Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014
Từ mặc cảm tự ti đưa tới mặc cảm tự tôn, rồi tiến đến hoang tưởng (Metamorph)
16:58
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trong
lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai
lầm của lãnh đạo ; nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn làm chúng
ta không lãnh hội được gì cả.
Tất
cả xuất phát từ chỗ : không có gì để tự tin. Bộ ngoại giao nước ta tung
ra một chiến dịch ngoại giao để lôi kéo các quốc gia lân cận để cùng
nhau liên minh chống hiểm họa bành trướng Bắc Kinh, mặc dầu suốt cuộc
chiến chống Mỹ, chúng ta không tiếc lời mạt sát khối Liên Minh Đông Nam Á
là sản phẩm của chính sách gây hấn và can thiệp của đế quốc Mỹ.
Ôn cố : cái hoang tưởng của chúng ta
Mỗi
khi gặp chuyện gì khó khăn, chúng ta thường mang cái quá khứ oanh liệt
ra để tự ru ngủ, mong cái men chiến thắng của cha ông thành liều thuốc
an thần trấn áp đi cái bất định, cái nan giải hiện tại. Chúngta từ khước
một đặc điểm sinh tồn cốt yếu : học từ thất bại quá khứ để xác định
bước đi hiện tại sao cho dẫn đến thành công tương lai.
Chúng
ta nhắc đến cái chiến thắng giặc Hán, Pháp, Mỹ mỗi ngày. Nhưng chúng ta
tuyệt nhiên không hề nhắc đến cái nạn đói 1975-1990 do sai lầm của
chúng ta, một nạn đói có thể tránh được nếu chúng ta đừng quá say mê với
chiến thắng - và vì say mê với chiến thắng, chúng ta coi thường cái
nguy cơ tụt hậu, nghèo đói, bị cô lập.
Năm
1978, trước khi xua đại quân tiến chiếm Nam Vang. Tháng 6-1978, khi
Việt Nam bắt đầu oanh tạc Cambodia, Phan Hiền sang Mã Lai tuyên bố ủng
hộ một Đông Nam Á hòa bình và trung lập. Sau đó, vào tháng 9, thủ tướng
Phạm Văn Đồng sang Mã Lai đặt vòng hoa tưởng niệm các chiến sĩ Mã đã hy
sinh vì chống… Mã Cộng. Thêm vào đó, ông còn xin lỗi các lãnh đạo Mã Lai
vì trót lỡ viện trợ vũ khí cho phiến quân Mã Cộng vì “hiểu sai tình
hình” (flawed understanding of the situation). Sang Băng Cốc, Thái Lan,
thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết không yểm trợ bọn Thái Cộng CPT
(Communist Party of Thailand) vốn bị hiến pháp Thái Lan đặt ngoài vòng
pháp luật.
Lãnh
đạo Việt Nam chỉ muốn ký kết một hiệp ước hữu nghị và hợp tác với các
quốc gia Đông Nam Á để chuẩn bị cho một hàng cừ, hay bờ đê, ngăn chận
cơn lũ bành trướng Bắc Kinh. Đồng thời cách nửa vòng trái đất, ở Nữu
Ước, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng thúc đẩy nỗ lực bình
thường hóa ngoại giao với Mỹ. Lần này, chúng ta không đặt điều kiện bồi
thường 3 tỉ mà Nixon đã hứa ở hiệp định Paris 1972 (nguồn : Brother
Enemy của Nayan Chanda).
Như
chúng ta đã biết, tất cả đều vô ích. Liên Minh Đông Nam Á - từ lâu bị
ám ảnh một Việt Nam hung hãn, quyết làm một mũi nhọn xung kích của thế
lực cộng sản - đều lịch sự từ chối “lòng tốt” của chúng ta. Và Mỹ, sau
khi tiếp Đặng Tiểu Bình, cũng lịch sự gác lại chuyện bình thường hóa
ngoại giao với Việt Nam và không hứa ngày đàm phán lại vấn đề đó.
Kết
quả là chúng ta sa lầy ở Cambodia suốt 10 năm và đói nghèo suốt 15 năm.
Quan trọng hơn, chúng ta chựng lại trong khi các quốc gia láng giềng
tiến bộ vượt bực về khoa học, kỹ thuật, giáo dục, xã hội, kinh tế… Chúng
ta quay về thời xe hơi chạy than, xe bò, ăn bo bo, mặc quần áo vá, dùng
phân xanh như thời Trung Cổ. Chúng ta dường như cấm kỵ không hề nhắc
đến cái thất bại có thể tránh được đó, chỉ vì hội chứng say sưa với
chiến thắng. “Thắng đế quốc Mỹ ta có thể thắng được mọi thứ khác”.
Chúng
ta hoang tưởng rằng cả thế giới đều ngưỡng mộ chúng ta, và cả thế giới
cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ. Với Mỹ, họ là kẻ thua, họ phải “bồi
thường” mới hòng được chúng ta chìa tay cho mà bắt.
Với
Đông Nam Á, một Việt Nam với hơn 8 quân đoàn sát bên nách, Việt Nam
đáng gờm hơn là cái hiểm họa bành trướng từ Bắc Kinh xa vời vợi. Nếu
chúng ta hồi tưởng lại, việc tiếp tế cho phiến quân Mã Cộng, Thái Cộng
không thể khôi phục được lòng tin của các quốc gia Đông Nam Á bằng một
vài cử chỉ ngoại giao thân thiện.
Xét
cho cùng, ta vẫn có thể chiến thắng Mỹ mà không cần phải thù nghịch với
các quốc gia Đông Nam Á vì họ thủy chung không tiếp tay với Mỹ trong
cuộc chiến, ngoại trừ Thái Lan (cho mướn căn cứ Utapao) và Hàn Quốc (Hàn
Quốc gửi quân tham chiến nhưng Hàn Quốc không thuộc Đông Nam Á).
Ta
học được điều gì nếu chúng ta thực sự muốn học ? Không nên có nhiều kẻ
thù không cần thiết, và tuyệt đối không hoang tưởng ta quan trọng tới
mức họ cần ta hơn ta cần họ.
Tri tân : lại hoang tưởng Mỹ cần Biển Đông hơn ta cần Biển Đông
Đệ
nhị Thế Chiến có một nguyên nhân kinh tế và sâu xa hơn, một nhu cầu
thời đại. Đó là có vài cường quốc muốn xóa mọi trật tự thế giới để mong
có phần của mình trong bối cảnh mới. Cách mạng khoa học kỹ thuật trên
nền tảng Newton đã phát sinh động cơ nổ kéo các toa xe lửa, xe hơi, tàu
bè và máy bay.
Từ
đấy các quốc gia tiên tiến tìm kiếm, bòn rút các thuộc địa nhằm đáp ứng
nhu cầu nhiên liệu, nguyên liệu cho kỹ thuật. Đức, Ý, Nhật là những
cường quốc chậm chân không có thuộc địa để phát triển và tận dụng khoa
học kỹ thuật mới. Lấy đâu ra cao su làm vỏ xe hơi ? Xăng dầu ? Sắt thép ?
So với các cường quốc như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… thì Đức,
Ý, Nhật mạnh hơn nhưng không có tương lai vì không có nguyên liệu lấy từ
các thuộc địa. Họ muốn xóa bỏ mọi trật tự cũ hòng mong thế giới chia
cho mình cái phần mình đáng được hưởng.
Đức
tiến chiếm Âu Châu. Không chịu kém, Nhật tiến chiếm Á Châu và thế chiến
bùng nổ để khởi đầu cho một trật tự mới mà trong đó, các cường quốc nào
cảm thấy mình chịu thiệt, phải chiến đấu giành bằng được cái phần mà họ
cho rằng mình đáng được hưởng.
Trung
Quốc chẳng học được điều gì cả. Họ cần con đường chuyên chở nhiên liệu
từ Trung Đông mà họ cho rằng với vị thế của họ hiện nay, họ đáng được
hưởng. Tham vọng của họ xuyên suốt từ Bắc Kinh vòng qua eo Malacca, băng
qua Ấn Độ vào Trung Đông chứ không chỉ ngừng lại sau khi chiếm trọn
biển Việt Nam. Không may cho ta, Việt Nam là mục đích đầu tiên trong
cuồng vọng chiếm lĩnh cái hải trình năng lượng đó.
Trung
Quốc sai ở chỗ nó không tự lượng sức. Thời đệ nhị Thế Chiến, hải quân
hoàng gia Nhật có 20 hàng không mẫu hạm mà vẫn thảm bại trước Hạm đội 7
Mỹ.
Ngày
nay, Trung Quốc mua được một tàu phế thải, vá víu sửa chữa cho giống
một mẫu hạm rồi tập tành chinh phục thế giới. Không cần là một chuyên
gia quân sự, ai cũng có thể nhận thấy Trung Quốc phải cần ít nhất 20 mẫu
hạm để có thể uy hiếp Nhật, 20 chiếc nữa để có thể uy hiếp xa đến Ấn,
và không biết bao nhiêu nữa mới có thể uy hiếp Nga hay Mỹ.
Năm
xưa Sô Viết sa lầy ở Afghanistan và Cambodia (tiếng rằng Việt Nam sa
lầy nhưng chỉ tổn thất nhân mạng, thực ra Sô Viết sa lầy vì phải chi
viện đạn, xăng, khí cụ cho Việt Nam) 10 năm sa lầy khiến Sô Viết không
dẫy mà chết. Nay Trung Quốc thì để làm chủ hành lang năng lượng, với bao
nhiêu mẫu hạm và nguy cơ đối đầu với một siêu cường có thể sản suất ra
một số lượng mẫu hạm không thể ước tính nổi là Mỹ, bao lâu thì Trung
Quốc không dãy mà chết ? Nhà giàu (Mỹ) đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Ở vị
thế siêu cường số 2, Trung Quốc không muốn thi gan một mất một còn với
ai, mà chỉ muốn áp đảo những kẻ không thể tự bảo vệ. Vâng. Nếu
tôi là thằng nhà giàu số 2 còn hơn làm thằng nghèo sặc máu hạng bét nếu
thua trận. Tốt nhất chỉ nên bắt nạt thằng không thể tự vệ.
Không
may Việt Nam ta là thằng không thể tự vệ. Đúng hơn chúng ta là thằng tự
xua đuổi đồng minh nên không thể tự vệ. Mới đây, một đại tá Việt Nam -
ông Trần Đăng Thanh (phó giáo sư tiến sĩ Học viện chính Trị, Bộ quốc
phòng - đã nói : “Nước Mỹ chẳng bao giờ tốt với chúng ta, chỉ có Trung
Quốc tốt với chúng ta”.
Câu
này thật là tai hại. Các tay yêu nước kiểu loa phường thường đòi “bằng
chứng đâu ?”, “sai chỗ nào ?” mỗi khi chúng ta vấp phải những sai lầm
chí tử. Thậm chí có bác còn chống chế : “Ứng khẩu nói không thể chính
xác như đã soạn trước rồi đọc” khi thấy ông đại tá nói sai be bét. Như
chúng ta biết, một giáo viên cấp cơ sở cũng ứng khẩu chứ có ai giảng bài
mà đọc từ giấy đâu mà chẳng bao giờ sai. Cái này rõ ràng trình độ ông
đại tá có vấn đề. Thì tiện đây, tôi xin phân tích cái tai hại của ông
đại tá.
Vẫn
là hoang tưởng rằng Mỹ là bọn thèm Biển Đông hơn chúng ta thèm Biển
Đông. Từ lâu chúng ta yên chí rằng chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng
lao vào lửa đạn bảo vệ chúng ta trong khi đó chúng ta vẫn sa sả chửi
rủa Mỹ. Chúng ta yên chí rằng Mỹ là cỗ máy chiến tranh luôn sẵn sàng chờ
lịnh ta để khai hỏa. Làm như cái “lịnh ta” là một ơn huệ hay một vinh
dự chúng ta ban cho Mỹ vậy.
Tệ
hơn nữa, chúng ta chẳng bao giờ thèm tìm hiểu xem tại sao ta có được
mỗi năm 100 tỉ tiền đầu tư FDI để phát triển kinh tế. Ta cũng không mảy
may lo ngại từ nay cái FDI đó sẽ chuyển hướng sang Miến Điện, nơi thỉnh
thoảng không có những trò bẽ mặt như công an ta quăng nhà ngoại giao Mỹ
lên xe cây, ta làm ngơ khi tổng thống Mỹ xin ân xá cho một vài người
phạm tội rất nhẹ ; và mới đây, qua miệng một đại tá thuộc bộ quốc Phòng
nói thẳng Mỹ luôn luôn có tâm địa xấu với Việt Nam.
Vâng
điều này vẫn có thể là chủ trương của chính phủ, vì nỗi sợ canh cánh
những cuộc cách mạng Hoa Hồng khắp nơi. Nhưng nói toạc ra, điều này nó
chặn đứng ngay tức khắc bao nhiêu nguồn trợ giúp đang xúc tiến và sẽ
thục hiện giữa hai nước. Hãy giả thử một mai Trung Quốc nuốt gọn Biển
Đông, Mỹ phải làm sao khi “người ta” đã nói thẳng “mày không bao giờ tử
tế” ?
Một
kẻ có chút liêm sỉ sẽ không xăn tay áo giúp đỡ ta một khi ta từng mắng
mỏ và từ chối mọi hảo tâm của nó. Hãy đặt mình vào não trạng một người
bị cự tuyệt để suy luận phản ứng của họ trong tình huống khẩn thiết
nhất. Năm 1975 Mỹ bỏ Nam Việt Nam được thì Mỹ bỏ Biển Đông năm 2012
được. Đối với Mỹ, một nước cộng sản kéo dài từ Yên Kinh tới Côn Minh hay
kéo dài tới Cà Mau (trường hợp Trung Quốc nuốt gọn Việt Nam) cũng vẫn
là một nước cộng sản, chẳng qua là một nước cộng sản dài hơn một chút
xíu.
Nói
khác đi, một Việt Nam do Tập Cận Bình lãnh đạo cũng chẳng khác gì một
Việt Nam do Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo. Mỹ chỉ quan tâm nếu Việt Nam lột
xác thay đổi như kiểu Miến Điện thôi. Ngoài ra cộng sản nào cũng rứa.
Điều đáng lẽ chỉ nên giấu kín trong bụng nay đã lỡ nói toạc ra rồi thì
Mỹ không còn lý do gì lưu luyến nữa cả. Từ nay khỏi phải nói về nhân
quyền nữa để khỏi bị cái sượng sùng của tình cảnh nước đổ đầu vịt, hay
về tham nhũng để khỏi phải kinh doanh ở một nơi vô luật lệ, về dân chủ
để khỏi bị lên án là phá hoại, ác ý.
Việt
Nam và Phi Luật Tân cách nhau một chuỗi đảo là Hoàng Sa và Trường Sa.
Có hai con đường hàng hải đi qua Biển Đông là Tây Trường Sa và Đông
Trường Sa. Nếu Việt Nam tỏ ý không cần Biển Đông bằng Mỹ cần Biển Đông
thì từ nay Mỹ sẽ bỏ Biển Đông như đã bỏ Nam Việt Nam năm 1975.
Lịch
sử cho thấy mất Sài Gòn không kéo theo mất Mã Lai, Thái Lan, Singapore
như chủ thuyết Domino tiên đoán thì mất tây Biển Đông cũng không có
nghĩa mất con đường hàng hải phía bên kia Trường Sa phía Phi Luật Tân.
Mỹ chỉ cần bảo vệ Mã Lai, Phi Luật Tân, Nhật và các đồng minh khác,
những đồng minh chưa bao giờ phát biểu : “Mỹ luôn là kẻ có tâm địa xấu”,
dù trong thâm tâm cũng có các quốc gia Đông Nam Á nghĩ như vậy.
Trong
lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai
lầm của lãnh đạo; nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn làm chúng
ta không lãnh hội được gì cả.
Một
chủng loài sẽ đi về đâu khi không thể sửa sai ? Một thửa ruộng sẽ cho
nhiều lúa hơn nếu chúng ta biết và muốn triệt cỏ năn. Củ năn cũng ngon
ra phết. Phải ăn năn đã thì không sợ thiếu lúa.
Metamorph (Hà Nội)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét