Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hiến Pháp Thế Giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hiến Pháp Thế Giới. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Những giá trị bất biến



Chương 9 của Hiến pháp Liên bang Nga với 4 điều, từ điều 134 đến Điều 137 quy định về quy trình sửa đổi, xem xét lại Hiến pháp, trong đó có những chương và điều là những quy định mang tính rường cột và khó có thể sửa đổi.


Việc đưa ra đề xuất về sửa đổi và xem xét lại Hiến pháp Nga thuộc thẩm quyền của Tổng thống Liên bang, Hội đồng Liên bang, Duma Quốc gia, Chính phủ liên bang, các cơ quan lập pháp của các chủ thể liên bang hay ít nhất 1/5 thành viên của Hội đồng Liên bang hoặc đại biểu của Duma Quốc gia.
Hiến pháp Liên bang Nga quy định về những quy trình, thủ tục sửa đổi hoặc xem xét lại khác nhau tùy thuộc vào tầm quan trọng, ý nghĩa của các phần khác nhau của Hiến pháp. Trong đó, các quy định về chế độ hiến pháp Nga chương 1 và các quy định về quyền và tự do của con người và công dân ở Chương 2 là các quy định nền tảng, linh hồn của bản Hiến pháp không thể thay đổi dễ dàng. Ngay cả các quy định của Chương 9 cũng không thể sửa đổi. Đó là các quy định có tính rường cột. Quốc hội liên bang Nga không được phép xem xét lại các chương này. Đây là quy định mà bất cứ ai muốn thực hiện việc thay đổi các điều khoản trong các chương đó phải suy nghĩ về tính hiện thực của đề xuất của mình.
Việc thay đổi các chương nói trên đồng nghĩa với việc thay đổi bản Hiến pháp với trình tự, cách thức có thể nói là hết sức phức tạp. Theo đó, nếu đề nghị xem xét lại các chương này cần được sự ủng hộ của 3/5 tổng số các thành viên của Hội đồng Liên bang và Đuma Quốc gia thì Quốc hội lập hiến sẽ được thành lập. Quốc hội Lập hiến có thể giữ nguyên bản Hiến pháp hoặc soạn thảo bản Hiến pháp mới. Trường hợp soạn thảo Hiến pháp mới thì có thể dự thảo Hiến pháp được Quốc hội lập hiến sẽ thông qua với sự tán thành của ít nhất 2/3 tổng số đại biểu. Hoặc, dự thảo Hiến pháp được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân nếu hơn nửa số cử tri tham gia tán thành với điều kiện là có hơn một nửa số cử tri đã tham gia vào việc biểu quyết. 
Cần phải nói ở đây rằng, các nhà lập pháp Nga đã rất tự tin khi định ra ngay trong bản Hiến pháp phần “cứng” đó nhưng có thể cần phải nhìn vào chiều sâu bên trong của của các quy định này. Trong quy định về việc không được sửa đổi các chương kể trên là niềm tin về việc ghi nhận những giá trị nhân loại, các giá trị hiến pháp bất biến mà người ta không thể dễ dàng thay đổi. Mặt khác, với những thăng trầm trong xã hội Nga, việc khẳng định sự bất biến của các giá trị chung như vậy cũng là cần thiết. Đây có thể là điểm đặc sắc của Hiến pháp Nga, đặc biệt là trong một xã hội chuyển đổi. Tính đến nay là 18 năm, Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Nga chưa bị đặt ra vấn đề sửa đổi hai chương 1, 2 và 9. Điều đó cho thấy sự lựa chọn quy định “gây khó” cho việc sửa đổi chúng là rất chính xác.
Có thể nhận xét rằng, Hiến pháp Liên bang Nga quy định khắt khe về xem xét lại Hiến pháp. Đây là vấn đề thuộc kỹ thuật lập pháp ghi nhận trực tiếp vào Hiến pháp các mức độ được sửa đổi, xem xét nhằm bảo vệ bản Hiến pháp tránh mọi sự thay đổi tùy tiện nó. Các quy định nói trên là điển hình cho sự bảo đảm tính ổn định của hiến pháp. Điều này đòi hỏi chính các nhà lập hiến phải cân nhắc kỹ lưỡng, có tầm nhìn xa, nhằm hạn chế việc sửa đổi, xem xét lại bản Hiến pháp.
Minh Thy
bài này

Quyền phúc quyết toàn dân


Một trong những nội dung mới khi thông qua Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 là trưng cầu ý dân về dự thảo Hiến pháp. Kết quả trưng cầu ý dân có ý nghĩa bắt buộc và thể hiện ở chỗ Hiến pháp có được thông qua hay không phụ thuộc vào việc nhân dân có thông qua Hiến pháp hay không.

Theo quy định của Hiến pháp 1993, trong trường hợp nhân dân biểu quyết thông qua Hiến pháp thì Hiến pháp có hiệu lực bắt buộc mặc dù có thể vẫn có tuyên bố chính thức của Nghị viện hay Tổng thống hay của Ủy ban bầu cử Trung ương về việc thông qua Hiến pháp và tuyên bố Hiến pháp có hiệu lực. Kết quả trưng cầu ý dân về Hiến pháp là kết quả cuối cùng, không có cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền bác bỏ.
Điều 3 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 tuyên bố về việc nhân dân thực hiện quyền lực của mình trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước ở trung ương và các cơ quan tự quản địa phương. Hiến pháp nhấn mạnh rằng, vấn đề về lãnh thổ của Liên bang Nga chỉ có thể được giải quyết thông qua sự thể hiện ý chí của nhân dân tại các cuộc trưng cầu ý dân. Sau khi các đạo luật trên được ban hành ở Nga đã có nhiều cuộc trưng cầu ý dân.
Thực ra, chế định trưng cầu ý dân cũng đã có nguồn gốc ở chính nước Nga. Bằng trưng cầu ý dân các quyết định đã được thông qua tại các hội đồng ở Novgorod, Pskov, Kiev và một số thành phố cổ của nước Nga. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 cũng coi trưng cầu ý dân như hình thức tham khảo ý kiến nhân dân. Điều 5 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 quy định hai hình thức dân chủ trực tiếp: toàn dân thảo luận và toàn dân biểu quyết (trưng cầu ý dân). Quy định tương tự như vậy cũng có trong Điều 5 Hiến pháp Liên Xô năm 1978. Tuy nhiên trong thời gian dài pháp luật không quy định cơ chế thực hiện chế định này mặc dù các nhà khoa học Xô Viết luôn đặt vấn đề về sự cần thiết phải thông qua một văn bản quy phạm đặc biệt quy định trình tự tiến hành trưng cầu ý dân. Các nhà khoa học cũng từng soạn thảo, đưa ra những kiến nghị cụ thể về cơ cấu và những điều khoản cơ bản của văn bản quy phạm về trưng cầu ý dân và đề nghị thông qua đạo luật về trưng cầu ý dân trên toàn lãnh thổ Xô viết.


Tháng 12.1990, Đại hội Đại biểu Xô viết Tối cao Liên Xô đã thông qua Luật trưng cầu ý dân. Trước đó vài tháng Luật trưng cầu ý dân đã được thông qua tại Litva và Liên bang Nga. Sau khi Luật trưng cầu ý dân của Liên Xô được thông qua, các đạo luật trưng cầu ý dân được thông qua tại các nước cộng hòa liên bang khác như Armenia, Gruzia, Ukraine, Belorussia, Moldova. Một số nước cộng hòa tự trị thuộc Liên bang Nga cũng đã thông qua luật trưng cầu ý dân. Như vậy, trước đây Liên Xô cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác có trưng cầu ý kiến nhân dân, nhưng hầu như không có một nước nào thực hiện trên thực tế chế định trưng cầu ý dân. Hơn nữa, xuất phát từ quan niệm hiện đại về trưng cầu ý dân (nhân dân bỏ phiếu về vấn đề cụ thể và kết quả có hiệu lực pháp lý cao nhất và được thực hiện bắt buộc) thì chế định trưng cầu ý dân thực sự chưa có ở Liên Xô.
Ở đây, cái mới của Hiến pháp Liên bang Nga là khả năng áp dụng thực tế chế định này khi cần thông qua một bản Hiến pháp mới. Đương nhiên, Hiến pháp Nga quy định, khả năng thông qua Hiến pháp mới qua con đường biểu quyết toàn dân là công đoạn cuối cùng sau khi Quốc hội Lập hiến thông qua bản Hiến pháp. Trên thực tế, Hiến pháp Nga hiện hành là bản Hiến pháp được thông qua theo con đường này.
Hoài Thu

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

Mô hình Tòa án Hiến pháp ở Cộng hòa Áo

Mô hình Tòa án Hiến pháp ở Cộng hòa Áo
Cung điện Belvedere, Vienna, Áo. Ảnh: ST


Toà án Hiến pháp Áo được xây dựng trên nền tảng của học thuyết về mô hình giám sát tư pháp Hiến pháp (Constitutional Judicial Review) với đặc trưng điển hình là có vị trí pháp lý, cơ cấu tổ chức riêng và hoạt động hoàn toàn độc lập với ba nhánh quyền lực nhà nước. Đây là đại diện tiêu biểu cho mô hình Châu Âu (hay còn gọi là mô hình Áo) - một trong ba loại mô hình điển hình của chế định cơ quan bảo hiến* tồn tại cho đến ngày nay. “Chế định này đã lan truyền rộng rãi, được khẳng định ở các nước Châu Âu, ở nhiều quốc gia mới thành lập sau Đại chiến thế giới lần thứ hai tại Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh, ở các nước Đông Âu, các nước đang phát triển mà trước đó, chế định này hoặc bị huỷ bỏ hoặc không hề tồn tại”. 1
1. Toà án hiến pháp áo trong thể chế chính trị cộng hoà Áo
Cộng hoà Áo được thành lập năm 1918 sau sự sụp đổ nền quân chủ Áo - Hung. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đất nước Áo bị phát xít Đức chiếm đóng, đến năm 1955, sau khi bản Hòa ước quốc gia Áo và bốn nước đồng minh được ký kết thì nước Áo mới chính thức tuyên bố là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và trung lập vĩnh viễn.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Áo ra đời năm 1920, là cơ sở pháp lý tối cao cho việc ra đời Nhà nước Cộng hoà tổng thống Liên bang Áo và thiết lập ba hệ thống cơ quan quyền lực theo thuyết “tam quyền phân lập” với quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ liên bang, Chính phủ bang và quyền tư pháp thuộc hệ thống toà án. Toà án Hiến pháp Áo là sản phẩm pháp lý được phái sinh trên cơ sở của bản Hiến pháp đó. Nó được xây dựng trên nền tảng của học thuyết về mô hình giám sát tư pháp Hiến pháp (Constitutional Judicial Review) của học giả, luật sư nổi tiếng người Đức là Hans Kelsen. Cùng sự phát triển và đổi thay của đất nước, chế định Toà án Hiến pháp Áo cũng có sự thay đổi theo, đặc biệt vào các năm 1929, 1975, 1981 và 1984. 1.1.* Vị trí của Toà án Hiến pháp Áo
Không như các nước theo mô hình giám sát Hiến pháp tư pháp kiểu Mỹ (American Mode) với quy định Toà án Hiến pháp thuộc nhánh quyền lực tư pháp mà ở đó “bất cứ toà án nào cũng có quyền* kiểm tra tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật”2; cũng không như ở các nước theo mô hình hỗn hợp mà ở đó thẩm quyền giám sát hiến pháp được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước khác nhau như Nghị viện, Hội đồng nhà nước hoặc một cơ quan đặc biệt của Nghị viện mà không có một cơ quan bảo hiến chuyên trách được thành lập (như Việt Nam, Trung Quốc), Toà án Hiến pháp Áo được quy định là một cơ quan chuyên trách có cơ cấu, tổ chức và hoạt động hoàn toàn độc lập và được đánh giá như là một “nhánh quyền lực thứ tư” trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước Cộng hoà Áo.
Để đảm bảo vị trí độc lập này, Hiến pháp và Luật liên bang phần Toà án Hiến pháp (Verfassungsgerichtshofgesetz – VfGG) có rất nhiều quy định mang tính đảm bảo về con đường hình thành thẩm phán, quá trình ra quyết định và giá trị pháp lý của các quyết định, quản lý nhân sự cũng như về nguồn kinh phí để duy trì hoạt động của Toà án Hiến pháp. Ví dụ, trong Hiến pháp 1920 quy định “việc quản lý nhân sự (hành chính) và ngân sách trên thực tế của Toà án Hiến pháp Áo thuộc quyền của Tổng thống Liên bang; nhân viên của Toà án Hiến* pháp do Tổng thống bổ nhiệm; ngân sách do Viện Dân tộc quyết định trong khuôn khổ ngân sách hằng năm của Liên bang”3. 1.2. Vai trò của Toà án Hiến pháp Áo
*Như các cơ quan bảo hiến ở các nước khác trên thế giới, Toà án Hiến pháp Áo là một cơ quan có vai trò “đảm bảo sự ổn định và tính tối cao của Hiến pháp, sự tuân thủ những mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, bảo vệ những quyền và tự do hiến định của con người”. Vai trò to lớn này được thể hiện thông qua những quy định về chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Toà án Hiến pháp Áo.
Hiến pháp Áo quy định: “Nhằm ngăn ngừa sự xung đột quyền lực, Toà án Hiến pháp được trao quyền quyết định một vấn đề của lập pháp hoặc hành pháp là thuộc về Liên bang hay thẩm quyền các bang” (Khoản 2 Điều 138); Toà án Hiến pháp Áo có quyền quy trách nhiệm pháp lý (cách chức hoặc truy tố trách nhiệm hình sự) các cơ quan tối cao của Liên bang (Tổng thống, các thành viên Chính phủ) hoặc của các bang (Điều 142 và 143). 2. Cơ cấu* tổ chức và quản lý nhân sự 2.1.* Cơ sở pháp lý, số lượng thành viên và nguyên tắc hình thành
Theo quy định của Hiến pháp Áo năm 1920 thì Toà án Hiến pháp Áo có tổng cộng 18 thành viên, gồm 12 Thẩm phán chính thức (Members), trong đó có một Chánh án (a President); một Phó Chánh án (a Vice - President); và 06 thẩm phán dự khuyết (Substitute Members) - người sẽ thay thế thẩm phán chính thức khi vắng mặt.
Trong số các Thẩm phán chính thức trên (trừ Chánh án), Toà án sẽ chỉ định ra 09 Thẩm phán chuyên làm công tác soạn thảo (reporting judges – Standige Referenten) với nhiệm kỳ ba năm và mỗi người trong số họ có ít nhất là hai (chủ yếu là ba) thư ký luật (law clerk) để giúp việc cho mình. Nguyên tắc hình thành
Kể từ 1920 cho đến năm 1929, 18 thành viên của Tòa án Hiến pháp Áo đều được Viện Dân tộc (National Council) và Viện Liên bang (Federal Council) chỉ định, mỗi Viện được chỉ định 09 thành viên.* ********************** Bổ nhiệm ******** *Đề nghị
* Tổng thống liên bang bổ nhiệm theo yêu cầu
* Chức danh đề nghị Chánh án Phó chánh án Thẩm phán chính thức Thẩm phán dự khuyết
1 Chính phủ Liên bang
1
1
6
3
2 Viện Dân tộc
0
0
3
2
3 Viện Liên bang
0
0
3
1 Tổng Toà án Hiến pháp 1 1 12 6
Từ lần sửa đổi Hiến pháp năm 1929 đến nay, các thành viên của Toà án Hiến pháp Áo được Tổng thống Liên bang bổ nhiệm trên cơ sở có sự đề nghị của Chính phủ liên bang, Viện Dân tộc và Viện Liên bang với tỷ lệ tương ứng nhất định đối với từng chủ thể được quy định như sau (xem bảng):* * Lưu ý: Riêng đối với Chánh án và Phó Chánh án thì chỉ có Chính phủ liên bang mới có quyền giới thiệu và nằm trong số 6 thẩm phán chính thức
Việc phân chia quyền hạn về số lượng đề nghị bổ nhiệm thẩm phán Tòa án Hiến pháp giữa các nhánh quyền lực theo tỷ lệ là nhằm bảo đảm sự độc lập của cơ quan này và tránh khả năng phải phục tùng một nhánh quyền lực nhất định. Ngoài ra, trên một mức độ nào đó, nó đưa lại cho Toà án Hiến pháp tính chất đại diện chính trị, nhất là với sự tham gia của Hai viện - có thành phần chủ yếu theo các đảng phái chính trị trong xã hội. 2.2.* Điều kiện bổ nhiệm
Pháp luật Cộng hoà Áo quy định rất ngặt nghèo và cụ thể với nhiều điều kiện để một cá nhân có thể được bổ nhiệm làm thẩm phán của Tòa án Hiến pháp.** a) Điều kiện về trình độ chuyên môn và năm công tác
Theo quy định của khoản 3 Điều 147 Hiến pháp Áo thì một người muốn được đề nghị bổ nhiệm làm thẩm phán Toà án Hiến pháp dù là chính thức hay dự khuyết (do cả Chính phủ liên bang, Viện Dân tộc và Viện Liên bang đề nghị) đều “cần phải học hết chương trình cử nhân và khoa học chính trị; đồng thời, phải đã qua mười năm công tác đúng chuyên ngành đã học”.
Đối với số thẩm phán Toà án Hiến pháp do Chính phủ liên bang đề nghị bổ nhiệm thì ngoài những quy định chung như khoản 3 Điều 147 thì còn “phải được chọn trong số các thẩm phán, các công chức hành chính nhà nước, các giáo sư luật khoa hoặc khoa học chính trị ở các trường đại học” (khoản 2, Điều 147 Hiến pháp). b) Điều kiện về tính bất khả kiêm nhiệm
Mọi thẩm phán của Toà án Hiến pháp Áo, dù chính thức hay dự khuyết, đều không được phép kiêm nhiệm. “Thẩm phán Toà án Hiến pháp Áo không được đồng thời là thành viên Chính phủ Liên bang, thành viên Viện Liên bang, thành viên Viện Dân tộc hay bất kỳ một cơ quan đại diện chung nào khác. Thẩm phán Toà án Hiến pháp còn không được phép là nhân viên hay cán bộ hưởng lương của bất kỳ một đảng phái chính trị nào” (khoản 4 và 5 Điều 147 Hiến pháp). Riêng đối với Chánh án và Phó Chánh án Toà án Hiến pháp còn phải có thêm điều kiện là trước khi được đề nghị bổ nhiệm không được giữ chức vụ trong các cơ quan trên quá bốn năm. c) Điều kiện về nơi cư trú
Ba thẩm phán chính thức và hai thẩm phán dự khuyết phải có nơi cư trú bên ngoài thành phố Viên (khoản 2 Điều 147 Hiến pháp), Chánh án, Phó Chánh án và ít nhất hai thẩm phán chính thức làm công tác văn bản, hai thẩm phán dự khuyết phải có nơi cư trú tại Viên (khoản 2 Điều 2 Luật liên bang phần Toà án Hiến pháp). 2.3.* Nhiệm kỳ của thẩm phán
Thông thường, các nước xây dựng Toà án Hiến pháp theo mô hình Châu Âu đều quy định nhiệm kỳ của thẩm phán (như Pháp 9 năm, Nga 12 năm) và số nhiệm kỳ tối đa mà một thẩm phán có thể được bổ nhiệm. Còn Hiến pháp Áo quy định: các thẩm phán của Toà án Hiến pháp khi được bổ nhiệm sẽ làm việc đến hết ngày 31/12 năm họ tròn 70 tuổi, làm việc độc lập và không thể bị cách chức; trừ trường hợp đặc biệt. “Trường hợp đặc biệt” được quy định trong Điều 87 và 88 Hiến pháp Áo là: mất năng lực hành vi (incapability); mất quốc tịch (loss of nationality); vi phạm kỷ luật chức vụ (disciplinary offence). 2.4. Lương của thẩm phán Toà án Hiến pháp
Chế độ lương của thẩm phán Toà án Hiến pháp cũng là một tiền đề hết sức quan trọng đảm bảo cho tính tận tâm, liêm khiết và vô tư trong hoạt động của Toà án Hiến pháp. Vì vậy, thẩm phán Toà án Hiến pháp Áo được hưởng lương cao và có sự phân cấp theo từng chức danh với mức lương gốc là lương của một đại biểu trong Viện Dân tộc; theo đó “lương của Chánh án bằng 166%, Phó Chánh án bằng 138%, Thẩm phán chính thức 83%; riêng đối với thẩm phán dự khuyết, do làm theo vụ việc nên được trả thù lao tương ứng với số buổi tham gia”. 2.5.* Quản lý nhân sự và ngân sách
Nhìn chung, Toà án Hiến pháp Áo được tổ chức gọn nhẹ, ngoài 18 thẩm phán và một số thành viên giúp việc thì không có thêm bất cứ một cơ quan hay tổ chức trực thuộc nào khác. Xuất phát từ nguyên tắc Tổng thống bổ nhiệm và điều kiện bất khả kiêm nhiệm nên hoạt động quản lý nhân sự hành chính của Toà án Hiến pháp Áo trên thực tế thuộc quyền của Tổng thống liên bang; “các thẩm phán Toà án Hiến pháp có được sự độc lập và không thể bị điều chuyển bởi chính các quyết định của Toà án Hiến pháp” (Điều 87 và 88 Hiến pháp).
Ngân sách của Toà án Hiến pháp hoàn toàn độc lập với ngân sách Chính phủ, ngân sách hệ thống cơ quan tư pháp và ngân sách Nghị viện. Đó là một khoản độc lập được Viện Dân tộc xây dựng trong khuôn khổ ngân sách liên bang hàng năm. 3. Thẩm quyền 3.1. Kiểm tra tính hợp hiến đối với các đạo luật và điều ước quốc tế
Về nguyên tắc, Tòa án Hiến pháp Áo có thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp đối với tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật cũng như đối với các văn bản hành chính. Nhưng trên thực tế thì Tòa án Hiến pháp Áo chỉ sử dụng thẩm quyền kiểm tra đối với các văn bản quy phạm pháp luật như là một hoạt động chính của mình.
Toà án Hiến pháp Áo cũng có thẩm quyền quyết định tính hợp pháp và hợp hiến đối với các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, từ khi được quy định cho đến nay thì quyền năng này lại chưa bao giờ được sử dụng trên thực tế. a) Kiểm tra trước - kiểm tra thẩm quyền
Kiểm tra trước là hoạt động kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của một văn bản trước khi nó có hiệu lực trên thực tế và thường là kiểm tra về thẩm quyền ban hành văn bản. Toà án Hiến pháp có thể tự mình (trong trường hợp phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm khi đang tiến hành xem xét một vụ việc cụ thể) hoặc theo đề nghị của Chính phủ liên bang, Chính phủ bang để xem xét tính hợp hiến, hợp pháp về thẩm quyền lập pháp.
*Toà án Hiến pháp có quyền quyết định trên cơ sở đề nghị của Chính phủ liên bang hoặc Chính phủ bang về thẩm quyền ban hành một văn bản luật hay một văn bản hành chính nào đó thuộc về liên bang hay thẩm quyền các bang (khoản 2 Điều 138 Hiến pháp). b) Kiểm tra sau - kiểm tra nội dung
Hoạt động kiểm tra sau là hoạt động kiểm tra tính hợp hiến của một văn bản đã được thực thi, mà thông thường là kiểm tra về nội dung của văn bản (có thể là toàn bộ nội dung hoặc một điều, khoản của văn bản đó).**
Hiến pháp Áo quy định: Trong một trường hợp cụ thể, khi một đạo luật bang hoặc liên bang có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp; hoặc nghi ngờ một đạo luật có dấu hiệu gây thiệt hại, thì Toà án Hiến pháp có thể tự mình hoặc theo đề nghị của Toà án tối cao, Toà án hành chính, bản kháng án của các toà án khác để tiến hành kiểm tra đồng thời tính hợp hiến và hợp pháp của đạo luật đó. Ngoài ra, Toà án Hiến pháp Áo cũng phải tiến hành hoạt động kiểm tra nếu Chính phủ liên bang có yêu cầu xem xét tính hợp pháp, hợp hiến của một đạo luật do một bang ban hành; hoặc theo đề nghị của hơn 1/3 số thành viên Nghị viện (Điều 140). 3.2. Kiểm tra kết quả bầu cử
Với vị trí như một nhánh quyền lực trung gian, đảm bảo tính chất đối trọng, cân đối trong ba nhánh quyền lực nhà nước; Tòa án Hiến pháp Áo còn có thẩm quyền tối cao về vấn đề bầu cử, là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phán xử về những tranh chấp trong quá trình cũng như đưa ra kết luận cuối cùng về tính hợp pháp của kết quả các cuộc bầu cử chính trị hành chính, bầu cử chuyên môn (Điều 141 Hiến pháp), cụ thể là: bầu cử đại biểu của Viện Dân tộc; bầu cử đại biểu Nghị viện các bang; bầu Hội đồng bang; bầu Tổng thống liên bang; bầu các cơ quan hành pháp các bang; bầu cử vào các tổ chức nghề nghiệp chuyên môn. 3.3. Như một Toà án Hành chính đặc biệt
Toà án Hiến pháp Áo có quyền phán xét lại những vụ việc mà Toà án Hành chính đã xét xử nếu có liên quan đến Hiến pháp và điều ước quốc tế (ví dụ: có sự vi phạm quyền hiến định). Trong trường hợp này, Toà sẽ tiến hành xem xét lại thực tế đã được áp dụng cũng như các căn cứ mà Toà án Hành chính đã sử dụng (Điều 144 Hiến pháp); nếu có sự vi phạm thì phán quyết của Toà án Hành chính đó sẽ không được tiếp tục thi hành và trở thành đối tượng của hoạt động giám sát tư pháp (Điều 140 Hiến pháp).*
Chính từ quy định trên mà Toà án Hiến pháp Áo bị quá tải, đặc biệt là phải giải quyết những trường hợp đột xuất. Dường như Toà án Hiến pháp phải giải quyết tất cả những vụ việc mà không thuộc thẩm quyền của một Toà nào. Để khắc phục tình trạng này, trong lần sửa đổi Hiến pháp năm 1981 và được bổ sung năm 1984 thì “Toà án Hiến pháp Áo có quyền từ chối giải quyết những vụ việc mà xét thấy không có dấu hiệu là vi phạm luật Hiến pháp” (Điều 144 Hiến pháp Áo). 3.4. Giám sát việc tôn trọng thế cân bằng trong liên bang
Tòa án Hiến pháp có quyền phán xét và đưa ra quyết định cuối cùng về thẩm quyền trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Áo.
Khoản 1, 2 Điều 138 Hiến pháp quy định: Toà án Hiến pháp được trao quyền giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các toà án và các cơ quan hành chính; giữa toà án thông thường và các toà án khác; giữa Toà án Hành chính với các toà án khác; giữa các bang và giữa bang với liên bang; đặc biệt là xem xét thẩm quyền của chính Toà án Hiến pháp.
Khoản f Điều 148 Hiến pháp quy định Toà án Hiến pháp có quyền giải quyết xung đột giữa Chính phủ Liên bang hoặc Bộ trưởng với cơ quan Thanh tra. 3.5. Giải quyết một số vụ việc kiện về trách nhiệm
Tòa án Hiến pháp có quyền tương tự như Tòa án tối cao, tức là có thẩm quyền quy trách nhiệm pháp lý đối với các thành viên cơ quan tối cao liên bang như: Tổng thống Liên bang, các thành viên Chính phủ Liên bang; mà hình thức của trách nhiệm pháp lý đối với những cá nhân vi phạm có thể là cách chức hoặc cao hơn là truy tố trách nhiệm hình sự.*
Điều 142 và 143 Hiến pháp quy định: Những chức vụ cao nhất của bang và liên bang có thể trở thành bị cáo của Toà án Hiến pháp nếu họ vi phạm Hiến pháp hoặc vi phạm luật về kỷ luật chức vụ họ đang nắm giữ; hay cũng sẽ bị xử tội nếu trong quá trình công tác có vi phạm. Tuy nhiên, kể từ năm 1945 cho đến nay thì Tòa án Hiến pháp Áo chưa sử dụng thẩm quyền đặc biệt này lần nào. 4. Nguyên tắc hoạt động và quá trình ra phán quyết 4.1. Phải có đơn đề nghị và xét xử trong phạm vi đề nghị của chủ thể có thẩm quyền
Theo quy định của Hiến pháp Áo 1920 và qua các lần sửa đổi, bổ sung thì các chủ thể có quyền đề nghị lên Toà án Hiến pháp Áo xem xét một vụ việc là: Chính phủ liên bang hoặc Chính phủ bang - đối với các tranh chấp về thẩm quyền (khoản 2 Điều 138 Hiến pháp); Toà án tối cao, Toà án Hành chính và các toà án khác, các Nghị sỹ Quốc hội, các cá nhân công dân Áo - đối với đề nghị xem xét tính hợp hiến của một đạo luật đã ban hành và trong một trường hợp cụ thể (Điều 140 Hiến pháp).
Một nguyên tắc chung trong hoạt động của Tòa án Hiến pháp Áo là, chỉ có thể thực thi quyền hạn của mình trong phạm vi các vấn đề mà chủ thể đề nghị - tức là Tòa án không thể quyết định những vấn đề vượt ra ngoài những yêu cầu; cho dù trong quá trình xét xử những vụ việc trên, Toà án Hiến pháp phát hiện ra tính bất hợp hiến của một đạo luật hoặc sai phạm về thẩm quyền. Tuy nhiên trên thực tế, Toà án Hiến pháp rất khó có thể tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này. Vì vậy, đến Hiến pháp Áo năm 1975 thì “Toà án Hiến pháp có quyền quyết định vượt quá yêu cầu trong trường hợp một đạo luật do cơ quan không đủ thẩm quyền ban hành hoặc khi đạo luật được công bố một cách bất hợp thức”. 4.2. Làm việc tập thể, quyết định theo đa số
Ở nhiều quốc gia, các cơ quan bảo hiến chuyên trách có cơ cấu tổ chức phức tạp với nhiều bộ phận, cơ quan giúp việc (Tây Ban Nha, Đức, Nga, Séc...) và tồn tại đồng thời cả hai hình thức “phiên họp toàn thể” và các phiên của “hai phòng hay phòng nhỏ” - là những bộ phận tổ chức thường trực của Toà án Hiến pháp. Ví dụ ở Tây Ban Nha và Đức, mỗi phòng có số lượng thẩm phán ngang nhau (ở Tây Ban Nha: 06 người, ở Đức: 08 người); ở Nga, một phòng có 09, phòng khác có 10 thẩm phán với trình tự xác định thành phần do Quy chế của Toà án Hiến pháp thiết lập. Luật pháp những nước này quy định thẩm quyền cho từng phòng cũng như cho Đoàn chủ tịch của Toà.
Khác với các nước trên, từ khi thành lập đến nay, Toà án Hiến pháp Áo vẫn coi trọng nguyên tắc phiên họp toàn thể (plenum) và tiến hành công khai; Chánh án Toà án Hiến pháp sẽ triệu tập tất cả 12 Thẩm phán của Toà án Hiến pháp trong phiên họp toàn thể (trong trường hợp có Thẩm phán chính thức vắng mặt thì Thẩm phán dự khuyết sẽ thay thế) và chủ trì phiên họp.*
Các phiên họp của Toà án Hiến pháp cũng không phụ thuộc vào thời điểm phát sinh vụ việc mà được diễn ra định kỳ bốn lần vào các tháng 3, 4, 9 và 10 trong năm. Thời gian giữa các phiên họp được dành cho việc chuẩn bị các căn cứ; lý lẽ để dẫn tới những lập luận, tổ chức biên soạn các quyết định, công bố và các hoạt động khác phục công tác xét xử. Các quyết định của Tòa án Hiến pháp phải được soạn thảo bởi Thẩm phán chuyên trách. Các quyết định của Toà đều được thông qua dựa trên “sự thảo luận kỹ với sự cân nhắc cẩn trọng thiệt hơn xuất phát từ trái tim của mỗi thẩm phán và bằng thể thức bỏ phiếu đa số” (8/14); trong trường hợp số phiếu ngang nhau thì ý kiến của Chánh án là quyết định. 5. Điều kiện có hiệu lực, hậu quả và giá trị pháp lý của phán quyết của toà án hiến pháp 5.1. Điều kiện để một phán quyết của toà án hiến pháp có hiệu lực trên thực tế
Pháp luật Cộng hòa Áo quy định rất cụ thể và chi tiết về điều kiện để một phán quyết có hiệu lực. Những quy định này là về thủ tục công khai hoá quyết định (đăng báo): “Quyết định của Toà án có hiệu lực trực tiếp kể từ ngày được đăng trên công báo pháp luật (Law Gazette) trừ trường hợp Toà án ấn định thời gian ngay trong quyết định đó”.
Những tài liệu và quyết định được ban hành bởi Toà án Hiến pháp kể từ năm 1985 đến nay phải được lưu trữ tại Văn phòng Liên bang. 5.2. Hậu quả và giá trị pháp lý của phán quyết của Toà án Hiến pháp
Sau khi Toà án Hiến pháp đã ra quyết định cuối cùng để giải quyết một vụ việc cụ thể thì quyết định đó có giá trị như một đạo luật; phải được thực hiện ngay và không thể bị kháng cáo, kháng nghị bởi bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào, dù đó là cơ quan tối cao liên bang hay bang. Toà án Hiến pháp, bằng quyết định của mình để phán quyết một thẩm quyền nhất định là thuộc về chủ thể nào; một văn bản được ban hành có đúng thẩm quyền hay không, toàn bộ hay một phần của văn bản là hợp hiến hay vi hiến; một hành vi vi phạm Hiến pháp sẽ bị xử lý.
Tuy nhiên, Hiến pháp Áo cũng quy định “đối với trường hợp tuyên một văn bản vi hiến hoàn toàn nhưng chưa có hiệu lực trên thực tế thì trong quyết định sẽ ấn định một khoảng thời gian không quá 18 tháng để cho các nhà lập php sửa đổi cho phù hợp; nếu quá thời hạn trên mà văn bản đó không được sửa đổi thì nó đương nhiên vô hiệu”. 6. Kết luận
Như vậy, có thể chỉ ra những đặc điểm chính của mô hình Toà án Hiến pháp Áo như sau:
Là một cơ quan được thành lập theo quy định của Hiến pháp, với vị trí là một cơ quan chuyên trách, hoạt động trên nguyên tắc công khai, độc lập, quyết định theo đa số, với nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ Hiến pháp. Thông qua nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của mình, Toà án Hiến pháp Áo đã thể hiện được vai trò giữ thế ổn định và cân bằng quyền lực trong toàn hệ thống chính trị; đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và tạo sự thống nhất cao trong toàn hệ thống pháp luật và pháp chế trong hoạt động của các cơ quan nhà nước Cộng hoà Áo.
Các điều kiện để trở thành một thẩm phán, cơ chế bảo đảm tính độc lập của Toà án Hiến pháp Áo được quy định rất cụ thể, chi tiết và đầy đủ; thành phần của Toà án Hiến pháp có sự tham gia của đại diện nhiều nhánh quyền lực giúp cho các quyết định thật sự mang tính khách quan và chỉ tuân theo pháp luật.
Tuy nhiên, các quy định về chủ thể được quyền đề nghị xem xét tính hợp hiến lên Toà án Hiến pháp còn quá rộng, chưa có quy định thật sự rõ ràng và phân cấp theo từng đối tượng; trong khi đó quyền năng của Toà án Hiến pháp lại bị giới hạn trong phạm vi những đề nghị đó nên đã dẫn tới tình trạng Toà án Hiến pháp bị quá tải, chưa phát huy hết được vai trò của mình. Ước tính trung bình Toà án Hiến pháp Áo phải giải quyết 2.000 vụ trong một năm với hơn 11.000 đơn khiếu kiện về các đạo luật liên quan tới thuế.
Quy định Toà án Hiến pháp họp toàn thể, định kỳ 4 lần một năm đã hạn chế tính năng động, thời sự của Toà án Hiến pháp. Nên quy định Toà án Hiến pháp sẽ họp và giải quyết khi có vụ việc phát sinh và có đề nghị của các chủ thể đã được phân cấp rõ ràng theo đối tượng.
Những quy định của pháp luật về lưu trữ tài liệu cũng như các quyết định của Toà án Hiến pháp Áo thể hiện sự tiến bộ, khoa học. Có một cơ sở dữ liệu trên máy tính được lưu trữ tại Văn phòng Liên bang là một nguồn tư liệu tổng hợp và đầy đủ giúp ích cho công tác xây dựng pháp luật và phục vụ tốt công tác tra cứu.
*
ThS. Bùi Huy Tùng - Học viện hành chính quốc gia
Nguon: Nghien Cuu Lap Phap - Van Phong Quoc Hoi

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Quyền cơ bản trong vương quốc dân chủ hàng đầu thế giới


TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
Đan Mạch là một vương quốc, tức có Vua. Với tổng số dân non năm triệu rưỡi chỉ chừng 1/16 Việt Nam, nhưng GDP gấp gần ba lần Việt Nam; tính ra mỗi người Đan Mạch làm bằng 43 người Việt Nam cộng lại. Được xếp thứ hạng dân chủ cao thứ 5 thế giới, nhưng thiết chế nhà nước họ không thuộc mô hình dân chủ mà là quân chủ “đặc biệt”.
Vai trò nhà Vua vừa mang tính biểu tượng tinh thần như Thái Lan, “thiêng liêng bất khả xâm phạm” (điều §13 Hiến pháp 1953), vừa thực quyền nắm cả lập pháp “cùng với Quốc hội”, lẫn trọn “ hành pháp”, được quy định tại điều §3. Nhưng khác Vua trong chế độ phong kiến ở chỗ: 1- “Toà án thực hiện quyền tư pháp độc lập (điều §3 câu 3) nghĩa là Vua không thể ra lệnh cho Toà, mà còn phải thừa nhận án quyết; 2- Quốc hội gồm Vua và tới 12 Đảng phái đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia, bình đẳng ý kiến với vua chứ không phải dưới quyền vua; 3- “Các bộ trưởng phải tự chịu trách nhiệm trong công việc điều hành của chính phủ”, (điều §13, câu 2) thường do Liên minh các đảng phái thắng cử nắm, do dân bầu chứ không phải Vua ban, nên không thể lấy uy hoặc đổ trách nhiệm cho Vua, 4- Đặc biệt, Vua không đứng trên Hiến pháp như trong chế độ phong kiến mà “phải tuyên thệ không được vi phạm Hiến pháp” (điều §8). Vậy quyền cơ bản được Hiến pháp họ đưa ra những thước đo chuẩn mực quy tắc xử sự chặt chẽ như thế nào để chế tài được nhà Vua, bộ máy nhà nước, các đảng phái, bảo đảm cho dân họ đúng chủ nhân đất nước, chứ không phải Vua, nhà nước hay đảng phái?Về quyền tự do cá nhân Như đa số các quốc gia, điều §71 điểm (1) Hiến pháp Đan Mạch quy định quyền “tự do cá nhân” là “bất khả xâm phạm”. Tuy nhiên để quyền đó không bị quyền lực nhà nước xâm hại, hiến định trên được kèm theo chế tài trách nhiệm nhà nước: “Không một công dân nào vì lý do chính trị hay tôn giáo, hay nguồn gốc xuất thân, có thể bị tước quyền tự do dưới bất kỳ hình thức nào”. Khi hạn chế quyền tự do đó, nhà nước cũng phải tuân thủ quy phạm, thước đo, chuẩn mực, được hiến định ở điểm (2): “Chỉ có thể tước quyền tự do theo một đạo luật”. Và ngay cả khi ban hành đạo luật cũng không có nghĩa Vua, quốc hội được quyền tùy ý, đạo luật đó phải tuân theo quy tắc xử sự: 1- “(3) Ai bị bắt giữ, trong vòng 24 tiếng phải giao cho chánh án câu lưu quyết định. Nếu không thể thả bổng họ, chánh án phải nhanh như có thể trong vòng 3 ngày, ra án trát có nêu lý do, quyết định tiếp tục tạm giam giữ hay cho tại ngoại với điều kiện nộp tiền thế chân ở mức nào và dạng nào”. 2- “(4) Đương sự được quyền lập tức chống lại án trát bắt giữ lên toà cao hơn”. 
Về quyền nơi ở
Khác Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 ở ta (DTHP) chỉ nêu quyền tự nhiên đó của công dân, Hiến pháp họ, điều §72 chế tài trách nhiệm nhà nước phải bảo đảm “nơi ở bất khả xâm phạm”. Khi xảy ra tình huống phải hạn chế quyền đó, như “lục soát, thu giữ đồ đạc, tìm kiếm thư từ văn bản, khám xét các bí mật giao dịch bưu điện, điên thoại thư tín”, chỉ được phép “khi có lệnh toà án, nhưng cũng chỉ trong trường hợp không có văn bản lập pháp nào cấm lệnh đó”. 
Về quyền sở hữu
Vừa là quyền cơ bản, vừa là nền tảng tồn tại của nền kinh tế thị trường vốn theo đuổi mục đích lợi nhuận, còn nếu không người ta chẳng theo đuổi lợi nhuận làm gì, một khi có tiền mà không thể sở hữu tài sản. Vì vậy điều §73, điểm (1) Hiến pháp họ hiến định “Quyền sở hữu là bất khả xâm phạm”. Để bảo đảm quyền đó, nhà nước bị chế tài “không một ai có thể bị ép buộc phải nộp tài sản”, ngoại trừ tình huống “lợi ích cộng đồng đòi hỏi”, nhưng phải tuân thủ điều kiện: 1- “phải thông qua một văn bản lập pháp” nghĩa là áp dụng cho mọi đối tượng do đạo luật đó điểu chỉnh chứ không phải cho một số con người cụ thể, nói cách khác công bằng đối với mọi người trong cộng đồng. 2- “phải bồi thường hoàn toàn”.
Trong lúc ở ta đất đai vẫn hiến định sở hữu toàn dân, do nhà nước nắm giữ – nguyên lý bất di bất dịch của nền kinh tế quản lý tập trung nhằm mục đích hoàn thành kế hoạch nhà nước, phân biệt với bản chất nền kinh tế thị trường theo đuổi mục đích lợi nhuận. Ở họ nhà nước bị chế tài bảo đảm quyền sở hữu đất đai rất ngặt nghèo thậm chí hậu hoạ có thể giải tán quốc hội, được hiến định tại điểm (2) “Trong trường hợp một dự luật quốc hữu hoá đất đai nào đó được thông qua, trong vòng 3 ngày, Quốc hội chỉ cần ít nhất 1/3 số phiếu đồng thuận, có quyền đòi nhà Vua phải tạm ngừng ký lệnh ban hành cho tới khi một cuộc bầu cử Quốc hội mới được thực hiện để thông qua dự thảo mới”. Khi tranh chấp xảy ra do quốc hữu hoá, nhà nước phải tuân thủ quy tắc xử sự tại điểm (3) “Mọi vấn đề liên quan tới tính chất pháp lý của qúa trình quốc hữu hoá cũng như trị giá bồi thường, có thể được giải quyết thông qua toà án. Kiểm tra giá trị bồi thường có thể thông qua 1 đạo luật giao cho toà án phán quyết” không hề liên quan tới Vua hay cơ quan hành chính, hành pháp, bởi những đối tượng này chính là một bên trong tranh chấp. Ở ta tranh chấp đất đai sở dĩ liên tục xảy ra và ngày càng gia tăng, trước hết do thiếu những chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự chế tài trách nhiệm nhà nước lẽ ra phải được hiến định, để thu hồi đất như ở họ không bị phụ thuộc vào động cơ và nhận thức của cơ quan hay người hành xử, lại giao cho nhà nước toàn quyền hành xử; nghĩa là đặt số phận tài sản đất đai do người dân sở hữu (dù sở hữu quyền sử dụng) vào tay nhà nước; nay vẫn được DTHP giữ nguyên tại điều 58, điểm 3: “Nhà nước thu hồi đất… có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế – xã hội”. Luật thu hồi là do nhà nước định, thu hồi có thực sự vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án hay không và vì ở mức độ nào đều do nhà nước quyết định, chứ không phải chủ sở hữu. Quyền sở hữu của người dân lại do nhà nước tự định đoạt như vậy không đúng với khái niệm sở hữu hiểu theo nghĩa phổ quát trên thế giới, chỉ hữu danh vô thực. Một khi nhà nước được trao quyền lực thu hồi đất đai, mà không bị chế tài trách nhiệm bằng những quy phạm bảo đảm đúng nội hàm quyền sở hữu cho người dân, thì tranh chấp đất đai vẫn luôn tiềm ẩn bùng nổ.
Về quyền lao động và an sinh
DTHP ở ta cũng chỉ nêu chung chung, không hề có chuẩn mực thước đo nào chế tài trách nhiệm nhà nước, ở Hiến pháp họ, điều §75 điểm (1) quy định: “Bảo đảm cho bất kỳ công dân nào có khả năng lao động đều có thể làm việc trang trải đủ cuộc sống tối thiểu”. “Ai không thể tự nuôi sống mình, và không còn nguồn thu nhập nào khác, nhà nước có trách nhiệm trợ cấp đủ, với điều kiện họ phải thực hiện các trách nhiệm do một đạo luật quy định”. Như vậy quyền lao động và an sinh không còn dừng lại ở quyền tự nhiên như ăn uống, thức ngủ, xin cho, yêu ghét, vốn do người dân tự lo lấy dù ở nhà nước, thời đại nào, đưa vào hiến pháp hay không, mà trở thành quyền cơ bản – loại quyền, nhà nước bị chế tài phải bảo đảm theo đúng những chuẩn mực thước đo đã hiến định, không thể làm khác.
Về quyền học tập

Điều §76 hiến pháp nước họ quy định: “Tất cả trẻ em ở lứa tuổi đi học, nhà nước phải đảm bảo miễn học phí tại trường công lập. Cha mẹ hoặc người giám hộ phải tự lo cho chúng tới các trường học theo chuẩn công lập, nhưng không có trách nhiệm buộc chúng phải học trường công lập”. Nghĩa là Hiến pháp họ vừa chế tài được trách nhiệm nhà nước bảo đảm chắc chắn quyền cơ bản học tập cho bất kỳ trẻ em nào, vừa bảo đảm quyền cha mẹ tự do chọn nơi học tập cho con cái họ nhà nước không được phép can thiệp vì con họ đẻ ra chứ không phải nhà nước đẻ ra.
Về quyền tự do ngôn luận 
Điều §77 của Hiến pháp Đan Mạch quy định: “Kiểm duyệt hay sử dụng bất cứ biện pháp nào ngăn cấm đều không bao giờ được phép”. “Ai không bị toà án cấm đều có quyền thể hiện công khai mọi suy nghĩ của mình dưới dạng ngôn ngữ hình ảnh và chữ viết”. Như vậy hạn chế quyền tự do ngôn luận chỉ được thực hiện nếu trực tiếp gây thiệt hại bị khiếu kiện và trong trường hợp đó hoàn toàn do toà án phán quyết, chứ không phải Vua hay cơ quan lập pháp, hành pháp, thấy đụng tới mình là cấm. Nói cách khác hạn chế quyền tự do ngôn luận cũng tương tự như quyền cầm dụng cụ, gậy gộc, động thủ chân tay; nhà nước không được phép kiểm soát thân thể để xem có gậy gộc hay chân tay hung bạo hay không (kiểm duyệt) và càng không thể cấm khi họ chưa có hành vi gây thiệt hại, và nếu có chăng nữa cũng phải do toà phán xét.
Về quyền tự do tụ tập, biểu tình, lập hội
Ở hầu hết các nước trên thế giới, đó là sinh hoạt thường nhật hiển nhiên giống như quyền ăn ở đi lại làm việc… Về quyền lập hội, Hiến pháp Đan Mạch, điều §78 quy định thước đo chuẩn mực giới hạn quyền này và chế tài trách nhiệm nhà nước rất chặt chẽ, người dân khó có thể làm sai và nhà nước không thể tự quyền: “(1) Công dân có quyền không cần xin phép trước, thành lập hội đoàn theo những mục đích mà luật pháp không cấm”. “(2) Những hội đoàn sử dụng bạo lực hoặc tìm cách đạt tới tư tưởng khác bằng con đường bạo lực, kích động bạo lực hoặc những biện pháp hình sự tương tự sẽ bị toà ra án trát giải tán”, tức hội đoàn được coi như con người chỉ bị cấm khi có hành vi phạm pháp chứ không thể cấm đẻ ra nó. “(3) Không hội đoàn nào có thể bị chính phủ giải tán. Có thể tạm thời cấm nhưng ngay lập tức phải đệ đơn ra toà đòi giải tán”. “(4) Cáo buộc đòi giải tán các hội đoàn chính trị có thể được xét xử tại toà án tối cao”. “(5) Thủ tục pháp lý giải tán hội đoàn được quyết định bởi một đạo luật”. 
Cũng chặt chẽ như điều §78, quyền biểu tình được hiến định tại điều §79: “Công dân có quyền không cần giấy phép cấp trước, tụ tập biểu tình không có vũ khí. Cảnh sát có quyền tham dự các cuộc tụ tập biểu tình đó. Tụ tập biểu tình ngoài trời có thể bị cấm, nếu có khả năng thực tế gây mất an toàn xã hội”. Chế tài trách nhiệm nhà nước đối với quyền biểu tình được hiến định tại điều §80: “Các cuộc đụng độ khi biểu tình, nếu không bị tấn công, các lực lượng giữ gìn an ninh được trang bị vũ khí chỉ được quyền can thiệp sau 3 lần đòi giải tán với nhân danh nhà Vua và công lý”.
***
Chế độ nào cũng vậy, dù quân chủ hay dân chủ, thần quyền hay đảng quyền, quyền lực cũng được trao cho bộ máy nhà nước thực thi. Bộ máy đó không phải siêu tự nhiên từ trên trời rơi xuống toàn tâm toàn ý vì dân mà cũng chỉ do một bộ phận từ nhân dân đảm đương, với mục đích mưu sinh, hiếm ai tránh khỏi tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố đời thường. Hiến pháp vì vậy chỉ có giá trị sử dụng, một khi nó đưa ra được những chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự đủ sức chế tài trách nhiệm nhà nước, tức những người được dân trao quyền lực, phải bảo đảm quyền cơ bản cho người dân, bằng không nó chỉ có giá trị trên văn bản !

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

NHÀ NƯỚC ANH – QUÂN CHỦ MÀ DÂN CHỦ

Nguyễn Minh Tuấn
 
Nhiều người hiện nay vẫn hiểu: “Đã quân chủ thì không dân chủ”.
Hiểu như vậy là chưa đúng. Chưa đúng cả trên phương diện lý thuyết, lẫn thực tế.
Trước hết về mặt lý thuyết, khi nói nhà nước quân chủ hay cộng hòa là nói đến phương diện hình thức chính thể (form of government), còn khi đề cập đến dân chủ hay độc tài là đề cập đến phương diện chế độ chính trị (political governance). Về phương diện thực tế, hình thức chính thể là quân chủ hay cộng hòa chưa nói lên được vấn đề nhà nước đó có dân chủ thực sự hay không.
Nước Anh là một ví dụ điển hình về nhà nước quân chủ mà dân chủ. Muốn lý giải được tại sao nhà nước này lại có hình thức chính thể quân chủ lập hiến (constitutional monarchy), lý giải tại sao có chính thể quân chủ lập hiến nhưng vẫn là một nhà nước dân chủ thì cần phải trở lại tìm hiểu lịch sử ra đời và cả thực tế tổ chức, hoạt động của nhà nước này hiện nay.
Trước hết về lịch sử, cách mạng tư sản Anh năm 1642 là một trong những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới. Cuộc cách mạng này bùng nổ với hình thức nội chiến (Civil War) giữa 2 lực lượng quí tộc phong kiến với giai cấp tư sản được sự ủng hộ của quần chúng. Cuộc nội chiến này chấm dứt vào năm 1648 với thắng lợi thuộc về giai cấp tư sản.[1]
Hình 1: Ảnh chụp Hoàng gia Anh trong đám cưới William và Kate.  
Nguồn ảnh: Báo Spiegel
Sau cách mạng, giai cấp tư sản đã thiết lập nhà nước theo chính thể Cộng hòa nghị việnquyền lực tối cao của nhà nước tập trung vào Hạ nghị viện. [2] Tuy nhiên chính thể này không tồn tại lâu. Do giai cấp tư sản sau đó đã không thực hiện lời hứa chia ruộng đất cho nông dân, dẫn đến mâu thuẫn xã hội tiếp tục phát triển gay gắt giữa giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân lao động. Trước tình thế đó, giai cấp tư sản đã phải thoả hiệp với tầng lớp quí tộc mới nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn xã hội. 
Hai sự kiện quan trọng thể hiện rõ sự thỏa hiệp này là:
Thứ nhất, sau khi Oliver Cromwell – người lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản qua đời vào năm 1658, kéo theo sự sụp đổ của nền Cộng hòa, Charles II đang lưu vong ở nước ngoài đã được mời về nước lên ngôi vua năm 1660.[3]
Thứ hai, vào tháng 2/1689, Nghị viện Anh đã thông qua đạo luật mới có tên là "Đạo luật thừa nhận ngôi vua và quyền hành của nghị viện".[4] Đạo luật này là cơ sở pháp lý cho sự ra đời nhà nước quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay. Nội dung chủ yếu của đạo luật này là đề cao vai trò của Nghị viện và khẳng định ngôi vua sẽ được giữ lại nhưng chỉ mang tính biểu tượng - nhà vua trị vì mà không cai trị.[5]
Như vậy có thể khẳng định rằng chính thể quân chủ lập hiến ở Anh ra đời là kết quả của sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và quí tộc mới, là sản phẩm và biểu hiện của cuộc cách mạng tư sản không triệt để. 
Ảnh 2: Đám cưới William và Kate, 29/4/2011. Nguồn ảnh: Báo Spiegel
Ảnh 3: Nữ hoàng Elizabeth II. Nguồn ảnh: Báo Spiegel
Trên phương diện thực tế, nhà nước Anh hiện nay là một nhà nước dân chủ. Khẳng định này có được thông qua đánh giá của dư luận, cộng đồng quốc tế và cảm nhận của chính người dân Anh về cách tổ chức, điều hành đất nước hiện nay.

Hiện nay, nhà vua Anh là nguyên thủ quốc gia, là biểu tượng cho sự thống nhất và bền vững quốc gia.[6] Người ta gọi đây là một thiết chế tiềm tàng. Tiềm tàng vì thời bình, nhà vua không tham gia đảng phái, lui vào hậu trường chính trị. Nhưng thiết chế này lại phát huy tác dụng, giống như một "van an toàn cuối cùng" khi đất nước lâm nguy hoặc bên bờ vực của nội chiến. Đây chính là ý nghĩa tích cực của thiết chế này. Ngày nay theo tập quán chính trị lâu đời, quyết định của nhà vua Anh có hiệu lực thực thi khi có chữ ký kèm theo của Thủ tướng hoặc của Bộ trưởng [7] và nhà vua không phải chịu trách nhiệm về chữ ký của mình.[8]
Nghị viện Anh hiện nay được tổ chức theo chế độ lưỡng viện (bicameral), gồm Hạ viện (House of Commons) được hình thành bằng phương thức bầu cử và Thượng viện (House of Lords) với đa số thành viên được chỉ định. Nước Anh theo thể chế chính trị đa đảng.[9] Thủ tướng là thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện và là người đứng đầu Nội Các (The Cabinet). Nhà vua là nguyên thủ quốc gia, trị vì nhưng không cai trị. Hiến pháp Anh hiện nay là Hiến pháp bất thành văn, đây là tập hợp những tập quán chính trị lâu đời, thiêng liêng và không dễ bị vi phạm. Qua thời gian, những tập quán bất thành văn lâu đời ấy vẫn tỏ ra phù hợp với quan điểm "bình đẳng, thoả hiệp, thương lượng" của người Anh, vẫn tỏ ra phù hợp với nhiều vấn đề thay đổi nhanh chóng của thời đại và trở thành một truyền thống trong đời sống chính trị nơi đây.[10]
Ảnh 4: Dân Anh mừng đám cưới William và Kate. Nguồn ảnh: Báo Spiegel.
Hiện nay dân Anh nhìn chung vẫn muốn sống trong một đất nước có vua. Theo một cuộc thăm dò dư luận thực hiện vào tháng 12/2007, đài BBC đã phỏng vấn khách quan 1000 người Anh, độ tuổi từ 16 trở lên về việc có nên duy trì hình thức quân chủ lập hiến không, kết quả đã cho thấy có đến 80% cho rằng việc duy trì chế độ này vẫn là việc làm cần thiết.[11] Ở một khía cạnh khác, người dân Anh họ cũng tự hào về những gì mình đang có - tự hào vì  nước Anh [12] là nơi khai sinh ra hình thức chính thể quân chủ lập hiến, tự hào vì nước Anh những tập quán chính trị tồn tại lâu dài mà không dễ gì bị vi phạm, tự hào là nơi khởi nguồn của Tiếng Anh (English) - ngôn ngữ phổ biến toàn thế giới tự hàonước Anh là nơi khai sinh ra dòng họ pháp luật Common Law - một trong hai dòng họ pháp luật lớn và điển hình nhất thế giới hiện nay.
Ảnh 5: Bản đồ chế độ chính trị trên thế giới, Bertelsmann, IDEA, CHLB Đức, 2003. Nguồn ảnh: Bundeszentrale politische Bildung, Đức.
Nhìn rộng hơn, hiện nay không chỉ nước Anh mà nhiều nước khác trên thế giới mặc dù tên gọi là quân chủ nhưng lại được đánh giá là nhà nước dân chủ, ví dụ như nhà nước Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Luxemburg, Thụy Điển ở Châu Âu hay Nhật Bản ở Châu Á. Ngược lại nhiều nhà nước hiện nay, mặc dù tên gọi là cộng hòa, nhưng vẫn bị đánh giá là cai trị độc tài, phản dân chủ, ví dụ như chế độ độc tài ở Cộng hòa Ai Cập của Mubarak; chế độ độc tài của Gaddafi ở Cộng hòa Libya, nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên...(xem bản đồ chế độ chính trị trên thế giới của tổ chức Bertelsmann IDEA, ảnh 5).  
Như vậy, một nhà nước quân chủ vẫn có thể là một nhà nước dân chủ và một nhà nước cộng hòa vẫn có thể là một nhà nước độc tài, phản dân chủ. Bên trong thông qua sự đánh giá, cảm nhận của chính người dân trong nước và bên ngoài là của cộng đồng, dư luận quốc tế, một nhà nước sẽ được gọi tên cụ thể, chính xác là có dân chủ thực chất hay không.

[1] Cuộc cách mạng này diễn ra trong một thời gian khá dài từ năm 1642 đến năm 1648 và kết thúc bằng sự kiện vua Charles I bị xử tử hình vào ngày 30/1/1648. Bạn đọc quan tâm có thể tham khảo đầy đủ diễn biến cuộc nội chiến Anh tại địa chỉ: http://english-civil-war-society.org.uk/www/cms/
[2] Thực chất tính chất dân chủ của nhà nước Cộng hoà đại nghị Anh lúc này chỉ là hình thức vì nó chỉ cho phép những công dân có thu nhập hàng năm từ 200 bảng Anh mới đủ tư cách đi bầu cử hạ nghị viện. Xem thêm: Nguyễn Minh Tuấn, Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, 2007, chương Nhà nước tư sản Anh.
[3] Vua Charles II đã được mời về nước lên ngôi vào ngày 29/5/1660 (ngày sinh nhật lần thứ 30 của Charles II). Vua Charles II qua đời vào ngày 6/2/1685 và người thừa kế là em trai James.
[4] Đạo luật này có tên là Đạo luật thừa nhận ngôi vua và nghị viện (Crown and Parliament Recognition Act). Lý do ban hành đạo luật này: Theo truyền thống chính trị, chỉ có vua mới có quyền triệu tập họp Nghị viện. Vua James II, đã bê trễ công việc triều chính, không làm tròn nhiệm vụ của mình. Các thành viên của Nghị viện đã họp vào ngày 13/2/1689, chuẩn thuận việc phế truất ngôi vua của vua James II và lựa chọn Mary (con gái của vua James II) và chồng của Mary là William lên ngôi. Cũng trong cuộc họp này Nghị viện đã thông qua đạo luật này. 
[5] Ở một khía cạnh khác, nửa sau thế kỷ XVII hầu như cả Châu Âu vẫn ở trong chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, mặc dù nó đang khủng hoảng và trên đường suy vong, nhà nước tư sản Anh cũng phải thay đổi để hoà nhập.
[6] Có hai nguyên tắc trong đời sống chính trị ở Anh thể hiện rõ vai trò của Nghị viện và chính phủ, cũng như tính chất hình thức của nhà vua. Nguyên tắc chữ kí thứ hai: Bất kì văn bản nào của nhà vua muốn có hiệu lực cần phải có chữ kí thứ hai của thủ tướng hoặc bộ trưởng; Đương nhiên nhà vua không phải chịu trách nhiệm về chữ kí đó; Nguyên tắc trách nhiệm Nội các:  Nội các muốn tồn tại phải được sự ủng hộ của đa số các thành viên Nghị viện; Nghị viện có quyền giám sát Nội các. Nội các chịu trách nhiệm trước Hạ viện. Theo truyền thống, nhà vua Anh truyền ngôi cho con trai trưởng, nếu không có con trai thì truyền ngôi cho con gái, nếu không có con thì truyền ngôi cho anh (em) trai, hoặc em gái. Nhà vua phải là người nghiêm túc, trong sạch, sống theo nếp sống khuôn vàng thước ngọc của phong kiến. (Ví dụ: không được kết hôn 2 lần, không ngoại tình và theo quốc giáo Anh).
[7] Xem thêm: Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nước, NXB Đại học quốc gia Hà nội, H, 2005, tr.507.
[8] Năm 1711 một nguyên tắc mới ra đời bổ sung cho nguyên tắc trên là nguyên tắc không chịu trách nhiệm của hoàng đế, hoàng đế không phải chịu trách nhiệm về hình sự và dân sự trừ tội phản quốc.
[9] Hiện nay nước Anh có 3 đảng chính trị lớn: Đảng Bảo thủ (Conservative Party), Đảng Lao động (Labour Party), và Đảng Dân chủ Tự do (Liberal Democrats). Số lượng thành viên Hạ nghị viện của từng Đảng trong cuộc bầu cử năm 2010 có thể tham khảo tại địa chỉ này: http://www.parliament.uk/mps-lords-and-offices/mps/state-of-the-parties/
[10] Hiến pháp bất thành văn không có nghĩa là nước Anh không có hiến pháp. Hiến pháp bất thành văn là những qui phạm được hình thành theo tập tục, truyền thống, án lệ về tổ chức quyền lực nhà nước. Khác với hiến pháp thành văn, hiến pháp bất thành văn không được nhà nước tuyên bố hoặc ghi nhận là Luật cơ bản của nhà nước.
[11] Nguồn website: http://www.angus-reid.com/polls/2996/britons_confident_on_monarchys_endurance/ đăng ngày 1/2/2008, truy cập gần nhất ngày 30/4/2011.
[12] Nói nước Anh (England) hiện nay là nói đến một quốc gia nằm trong Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland (Great Britain and Nord Ireland) cùng với Scotland, xứ Wales và Bắc Ireland theo Đạo luật thống nhất được ban hành ngày 1/5/1707.

Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia



br/>

Hệ thống pháp luật Singapore

Singapore là quốc đảo ở Đông Nam Á với diện tích 639,1 km2 và thủ đô là Thành phố Singapore.Dân số Singapore vào khoảng 4 triệu người với 77% là người Trung Hoa, 14% là người Mã Lai, 8% là người Ấn Độ và 1% là người lai Âu Á và người có nguồn gốc khác. I. Giới thiệu về Singapore

Có bốn ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở Singapore: tiếng Mã lai, Quan Thoại, Tamil (ngôn ngữ của vùng Nam Ấn và Sri Lanka) và tiếng Anh.


Tiếng Anh là ngôn ngữ dùng trong kinh doanh và hành chính, và đuợc sử dụng rộng rãi. Hầu hết mọi người dân Singapore đều nói được hai ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ quốc gia.
Các tôn giáo chính ở Singapore là Hồi giáo, Lão giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Ấn Độ giáo, Độc Thần Giáo (còn gọi là đạo Sikh) và Do Thái Giáo.

1. Sơ lược lịch sử Singapore
Tài liệu cổ đầu tiên bằng tiếng Trung Quốc cách đây 3 thế kỷ đã đề cập đến Singapore và mô tả nơi đây như là một "Pu-luo-chung" ("hòn đảo ở tận cùng bán đảo"). Vào thời đó, ít người biết đến lịch sử của hòn đảo này ngoài tài liệu mô tả sơ sài đã gây nên ấn tượng sai lầm về một quá khứ sôi động của Singapore.
Trước thế kỷ thứ XIV, Singapore được biết đến dưới tên gọi là Temasek ("Thành phố Biển") và là một bộ phận của đế quốc hùng mạnh Sri Vijayan.

Vào thế kỷ thứ XIV, hòn đảo nhỏ nhưng có vị trí chiến lược này được mang cái tên mới là "Singa Pura" ("Thành phố Sư tử"). Theo truyền thuyết, khi đặt chân lên hòn đảo, vị Hoàng tử Palembang của Đế quốc Sri Vijayan đã trông thấy một con thú mà Ngài nhầm tưởng là con sư tử nên Singapore hiện đại ngày nay có tên gọi là Thành phố Sư tử.
Đến năm 1819 Singapore thuộc sở hữu của Quốc vương Johore (nay là một bang của Malaysia). Năm 1824 theo Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Anh và Johore, Singapore được nhượng cho Anh.
Nhà cầm quyền đầu tiên của Singapore – Ngài Stamford Raffles đã thiết lập Singapore trở thành một trung tâm thương mại. Chính sách mậu dịch tự do đã thu hút các thương nhân đến từ các quốc gia trong khu vực châu Á và từ các nơi xa xôi như Hoa Kỳ và Trung Đông. Chỉ 5 năm sau khi sáng lập đất nước Singapore hiện đại, dân số của Singapore với vỏn vẹn vài trăm ngư dân Malay và người Hoa đã tăng lên đến 10.000 người.
Vào năm 1832, Singapore trở thành chính quyền trung ương của những thuộc địa ở các eo biển Penang, Malacca và Singapore. Sự kiện khánh thành Kênh đào Suez vào năm 1869 cùng với sự xuất hiện của máy điện báo và tàu hơi nước đã nâng tầm quan trọng của Singapore như là một trung tâm phát triển thương mại giữa các quốc gia phương Đông và phương Tây.
Singapore
trở thành hiện trường của những trận chiến quan trọng trong Thế chiến thứ II và được xem như là pháo đài bất khả xâm phạm nhưng đã bị quân đội Nhật chiếm đóng vào năm 1942.
Sau Thế chiến thứ II, Sinagpore vẫn là thuộc địa của Vương quốc Anh. Sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc đã giúp SingaporeMalaysia. Do những khác biệt lớn về chính trị, Singapore tách ra khỏi Liên bang và từ ngày 9 tháng 8 năm 1965 trở thành một nước Cộng hoà độc lập.

giành được quyền tự trị vào năm 1959, thành một quốc gia độc lập trong Khối thịnh vượng chung. Trong những năm 1963 – 1965 Singapore là một bang trong Liên bang Singapore theo Hiến pháp 1963 là nước Cộng hoà nghị viện với chế độ chính trị cực quyền. Từ lúc tuyên bố độc lập đến nay, Đảng Hành động Nhân dân liên tục cầm quyền. Có khoảng 20 đảng phái khác được đăng ký chính thức ở Singapore nhưng các đảng phái này không có vai trò đáng kể trong đời sống chính trị của đất nước.
2. Hệ thống các cơ quan nhà nước Singapore
Quyền lập pháp ở Singapore thuộc về Nghị viện với 83 nghị sỹ và Tổng thống. Nghị viện được bầu bằng hình thức phổ thông trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Nghị viện chỉ có thể được giải tán bởi Tổng thống theo đề nghị của Thủ tướng. Ngoài thủ tục bầu cử Nghị sỹ thông thường còn có thủ tục bầu cử theo nhóm đại diện cho nhóm gồm từ ba đến sáu người trong đó bắt buộc phải có một đại diện dân tộc thiểu số, trước hết là người Malay. Từ năm 1990 Nghị viện Singapore có thêm 10 Nghị sỹ đề cử với nhiệm kỳ 2 năm được Chủ tịch Nghị viện đề cử từ những công dân có nhiều công lao, đóng góp với đất nước và được Tổng thống thông qua. Các Nghị sỹ đề cử này có đầy đủ các quyền, đặc quyền và nghĩa vụ của Nghị sỹ trừ quyền bỏ phiếu sửa đổi Hiến pháp, tuyên bố bất tín nhiệm và thông qua ngân sách. Ở Singapore cũng có quy định về Nghị sỹ không qua bầu cử cho phép bốn đại diện của các đảng đối lập có số phiếu cao nhất qua bầu cử Nghị viện (nhưng không đủ điều kiện để có số ghế trong Nghị viện) trở thành Nghị sỹ.
Nghị viện Singapore họp một năm 2 kỳ, ở kỳ họp thứ hai xem xét thông qua ngân sách quốc gia trong năm tới. Các dự thảo luật được thảo luận ba lần và được thông qua bằng bỏ phiếu đa số thông thường (quá ½ số Nghị sỹ). Dự thảo luật được Nghị viện thông qua có hiệu lực khi được Tổng thống xem xét, công bố. Các dự thảo luật còn được xem xét bởi Hội đồng Tổng thống về quyền của người thiểu số về tính đảm bảo nguyên tắc bình đẳng đối với các cộng đồng thiểu số và tôn giáo, về các đảm bảo Hiến pháp nói chung. Hội đồng này gồm 21 thành viên do Tổng thống chỉ định theo đề nghị của Chính phủ (10 thành viên được chỉ định suốt đời, 10 thành viên và Chủ tịch Hội đồng có nhiệm kỳ 3 năm). Nếu Hội đồng không chấp nhận, dự thảo Luật phải được thay đổi hay phải được Nghị viện thông qua với đa số tuyệt đối (quá 2/3 số Nghị sỹ). Thẩm quyền của Hội đồng không gồm việc xem xét các dự thảo luật liên quan đến tài chính, an ninh và trật tự xã hội,; các dự thảo luật được Thủ tướng công bố là “Khẩn”.
Người đứng đầu nhà nước Singapore là Tổng thống, trước đây được Nghị viẹn bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1991 Tổng thống được bầu phổ thông trực tiếp với nhiệm kỳ 6 năm. Tổng thống có một số các quyền hạn đại diện, hành pháp và tổ chức. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng từ số Nghị sỹ và hoạt động với sự tư vấn của Chính phủ.
Quyền hành pháp ở Singapore thực tế thuộc Chính phủ – đứng đầu là Thủ tướng. Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể trước Nghị viện. Nếu đa số Nghị sỹ mất tín nhiệm đối với Thủ tướng và Chính phủ, Tổng thống có thể tuyên bố bãi nhiệm Thủ tướng và giải tán Chính phủ.

II. Hệ thống pháp luật Singapore
1. Khái quát về hệ thống pháp luật Singapore
Hệ thống pháp luật Singapore gần như hoàn toàn chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh, chỉ trừ một số vấn đề mang tính cá nhân đối với cộng đồng Hồi giáo, Ấn Độ giáo và người Hoa chịu sự điều chỉnh của Luật Hồi giáo, Luật Ấn Độ giáo và phong tục của người Hoa.
Vào thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa, Bản Hiến chương thứ hai về công lý của Anh năm 1826 được coi là hiến chương đưa pháp luật và hệ thống tư pháp Anh vào các nước thuộc vùng eo biển (Penang, Malacca, Singapore). Bản Hiến chương này đồng thời khẳng định: việc tiếp nhận chung đối với pháp luật Anh chỉ đúng khi đáp ứng yêu cầu: thứ nhất, các đạo luật Anh liên quan đến chính sách chung thì được áp dụng chung; thứ hai, các đạo luật được đem áp dụng phải phù hợp với tập quán, tôn giáo cũng như pháp luật của địa phương. Như vậy, ngay cả đạo luật được áp dụng chung cũng vẫn có thể phải sửa đổi để tránh gây bất bình đẳng và áp bức đối với dân bản địa . Các chế định pháp luật Anh liên quan đến hôn nhân gia đình được sửa đổi để áp dụng chung (ví dụ như sửa quy định về chia thừa kế suốt đời để đảm bảo không vi phạm nguyên tắc tự do chuyển nhượng đất). Nhiều ngành luật được pháp điển hoá, một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ được thông qua.
Trong quá trình xây dựng nền tư pháp độc lập và đại phương hoá hệ thống pháp luật của mình, pháp luật Anh được tiếp nhận ở Singapore một cách đặc thù nghĩa là bằng các diều khoản hay các đạo luật quy định rõ việc tiếp tục áp dụng pháp luật Anh trong một số lĩnh vực riêng biệt. Điều 5 Luật Dân sự Singapore quy định việc áp dụng pháp luật Anh trong lĩnh vực thương mại đồng thời cũng nói rõ “các đạo luật Anh sẽ là đối tượng sửa đổi, bổ sung trong những trường hợp cần thiết”. Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự Singapore cũng quy định: “Đối với những vấn đề tố tụng hình sự chưa được điều chỉnh bằng quy phạm nào thuộc bộ luật này hay thuộc các đạo luật khác tại thời điểm chúng có hiệu lực tại Singapore thì luật tố tụng hình sự đang có hiệu lực ở Anh sẽ được áp dụng cho Singapore trừ khi nó mâu thuẫn với Bộ luật này”. Một con đường khác để pháp luật Anh thâm nhập vào Singapore là việc Nghị viện ban hành lại các đạo luật của Anh theo đúng nguyên văn câu chữ hoặc chỉ thay đổi vài điều khoản, ví dụ như Luật trọng tài năm 1950. Theo hình mẫu pháp luật Anh thông qua Pháp lệnh (Ordinance) về thời hiệu năm 1959.
Bên cạnh pháp luật Anh, Singapore đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh theo mô hình của các nước khác phù hợp hơn với điều kiện thực tế của mình ví dụ như thông qua Bộ luật Hình sự, Luật về chứng cứ theo hình mẫu của các Bộ luật thuộc địa Ấn Độ; thông qua Luật về quyền đất đai năm 1956, Pháp lệnh về các quan hệ công nghiệp năm 1960 và Luật về công ty năm 1967 theo mô hình của Australia.
Năm 1979, Nghị viện Singapore đã sửa đổi Điều 5 Luật Dân sự theo hướng loại trừ việc tiếp nhận các đạo luật Anh trong lĩnh vực thương mại trong một số trường hợp: khi các đạo luật đó là hệ quả trực tiếp của các công ước, hiệp định quốc tế mà Singapore không phải là thành viên, khi đã có một đạo luật khác của Singapore với cùng mục đích như đạo luật của Anh. Tuy nhiên những sửa đổi này cũng vẫn chưa giải quyết được triệt để tính không xác định của phạm vi tiếp nhận pháp luật Anh. Vì cho rằng việc Anh tham gia Liên minh châu Âu sẽ làm cho xu hướng phát triển pháp luật thương mại của Anh ngày càng không còn phù hợp với Singapore nên tháng 11 năm 1993, Nghị viện Singapore đã ban hành Đạo luật về áp dụng pháp luật Anh với những nội dung chính: tuyên bố xoá bỏ Điều 5 Luật Dân sự, chấm dứt việc tiếp nhận một cách tự động các đạo luật tương lai của Anh về thương mại; xác lập danh mục các đạo luật Anh được áp dụng tại Singapore đồng thời nói rõ phạm vi áp dụng chúng ; chuyển hoá một số điều khoản của các đạo luật ban hành trước 1826 liên quan đến sở hữu, uỷ thác, bảo hiểm, thừa kế…vào các đạo luật tương ứng hiện hành của Singapore; khẳng định các án lệ và Luật Công bằng của Anh đã từng là một bộ phận của pháp luật Singapore trước khi Luật này có hiệu lực thì vẫn sẽ tiếp tục là một bộ phận của pháp luật Singapore, đồng thời có thể được sửa đổi tuỳ theo yêu cầu cụ thể và bằng con đường lập pháp. Đạo luật về áp dụng pháp luật Anh 1993 có ý nghĩa cách mạng nhằm loại bỏ sự không rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật Anh ở Singapore, làm giảm bớt sự phụ thuộc của pháp luật thương mại Singapore vào pháp luật Anh và vào hoạt động lập pháp tương lai của Anh .
Ở Singapore vẫn áp dụng hoàn toàn học thuyết pháp lý của Anh, thừa nhận án lệ là nguồn quan trọng của luật. Án lệ của Anh, của Malaysia, của Ấn Độ và các nước trong Khối Thịnh vượng chung “có hiệu lực thuyết phục” được Toà án Singapore tiếp nhận trong thực tiễn xét xử .

2. Luật Dân sự và các ngành luật liên quan
Trong các quan hệ dân sự – pháp lý ở Singapore chủ yếu sử dụng các quy phạm thông luật Anh, trừ một số chế định pháp lý cá nhân được diều cỉnh bởi phong tục và luật của các cộng đồng cụ thể.
Năng lực pháp lý của các chủ thể Luật Dân sự được quy định bởi các văn bản pháp lý dựa trên thông luật Anh. Độ tuổi có thể đăng ký kết hôn dành cho người Hồi giáo là 16 tuổi, với các cộng đồng người và tôn giáo khác là 18 tuổi. Luật Hợp đồng và Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Singapore về cơ bản theo hình mẫu của pháp luật Anh. Luật Đất đai của Singapore đồng thời dựa trên pháp luật Anh và pháp luật Australia (về đăng ký bất động sản).
Vấn đề đăng ký kết hôn và ly hôn đối với các cộng đồng không phải là Hồi giáo điều chỉnh bởi Hiến chương về phụ nữ (Women’s Charter) 1961. Hiến chương dành cho phụ nữ các quyền bình đẳng với đàn ông trong tất cả các lĩnh vực, quy định chế độ đăng ký kết hôn bắt buộc và cấm đàn ông lấy nhiều vợ. Có thể tổ chức kết hôn theo phong tục của người Hoa hay người Ấn Độ là nhưng đồng thời phải tuân theo các quy định của Hiến chương. Quy định về ly hôn ở Singapore về cơ bản theo hình mẫu của pháp luật Anh chỉ khác ở chỗ để nộp đơn xin ly hôn cần có ít nhất 7 năm sống riêng. Vấn đề kết hôn và ly hôn của người Hồi giáo hoàn toàn theo Luật Hồi giáo, theo đó đàn ông được phép lấy nhiều vợ và có thể đơn phương tuyên bố ly hôn.
Quan hệ sở hữu trí tuệ ở Singapore được điều chỉnh bởi Luật về quyền tác giả 1987, Luật về Thương hiệu (theo hình mẫu của Luật về Thương hiệu Anh 1887), Luật về Nhãn hiệu (theo hình mẫu Luật về Nhãn hiệu Anh 1938), Luật về sáng chế 1994. Pháp luật Singapore trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ hoàn toàn tương ứng với các chuẩn mực quốc tế hiện dại và có điểm khác biệt về xử lý nghiêm ngặt đối với các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Luật Lao động của Singapore quy định quyền thành lập công đoàn, quy định về thoả ước lao động tập thể và quyền đình công. Quy định về quyền đình công ở Singapore không được sử dụng từ sau 1986 do thủ tục trọng tài hoà giải phức tạp trước khi đình công. Chính phủ Singapore tham gia tích cực vào điều chỉnh quan hệ lao động và quan hệ cộng đồng xã hội. Luật về việc làm quy định 44 giờ làm việc 1 tuần. Theo mức độ bảo trợ xã hội đối với người lao động, Singapore đứng thứ hai ở châu Á sau Nhật Bản.
Theo Pháp lệnh về quyền dân sự (Civil Law Ordinance) ở Singapore các quy định của Luật Kinh doanh của Anh về tất cả các vấn đề liên quan đến công ty hợp danh, công ty, ngân hàng và hoạt động ngân hàng, hợp đòng đại lý, vận chuyển, bảo hiểm thương mại trực tiếp có hiệu lực nếu pháp luật Singapore không có quy định khác. Bên cạnh việc sử dụng trực tiếp pháp luật Anh như Luật về hợp danh 1890, Luật về chi phiếu 1882…Singapore cũng đã thông qua các luật của mình như Luật về công ty (dựa trên hình mẫu của Luật về công ty của Malaysia 1967), Luật về phá sản (dựa trên Luật về phá sản Anh năm 1914).
Từ 1965, pháp luật kinh tế của Singapore hướng tới thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích các sáng kiến cá nhân. Trong những năm 1990, ở Singapore hình thành cơ sở pháp lý khá hoàn chỉnh cho các hoạt động miễn thuế (off shore).
Tố tụng dân sự ở Singapore được điều chỉnh bởi Quy định của Toà án Tối cao năm 1970 và Quy định của Toà áp cấp dưới 1970. Quan hệ trọng tài thương mại quốc tế được điều chỉnh bởi Luật về Trọng tài Thương mại quốc tế 1994. Nhìn chung, tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài ở Singapore được xây dựng trên cơ sở pháp luật Anh.
3. Pháp luật về công ty

Singapore áp dụng khá triệt để hệ thống pháp luật Anh. Một trong những nguyên tắc của việc áp dụng hệ thống pháp luật Anh ở Singapore là áp dụng đến chừng mực mà chưa mâu thuẫn với tập quán và pháp luật của Singapore. Chính vì vậy, nguồn luật công ty của Singapore chủ yếu dựa vào các văn bản pháp luật về công ty của Anh và Úc. Tuy nhiên, luật công ty của Singapore hiện nay cũng chứa đựng nhiều điểm khác so với luật công ty hai nước trên.
Nguồn chủ yếu của luật công ty của Singapore là Paprtnership Act 1890 và Compaines Act, Business Registration Act, Security Act. Theo các văn bản pháp luật này thì ở Singapore có các loại hình doanh nghiệp sau:
- Doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ)
- Hợp danh
- Công ty
Theo Luật đăng ký kinh doanh (Luật số 32) thì một cá nhân nào hay một nhóm những cá nhân có thể thành lập doanh nghiệp một chủ (công ty), hợp danh thông qua cơ chế đăng ký với cơ quan đăng ký được máy tính hoá. Các thông tin đăng ký tại đây đều được cung cấp cho bất kỳ ai quan tâm.
"Công ty " hợp danh không được có quá 20 thành viên, loại trừ đối với các (Công ty) hợp doanh hành nghề được điều chỉnh theo luật. Để đăng ký thì chủ sở hữu duy nhất hay thành viên (công ty) hợp danh phải có đơn tới cơ quan đăng ký để được kiểm tra xem tên dự tính của doanh nghiệp hay (công ty) hợp danh có thích hợp không. Doanh nghiệp một chủ và (công ty ) hợp danh không là pháp nhân. Chủ sở hữu và thành viên của thành viên hợp danh chịu trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động của doanh nghiệp và (công ty) hợp danh. Doanh nghiệp một chủ và (công ty) hợp danh không có nghĩa vụ phải nộp báo cáo tài chính hàng năm. Nhưng thời hạn đăng ký của 2 loại hình doanh nghiệp này là 01 năm và được gia hạn hàng năm. Một công ty có thể tham gia với tư cách là thành viên hợp danh.
i) Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore.
Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore không được điều chỉnh bởi các quy định cụ thể, riêng biệt. Doanh nghiệp tư nhân được coi là doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì doanh nghiệp đương nhiên chấm dứt sự tồn tại.
ii) Hợp danh trong pháp luật Singapore
Trong đời sống pháp lý Singapore, hợp danh được điều chỉnh bởi Luật hợp danh năm 1890 của Anh. Việc áp dụng đạo luật này của Anh được thực hiện thông qua Đạo luật năm 1993 của Singapore về áp dụng pháp luật Anh. Về cơ bản, hợp danh trong pháp luật Singapore và hợp danh trong pháp luật Anh không khác nhau đáng kể.
Dưới đây là một số quy định chủ yếu về hợp danh:
- Hợp danh là thoả thuận giữa những người tiến hành kinh doanh nhằm thu lợi. Như vậy, theo định nghĩa này thì hai dấu hiệu đặc trưng của hợp danh là sự tồn tại của việc kinh doanh và sự thoả thuận giữa nhiều người tham gia việc kinh doanh vì lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận là tiêu chí cơ bản cho việc xác định hợp danh.
- Số lượng thành viên tối thiểu của hợp danh là 2 và tối đa là 20. Các hợp danh có thành viên với số lượng từ 21 trở lên được gọi là công ty cho dù không đăng ký như là công ty.
- Thành viên của hợp danh theo quy định của pháp luật Singapore có thể bao gồm thể nhân và pháp nhân. Đối với pháp nhân thì việc tham gia hợp danh phải kèm theo điều kiện là điều lệ của các pháp nhân đó không hạn chế việc tham gia hợp danh. Công dân, pháp nhân của các nước bị coi là thù địch thì không được tham gia hợp danh. Vị thành niên có thể được tham gia hợp danh song không bị buộc phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ của hợp danh mặc dù tài sản của vị thành niên có thể dùng để trang trải công nợ của hợp danh nêú như tài sản của các thành viên khác trong hợp danh không đủ để trang trải các khoản nợ.
- Hợp danh có thể được thành lập thông qua việc ký thoả thuận thành lập hoặc được thành lập thông qua việc cùng bắt đầu thực hiện hành vì kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên việc thành lập hợp danh chủ yếu được thực hiện thông qua việc ký hợp đồng thành lập bởi vì hợp đồng ấy sẽ là văn bản điều chỉnh quanh hệ nội bộ giữa các thành viên của hợp danh.
- Các hợp danh cần được đăng ký tại cục đăng ký.
- Việc kết nạp các thành viên mới của hợp danh phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên. Thành viên ra khỏi hợp danh có thể đề cử người kế tục mình và trong trường hợp đó hợp danh phải kết nạp người đề cử này. Người được đề cử không phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ mà hợp danh đã phải gánh chịu trước khi người được đề cử tham gia hợp danh trừ phi người này chịu trước khi người được đề cử tham gia hợp danh trừ phi người này chấp nhận chịu trách nhiệm về khoản nợ đó.
- Hợp danh đựơc thành lập với thời hạn nhất định sẽ chấm dứt hoạt động khi thời hạn kết thúc. Tuy nhiên, các bên có thể tiếp tục tiến hành hoạt động của hợp danh mặc dù thời hạn đã kết thúc. Hợp danh được thành lập với mục đích thực hiện hoạt động nhất định nào đó sẽ chấm dứt nếu như hoạt động đó đã được thực hiện. Hợp danh được thành lập vô thời hạn thì hợp danh sẽ chấm dứt nếu một thành viên thông báo cho các thành viên khác về việc rút khỏi hợp danh. Nếu hợp danh được thành lập bằng văn bản thì chỉ cần một thành viên thông báo văn bản về việc ra khỏi hợp danh khi đó hợp danh sẽ chấm dứt.
-Luật pháp của Singapore có những quy định chi tiết về trách nhiệm của các thành viên trong hợp danh, những hành vi được coi là hợp pháp, có tác dụng ràng buộc hợp danh và những hành vi bị coi là bất hợp pháp không có giá trị ràng buộc pháp nhân. Trách nhiệm của các thành viên của hợp danh là liên đới và không phân chia trong trường hợp hợp danh chịu trách nhiệm về những hành vi sai trái , còn trách nhiệm đối với các khoản nợi và nghĩa vụ hợp đồng là trách nhiệm liên đới.
- Mặc dù hợp danh không phải là pháp nhân song luật pháp Singapore vẫn cho phép hợp danh khởi kiện nhân danhmình cũng bị kiện với tư cách là hợp danh. Tất cả các thànhviên có thể đứng đơn khởi kiện hoặc để cho một thành viên thay mặt khởi kiện. Những người khác kiện hợp danh có thể khởi kiện trực tiếp chống bất cứ thành viên nào hoặc chống hợp danh.
- Tài sản được đóng góp cho hợp danh hoặc có được qua giao kết nhân danh hợp danh được coi là tài sản của hợp danh. Tài sản của hợp danh được quản lý và sử dụng tuyết đối vì mục đích của hợp danh. Tài sản trong hợp danh có thể là tài sản hợp danh cũng có thể là tài sản của thành viên. Xác định phần tài sản nào của hợp danh và tài sản nào thành viên sẽ được thực hiện căn cứ vào hợp đồng thành lập hợp danh.
Luật Singapore quy định các thành viên có nghĩa vụ trung thành với hợp danh và phải xử sự một cách ngay tình không được cạnh tranh với hợp danh thông qua hoạt động khai báo cáo cho các thành viên về tình hình thu nhập và lợ nhuận khi hoạt động dưới danh nghĩa thành viên của hợp danh. Nguyên tắc, lợi nhuận, và thua lỗ được phân chia đều giữa thành viên hợp danh. Tuy nhiên, nguyên tắc này có thể không có hiệu lực nếu có thoả thuận rõ ràng hoặc có sự ngầm định khác giữa các thành viên của hợp danh.
Những thành viên sử dụng tài sản của hợp danh vì mục đích cá nhân có thể bị các thành viên khác kiện vì vi phạm nguyên tắc trung thành và ngay tình đối với hợp danh.
iii) Công ty trong hệ thống pháp luật của Singapore
Theo Luật công ty (Luật số 50) thì 2 hay nhiều người có thể thành lập công ty hoạt động vì mục đích hợp pháp thông qua việc họ ký vào thoả thuận thành lập công ty và tuân thủ quy định đăng ký. Trong mọi trường hợp một công ty phải có ít nhất 2 thành viên, trừ khi công ty này là một công ty con thuê 100% sở hữu của một công ty khác. Nếu công ty trong quá trình hoạt động mà còn lại một thành viên và công ty vẫn tiếp tục hoạt động hơn tháng thì thành viên này bị coi là phạm luật công ty và phải chịu trách nhiệm về tất cả những khoản nợ xảy ra trong công ty thì việc sở hữu cổ phiếu của công ty là điều kiện bắt buộc.
Luật quy định có 3 hình thức công ty:
Công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phiếu: trách nhiệm của các thành viên công ty là hữu hạn và chỉ hạn chế tới giá đã được thanh toán hay chưa được thanh toán cổ phiếu mà họ nắm giữ (nếu có). Đây là hình thức công ty thông thường được thành lập để thực hiện công việc kinh doanh vì mục đích sinh lợi.
Công ty trách nhiệm hữu hạn theo bảo lãnh: trách nhiệm của các thành viên công ty là hữu hạn và chỉ hạn chế tới giá trị mà họ cam kết cá nhân đóng góp vào tài sản của công ty trong trường hợp giải thể.
Công ty trách nhiệm vô hạn: các thành viên công ty chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của công ty.
Luật công ty Singapore chia các công ty thành công ty cổ phiếu giao dịch hạn chế (private company) và công ty cổ phiếu giao dịch rộng rãi (public company). Công ty cổ phiếu giao dịch hạn chế không được quá 50 thành viên, không được phát hành cổ phiếu và trái nợ cho công chúng và không được nhận tiền gửi của công chúng. Công ty này cũng có thể hạn chế quyền chuyển nhượng cổ phiếu. Ngược lại, công ty có cổ phiếu giao dịch rộng rãi không bị ràng buộc bởi những quy định này. Pháp luật Singapore cho phép một công ty có cổ phiếu giao dịch hạn chế có thể chuyển đổi thành công ty có cổ phiếu giao dịch rộng rãi và ngược lại, khi công ty thoả mãn các điều kiện và yêu cầu về thủ tục chuyển đổi.
Theo luật công ty, các công ty nước ngoài có thể cũng có thể chọn việc thành lập chi nhánh công ty để kinh doanh thay việc phải thành lập một công ty.
Về danh nghĩa, các thành viên là người có quyền lực lớn trong công ty. Bộ máy quản lý, điều hành công ty phải chịu trách nhiệm trước các thành viên của công ty. Các vấn đề quan trọng nhất của công ty sẽ do đại hội cổ đông quyết định hoặc cho phép. Với tư cách là sở hữu chủ đối với công ty trong phạm vi phần vốn góp vào công ty, các thành viên có những quyền, lợi ích và nghĩa vụ gắn liền với tư cách của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, các thành viên của công ty có quyền kiện phát sinh, tức là kiện nhân danh công ty trong những trường hợp nhất định; quyền tiếp cận các tài liệu, sổ sách của công ty.
Luật công ty của Singapore quy định tất cả các công ty được thành lập tại Singapore phải có ít nhất hai giám đốc và một trong hai giám đốc đó phải là người có nơi cư trú thường xuyên ở đây. Các công ty thành lập ở Singapore cũng phải có ít nhất một thư kí là người có nơi cư trú thường xuyên ở Singapore.
Giám đốc công ty ở Singapore có nhiều loại. Giám đốc điều hành (executive directors); giám đốc không điều hành (nonexecutive directors); giám đốc thế vị (alternate directors) và giám đốc "de- facto". Giám đốc điều hành là loại giám đốc phổ biến nhất trong bộ máy điều hành của công ty.Giám đốc không điều hành là giám đốc không làm việc đầy đủ thời gian cho công ty và không tham gia điều hành công ty. Những chức danh nàythường mang tính chất danh dự. Giám đốc thế vị là người được thay giám đốc trong các phiên họp và hành động nhân danh giám đốc. Giám đốc "de- fatco" là người hành động với tư cách là giám đốc mặc dù chưa bao giờ được bầu hoặc được cử làm giám đốc. Các giám đốc đầu tiên phải được ghi rõ trong văn bản thành lập công ty. Cách thức bầu giám đốc hoặc chỉ định giám đốc điều lệ công ty quy định.
Theo luật của Singapore, các giám đốc công ty có nghĩa vụ hành động trung thực vì lợi ích của công ty, không được đặt mình vào vị trí mà trong đó trách nhiệm của mình và lợi ích của công ty mâu thuẫn với nhau; Sử dụng tài sản và quyền hạn được giao để thực hiện những mục đích của công ty; phải hành động một cách thận trọng, hợp lý trong việc điều hành công ty.
Trong các công ty của Singapore vốn được cấu trúc từ vốn góp và vốn vay. Vốn góp của công ty thể hiện trong các cổ phần. Cổ phiếu là phần góp vốn của thành viên công ty, là phần sở hữu của họ được xác định theo tỉ lệ trong toàn bộ tài sản của công ty.
Cổ phiếu trong công ty của Singapore được chia thành hai loại: Cổ phiếu dự phần (equyty share) và cổ phiếu ưu thế (preferential share) tương đương với cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu tiên trong luật công ty ở một số nước. Theo định nghĩa của luật công ty Singapore ,cổ phiếu ưu tiên là cổ phiếu không chứa đựng quyền bỏ phiếu và chỉ cho phép hưởng lợi tức hạn chế theo tỷ lệ đã xác định. Cổ phiếu cổ phần là cổ phiếu không thuộc diện cổ phiếu ưu tiên.
Vốn cổ phần của công ty ở Singapore được phân loại thành vốn điều lệ (authorized capital), vốn phát hành (issued capital) và vốn đã nộp (paid-up capital). Vốn điều lệ là giá trị tối đa của các cổ phiếu mà công ty được phép phát hành. Vốn điều lệ này có thể thay đổi trong trường hợp công ty phát hành thêm cổ phiếu mới hoặc mệnh giá của cổ phiếu bị tăng hoặc giảm.Vốn phát hành là giá trị toàn bộ của cổ phiếu đã phát hành và đang lưu hành. Vốn phát hành được ghi nhận trong bảng cân đối tài chính của công ty chứ không được thể hiện trong điều lệ văn bản thành lập công ty. Do cổ phiếu phát hành không phải lúc nào cũng được trả hết cho nên vốn thực của công ty có thể ít hơn giá trị các cổ phiếu đã phát hành. Phần giá trị các cổ phiếu mà cổ đông đã trả cho công ty khi mua cổ phiếu được gọi là vốn đã nộp .

SOURCE: BLOG CÁ NHÂN CỦA TÁC GIẢ  - TS. PHẠM TRÍ HÙNG
http://my.opera.com/Pham%20Hung/blog/show.dml/1575209
(