại “ở giới hạn một nghiên cứu miêu tả tâm
bệnh học”, điều này làm nổi bật lên chỗ không rõ ràng của các phạm trù
này, và nêu ra sự xâm phạm ở những điểm nào của lĩnh vực bệnh tâm trí
đối với các nghiên cứu phân tâm học tiểu sử.
[55] Jules
Verne, con người kỳ lạ, Gallimard, 1960, và Những cuộc thám hiểm mới
của J.V., như trên, 1963. Nếu như cái tên Jules Verne có dịp dẫn ra
trong cuốn Thời trai trẻ của J.V. (Minuit, 1974), thì chương sách nhan
đề “Oedipe – Người đưa tin” là nơi Michel Serres với niềm hứng khởi rõ
ràng và sự khéo léo hoàn hảo khai thác tác phẩm Michel Strogoff vô cùng
nổi tiếng nhằm xác định ở đó những môtíp giết cha, kịch cảnh nguyên
thủy, bị móc mắt, tóm lại là Oedipe, mặc dù Michel Serres vẫn luôn phủ
nhận một báo cáo nào đó về số lượng bệnh lý trong dân cư dựa theo thuyết
Freud như hệ thống lý giải. Nhưng Serres nhấn mạnh đến việc “cuốn tiểu
thuyết được phóng chiếu trên một huyền thoại nên nó có một số tàn dư,
cuốn Michel dựa thái quá vào truyền thuyết” (tr. 53) và ông rút ra hệ
quả bằng cách đọc lại lượt khác.
[56] Bản
tổng kết cương lĩnh chấp nhận những sắp xếp theo chức năng mục đích xác
định hơn. Đó là trường hợp cuốn sách nhỏ của José-Michel Moureaux viết
về vở Oedipe của Voltaire (Minard, 1973); so sánh với khuôn mẫu kiểu
Sophocle, vở kịch này bộc lộ một cách đặc biệt “sai lệch về đạo đức”:
bằng cách lượng định sự đóng góp của chàng trai trẻ Voltaire – người vẫn
tin mình là con trai của ca sĩ Rochebrune chứ không phải của cha Arouet
– và sự sáng tạo nhân vật Philoctete trong số các sáng tạo khác, nhà
phê bình làm sáng tỏ sự cắm chốt vào người mẹ đã mất sớm.
[57] Phê bình phương pháp tiểu sử, Vì một phân tâm học của nghệ thuật và của tính sáng tạo, tr. 49-62.
[58] “Phê
bình phỏng theo tiểu sử [...] nhìn thấy trong tác phẩm sự kéo dài những
trải nghiệm cuộc đời của tác giả, còn phân tâm học thì lưu ý ở tác phẩm
một mối quan hệ không liên tục”, A. Green chú thích (Con mắt thừa, tr.
32).
[59] Trong
thực tế và với điều kiện gộp cả những tác phẩm này khác vào nền văn học
vì chúng do một nhà văn viết ra, người ta có thể thêm trường hợp các
bài viết đả kích như: Alberte Chesneau trong một Tiểu luận về phê bình
phân tâm học của L.-F. Céline (Minard, 1971) kiếm tìm như thế những yếu
tố cấu thành hình ảnh người Do Thái ở các cuốn Những đồ vật phù phiếm
đối với cuộc tàn sát, Trường học của các xác chết, và Những tấm dạ mỹ
miều bằng cách vận dụng phương pháp xếp chồng văn bản của Mauron.
[60] Xem Jean Starobinski, Quan hệ phê bình.
[61] Willy
Szafran, Louis-Ferdinand Céline, NXB Đại học Bruxelles, 1976, tr. 194;
tính đặc sắc của công trình này là nó sử dụng những “mối quan hệ khách
thể”, có thể là bộ máy khái niệm của Mélanie Klein như Maurice Bouvet đã
hệ thống hóa lại (xem Các tác phẩm phân tích tâm lý, Payot, 1967).
[62] Jean Recanati, Phác thảo dành cho phân tâm học của một kẻ phóng đãng là Roger Vailland, Buchet-Chastel, 1971, tr. 12.
[63] Alain
Costes, Albert Camus hay sự thiếu lời, một nghiên cứu phân tâm, Payot,
1973, tr. 18-19. Nghiên cứu này không tự thỏa mãn với việc viện tới thời
thơ ấu của Camus, mà nó còn sắp xếp, tái sắp xếp quá trình phát triển
của một số phận nhân-văn thành các “chu kỳ”; ở bên trong các chu kỳ ấy,
đại bộ phận tác phẩm được đọc cho chính họ.
[64] Hiệp
ước tự truyện, Seuil, 1975. Cuốn sách này cung cấp một thí dụ hay về đọc
văn bản một bài viết tự truyện, chính xác là với “cuốn I của các tập
Thú tội” (tr. 87-163); xem chương tiếp theo.
[65] Chúng
ta hãy chọn ra bốn tác phẩm trong cả một thư mục lớn: Đường vào phân
tâm học của Mallarmé (Neuchâtel, La Baconnière, 1950), Cái vô thức trong
tác phẩm và cuộc đời của Jean Racine (Corti, 1957), Từ những ẩn dụ ám
ảnh tới huyền thoại cá nhân. Nhập môn phê bình phân tâm học (Corti,
1963), Baudelaire Người sau rốt (Corti, 1966).
[66] Gérard Genette, “Đọc tâm lý”, Các hình thể, Seuil, 1966, tr. 133-138.
[67] Jeffrey Mehlman, Giữa phân tâm học và phê bình phân tâm học, Thi pháp, 3, tháng 10, 1970 – chủ yếu bắt đầu từ trang 372.
[68] Tất
nhiên chúng tôi hạn chế bức tranh toàn cảnh của mình về phê bình dựa
theo phân tâm học ở những tác giả vốn đã với tới thuyết Freud một cách
thái quá. Mặt khác, người ta biết tương đối rõ một số nhà phê bình đương
đại như R.-M. Albérès, G. Blin, Gaétan Picon, G. Poulet, đã hoặc đột
xuất, hoặc mấp mé sử dụng những khái niệm vay mượn từ Phân tâm học; G.
Genette và Jean Raymond (xem Thi pháp của sự ham muốn, Seuil, 1974)
trong lĩnh vực này có một kỹ năng mà họ rất hay để ở bên lề các nghiên
cứu của họ. Còn Jean Starobinski thì nói chung tên ông được gắn kết với
tất cả những người nói trên, chúng tôi đã trích dẫn ông nhiều lần và ông
là một thành viên quá nổi tiếng của Hội hiện tượng luận – Phân tâm học
(xem các quan điểm tinh tế của ông trong Phân tâm học và kiến thức văn
học, Quan hệ phê bình, tr. 257-285) nên chúng tôi không phải nhắc thêm
về ông nữa.
[69] Được
tập hợp trong bài Các cách đọc vi mô và Các trang phong cảnh, “Thi pháp
học”, Seuil, 1979 và 1984. Trong nhãn quan ấy về một thứ “chủ đề phân
tích” và bàn về Proust, người ta có thể báo hiệu bài nghiên cứu của Jean
Rosasco, “ở cội nguồn sông Vivonne”, Thi pháp học, 25, tháng 2, 1976.
[70] Xin
hiểu đúng ý chúng tôi: vấn đề không phải là phủ định tầm quan trọng của
tác giả (huống hồ là đời sống của anh ta), cũng không phải là đọc mà
không cần có tác giả, bởi: 1) Tác giả vốn luôn bị lôi kéo vào “ma trận
cảm xúc” (Green) mà việc đọc thì lại diễn ra trong lòng ma trận đó, dù
người ta có muốn hay không; 2) Thực tế một người đọc có nghề như nhà phê
bình thì không thể không biết, không thể làm như không biết chút gì về
tác giả. Vấn đề là “quên” anh ta đi càng nhiều càng tốt và một cách có
phương pháp, canh chừng cái gì như cái dồn nén vô thức đừng để nó quay
trở lại; vấn đề là phủ nhận tác giả như là đối tượng của mục tiêu nhắm
tới (mục tiêu một sự hiện diện, một tâm hồn, một quan hệ anh-cha-con,
v.v..)
[71] Cách
đây vài năm, chính tôi đã đưa ra thuật ngữ “phân tích văn bản” (xem
những suy ngẫm của tôi trong cuốn Khoảng giữa các dòng, 1988).
[72] Tạm
gác lại “hình thức đẹp đẽ”, điều đó ví bằng nhấc khỏi ngôn từ món quà
thưởng niềm thích thú, hiệu quả sự quyến rũ nhờ đó, người nghệ sĩ lái sự
chăm chú có ý thức ra xa khỏi những phần nhô chìa nơi mà ham muốn bị
dồn nén cao ngang mức.
[73] René Major, Mơ người khác, Aubier-Montaigne, 1977.
[74] Điều
đó cũng tương đương với nói rằng nhà phê bình là vị độc giả mong muốn
(một cách công khai, đánh bài ngửa) làm người “bình thường trong một
giới công chúng nhất định”, vị độc giả tự phụ vì có những phản ứng điển
hình so với trình độ trung bình của những độc giả riêng của anh ta…
[75] Jacques Hassoun, Sự biến đổi phân tâm học về một đề tài cây phả hệ của H. von Kleist,
Chủ nghĩa lãng mạn, 8, tháng 11, 1974, tr. 54.
[76] M. Masud R. Khan, Từ bất tài tới tự tử, NRP, 11, 1975, tr. 155-180.
[77] Có
thể tìm kiếm một lối đọc mô hình khác, cho dù vấn đề không thuần túy nói
về một văn bản văn học (nhưng giàu chất thơ biết bao!), lưu ý đến sự
nhấn mạnh về “con chữ” – trước hết được hiểu theo nghĩa hiển nhiên của
ngôn ngữ là cái biểu đạt đồ thị-ngữ âm – trong giấc mơ nổi tiếng “về con
kỳ lân” do Serge Leclaire phân tích, Chữa bệnh bằng phân tích tâm lý,
Seuil (1968), tái bản 1975, tr. 97-117.
[78] Xem
Đọc Leiris, Klincksieck, 1975, Hiệp ước tự truyện, sđd, tr. 245-307, và
Tôi cũng vậy, “Thi pháp học”, Seuil, 1986, tr. 164-180. Chính tôi đã đổi
chỗ phương thức đọc ấy ở bài Các tiểu sử của ham muốn, “Cách viết”,
PUF, 1988.
[79] Chúng
tôi xin chỉ trích dẫn hai chú giải, ở đây là bắt buộc: “Père – cái rắm
bất tuyệt của loài bò sát” và “phân tâm học – lỗi nói nhịu bị tập trung
về một hướng qua phương tiện là cái ghế-giường”…
[80] Xem
Jean Bellemin-Noởl, Văn bản và tiền-văn bản, Larousse, 1972, tr.
114-130, và “Đọc phân tâm học một bản nháp các bài thơ Mùa hạ của P.
Valéry”, trong tập Các tiểu luận về phê bình quá trình hình thành tác
phẩm, Flammarion, 1979, tr. 103-149, đồng thời, xem no 52, tạp chí Văn
học, tháng 12, 1983.
[81] ở đây
chúng tôi xin nêu một công việc, có chú ý chất lượng của nó. Tính chất
lai tạp của công việc ấy được nhấn mạnh ở ngay chính cách lắp ráp các
phần với nhau và có chủ ý. Khi nghiên cứu tác phẩm Con đầm pích của
Pouchkine (Cái huyễn tưởng hay con đầm trong cỗ bài, NRP, 4, 1971), dưới
tên phần “Những bài học của văn bản”, André Green thực hiện trước hết
một lối đọc truyện cực kỳ thích hợp; sau đó ở phần từ một văn bản tới
một văn bản khác”, ông lao vào cuộc điều tra nhằm đối chiếu những kết
quả thu được với thiên tiểu thuyết gia đình của nhà văn Nga. Mỗi độc giả
sẽ thu lượm được thứ thức ăn mà họ ưa thích.
[82] Chúng
ta hãy kể thêm hai bài báo của Ph. Lejeune, một bài viết trước, một bài
viết sau cuốn Hiệp ước tự truyện. Bài đầu viết về Proust, “Lối viết và
tính dục”, Europe, tháng 2-3, 1971; bài hai viết về Rousseau, “Chiếc
lược gãy”, Thi pháp học, 25, tháng 2, 1976.
[83] B.
Pingaud vay mượn lời lẽ đó của nhà phân tích André Green, bắt nguồn từ
đoạn nói về tác phẩm Hình ảnh ở tấm thảm (Bản sao và cái vắng mặt, Phê
bình, 312, tháng 5, 1973, tr. 404); điều có ý nghĩa là cũng câu phát
biểu như thế đã được một nhà phê bình đưa ra trước vào khoảng cùng thời
kỳ (Jean Bellemin-Noởl, Văn bản và tiền-văn bản, sđd, tr. 130), do vậy,
cuộc sinh đôi dị hợp tử này chứng tỏ sớm muộn gì người ta cũng sẽ đi đến
phát biểu đó. Nhất là từ nay có lẽ cũng phải nghĩ tới việc đi khỏi chỗ
ấy; đó là điều tôi đã tính, đã hiểu chuyện ấy, trong bài Về hướng vô
thức của văn bản, và bằng cách xác định chính xác khái niệm, trong những
suy nghĩ về phương pháp của các sách của tôi như Gradiva theo nghĩa
đen, Chuyện cổ tích và ảo ảnh, và Khoảng giữa các dòng.
[84] Xem thêm cả quan điểm của Léo Bersani, Baudelaire và Freud, “Thi pháp học”, Seuil, 1981.
Posted in: Văn Học
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét