đăng 21 tháng 10, 2007, bổ túc ngày 25 tháng 9, 2009 |
LTS: Tại sao trong bất kỳ một quốc gia nào cũng có những biện pháp chế tài dành cho những kẻ tôi phạm, nhất là tội sát nhân? Câu trả lời đơn giản là "vì họ không phải là người bình thường." Những người này phải bị kết án, phải bị giam cầm, hay phải bị "khử diệt" để bảo vệ nhân mạng của người khác. Vậy tại sao cái tổ chức như được trình bày dưới đây lại được thao túng làm tội ác giết người hàng ngàn năm? Câu trả lời có thể là: Vì họ có quyền lực bao trùm thế giới, họ lại cứ mở miệng giảng nhân từ, bác ái, công chính. Tay phải họ làm việc từ thiện để cho tay trái rảnh rang làm việc khác, không cho tay phải biết. Khi đọc hết bài này, người ta sẽ tự hỏi: Có nên để cho cái tổ chức này được quyền tư do "hành đạo" như bất kỳ một tôn giáo nào ở Á đông hay không? Họ không phải là những người bình thường. Thật là mâu thuẩn khi họ đòi "tự do tôn giáo", là cái mà họ đã từng dùng tòa án Dị giáo của họ để trấn lột, tùng xẻo, hành hạ, và đốt cháy tất cả những ai không tuân phục theo. Tại sao ta không kết án, không ngăn chận, hay không trừ khử những tội phạm lừng danh thiên kỷ khi cả thế giới đã làm ?
CA-TÔ RÔ-MA GIÁO [CÔNG GIÁO]
DẪN NHẬP :
Ngày Chủ Nhật 12 tháng 3, năm 2000, trong một cuộc “Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con chiên, người Chủ Chiên, Giáo hoàng John Paul II, đại diện cho "hội Thánh" Ca-Tô gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, đã cùng với 5 Hồng Y và 2 Tổng Giám mục, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận của Việt Nam, người được hân hạnh đọc lên những lời xưng thú tội lỗi trong mục chống lại công lý và hòa bình v...v... của “hội Thánh” Ca-Tô, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân loại của Ca-tô Rô-maGiáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại” v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những chủ trương và hành động của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo trong 7 mục sau đây:
Đây không phải là lần đầu tiên Giáo hoàng xưng thú tội lỗi của Ca-tô Rô-maGiáo. Người ta ghi nhận, trong thời gian 21 năm ở ngôi vị giáo hoàng, Ngài đã xin lỗi hơn 100 lần về những tội lỗi chuyên biệt liên hệ đến Giáo hội. (Chicago Tribune, March 13, 2000: By some counts he has already apologized for specific sins linked to the church on more than 100 occasions during his 21- year pontificate). Nhưng lần này, sự xưng thú tội lỗi của giáo hoàng có tầm mức rộng lớn hơn những lần trước rất nhiều, vì nó bao quát, tuy không đầy đủ, 7 núi tội ác chính của giáo hội Gia Tô đối với nhân loại trong suốt 2000 năm qua, đặc biệt là trong thiên niên kỷ thứ hai, theo Thường Lịch.
Giáo hoàng xin thế giới tha thứ cho những tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo bằng những lời lẽ rất đại cương, cho nên không mấy người biết rõ những tội ác của Giáo hội là những tội ác nào. Lewis Weinstein viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000, như sau:
"Hầu hết các tín đồ Gia Tô không biết đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Ca-Tô Giáo. TCN) mà Giáo hoàng nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ Ca-Tô phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào."
(Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor, archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.)
Sự thật đó như thế nào? Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo, chúng ta thấy rằng, trong gần 20 thế kỷ, hàng trăm triệu sinh mạng gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh phúc âm, chân lý của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu mạo của các tôn giáo khác, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền văn hóa phi Ca-Tô v..v…
Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo không hề biết đến những sự thật này, nhất là những tín đồ Việt Nam thì lại càng ít biết hơn nữa. Bởi vậy, có những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam vẫn tiếp tục ca tụng trên báo chí, đài phát thanh ở hải ngoại rằng "hội thánh công giáo vẫn luôn luôn là hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền". Mà không phải chỉ có tín đồ Việt Nam. Ngay cả Giáo hoàng đương nhiệm Benedict XVI cũng không chút ngượng ngùng, gần đây vẫn tiếp tục lừa dối con chiên rằng Ca-tô Rô-maGiáo là một “hội thánh” và tự nhận vai trò tự tạo như sau: “Tôi, trong tư cách Người Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh”. Điều thê thảm trên thế giới là các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo vẫn cứ tiếp tục tin những gì “hội Thánh” nói mà không nhìn kỹ vào những gì “hội thánh” làm.
Với kinh nghiệm 2000 năm lừa dối thế giới, với khả năng tài chánh vô tận vơ vét được qua nhiều thế kỷ, với những phương tiện truyền thông rồi rào, và với một đoàn cán bộ trung kiên (hồng y, tổng giám mục, đức ông, giám mục và linh mục), những người chuyên vận dụng khả năng trí thức của mình để lôi kéo quần chúng thấp kém vào vòng nô lệ tâm linh, giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã thành công cấy vào đầu tín đồ những niềm tin như "giáo hội là một "hội thánh" thánh thiện, công giáo và tông truyền", "giáo hội tiền phong trong việc tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ, tự do", "giáo hội là hiện thân của nền văn minh tốt đẹp Tây phương", "giáo hội mang hòa bình và sự hiểu biết đến cho mọi dân tộc". Tất cả những điều tự nhận như trên của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đều chỉ là những sản phẩm tuyên truyền lừa dối đám tín đồ thấp kém, vì những lời xưng thú 7 núi tội ác trong lịch sử giáo hội đã chứng tỏ chúng hoàn toàn trái ngược với sự thực.
Sự thực là như thế nào? Giáo Hội tuyệt đối không phải là một "hội thánh" vì không có một hội thánh nào lại có thể gây ra nhiều tội ác như “hội thánh Ca-Tô”. Giáo hội cũng chẳng có gì có thể gọi là "công giáo" hay "tông truyền" vì tất cả đều trái ngược với những đoạn viết trong Thánh kinh, rằng Giê-su tin và dạy các tông đồ là ngày tận thế đã gần kề, hãy ăn năn sám hối để được Cha của ông ta tha thừ, cho nên không bao giờ có ý định thiết lập ra một giáo hội tông truyền cho tới ngày nay. Giáo hội là một định chế tôn giáo độc tài sánh ngang với Hồi giáo, Do Thái giáo, do đó tuyệt đối không có một ý niệm gì về dân chủ và tự do. Giáo hội là một tổ chức không có một đóng góp nào đáng kể cho nền văn minh Tây phương, trái lại trong suốt 2000 năm đã dùng mọi nỗ lực và thủ đoạn để ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đưa Tây phương vào một thời đại kéo dài hơn 1000 năm mà chính các bậc lãnh đạo và trí thức trong Ca-tô Rô-maGiáo cũng phải công nhận đó là một “thời đại man rợ và đen tối trí thức” (the age of barbarism and intellectual darkness). Và sau cùng, Giáo hội chưa hề mang hòa bình và sự hiểu biết đến bất cứ nơi nào trên thế giới. Bất cứ giáo hội truyền đạo đến đâu là ở đó xảy ra chiến tranh, hận thù, và chia rẽ, và các tín đồ bị lùa vào cảnh nô lệ tâm linh, ngu dân dễ trị. Việt Nam là một thí dụ điển hình. Tất cả những sự thực này sẽ được chứng minh trong những chương tới.
Lời thú nhận của giáo hoàng John Paul II ở trên là bằng chứng hùng hồn nhất để phủ bác những điều tự nhận của giáo hội. Chỉ tội nghiệp cho đám con chiên thấp kém ở dưới đã bị mê hoặc bởi bộ mặt giả dối của giáo hội và những hứa hẹn hoang đường giáo hội đưa ra. Đám người xấu số này vì thiếu hiểu biết cho nên cam tâm tình nguyện làm cái đáy của một kim-tự-tháp, để cho một số người vô hạnh ngồi trên chóp đỉnh, ngự trị trên đầu trên cổ.
Đến đây, chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa của từ "thấp kém" hay "ngu đần" (ignorant) mà các học giả Tây phương thường dùng. Thấp kém và ngu đần ở đây không hẳn chỉ có nghĩa là ít học hay vô học, mà còn có nghĩa không dứt bỏ được những tín lý đã không còn giá trị, không biết đến những diễn biến ngay chính trong nội bộ giáo hội, và không theo kịp sự tiến bộ trí thức của nhân loại về vấn đề tôn giáo, bất kể là bằng cấp ngoài đời cao như thế nào, thuộc ngành nào. Phật giáo cũng có một từ tương đương, "Ngu si vô tri'", không chỉ có nghĩa là ít học hay vô học, mà còn là không nhìn được vạn pháp như chúng là như vậy (to see things as they really are) cho nên nhận giả làm chân.
Vì không biết đến sự thực lịch sử của giáo hội, không biết đến thực chất đạo đức của giới chăn dắt con chiên, từ giáo hoàng trở xuống tới các linh mục, và vì đã bị cấy vào đầu óc từ nhỏ những điều "giáo hội dạy rằng", và nhất là đã được nhào nặn và đóng khuôn trong giáo điều phải "quên mình trong vâng phục" cho nên những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam luôn luôn có quan niệm rằng mọi điều trái ngược với những lời "giáo hội dạy rằng" đều thuộc loại "chống Ca-Tô", bắt nguồn từ sự "thù ghét Ca-Tô" v..v.. mà không bao giờ nghĩ ra rằng, chính cái lịch sử ô nhục của Ca-tô Rô-MaGiáo đã "chống Ca-tô" hơn ai hết.
Họ cũng không tự đặt cho mình một câu hỏi: "Nếu giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo thực sự thánh thiện, tông truyền" thì tại sao người ta lại phải thù ghét hay chống giáo hội. Ở trên cõi đời này, có ai lại đi chống những cái gì thánh thiện, tốt lành bao giờ. Người ta chỉ chống những cái xấu cái ác không phù hợp với những tiêu chuẩn luân lý đạo đức xã hội, thí dụ như những tổ chức như Mafia hay những tổ chức băng đảng tôn giáo đồng loại.
Họ cũng không hề biết rằng, tuyệt đại đa số những tác phẩm mà họ cho là thuộc loại "chống Ca-Tô" lại do chính những tác giả ở trong giáo hội gồm từ các hồng y trở xuống, và do những tín đồ Ki-Tô Giáo ở trong môi trường đại học Âu Mỹ như giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo v..v.. viết, những bậc trí thức lương thiện, không thể bán rẻ lương tâm để rao truyền những điều mê tín, phi lý trí, phản khoa học, ngược thời đại v..v.. Họ đưa ra những sự thực lịch sử của giáo hội không có nghĩa là họ chống tôn giáo của họ, mà chỉ có mục đích khai sáng tâm trí người dân để cho họ biết rõ đâu là sự thực, nhất là khi những sự thực này đã được chính giáo hoàng và giáo hội thú nhận.
Cho nên, thật ra các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo cần phải cám ơn những người đã giúp họ tìm hiểu sự thực, kéo họ ra khỏi vòng u mê tăm tối, vòng nô lệ tâm linh, và những giáo điều đã hạ thấp họ xuống hàng súc vật (con chiên), bảo đâu nghe đó, của một số người tự ban cho mình những thần quyền hoang đường để hưởng những quyền lợi thế tục trên đám tín đồ thấp kém. Chỉ có con chiên mới cần đến những kẻ chăn chiên, còn đối với con người, không ai muốn mình cũng bị chăn dắt như là đàn súc vật.
Cuốn sách nhỏ này được viết ra không ngoài mục đích trình bày cùng độc giả cái bộ mặt đen tối của lịch sử giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo, một bộ mặt mà các giới chức cao cấp nhất trong Ca-tô Rô-maGiáo như giáo hoàng, hồng y.. đều đã biết rõ, và đã thú nhận, nhưng tuyệt đại đa số tín đồ thấp kém ở dưới vẫn không hề biết đến, vì giáo hội luôn luôn dùng đủ mọi cách để bưng bít, dấu kín những sự thực lịch sử của giáo hội, đồng thời dùng bộ máy tuyên truyền đưa ra cái bộ mặt "thánh thiện" không hề có của giáo hội. Sự hiểu biết đầy đủ về mọi khía cạnh lịch sử của giáo hội là một điều cần thiết trong thời đại này. Tuy nhiên, tôi cần phải nói trước rằng, không ai có thể viết ra đầy đủ chi tiết cái lịch sử đen tối của Ki-tô giáo trải dài suốt 2000 năm nay trong một cuốn sách. Cho nên, cuốn sách này chỉ thâu tóm những nét chính của bộ mặt đen tối của lịch sử Ki-tô giáo, đặc biệt là lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, hệ phái Ki-tô giáo ở vị thế độc tôn từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 16, thời điểm có cuộc cải cách của hệ phái Ki Tô phản đối định chế Ca-tô Rô-maGiáo (Protestant reformation).
Ca-tô Rô-maGiáo luôn luôn thổi phồng lên quá mức và quảng cáo cho cái bộ mặt "thánh thiện" của mình, thường là không đúng sự thật. Tôi nghĩ, trong thời đại này, mọi Ki-tô hữu (Christians) cũng như mọi người ngoại đạo cần phải biết thêm đến cái mặt chính, cái mặt đen tối của lịch sử Ki-Tô giáo, để có thể quyết định cho chính mình một con đường tâm linh sáng suốt và hữu ích cho bản thân và cho nhân loại.
Học giả Ca Tô Joseph L. Daleiden đã tóm tắt lịch sử truyền bá đạo của Ca-tô Rô-maGiáo qua nhận định như sau trong cuốn The Final Superstition:
"Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo trong thế giới xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc diệt trừ những người lạc đạo ngay từ thuở ban đầu của Giáo hội, cho tới những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và chống loài người của tôn giáo này." 1
Nhận định trên đúng hay sai? Phải chăng đó chỉ là những lời vô căn cứ của một người "chống đạo Ca Tô", một "kẻ thù của giáo hội" v...v... như giáo hội thường lên án những người viết ra những sự thật về Ca-tô Rô-maGiáo? Hi vọng những chi tiết sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Đại cương thì, đọc lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, chúng ta thấy rằng trong suốt gần 2000 năm nay, tôn giáo này chưa bao giờ hòa hợp với bất cứ một tôn giáo nào khác, kể cả những tôn giáo cùng thờ một Chúa KiTô. Khi ở vị thế có thể nắm quyền thế gian thì tôn giáo này đã làm đủ mọi cách, dùng mọi quyền lực và thủ đoạn, thường là bất nhân tàn ác, để bành trướng bằng sắt máu, tiêu diệt các tôn giáo khác. Đi tới địa phương nào, tôn giáo này cũng tự cho mình là chân thật duy nhất, cao quý nhất, trong khi thực chất chỉ là một tôn giáo đầy mê tín dị đoan, thấp kém về vấn đề đạo đức, luôn luôn áp dụng sách lược phỉ báng các tôn giáo và truyền thống dân tộc địa phương cũng như tìm cách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương để thay vào đó bằng một nền văn hóa hẹp hòi, tàn độc của Ca-tô Rô-maGiáo Tây phương. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, giáo sĩ Alexandre de Rhodes, khi tới Việt Nam truyền đạo, đã xuyên tạc, mạ lỵ cả ba tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo, gọi đức Phật, Khổng Tử bằng những danh từ thiếu văn hóa. (Xin đọc "Phép Giảng 8 Ngày..." của Alexandre de Rhodes). Lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo cho chúng ta thấy giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã phạm quá nhiều tội ác trong quá trình bành trướng và truyền bá đạo. Những tội ác này, theo sự phân tích của đa số học giả ngày nay, là những vết nhơ không thể gột sạch được trong lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, dù gần đây Giáo hội đã cố gắng đánh lạc hướng dư luận thế giới bằng những chiêu bài hữu danh vô thực như tranh đấu cho tự do, bình đẳng, nhân quyền, và xưng thú 7 núi tội ác cùng nhân loại v..v.. để thế giới quên đi không nghĩ tới cái lịch sử đen tối của Ca-tô Rô-maGiáo. Sau đây tôi sẽ lược duyệt năm núi tội ác chính của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại. Trước hết, chúng ta hãy điểm qua vài tác phẩm và sự kiện về bộ mặt đen tối của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-maGiáo nói riêng.
1988: Peter de Rosa, một linh mục dòng Tên (a Jesuit), giáo sư về Siêu Hình Học và Đạo Đức tại trường Dòng Westminster, khoa trưởng khoa Thần học tại đại học Corpus Christi ở Luân Đôn (Professor of Metaphysics and Ethics at Westminster Seminary and Dean of Theology at Corpus Christi College in London) xuất bản cuốn Những Đại Diện của Chúa Ki-Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) trong đó tác giả vạch trần cái mặt đen tối đã ngự trị trong nhiều triều chính giáo hoàng như đồi bại, ngụy tạo tài liệu, loạn dâm, giết người, theo đuổi chính sách diệt chủng v..v.. (corruption, document-forgery, sex scandal, murder, genocide). Tác giả đã mở toang những cánh cửa kính màu (thường là mẫu mực trong các nhà thờ ở Tây phương, nhất là Thánh đường Phê-rô ở Vatican. TCN) và để lộ ra những giáo điều của Giáo hội thường là "...hình thành bởi những ham muốn đồi bại, độc tài và cuồng tín của những giáo hoàng” (de Rosa opens the stained glass window and reveals that the Church's teachings were too often "..shaped by the whims of corrupt, despotic and fanatical popes"). Cuốn sách đã được nhiều tín đồ Ca-tô đánh giá cao vì tính chất lương thiện và nghiêm túc của nó (The book was appreciated for its honesty and seriousness by many Catholics).
1994: Trong một mật thư gửi cho các hồng y, về sau bị lộ ra cho báo chí Ý, giáo hoàng John Paul II đặt câu hỏi: "Làm sao mà chúng ta có thể tiếp tục yên lặng trước nhiều hình thức bạo tàn mà giáo hội đã phạm phải nhân danh đức tin - chiến tranh tôn giáo, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và những hình thức vi phạm nhân quyền khác?" 2
1995: Giáo hoàng John Paul II thúc giục Giáo Hội Ca-Tô Rô-MaGiáo hãy nắm lấy cơ hội "đặc biệt thuận lợi" của một thiên niên kỷ mới để ghi nhận "cái mặt đen tối của lịch sử giáo hội (Ca-tô)" 3
1995: Helen Ellerbe cho ra đời cuốn "Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo" (The Dark Side of Christian History). Chúng ta có thể đọc những lời tóm tắt sau đây nơi trang bìa sau: "Trong khoảng thời gian gần 2000 năm, giáo hội Ki-Tô đã đàn áp và bạo hành nhiều triệu người trong toan tính kiểm soát và ngăn chận vấn đề tâm linh của con người. Cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo phanh phui với chi tiết tỉ mỉ những thảm họa, đau khổ và bất công mà giáo hội đã giáng lên nhân loại. Tác phẩm vạch trần sự thật này là một đòi hỏi hấp dẫn và nồng nhiệt cho nhân phẩm và sự tự do trong vấn đề tâm linh" 4
1999: Douglas Lockhart xuất bản tác phẩm Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa (The Dark Side of God) với lời giới thiệu như sau:
"Giáo hội Ki-tô (Ca-tô) tự nhận là thừa hưởng trực tiếp từ Giê-su quyền năng tinh thần như được viết trong Phúc Âm. Nhưng thực ra có phải là một sự chuyển giao quyền lực một cách êm ả từ Giê-su cho Phê-rô và từ Phê-rô cho Giáo hội hay không? Hay đó chỉ là một chiến dịch tuyên truyền, ngụy tạo, và lừa dối lâu dài đã che đậy bản chất thực sự của các biến cố. Cuốn sách mới, có tác dụng làm cho chúng ta suy nghĩ, về nguồn gốc Ki Tô Giáo, đưa ra một họa đồ về sự theo đuổi quyền lực không ngừng của Giáo hội , từ lúc đầu cho đến ngày nay. Trong sự phân tích hấp dẫn và thường gây ngỡ ngàng về niềm tin trong Ki Tô Giáo, cuốn sách này khảo sát từ đâu mà Giê-su, người xứ Nazareth, đã được thổi phồng lên quá mức hoàn toàn xa với thực tế thường ngày." 5
Từ nội dung những tác phẩm trên, không còn nghi ngờ gì nữa, các triều chính giáo hoàng cũng như giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo quả thật có một lịch sử đen tối, và ngay cả Thiên Chúa của họ cũng có cái mặt đen tối của mình. Đen tối như thế nào?
Khi xưa, Cụ Nguyễn Trãi có viết hai câu để mô tả sự dơ bẩn và độc ác của quân Tàu khi sang xâm chiếm nước ta:
NGĂN CHẬN SỰ TIẾN BỘ TRÍ THỨC CỦA NHÂN LOẠI.
“Giáo hội Ca Tô đã có những tác động tàn phá trên xã hội. Khi Giáo hội nắm được vai trò lãnh đạo, hoạt động trong những ngành y khoa, kỹ thuật, khoa học, giáo dục, lịch sử, nghệ thuật và thương mại đều sụp đổ. Âu Châu đi vào những Thời Đại Hắc Ám. Tuy Giáo hội vơ vét được một tài sản to lớn trong những thế kỷ đó, hầu hết những gì định nghĩa cho văn minh đã biến mất.” 6
(Helen Ellerbe, The Dark Side of Christian History, p. 50)
Nhận định của Helen Ellerbe không sai nếu chúng ta biết đến chủ trương của Ca-tô Rô-MaGiáo qua những hành động ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại như:
- Giữ độc quyền giáo dục với chính sách làm cho nhân dân ngu muội, tối tăm.
- Đốt sách vở ghi chép những kiến thức cổ xưa của nhân loại.
- Ngụy tạo và viết lại lịch sử với mục đích chứng thực đức tin của Công Giáo.
- Hủy diệt các nền văn hóa phi Ki-Tô.
Trước khi đi vào chi tiết những điểm trên, tưởng chúng ta cũng nên biết chút ít về xuất xứ của Ca-tô Rô-maGiáo. Khởi đầu, Ca-tô Rô-maGiáo chỉ là một hệ phái trong nhiều hệ phái theo nhân vật Do Thái mà họ gọi là Giê-su Ki Tô. Trong mấy thế kỷ đầu, Ca-tô Rô-maGiáo càng ngày càng có nhiều tín đồ, không phải vì những giáo lý dạy về luân lý đạo đức, mà vì sự khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn trong một đời sau của tuyệt đại đa số người dân cơ cực thời bấy giờ.
Vào thời điểm hạ bán thế kỷ I, hầu hết dân chúng sống trong vùng thống trị của đế quốc La Mã là những người nghèo khổ, nô lệ, ít học hay vô học. Họ sống trong tuyệt vọng, không còn có thể trông ngóng được gì trong cuộc sống trên cõi đời của họ. Có nhiều tôn giáo phát triển trong quần chúng nhưng họ chỉ muốn một tôn giáo mang đến cho họ sự an ủi và hi vọng. Ca-tô Rô-maGiáo khai thác sự khao khát này và hứa hẹn cùng họ một cuộc sống tốt đẹp hơn trên Thiên Đường sau khi chết, nếu họ tin vào Chúa Giê su, theo giáo thuyết của Thánh Phao Lồ. Đây là một niềm hi vọng và an ủi lớn đối với họ cũng như của đa số tín đồ Ca-tô Rô-MaGiáo ngày nay đang sống ở Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân và một vài vùng ở Việt Nam v...v..., nhất là trong những ốc đảo nghèo khổ.
Các hệ phái khác cùng theo Chúa Giê su , nhưng thường không có đồng quan điểm với những tín điều, những sự kiện lịch sử, vai trò và khả năng của Chúa Giê su, thần quyền của Giáo Hoàng và hàng Giáo phẩm Ca-tô Rô-maGiáo đưa ra. Điển hình là phái Tự Ngộ Ki Tô (Gnostic Christianity) theo chủ thuyết tự chứng, đạt giải thoát qua kiến thức và sự hiểu biết sâu xa về thực tại, cùng kinh nghiệm tu chứng bản thân. Tên phái này lấy từ gốc Hi Lạp, Gnosis, có nghĩa là kiến thức (knowledge) thâu thập được do nội quán. Từ thập niên 1980 tới nay đã có nhiều công cuộc khảo cứu về hệ phái Tự Ngộ Ki Tô.
Hệ phái Tự Ngộ đã chê trách "những người (trong Ca-Tô Rô- MaGiáo) tự xưng là Giám Mục và Trợ Tế, làm như họ đã được Thượng đế ban quyền cho..." và gọi những người tự xưng một cách trơ tráo này là "những con kênh không có nước." 7
Nhưng hiển nhiên là chủ thuyết Tự Ngộ theo con đường vận dụng sự hiểu biết không thích ứng đối với lớp dân chúng thấp kém, ít học, hay vô học, cho nên hệ phái này không phát triển được sâu rộng trong quần chúng. Hệ phái Tự Ngộ này bị giáo hội tự phong là chính thống Ki Tô (nghĩa là Ca-tô Rô-MaGiáo cho tới thế kỷ 16), kết án là lạc đạo hay dị giáo (heretic), vì không chịu tin như những người Công Giáo. Và khi giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo liên kết với, hoặc nắm được, quyền lực thế gian, thì tìm cách tiêu diệt hệ phái này và tất cả những tín ngưỡng không phục tùng giáo hoàng, hay nói khác đi, không chịu nằm trong sách lược “ngu dân dễ trị” của Ca-tô Rô-maGiáo.
Chủ thuyết của hệ phái Tự Ngộ Ki Tô đối nghịch với những giáo lý ngụy tạo của Ca-Tô Rô-maGiáo và phủ nhận quyền lực của giới giáo sĩ cho nên thật là dễ hiểu khi ta thấy Ca-Tô Rô-maGiáo đã phải tìm đủ mọi cách để tiêu diệt hệ phái Ki Tô này. Có 3 lý do chính để Giáo hội Ca-Tô Rô-maGiáo thù ghét hệ phái Tự Ngộ.
Thứ nhất, hệ phái Tự Ngộ chủ trương sự tự chứng là cứu cánh chung cùng của con người. Biết rõ bản thân có nghĩa là biết rõ Thượng đế vì "cái ngã và Thượng đế là một" . Vì con đường đi tới tự chứng căn bản là qua phương pháp nội quán cho nên hệ phái Tự Ngộ không chấp nhận một niềm tin mù quáng, điều kiện cần để được giải thoát, theo thuyết rao giảng bởi Thánh Phao Lồ. Hệ phái Tự Ngộ cho rằng "tin vào các bí tích là lối suy nghĩ ngây thơ và ma thuật" (Faith in the sacraments shows naive and magical thinking) và cũng cho rằng "ý tưởng về Chúa trở lại cõi trần là vô nghĩa" (They thought the idea of the Second Coming of Christ was nonsense..). Và ngày nay họ đã chứng thực được điều này, vì đã 2000 năm nay mà Giê-su chưa hề trở lại như ông ta đã hứa hẹn trong Tân Ước là sẽ trở lại ngay trong thời đó.
Những niềm tin này của phái Tự Ngộ là một sự đe dọa đối với hàng Giáo phẩm Ca-tô Rô-maGiáo vì chúng trái ngược với những giáo lý mà hàng Giáo Phẩm Ca-tô Rô-MaGiáo đưa ra, và hoàn toàn phủ bác vai trò độc nhất nắm trong tay chân lý, và giữ độc quyền ban phát ân sủng cho tín đồ, của hàng Giáo phẩm Ca-tô Rô-maGiáo.
Thứ nhì, theo Phúc Âm của Philip (The Gospel of Philip) thì Chúa Giê-su chỉ là một người như mọi người thường. Trong Phúc Âm này có đoạn mô tả tính người của Chúa như sau:
"Người luôn luôn đi bên Chúa là Mary Magdalene. Chúa yêu thương nàng hơn tất cả các đệ tử khác và thường hôn môi nàng. Các đệ tử khác lấy làm phật ý về việc này..." 8
Một khi đã phủ nhận tư cách thần thánh của Giê-su, hệ phái Tự Ngộ phủ nhận luôn cả chuyện Đức Mẹ Đồng Trinh và chuyện Chúa sống lại và bay lên trời, nghĩa là những tín lý căn bản của Ca-tô Rô-maGiáo.
Thứ ba, hệ phái Tự Ngộ chủ trương con người thì bình đẳng và thường mời giới phụ nữ giảng đạo với tư cách của một linh mục. Trái lại, trong Ca-tô Rô-maGiáo, theo những bức thư tông đồ của Thánh Phao Lồ thì phụ nữ bị liệt xuống hạng thấp kém so với nam giới, và Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo vẫn duy trì sự kỳ thị này cho tới ngày nay.
Giáo Hoàng John Paul II ra sắc lệnh khẳng định việc cấm tấn phong phụ nữ làm linh mục, và Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, vẫn duy trì sắc lệnh này. Trong kinh Trí Tuệ của Đức Tin (Faith Wisdom) của phái Tự Ngộ có ghi Mary Magdalene, người yêu của Chúa Giê-su, phàn nàn như sau: "Phê-rô làm tôi ngần ngại, tôi sợ hắn, vì hắn ghét phái nữ" (The author of the Gnostic text Faith Wisdom has Mary Magdalene complain, "Peter makes me hesitate, I am afraid of him, because he hates the female race.")
Nói tóm lại, vì phủ nhận những chuyện hoang đường trong Thánh Kinh như Đức Mẹ Đồng Trinh, vai trò thần thánh của Giê-su, vai trò cứu rỗi của Giê-su, chuyện Giê-su sống lại và bay lên trời, và nhất là phủ nhận quyền lực thần thánh tự phong của hàng Giáo phẩm Ca-tô Rô-maGiáo, bác bỏ một đức tin mù quáng, và chủ trương con người bình đẳng, mà hệ phái Tự Ngộ bị Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo tiêu diệt.
Đúng như Helen Ellerbe đã nhận định ở trên, khi đại đế Constantine ở Rô-ma trong thế kỷ 4 theo Ki Tô Giáo và lập Ki Tô Giáo làm quốc giáo thì tôn giáo này trở thành Ca-tô Rô-maGiáo, nắm được địa vị và quyền hành tuyệt đối trên thế gian. Và từ đó Ca-Tô Rô-maGiáo đã phát triển, và với một định chế độc tài về tư tưởng và tín ngưỡng, giáo hội Ca-Tô Rô-maGiáo đã đưa Âu Châu vào trong những thời đại “hắc ám” (The Dark Ages), kéo dài suốt 1000 năm, từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15. Thời gian mười thế kỷ này đã được các học giả, kể cả một số học giả Công Giáo, công nhận là "thời đại Hắc Ám" (Dark Ages), đó chính là "thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức" (The ages of barbarism and intellectual darkness; (Grolier Electronic Publishing 1997)). Sở dĩ thời đại này có tên như vậy vì dựa vào quyền lực thế gian, giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã giữ độc quyền giáo dục quần chúng, phần lớn là ít học hay vô học, cho nên đã áp đặt sự ngu xuẩn, đen tối trí thức và bạo hành của giáo hội trên quần chúng ở Âu Châu, như chúng ta sẽ thấy trong phần sau đây.
I. Về Văn Hóa:
Chủ trương tiêu diệt tất cả những tín ngưỡng khác của Ca-tô Rô-maGiáo bắt đầu bằng một chính sách man rợ và phản tiến hóa nhất của nhân loại: cấm mọi thảo luận triết lý trong dân gian; đốt tất cả mọi sách vở, sử liệu, chứng tích lịch sử liên hệ đến các tín ngưỡng khác và liên hệ đến những sự thật về KiTô giáo và nhân vật Giê-Su; và thay thế vào đó cái ý hệ độc tôn "man rợ và đen tối trí thức" của Ca-tô Rô-MaGiáo bằng những tư liệu ngụy tạo, những giáo điều dựa trên quyền lực v...v...
Về sự kiện này, trong cuốn "Những dối trá và huyền thoại của Thánh Kinh" ("Deceptions and Myths of the Bible", trg. 444) LLoyd M. Graham đã viết như sau:
"Sự hủy diệt mọi chứng tích về phái Tự Ngộ và những nguồn tài liệu về đa thần là "việc làm đầu tiên" của Ca-tô Rô-MaGiáo. Chính các nhà truyền giáo đã khởi sự, ở Antioch, như được nói đến trong sách "Công Vụ các Sứ đồ" (Acts).. Do lệnh của giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo, tất cả kinh sách của những người ủng hộ phái Tự Ngộ đều bị đốt, cũng như 36 cuốn của Porphyry (Porphyry là một triết gia (232-305) chủ trương triết lý là phương tiện giải thoát và nhấn mạnh đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết hóa con người; TCN). Giáo hoàng Gregory VII đốt thư viện Apollo chứa đầy kiến thức cổ xưa. Hoàng đế Theodosius đốt sạch 270000 tài liệu về học phái huyền bí vì những tài liệu này chứa những căn bản giáo lý của ngũ Kinh.
Sự hủy diệt văn hóa này vẫn tiếp tục sau khi những nhà lập giáo đã qua đời; những tín đồ cuồng tín mà họ đào tạo ra tiếp tục công việc này: đoàn Thập Ác quân đốt tất cả sách vở mà họ có thể kiếm ra được, kể cả những cuộn nguyên bản Thánh thư Do Thái. Năm 1233 những tác phẩm của Maimonides (một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204; TCN) bị đốt đi cùng với 12000 cuốn của Kinh Talmud (Thánh kinh của Do Thái Giáo. TCN). Năm 1244, 18000 cuốn sách đủ mọi loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã đốt 80000 bản văn của Ả Rập ở công trường Granada. Ở Tân Thế Giới, toàn bộ kiến thức cổ xưa bị những người Ca-tô Rô-MaGiáo Tây Ba Nha phá hủy cùng với đền đài chứa đựng những kiến thức này.
Sau khi đã phá hủy mọi chứng tích, những nhà lập giáo Ca-tô Rô-MaGiáo đầu tiên đã có thể thay thế những kiến thức cổ xưa này bằng những điều vô nghĩa của họ. Và để chứng minh những điều vô nghĩa này, họ đã thay đổi lời lẽ và gài vào đó những câu không có trong những nguyên bản... Về cùng một chủ đề này, Massey viết như sau: "Trong bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những tài liệu quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết trung thực về nguồn gốc thực của sự mê tín trong Ca-tô Rô-MaGiáo. Những huyền thoại được viết và in ra như là lịch sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ hay cưỡng bách phải chấp nhận sự gian dối"...
Theo giáo lý của họ thì "máu của Chúa KiTô đã rửa sạch tội lỗi của thế giới," nhưng tội lỗi vẫn còn với chúng ta ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch chính là sự lành mạnh của thế giới. Với thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm thức Tây phương mê mẩn đến nỗi Agibard ở Lyons phải viết như sau: "Cái thế giới bất hạnh này nằm dưới sự chuyên chế điên rồ, những điều mà người Ca-tô Rô-MaGiáo tin, thực ra là những điều vô nghĩa đến độ từ xưa tới nay không ai có thể làm cho người ngoại đạo tin được". Nếu độc giả không tin và muốn có một thí dụ thì chúng tôi xin cống hiến một chuyện trong Ca-tô Rô-MaGiáo về Thánh John trong phúc âm. Theo lịch sử các Thánh thì John, khi đã rất già, làm cho hoàng đế Domitian giận. Để trừng phạt John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc chứa dầu và nhựa thông. Và khi người ta châm lửa, dầu bắt đầu sôi thì đám đông ở ngoài nghe một tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn hết thì John vẫn còn sống và không hề hấn gì. Jerome, Eusebius, Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ này và những điều hoang đường trong đó. Và nay, nếu những tín đồ Ca-tô Rô-MaGiáo xuất sắc có thể tin được sự vô lý này thì họ có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả Thánh Kinh." 9
Trong cuốn “Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo” (The Dark Side of Christian History), Helen Ellerbe cũng viết, trang 46, 48:
Khi Giáo hội [Ca-tô Rô-maGiáo] nắm thêm quyền lực, người Ki-Tô [Ca-tô Rô-maGiáo] đã đóng cửa các trung tâm giáo dục và đốt sách vở cũng như toàn thể các thư viện. Giáo hội đốt một số rất lớn những tài liệu văn học. Năm 391, người Ca-tô Rô-MaGiáo thiêu rụi một trong những thư viện lớn nhất hoàn cầu ở Alexandria. được biết là chứa 700000 tác phẩm. Tất cả những sách của hệ phái Tự Ngộ, 36 cuốn của Porphyry, những tác phẩm của 27 học phái huyền bí, và 270000 tài liệu cổ xưa thu thập bởi Ptolemy Philadelphus đều bị đốt sạch. Giáo dục cho người ở ngoài Giáo hội bị cấm. Những trung tâm giáo dục cổ xưa đều bị đóng cửa.
Giáo hội chống học văn phạm và tiếng La-Tinh. Giáo hoàng Gregory I chống học văn phạm, ông ta còn lên án giáo dục nào không phải là giáo dục cho giới giáo sĩ là điên rồ và xấu xa. Ông ta cấm tín đồ không được đọc Kinh Thánh, ra lệnh đốt thư viện Palatine Apollo để những văn học thế tục không làm lãng trí tín đồ trong việc chiêm ngưỡng thiên đường.
Sau nhiều năm các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo đi phá hủy sách vở và thư viện, Thánh John Chrysostom, Giáo Phụ nổi tiếng của Giáo hội, hãnh diện tuyên bố, “Mọi dấu vết về văn học và triết lý cổ của thời trước đã biến mất khỏi mặt trái đất.” 10
Sau đây là một tài liệu khác về một số những hành động của giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo khi giáo hội nắm được quyền lực thế gian (Joseph D. Daleiden, The Final Superstition, trg. 60):
"Không có một trích dẫn thống kê đơn thuần nào có thể nói lên vô lượng những sự ác ôn mà giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã làm nhân danh Thượng đế. Từ khi mà các triều đại giáo hoàng cấu kết quyền lực với chính quyền trong thế kỷ 5 cho tới công cuộc Phục Hưng, cái áo vô minh và mê tín đã phủ lên Âu Châu. Ánh sáng tự do đã tắt ngấm, Dân La Mã cổ xưa (không phải là dân La Mã dưới quyền thống trị của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo. TCN) đã có những thư viện chứa 500000 cuốn sách, thời kỳ từ năm 500 tới năm 1000 ở Âu Châu dưới quyền lực KiTô không có một thư viện nào có được hơn 600 cuốn sách. Sự tiến bộ khoa học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn ngưng trệ. Văn hóa con người thoái hóa đến mức tàn bạo.
Thật là mỉa mai, chính những cuộc Thánh chiến chống dân Hồi giáo đã rọi một tia sáng trí thức qua cái mờ tối của vô minh và mê tín. Không như những dân KiTô tìm cách tiêu diệt mọi kiến thức không hợp với thần thuyết của họ, những người theo Hồi giáo đã gìn giữ trí tuệ của dân Hi Lạp cổ xưa. Hơn nữa, họ đã có nhiều tiến bộ đáng kể về toán học, triết học, và khoa học. Khi những thập ác quân của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo trở về từ miền Đông họ đã mang về cùng với những chiến lợi phẩm những hạt giống kiến thức mà sau này đưa đến công cuộc Phục Hưng. Song song với hàng đống những đồ cướp đoạt được và những thánh tích giả mạo, những thập ác quân cũng mang về theo nghệ thuật và văn học của cổ Hi Lạp. Những tác phẩm của các triết gia Hi Lạp mà giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã dẹp đi từ nhiều thế kỷ trước, nay lại xuất hiện. Một vài triết gia như Plato và Aristotle được đưa vào trong giáo thuyết của giáo hội. Thật vậy, những tác phẩm của Thomas Aquinas, đặc biệt là những chứng minh về sự hiện hữu của Thượng đế, căn bản là của Aristotle được sửa lại thành mới. Nhưng quan trọng hơn là, về sau này, triết lý nhân bản của Hi Lạp đã nảy nở trong đầu óc của những người đau lòng mà nhận ra sự vô ích của những suy đoán thần học cùng sự xấu ác của những tín điều mà giáo hoàng đưa ra. Kết quả là, chính cái nền tảng trí thức và độc tài về đạo đức của Giáo hội bắt đầu lung lay." 11
Và Robert G. Ingersoll đã nhận định như sau (Ingersoll: The Magnificent, Lewis, trg. 125):
"Khi Ca-tô Rô-maGiáo có được quyền lực thì tôn giáo này phá hủy mọi tượng thần mà nó có thể đặt những bàn tay vô minh của nó lên trên. Nó hủy hoại và xóa bỏ mọi họa phẩm, phá hủy mọi công sự đẹp đẽ, đốt sạch những tác phẩm Hi Lạp và La Tinh, triệt tiêu mọi lịch sử, thơ phú, triết lý và thiêu rụi mọi thư viện mà nó có thể đốt được. Kết quả là, màn đêm Trung Cổ đã phủ lên nhân loại. Nhưng vì tình cờ, vì may mắn, vì bỏ sót, một vài tác phẩm đã thoát được sự ác liệt của cuồng nhiệt tôn giáo, và những tác phẩm này trở thành cái nhân mà quả của nó là nền văn minh của chúng ta ngày nay." 12
Những tài liệu ở trên chứng tỏ Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo, ngay từ đầu, đã theo đuổi chính sách làm cho người dân ngu muội, tối tăm, để dễ bề kiểm soát đầu óc của đám tín đồ thấp kém. Và chính sách này được kéo dài cho đến ngày nay. Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, nguyên là Hồng Y Thiết Giáp Ratzinger, đứng đầu Bộ Tín Lý và Đức Tin của Công Giáo, đã cấm đoán hoặc cất chức những nhà thần học nổi tiếng trên thế giới như Teilhart de Chardin, Edward Schillebeeckx, Hans Kung, Charles E. Curran, Raymond Hunthausen, Uta Ranke-Heinemann v..v..., và nhất là những nhà thần học trong phong trào Thần Học Giải Phóng, chủ trương phục vụ con người thay vì phục vụ Thiên Chúa [thực ra là phục vụ Giáo hoàng], điển hình như Leonardo Boff, Gustavo Gutíerez, Juan Luis Segundo v..v.. , cấm họ không được viết sách hay dạy học trong những trường học Công Giáo, vì những người trên đã có những ý kiến không phù hợp với những điều ngu dốt “giáo hội dạy rằng…”, và riêng trong cộng động giáo dân Việt Nam thì các bề trên đều cấm đoán tín đồ đọc những sách vở viết lên những sự thật lịch sử về giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo, đặc biệt là những sách do Giao Điểm xuất bản, bằng những lời đe dọa thuộc thời bán khai đã mất thời gian tính như dọa Chúa sẽ đọa đầy xuống hỏa ngục hay bị Giáo hội tuyệt thông, không cho hiệp thông với Chúa để hưởng một cái bánh vẽ trên trời sau khi chết. Ratzinger cấm thì cứ cấm, những nhà thần học nổi danh như Hans Kung, Uta Ranke-Heinemann, Leonardo Boff v..v.. thản nhiên không coi sự cấm đoán của Ratzinger vào đâu, vẫn tiếp tục dạy học và viết sách, vì trong thời đại này, giáo hội không còn khả năng để đưa họ lên dàn hỏa nữa.
Đó là những gì Ca-tô Rô-maGiáo đã làm với mục đích tiêu diệt văn hóa của các tôn giáo, tín ngưỡng nào không phù hợp với những giáo điều và niềm tin của Ca-tô Rô-maGiáo. Nhưng, cũng như Tần Thủy Hoàng ở bên Trung Quốc, không thể nào đốt hết được sách vở của thiên hạ, Giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo, dù đã dùng mọi nỗ lực để hủy diệt những chứng tích lịch sử của các hệ phái Kitô khác cũng không có cách nào thành công hoàn toàn. Do đó, vẫn có những tài liệu còn sót lại, và ngày nay người ta đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ xưa về sự thực của KiTô giáo và con người thực của Giê-Su. Những tài liệu mới tìm thấy của phái Tự Ngộ về Giê-su cho ta một cái nhìn khác hẳn về con người của Giê-su, một người thường như mọi người khác, không có những đức tính thần thánh hay khả năng làm phép lạ như những nhà lập giáo Công Giáo đã quảng bá.
Năm 1945, một người dân thường ở Ai Cập đã tình cờ đào thấy ở Nag Hammadi, miền thượng Ai Cập, một cái chĩnh trong có chứa 52 bản kinh văn của hệ phái Tự Ngộ. Nội dung các bản kinh văn này làm các nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo nói chung hoảng hốt và tìm cách ngăn chặn sự phổ biến những tài liệu này. Cho tới hơn 30 năm sau các học giả mới có cơ hội tìm hiểu các bản kinh văn này. Sở dĩ như vậy là vì, theo Elaine Pagels, giáo sư sử tại đại học Columbia, Hoa Kỳ, tác giả tác phẩm nghiên cứu nổi tiếng Phúc Âm của phái Tự Ngộ (The Gnostic Gospels,) những bản kinh văn này chứa nhiều thông tin về Ki Tô Giáo và con người của Giê su đối ngược với những thuyết lý thần học của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-maGiáo nói riêng:
Những bản kinh văn này của hệ phái Tự Ngộ mô tả nhiều nhân vật và biến cố trong Tân Ước, nhưng trên một quan điểm khác hẳn. Chúng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng, giáo hội Ki Tô, ngay từ đầu đã bị phân hóa sâu rộng chứ không thống nhất như chúng ta thường tin; rằng nhiều tín đồ của Chúa Ki Tô không đồng thuận về những sự kiện trong đời sống của Giê su, về ý nghĩa những lời giảng dạy của Giê su, hoặc về hình thức của giáo hội. Trong những bản kinh văn như Phúc Âm của Philip và Phúc Âm của Thomas, Thomas được mô tả là em song sinh của Giê su, chúng ta biết rằng một số tín đồ của hệ phái Tự Ngộ phủ nhận chuyện Giê su sống lại và bổ nhiệm Phê-rô làm người kế vị; và nhiều tín đồ chất vấn về quyền hành của các linh mục, tin rằng tư cách thần thánh là ở trong con người, con đường giải thoát là con đường Tự Ngộ, và rằng, những bản kinh văn trên bắt buộc chúng ta phải xét lại tận gốc quan điểm truyền thống về nguồn gốc và ý nghĩa của Ki Tô Giáo 13
Sau đây chúng ta sẽ đi vào thêm một số chi tiết về sự ngu si của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã tác hại trên nhân loại như thế nào.
II. Về Y Học:
Năm 540, bệnh dịch phát khởi ở Âu Châu làm chết khoảng 10000 người mỗi ngày. Dân chúng hoảng sợ, kéo vào nhà thờ, tin tưởng sẽ được Chúa cứu cho khỏi chết. Giáo hội giảng cho con chiên rằng: “Bệnh dịch là một thiên tai do Thiên Chúa [của Ca-tô Rô-maGiáo] gây ra (an act of God) và là sự trừng phạt của Thiên Chúa về tội quần chúng không theo luật của Thiên Chúa” [thật ra chỉ là luật của những bộ óc giáo sĩ thuộc thời bán khai đặt ra]. Trước sự bất lực của nền y học phôi thai thời bấy giờ để đối phó với bệnh dịch, Giáo hội tuyên bố là y học của Hi Lạp và La Mã là của bọn dị giáo (heretics) và quyết định Giáo hội phải nắm giữ và áp dụng nền y học của Giáo hội trên quần chúng. Phương pháp chữa mọi bệnh của Giáo hội vào những thế kỷ 5 và 6 là “lể máu” (bleeding) trên một số điểm trong số 22 điểm trên cơ thể con người. Giáo hội dạy rằng lể để làm cho chảy máu có thể ngăn chận sự làm độc mất quân bình (toxic imbalance) trong cơ thể, ngăn chận sự ham muốn tình dục, và hồi phục lòng yêu đời. Cho đến thế kỷ 16, phương pháp chữa bệnh này của Giáo hội đã làm chết nhiều chục ngàn người mỗi năm. Khi bệnh nhân chết vì chảy máu, Giáo hội giải thích là vì không chịu lể máu sớm hơn hoặc làm máu chảy chưa đủ. Giáo hội còn dạy tín đồ phải coi rẻ mọi khía cạnh về thể xác con người, do đó không khuyến khích tín đồ về vấn đề giữ vệ sinh cá nhân hay tắm rửa. Kết quả là bệnh tật lan tràn khắp nơi. Trong nhiều trăm năm, thành thị và làng mạc đều bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm, kết quả sự ngu dốt của Giáo hội về y học, và áp đặt sự ngu dốt đó trên quần chúng.
III. Về Khoa Học:
Chính sách đốt sách vở, văn học cổ, và đàn áp sự theo đuổi trí thức của nhân loại, đúng như Joseph D. Daleiden đã nhận định ở trên là “Sự tiến bộ khoa học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn ngưng trệ. Văn hóa con người thoái hóa đến mức tàn bạo.”
Thật vậy, ngay từ thế kỷ 6 Trước Tây Lịch (TTL) hay trước thời đại thông thường ngày nay (B.C.E. =Before Common Era), Pythagore đã có ý tưởng là Trái đất quay xung quanh mặt trời. Đến thế kỷ 3 Trước Tây Lịch, Aristarchus đã đưa ra thuyết mặt trời làm trung tâm vũ trụ (heliocentric theory) và Eratosthene đã đo được chu vi của trái đất. Đến thế kỷ 2 Trước Tây Lịch, Hipparchus đã biết đến Kinh Tuyến và Vĩ Tuyến của Trái Đất và tính được độ xiên của quỷ đạo hình ellip của Trái đất. Nhưng khi Giáo hội Công Giáo nắm được quyền thế trên thế gian, và như chúng ta đã biết, đưa Âu Châu vào Thời Đại Đen Tối hay Hắc Ám 1000 năm, thì nhân loại phải chờ đến thế kỷ 16 mới có được Copernicus lập lại thuyết trái đất quay xung quanh mặt trời. Khi Galileo, trong thế kỷ 17, chứng thực thuyết trái đất quay xung quanh mặt trời thì ông ta bị Tòa Án Đạo xử dị giáo bắt ông ta phải rút lại lập luận và giam ông ta tại nhà cho đến khi chết. 359 năm sau, Tòa Thánh dưới triều John Paul II mới công khai thú nhận là Giáo hội đã sai lầm trong vụ xử Galileo. Trí tuệ các bậc Thánh trong giáo hội có thể biểu hiện điển hình trong lời phán của Thánh Augustine, tác giả nền thần học căn bản của Công Giáo:
Không thể có người ở phía bên kia của trái đất, vì trong những hậu duệ của Adam, không có sắc dân nào được ghi trong Thánh Kinh (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam.)
Lẽ dĩ nhiên, Việt Nam là một sắc dân ở phía bên kia của trái đất, không liên hệ gì tới Adam cho nên không thấy ghi trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, cho nên dù Adam có sa ngã theo thuyết hoang đường của Ki Tô Giáo, thì người Việt Nam cũng chẳng liên quan gì đến cái tội tổ tông của người Do Thái, và do đó chẳng cần gì đến sự cứu rỗi của một người Do Thái có tên là Giê-su. Những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã bị kéo vào một niềm tin lừa bịp của nền thần học Ca-tô Rô-maGiáo. Họ cũng nên biết rằng Giê-su đã coi nhưng người không phải là Do Thái là đồ chó, chỉ xứng đáng ăn những mảnh bánh vụn rơi vãi trên mặt đất. Tôi khuyên họ hãy đọc kỹ đoạn Matthew 15: 21-28 trong Tân ước.
Trên đây là tóm tắt núi tội ác thứ nhất của Ca-tô Rô-maGiáo đối với nhân loại. Sách lược tiêu diệt nền văn hóa của các tôn giáo hoặc tín ngưỡng khác đã được các Giáo hội Ki Tô, đặc biệt là Ca-tô Rô-maGiáo, tiếp tục thi hành một cách tàn bạo khi Ki Tô Giáo nói chung liên kết với những lực lượng thực dân đi xâm chiếm các nước ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, Á Đông và ngay cả ở Mỹ châu. Ca-tô Rô-maGiáo đã thành công trong sách lược này ở khắp nơi nhưng hoàn toàn thất bại ở Á Đông, trừ nước Phi Luật Tân. Tại sao, vì khi văn hóa Ca-tô Rô-maGiáo đụng phải những nền văn hóa cao hơn ở Á Đông như Phật Giáo, Khổng Giáo, Ấn Độ Giáo thì Ca-tô Rô-maGiáo không thể thành công, dù có liên kết với chế độ thực dân như ở Việt Nam.
NHỮNG CUỘC THẬP ÁC CHINH MANG TÊN “THÁNH CHIẾN”
Thật vậy, tất cả nguồn gốc và những sắc thái của những cuộc Thập Ác Chinh (Crusades) mà người Ca-Tô Rô-MaGiáo gọi là “thánh chiến” (Holy wars) do Ca-Tô Rô-MaGiáo phát động, kéo dài nhiều thế kỷ, máu đổ thành sông, xương chất thành núi, với hàng triệu sinh mạng già trẻ lớn bé vô tội, có thể thấy rõ qua vài câu trích dẫn sau đây từ cuốn “Thánh Kinh” của Ki Tô Giáo:
PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THƯỢNG ĐẾ... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU..CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI XỬ VỚI HỌ NHƯ SAU: PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT TRỤ THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG CHẠM CỦA HỌ..
THƯỢNG ĐẾ (PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5)
LÚC KÉO QUÂN ĐẾN TẤN CÔNG MỘT THÀNH NÀO, NẾU THIÊN CHÚA CHO CÁC NGƯƠI HẠ ĐƯỢC THÀNH ĐÓ, PHẢI GIẾT HẾT ĐÀN ÔNG TRONG THÀNH, NHƯNG BẮT GIỮ ĐÀN BÀ, TRẺ CON, SÚC VẬT, VÀ CHIẾM GIỮ CÁC CHIẾN LỢI PHẨM...BÊN TRONG LÃNH THỔ CHÚA BAN CHO, PHẢI DIỆT HẾT MỌI SINH VẬT. PHẢI TẬN DIỆT DÂN HÊ-TÍT, A-MO, CA-NA-AN, PHÊ-RẾT, HÊ-VÍT VÀ GIÊ-BU NHƯ CHÚA ĐÃ TRUYỀN DẠY. NHƯ VẬY HỌ KHÔNG CÒN SỐNG ĐỂ DỤ DỖ ĐỒNG BÀO HỌ LÀM TỘI ÁC, THỜ CÚNG THẦN CỦA HỌ MÀ MANG TỘI VỚI CHÚA.
THƯỢNG ĐẾ (PHỤC TRUYỀN 20: 12-18)
HÃY MANG NHỮNG KẺ THÙ CỦA TA RA ĐÂY, NHỮNG NGƯỜI KHÔNG MUỐN TA NGỰ TRỊ HỌ, VÀ GIẾT CHÚNG NGAY TRƯỚC MẶT TA.
GIÊ-SU (LƯU–CA: 19:27)
ĐỪNG TƯỞNG RẰNG TA XUỐNG TRẦN ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT. TA KHÔNG XUỐNG ĐÂY ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH MÀ LÀ GƯƠM GIÁO. VÌ TA XUỐNG ĐÂY ĐỂ LÀM CHO CON CHỐNG LẠI CHA, CON GÁI CHỐNG LẠI MẸ, CON DÂU CHỐNG LẠI MẸ CHỒNG, VÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI Ở NGAY TRONG NHÀ HẮN.
GIÊ-SU (MÃ-THI-Ơ: 10: 34-36)
Những câu trích dẫn ở trên, và nhiều câu khác cũng như nhiều chuyện trong Thánh Kinh, đã là căn bản, không những chỉ cho sách lược truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo, điển hình là ở Việt Nam, cho những cuộc Thập Ác Chinh, mà còn cho cả 7 núi tội ác của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo mà giáo hoàng John Paul II cùng một số phụ tá cao cấp trong tòa Thánh, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, về sau được phong Hồng Y, đã công khai xưng thú với nhân loại ngày 12 tháng 3, 2000 tại thánh đường Phê-rô.
Học giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã tóm tắt lịch sử truyền bá đạo Ca-tô qua nhận định như sau trong cuốn The Final Superstition:
"Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo trong thế giới xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc diệt trừ những người dị giáo (hay lạc đạo) ngay từ thuở ban đầu của Giáo hội, cho tới những cuộc Thập Ác Chinh, những tòa án đạo xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo [Ca-tô Rô-maGiáo] đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và chống loài người của tôn giáo này." 14
Riêng về những cuộc Thập Ác Chinh, trước hết tưởng chúng ta cũng nên biết vài nhận định tổng quát về những cuộc chiến tranh tôn giáo (religious wars) đã được giáo hội khoác cho nhãn hiệu “thánh chiến” (holy wars).
Trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh: Một Lịch Sử Minh Họa Về Sự Chém Giết Và Điên Rồ Tôn Giáo (Holy Horrors: An Illustrated History Of Religious Murder And Madness), tác giả James A. Haught, Chủ Biên tờ Charleston Gazette, đã viết như sau, trang 14, 19:
“Khi tôn giáo (Ca-tô Rô-maGiáo) nắm toàn quyền ở Âu Châu, nó đã tạo nên một thiên sử thi tắm máu của những cuộc Thập Ác Chinh, những phòng tra tấn của Tòa Án Đạo xử dị giáo, tận diệt hàng loạt những người “lạc đạo” hay “dị giáo”, hàng trăm cuộc tàn sát người Do Thái, và 300 năm thiêu sống phù thủy.
“Thời Đại Của Đức Tin” là một thời đại chém giết mang nhãn hiệu thánh. Khi tôn giáo (Ca-tô Rô-maGiáo) dần dần không còn kiểm soát được đời sống hàng ngày của người dân nữa, quan niệm về nhân quyền và tự do cá nhân đã mọc rễ.
...Trong thực tế, những cuộc Thập Ác Chinh là một cơn ác mộng thật ghê tởm với những cuộc tàn sát, hiếp dâm, cướp bóc, hỗn loạn – trộn lẫn với niềm tin vào ảo thuật.” 15
Trong cuốn Các Cuộc Thập Ác Chinh (The Crusades), sử gia Henry Treece viết trong phần mở đầu:
"Nhưng khi chúng ta đọc nhiều hơn về các cuộc Thập Ác Chinh thì cái hình ảnh (mà Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đưa ra và ngày nay các tác giả Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam nhắc lại như những con vẹt) trở thành nhơ nhuốc; sự nghiên cứu (về các cuộc Thập Ác Chinh) khó mà có thể đưa ra sự thực mà chúng ta đã từng hi vọng. Chúng ta thấy các cuộc Thập Ác Chinh và các Thập ác quân khác với những điều chúng ta thường tưởng tượng (theo như lời Giáo hội tuyên truyền), và rút cuộc chúng ta phải đồng ý với đoạn tổng kết của bậc thầy chúng ta, Ngài Steven Runcinan , trong cuốn Vương Quốc Nghĩa Trang: "Đức Tin không có trí tuệ thì thật là nguy hiểm.. Trong tương quan ảnh hưởng và hòa đồng giữa Đông và Tây liên tục và lâu dài, từ đó nền văn minh của chúng ta đã phát triển, những cuộc Thập Ác Chinh là một thời kỳ bi thảm và hủy diệt.. Đã có quá nhiều sự dũng cảm nhưng lại quá ít vinh dự, đã có quá nhiều lòng sùng tín nhưng lại quá ít hiểu biết. Những lý tưởng cao đẹp đã bị nhơ bẩn bởi sự độc ác và tham lam, hành động táo bạo và sự chịu đựng bắt nguồn từ lòng tin mù quáng và hẹp hòi tự cho mình là đúng; và chính cuộc Thập Ác Chinh cũng không gì khác hơn là một hành động kéo dài của sự bất khoan nhượng nhân danh Chúa” 16
Và trong cuốn Những Vị Thần Cuối Cùng Của Huyền Thoại: Gia-Vê và Giê-su (Mythology’s Last Gods: Yahweh and Jesus) Tiến sĩ William Harwood đã viết, trang 156:
“Triết lý của Phục Truyền Luật Lệ Ký, giết những người tin vào các huyền thoại khác trừ huyền thoại của chính mình để bảo vệ các tín đồ trước những đạo khác là một hành động của Thiên Chúa và đáng tán thưởng, trong thời đại Trung Cổ đã được thực thi theo một kết luận hợp lý bởi những tín đồ Ki Tô (Ca-tô Rô-maGiáo), những người trong vài thế kỷ, đã thẳng tay tàn sát từ 30 đến 50 triệu kẻ thù của Thiên Chúa trong những biến cố như Thập Ác Chinh, tòa án đạo xử dị giáo, cuộc chiến 30 năm, và những trường hợp tàn bạo khác.” 17
Vậy, rõ ràng là những tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo bắt nguồn từ Thánh Kinh. Nhưng những luật lệ độc ác của Thiên Chúa (Thần Gia-vê) cũng như Chúa Con (Giê-su) trong Thánh Kinh không không đủ, vì giáo dân chẳng có mấy người đọc thánh kinh, nhất là tuyệt đại đa số giáo dân trong thời Trung Cổ thuộc loại thấp kém, vô học, mà còn phải cộng thêm với chính sách nhồi sọ mê hoặc của giáo hội về chủ trương độc thần, về những huyền thoại như tội tổ tông, vai trò cứu thế của Giê-su, giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, huyền thoại về miền đất Thánh v..v.. đưa đến sự cuồng tín, tin nhảm tin nhí của đám tín đồ thấp kém, Ca-tô Rô-maGiáo mới có thể phát động được những cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ, cũng như phạm những núi tội ác khác trong suốt dòng lịch sử gần 2000 năm. Chứng minh?
Trước hết, tại sao các Thập Ác quân (crusaders) lại bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ con, bỏ ruộng đất, vườn tược để đi thiêu thân trong các cuộc thánh chiến, đối diện với những cuộc hành trình gian khổ, bệnh tật, đói khát v..v..? Chúng ta có thể đọc vài giải thích sau đây.
Trong cuốn Sử Lược (The Outline of History, Vol. 2, Garden City Books, New York, 1956), sử gia H. G. Wells viết như sau, trang 540:
“Trong thời đại ngu si đã có một sự sẵn sàng kỳ lạ tin rằng giới linh mục Ca-tô Rô-maGiáo là thông thái và thánh thiện. Tương đối giới linh mục khá hơn và khôn ngoan hơn trong thời đó [đối với quần chúng trong thời đó, nhưng ngày nay thì khác, giới linh mục là giới kém hiểu biết nhất trong những giới trí thức].
Khởi đầu của các cuộc Thập Ác Chinh cho ta hình ảnh của toàn thể Âu Châu bị bão hòa bởi một Ca-tô Rô-maGiáo [ý nói tập thể giáo dân Ca-tô Rô-maGiáo] ngây thơ, sẵn sàng tin cậy và đơn giản tuân theo sự chỉ đạo của giáo hoàng.” 18
Trong cuốn Năm Thế Kỷ Của Các Cuộc Thánh Chiến: Những Cuộc Thập Ác Chinh (Five Centuries of Holy Wars: The Crusades, Malcolm Billings, Sterling Publishing Co., Inc., New York, 1996), Jonathan Riley-Smith viết trong Lời Mở Đầu, trang 12:
“Tại sao họ (thập ác quân) ra đi? Họ sống trong một xã hội rất khác với xã hội của chúng ta. Đó là một xã hội của những tín đồ mà đức tin của họ đã được củng cố bởi một quan điểm về thiên nhiên và vũ trụ mà ngày nay chúng ta biết là sai nhưng ít nhất cũng phù hợp với kinh nghiệm của họ.
Những hành động độc ác tồi tệ của họ – sự bạo hành những người Do Thái không tự vệ trong cuộc “tàn sát tập thể đầu tiên” [Trong cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên (1096-1099), như chúng ta sẽ thấy, sự tàn sát tập thể những cộng đồng Do Thái trên đường tiến quân của những đoàn Thập Ác quân Công Giáo, ngày nay được coi như là “the First Holocaust”. TCN] – đã phạm bởi những người mà đầu óc của họ đã bị điều kiện hóa bởi ý niệm trả thù. Họ được giáo hội (Ca-tô Rô-maGiáo) dạy là chiến đấu chống những người không tin đạo là biểu thị lòng yêu Thiên Chúa một cách quá sai lầm đến độ cuộc Thập Ác Chinh đối với họ là một hành động trả thù chống những người mà họ lên án là làm “ô danh Chúa Ki Tô”. 19
Trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng: Một Phê Bình Đánh Giá Di Sản Do Thái – Ki Tô (The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994), Joseph L. Daleiden, một học giả Ca-tô Rô-maGiáo, viết, trang 54:
“Cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất được phát động bởi Giáo hoàng Urban II. Ông ta quạt những ngọn lửa thù hận chính đáng [vào tín đồ] bằng cách ban phép toàn xá – hoàn toàn tha thứ mọi hình phạt của Chúa vì những tội trong quá khứ – cho bất cứ người nào đi giết người cho danh dự và vinh quang lớn hơn của Thiên chúa. Nói cách khác, nếu Thập Ác quân bị giết, anh ta được bảo đảm là sẽ lên thiên đường ngay lập tức.” 20
Và sử gia Will Durant cũng viết trong bộ sử đồ sộ Câu Chuyện Về Nền Văn Minh (The Story of Civilization, quyển IV) về Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), trang 588, về những thành phần tham gia cuộc thánh chiến:
“Một “ơn toàn xá” xóa bỏ mọi hình phạt vì tội lỗi đã được ban cho những Thập Ác quân chết trận. Các nông nô được phép rời bỏ ruộng đất mà họ bắt buộc phải lao động trong đó; các công dân được miễn thuế; những kẻ nợ nần được hoãn trả tiền lời; các tù nhân được phóng thích, và các tử tội được đổi thành khổ sai ở Palestine, do quyền lực của giáo hoàng đã được suy diễn một cách trắng trợn. Nhiều ngàn kẻ du thử du thực tham gia cuộc trường chinh thiêng liêng.” 21
Sống trong thời đại mê tín, những tín đồ vô học, hấp dẫn bởi những hứa hẹn hoang đường, không đủ đầu óc để biết đâu là sự thật, những đạo binh Thập Ác, như chúng ta đã biết, không phải là những giáo dân đi “hành hương thánh địa” (sic), hoặc là những “giáo dân Âu Châu sốt sắng, đạo đức sau những năm tháng thấm nhuần tin mừng” (sic) như vài tác giả Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã viết, mà hầu hết là những đoàn quân ô hợp gồm những nông dân ngây thơ cuồng tín, những nông nô (serfs) được giải phóng để đi giết người cho Chúa, cùng với những kẻ thành tích bất hảo như các tội phạm (criminals), ăn trộm ăn cắp (thieves), du thử du thực ăn bám xã hội (vagrants) v..v... Vì vậy các đạo binh Thập Ác mới phạm phải những tội ác vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Lẽ dĩ nhiên, những đạo binh thập ác này bao giờ cũng có những cấp chỉ huy là Giám mục (bishops), Linh mục (priests), Hiệp Sĩ thời đại (knights), và những nhà quý phái (noble men), hầu hết không có kinh nghiệm quân sự.
Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn tóm tắt các cuộc Thập Ác Chinh trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh: Một Lịch Sử Minh Họa Về Sự Chém Giết Và Điên Rồ Tôn Giáo (Holy Horrors: An Illustrated History of Religious Murder and Madness của James A. Haught), trang 19-27:
Giáo Hoàng Urban II phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất vào năm 1096 để cướp lại Thánh Địa từ những kẻ không tin đạo (Hồi giáo). “Thiên Chúa muốn thế” (Deus Vult = God will it) là tiếng kêu gọi để tập hợp đoàn Thập Ác quân (crusaders) [Chúng ta thấy sự bịp bợm trắng trợn của Giáo hoàng Urban II đối với đám tín đồ thấp kém vô học ở dưới. Theo Công giáo, một trong những thuộc tính của Thiên Chúa là không ai có thể hiểu được (uncomprehensible) nhưng những tham vọng thế tục của giới giáo sĩ Ca-tô Rô-maGiáo, từ Giáo hoàng trở xuống cho đến các linh mục, luôn luôn được diễn giải đó là “Ý Chúa” và các tín đồ ngu dốt cứ nhắm mắt mà tin và phạm đủ mọi tội ác. Người Ca-tô Rô-maGiáo gọi crusaders là những “thánh giá binh” vì họ được dạy rằng, cái giá hình chữ thập mà người La Mã dùng để đóng đinh những tội phạm như ăn trộm, ăn cướp v..v..., một hình phạt thuộc loại man rợ nhất của người La Mã cổ xưa, đã trở thành cái “thánh giá” vì Giê-su của họ bị đóng đinh trên đó (cùng lúc với 2 tên ăn trộm). Charlie Nguyễn, một người Ca-tô Rô-maGiáo tỉnh ngộ đã phê bình: Nếu Giê-su bị treo cổ thì cái thòng lọng treo cổ Giê-su sẽ trở thành cái “thánh thòng lọng”. Qua những hành động của các “thánh giá binh” trong các cuộc Thập Ác Chinh mà chúng ta đọc sau đây, danh từ chính xác phải là “Thập Ác quân”. TCN]. Khắp Âu Châu, những đám người cuồng tín lúc nhúc trong những đoàn quân hỗn tạp ô hợp dẫn đầu bởi các linh mục có uy tín lôi cuốn quần chúng. Nhiều chục ngàn người theo một linh mục dơ dáy, Peter the Hermit, người đã trưng ra một lá thư mà ông ta nói là Thiên Chúa đã viết cho ông ta và được Giê-su trao tận tay cho ông ta [Thiên Chúa là một sản phẩm tưởng tượng của con người, còn Giê-su thì đã chết từ ngàn năm trước, thế mà sự bịp bợm của Peter the Hermit vẫn có người tin và đi theo ông ta để giết người] chứng nhận vai trò lãnh đạo của ông ta. Nhiều ngàn người khác theo linh mục Walter the Penniless.
Trong thung lũng sông Rhine ở Đức, một cánh Thập Ác quân đi theo một con ngỗng mà họ tin rằng chính là hiện thân của Thánh Linh để hướng dẫn họ. Cánh quân này hợp với cánh quân của Emich ở Leisingen, một lãnh tụ tuyên bố rằng một dấu Thập Ác đã hiện ra trên ngực ông ta như là một thánh dấu (holy sign) của một phép lạ. Emich quyết định là, trước khi đi trên 3200 cây số để giết những kẻ thù của Thiên Chúa ở vùng đất thánh, bổn phận tôn giáo của Thập Ác quân là phải giết “những kẻ không tin đạo trong giữa chúng ta”: những người Do Thái ở Mainz, Worms, và ở các thị trấn Đức khác. Đoàn Thập Ác quân tràn qua những cộng đồng Do Thái, chém giết và thiêu sống nhiều ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ con không thể tự vệ. Nhiều người Do Thái, trong những khu đã dựng lên chướng ngại vật để ngăn chận đoàn Thập Ác quân, đã phải nuốt nước mắt giết con cái của mình rồi tự tử trước khi đoàn Thập Ác quân ô hợp tràn vào.
Những đoàn quân khác dẫn đầu bởi các linh mục Volkmar và Gottschalk cũng tàn sát tương tự những người Do Thái ở Prague và Regensburg ở Bavaria. Thỉnh thoảng, trong giờ phút cuối cùng, dưới ngọn gươm, các nạn nhân được cho một cơ hội sống sót bằng cách cải đạo vào Ca-Tô Rô-MaGiáo.
Nhiều đoàn Thập Ác quân khác đi qua những xứ Ki Tô như Hung Gia Lợi (Hungary), Nam Tư (Yugoslavia) và Bulgaria. Họ cướp bóc lương thực trong các vùng quê, gây nên những cuộc đánh nhau với dân và quân lính địa phương. Trong một cuộc đụng chạm, đoàn quân của Peter the Hermit đã giết 4000 dân Ki Tô ở Zemun, Yugoslavia, và thiêu rụi Belgrade gần đó. Nhiều ngàn Thập Ác quân đã chết trong những trận đánh hỗn loạn ở Bulgaria. Sau cùng, chỉ còn có một phần của những đoàn quân ô hợp là tới được đất Thổ (Turkey) của Hồi giáo, ở đó sau bị những đoàn quân Hồi giáo tàn sát gần hết.
Sau đó, những đoàn hiệp sĩ Ki Tô chuyên nghiệp đã được tổ chức để tham gia cuộc Thập Ác Chinh. Các giám mục đi theo đoàn hiệp sĩ để ban phúc lành cho những hành động ác ôn của họ. Những đoàn quân chuyên nghiệp này chặt đầu người Hồi giáo và đeo những đầu lâu như là chiến lợi phẩm. Sau một trận thắng ờ bờ bể Syria gần Antioch, Thập Ác quân mang về trại 500 đầu lâu. 300 đầu lâu được bêu trên các cọc để khủng bố tinh thần quân Hồi đang giữ thành Antioch. Những linh mục chép sử ghi rằng một “Thập Ác quân giám mục” gọi những đầu lâu khủng khiếp đó là một cảnh ngoạn mục hoan hỉ cho dân Chúa. Trong thành Antioch, quân Hồi, để trả đũa, cũng chặt đầu các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo rồi bêu hướng ra ngoài thành. Sau cùng Thập Ác quân đã tiến vào Antioch ngày 3 tháng 6, 1098, và giết mọi dân chúng trong đó.
Rồi một đoàn quân Hồi giáo tiến đến vây lại thành Antioch. Thập Ác quân trong thành thiếu lương thực, gần chết đói, và linh mục Peter Bartholomew tuyên bố rằng một thánh đã hiện ra trước ông ta trong một viễn tượng và tiết lộ cho ông ta biết là cây giáo đâm lên cạnh sườn Giê-su khi Giê-su bị đóng đinh được chôn ở dưới một nhà thờ trong Antioch. Cây Thánh Giáo (Holy Lance) được đào lên và là một thánh tích khích động sự cuồng nhiệt của Thập Ác quân. Họ xông ra ngoài thành trong một cuộc chém giết cuồng tín khiến cho quân Hồi phải bỏ trại mà chạy, để lại vợ đàng sau. Nhà ghi sử Fulcher ở Chartres hãnh diện ghi rằng: “Khi thấy những người đàn bà ở trong trại Hồi, Thập Ác quân Pháp không làm điều gì ác ngoài việc dùng giáo mác đâm xuyên vào bụng họ”.
Tiến vào Jerusalem, Thập Ác quân thanh tẩy cái thành thánh này bằng cách giết hầu như mọi người dân trong đó. Người Do Thái trốn trong giáo đường bị thiêu sống cùng với giáo đường. Thây người chất thành đống ngoài đường phố. Nhà ghi sử Raymond ở Aguilers ghi rằng:
“Thật là những cảnh kỳ diệu. Rất nhiều người Hồi bị chặt đầu... Nhiều người khác bị dùng làm bia bắn tên hay bị ép phải nhảy từ những chòi cao xuống; nhiều người khác bị tra tấn trong nhiều ngày, rồi thiêu sống. Ngoài đường phố có hàng đống những đầu lâu, tay và chân. Trong đền Solomon (đền thờ Thiên Chúa do Solomon dựng lên) ngựa lội trong máu ngập đến khuỷu chân, không phải, đến giây buộc yên ngựa. Thật đúng là một sự phán xét công bằng và tuyệt vời của Thiên Chúa, rằng chỗ này phải ngập đầy máu của những kẻ không tin Thiên Chúa. Trong hai thế kỷ sau đó, Hồi giáo chiếm lại nhiều phần trong Thánh Địa, đưa đến 7 cuộc Thập Ác Chinh khác của Ca-tô Rô-maGiáo. Hầu hết những cuộc chinh chiến của Ca-tô Rô-maGiáo này bắt đầu bằng sự tàn sát những người Do Thái ở Âu Châu.
Trong cuộc Thập Ác Chinh thứ ba, sau khi Richard the Lion-Hearted chiếm thành Acre (ở phía Tây Bắc Jerusalem. TCN) năm 1191, ông ta ra lệnh mang 3000 người dân trong thành, trong đó có nhiều đàn bà và trẻ em, ra giết ở ngoài thành. Các thây người được mổ banh bụng để tìm kiếm những châu báu có thể đã được nuốt đi. Các giám mục ngâm nga các bài kinh cầu nguyện tạ ơn Chúa. Nhà ghi sử Ambroise viết: “Mọi người đều bị giết. Vì đây là ân huệ của đấng sáng tạo”. Thánh Bernard ở Clairvaux đã chẳng nói khi phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ hai: “Người Ca-tô Rô-maGiáo thích thú trong cái chết của người ngoại đạo, vì như vậy Chúa Ki Tô đã được vinh danh”.
Trong cuộc Thập Ác Chinh thứ tư, các đoàn Thập Ác quân đã cướp sạch các thị trấn Ki Tô Constantinople và Zara. Cuộc Thập Ác Chinh của trẻ con năm 1212 là một thảm cảnh căn cứ trên niềm tin là Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh cho những đứa trẻ ngây thơ để chiến thắng quân Hồi. Hầu hết bọn trẻ bỏ mình mà không tới được Thánh Địa.
Sau cùng, mọi sự chấm dứt năm 1291 khi Hồi giáo chiếm lại những căn cứ cuối cùng của Ca-tô Rô-maGiáo, Acre, và giết sạch những người Ca-tô Rô-maGiáo trong đó để trả thù vụ Richard tàn sát người Hồi trước đó một thế kỷ. Thánh Địa lại nằm trong tay của Hồi Giáo. Hai thế kỷ giết chóc và tàn phá vô ích, chẳng được cái gì. 22
Về những thánh tích (holy relics) trong Ca-tô Rô-maGiáo, như cây giáo đâm vào cạnh sườn Giê-su, tác giả James A. Haught có bình luận như sau, trang 24-25, chứng tỏ Ca-Tô Rô-MaGiáo là tôn giáo mê tín bậc nhất trong thiên hạ, và các vị lãnh đạo Ca-tô Rô-maGiáo đã khai thác sự mê tín của đám tín đồ tới mức nào. Xin nhắc là, đi kiếm “thánh tích” ở vùng Thánh Địa là một động cơ khích động tín đồ tham gia vào các sự chém giết trong các cuộc Thập Ác Chinh:
Cái cây Thánh Giáo (Holy Lance) có đúng là thật hay không hay chỉ là ngụy tạo không được các linh mục ghi sử quan tâm. Giáo hội Ki Tô bị ám ảnh bởi việc kiếm ra và thờ phụng các “thánh tích”. Những mảnh của cây thập giá mà Giê-su bị đóng đinh trên đó, những mảnh thân thể các thánh (pieces of saints’ bodies), những giọt nước mắt còn ướt của Giê-su (still-wet tears shed by Jesus), những mảnh từ cái mũ gai Giê-su đội, những quần áo lót của Mary (Mary’s undergarments) – đó là những vật được gìn giữ trong các hộp châu báu trong mọi nhà thờ lớn. Một ông vua Saxony hãnh diện có được 17000 thánh tích, kể cả một cành trong bụi cây cháy của Moses và một cái lông cánh của thiên thần Gabriel. Nhà thờ Canterbury trưng bày một miếng đất sét còn lại sau khi Thiên Chúa dùng nó để nặn ra Adam (Canterbury Cathedral displayed part of the clay left over after God fashioned Adam.) Sử gia Charles Mackay nói rằng các nhà thờ Tây Ban Nha có 6 hay 7 cái xương đùi của Mary đồng trinh (six or seven thighbones of the Virgin Mary), và các nhà thờ khác có những móng chân của thánh Peter có thể chứa đầy một cái bị. Voltaire ghi rằng có 6 miếng da qui đầu cắt ra khi Giê-su làm lễ cắt bì; về sau các nhà nghiên cứu đếm được 15 (Voltaire noted that 6 sacred foreskins were snipped from Jesus at his circumcision; later researchers counted fifteen) 23
Trên đây chỉ là sự mô tả sơ lược những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo. Qua sự mô tả này, chúng ta hẳn đã thấy tất cả những sự tàn bạo và những điều cực kỳ mê tín trong tôn giáo đó. Vậy mà các tác giả Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã mô tả những cuộc Thập Ác Chinh như là những cuộc “hành hương thánh địa” (sic) của những “giáo dân Âu Châu sốt sắng, đạo đức sau những năm tháng thấm nhuần tin mừng” (sic). Hiển nhiên là đầu óc của họ thuộc loại hết thuốc chữa. Vấn đề là, trong thời buổi này, tại sao họ vẫn còn hi vọng lừa dối độc giả bằng những luận điệu bẻ cong sự thật. Có lẽ mục đích của họ không phải để cho đại chúng đọc mà chỉ để giữ tín đồ trong vòng ngu dốt, mê tín và cuồng tín. Đây chính là sách sách lược của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo toàn cầu từ xưa tới nay.
Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ NÓI GÌ VỀ NHỮNG CUỘC THÁNH CHIẾN của tác giả Ngô Triệu Lịch, nói về những luận điệu bẻ queo sự thật của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo dạy đám tín đồ mà một số con vẹt trí thức Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam nhắc lại về các cuộc gọi là “Thánh chiến”:
Đại để, các tác giả Công giáo khi đề cập đến “thánh chiến”, họ đều có chung những nhận định mang tính hộ giáo, dù họ thừa nhận có những sai lầm nhất định trong các đợt phát động thánh chiến của giáo hội, nhưng tất cả đều vận dụng những quan điểm thần học cũ kỹ, lạc hậu, như: “ý chúa”, “sự quan phòng”, “chúa thánh thần dẫn dắt”… để biện minh cho những sai lầm ấy. Tâm lý tự ti, mặc cảm, là điều dễ thấy trong các lập luận. Ngụy biện, gượng ép, đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử, cho sự hiếu chiến của Hồi giáo, cho những tham vọng chính trị của vua chúa các nước châu Âu, ngụy biện những cuộc thánh chiến do “mẹ giáo hội” phát động chỉ là sự tự vệ… Từ đó, hướng độc giả vào một cái nhìn “cảm thông”, vẽ ra chân dung của một Urban II “thánh thiện, dũng cảm và khôn ngoan”, một đoàn người hành hương “sốt sắng, đạo đức, thấm nhuần Tin Mừng”… Tội ác tày trời của đế quốc Vatican dưới ngòi bút của họ biến thành con số không…Và đặc biệt, họ say sưa ca ngợi “chúa quan phòng”, bắt “chúa” của họ phải “quan phòng” đến cả những tội ác mà giáo hội Công giáo La Mã đã gây ra cho nhân loại…
Để biện hộ cho sự hiếu chiến của “mẹ giáo hội” của họ, các tác giả Công giáo người Việt đã lập luận bát nháo, bất chấp sự tròng tréo, mâu thuẫn trong cùng một sự kiện. Ví dụ: Linh mục Phạm Đức Trị viết : “Có thể nói Ðức Urban II chỉ có ý mời gọi những binh lính đã từng cầm võ khí, và đã có kinh nghiệm gia nhập Ðạo Binh Thánh giá mà thôi, vì ngài có ý thiết lập một đội binh tinh nhuệ cho một cuộc thánh chiến. Nhưng không ngờ tiếng nói của ngài đã làm ảnh hưởng tới một Âu châu sốt sắng, đạo đức sau những tháng năm được thấm nhuần Tin Mừng.” (Lm. F.X. Phạm Ðức Trị, OMI. Giáo Hội Thời Ðạo Binh Thánh Giá, CD-rom vietcatholic 2001). Trong khi đó, lập luận của tác giả Đình Vượng hoàn toàn ngược lại: “Lời kêu gọi của Giáo hoàng Urbani II không nhằm vào các vua chúa phương tây, mà nhằm vào lòng quảng đại của người tín hữu. Sau lời kêu gọi của Giáo hoàng, tu sĩ Pierre L’Ermite và hiệp sĩ Adémar de Monteil chẳng biết gì về quân sự lại đứng ra tập hợp quần chúng thành những đoàn quân, kéo về Constantinople. Người Bazance hốt hoảng và Giáo hoàng Urbain đã không trù liệu một đoàn thập tự chinh ô hợp đã bị người Hồi tàn sát gấn hết ở Tiểu Á ” (Đình Vượng, Quan hệ Vatican và Giáo hội Công giáo, tr 269).
So sách hai trích dẫn của hai tác giả nêu trên, ta thấy, theo Lm Phạm Đức Trị, Giáo hoàng Urban II chỉ triệu tập những binh lính tinh nhuệ gia nhập đạo binh thánh giá, chứ không hề kêu gọi quần chúng tham gia. Những ông già, bà cả, trẻ con, tự nguyện tham gia thánh chiến, chẳng qua vì họ quá “sốt sắng, đạo đức sau những tháng năm được thấm nhuần Tin Mừng…”, chứ Giáo hoàng không hề kêu gọi họ. Ngược lại, tác giả Đình Vượng khẳng định: “Lời kêu gọi của Giáo hoàng Urbani II không nhằm vào các vua chúa phương tây, mà nhằm vào lòng quảng đại của người tín hữu”. Vì thế, Pierre L’Ermite và Adémar de Monteil là những người vốn mù tịt về quân sự, được giao trọng trách mang đoàn quân thập tự ô hợp đến Tiểu Á để cho quân Hồi giáo “nướng” sạch!... Cùng một sự kiện lịch sử, nhưng cả hai tác giả Công giáo này có hai lập luận mâu thuẫn, đối nghịch nhau. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở cùng một điểm: chạy tội cho “mẹ giáo hội” vốn đang rất sốt ruột vì quân Hồi chiếm giữ đất thánh Jêrusalem! Và cũng vì tín đồ rất “đạo đức, sốt sắng, thấm nhuần Tin Mừng !?” đang khao khát hành hương đất thánh…
Sự kiện Giáo hoàng Urban II triệu tập công đồng Clermont kêu gọi "tái chiếm Jêrusalem, cứu đất thánh” là một vết nhơ khó tẩy của đế quốc Vatican. Dù muốn biện hộ thế nào thì cuộc chiến do Urban II phát động vẫn là một tội ác. Urban II đã lợi dụng lòng tin mù quáng của đám tín đồ cuồng tín, hứa "ban ơn toàn xá" để bảo đảm “phần rỗi linh hồn” cho họ, đẩy họ vào cuộc chiến không cân sức với đội quân tinh nhuệ Hồi giáo. Ðiều trớ trêu là những người tham gia thánh chiến vì ham mê "ơn toàn xá" của Giáo hoàng mà gia nhập chứ họ chưa hề qua một lớp huấn luyện quân sự nào. Kết quả là nhiều người trong đoàn quân ô hợp, vô kỷ luật và cuồng tín "lên thiên đàng thẳng cẳng" nhờ ơn toàn xá của Giáo hoàng!.. Phịa chuyện “tìm thấy chiếc mác đồng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu dưới bàn thờ đền thánh Phêrô” để kích động sự cuồng tín của tín đồ, đẩy họ vào chỗ chết, dẫu có biện hộ thế nào, vẫn cứ là một tội ác.
Những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo kéo dài trong bao nhiêu năm? Tất cả các học giả đều đồng ý là cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên khởi sự năm 1096. Nhưng những cuộc Thập Ác Chinh chấm dứt năm nào thì có nhiều công cuộc nghiên cứu đưa ra những năm khác nhau. Trước đây người ta thường cho rằng các cuộc Thập Ác Chinh chấm dứt vào năm 1396 hoặc chậm nhất là năm 1444. Cách đây 50 năm, sử gia Steven Runciman viết Thập Ác Chinh chấm dứt năm 1464. Và rồi có những cuộc nghiên cứu khác đưa ra những niên kỷ như 1560 và 1571. Cuối cùng là năm 1798. Sinh viên ngày nay phải đối diện với 700 năm Thập Ác Chinh song song với lịch sử của toàn thể Âu Châu, từ Greenland đến Hi Lạp, từ Tây Ban Nha đến Nga, cùng với Tây Á, Bắc Phi và Châu Mỹ La Tinh, tùy theo các học giả định nghĩa Thập Ác Chinh như thế nào.
Tuy nhiên, thường thì trong lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, người ta chỉ kể có 8 (hoặc 9, tùy theo quan niệm) cuộc Thập Ác Chinh chính (nhà trí thức Ca-tô Rô-maGiáo Võ Đức Hạnh đã gọi cuộc xâm lược Việt Nam của các giáo sĩ thừa sai Công giáo, sát cánh với thực dân Pháp, là "cuộc Thập Ác Chinh thứ 9"). Có học giả còn cho rằng Ca-Tô Rô-MaGiáo vẫn tiếp tục tung ra những cuộc Thập Ác Chinh, và một vài luận điệu thần học của nhóm Ca-tô Rô-maGiáo hiếu chiến trong thế kỷ 20 đã dập theo khuôn của giáo hoàng Urban II và thánh Bernard (Much of the world of the crusaders is still in evidence. Some of the theology of the 20th century “militant” Christianity, now prevalent in Africa, Asia and South America, might well have come from the lips of Pope Urban II or St. Bernard of Clairvaux), dưới một hình thức khác với các cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ.
Gần đây, có nhiều dư luận cho rằng cuộc xâm chiếm Iraq của Mỹ có hình thức một cuộc Thập Ác Chinh của Ki Tô Giáo chống Hồi giáo. Tổng thống Bush đã dùng danh từ “Thập Ác Chinh ” (crusade) sau vụ 11 tháng 9, 2000. Và tổng thống Bush cũng quyết định gạt Âu Châu ra ngoài, chỉ trao khế ước xây dựng lại Iraq cho những tổ chức Mỹ, coi đó như là phần thưởng cho những người ủng hộ chiến tranh (Chicago Tribune, Dec.12, 2003: President Bush says war’s backers should be rewarded).
Đại cương thì các cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ là do các giáo hoàng phát động hoặc cổ võ, khuyến khích và chấp thuận, và kết quả là những cuộc tàn sát tập thể người Do Thái, Hồi Giáo, và cả những người Ki Tô Giáo không cùng đức tin với Ca-tô Rô-maGiáo, không đồng thuận và không chấp nhận quyền lực của giáo hoàng, vừa để tiêu diệt những người khác đạo, vừa để giành lại vùng Thánh Địa Jerusalem mà người Ca-tô Rô-maGiáo tin là thuộc về họ theo lời hứa của Chúa, và nhất là để cướp bóc vơ vét của cải thế gian.
Ở đây, hiển nhiên tôi không thể viết đầy đủ về các cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo, mà chỉ có thể đưa ra những nét chính của vài cuộc thánh chiến quan trọng nhất. Có ba cuộc Thập Ác Chinh phản ánh trung thực nhất sự tàn bạo của Ca-Tô Rô-MaGiáo và ảnh hưởng mê hoặc của Ca-tô Rô-maGiáo lên đầu óc con người, từ già tới trẻ: đó là cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên (The First Crusade) với chủ đích chính là giành lại thánh địa Jerusalem và ngôi mộ Giê-su; cuộc Thập Ác Chinh Albigense (The Albigensian Crusade) để tận diệt những người Ki Tô không có cùng niềm tin với người công giáo; và cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ (The children’s Crusade) mà nguyên nhân là sự ngu dốt và cả tin của những đầu óc ngây thơ vào những điều hoang đường trong thánh kinh mà chúng được nghe giảng dạy.. Chúng ta đã biết sơ lược về cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất và vài cuộc Thập Ác Chinh sau đó qua sự mô tả ở trên của James A. Haught. Sau đây tôi sẽ trình bày sơ lược về cuộc Thập Ác Chinh Albigense và cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ để chúng ta thấy rõ sự tàn bạo và mê tín của Ca-Tô Rô-MaGiáo lên đến mức nào. Những phần viết sau đây được lấy từ những nguồn tài liệu khác nhau.
Cuộc Thập Ác Chinh Albigense.-
Ca-tô Rô-maGiáo giết người theo Hồi Giáo trong các cuộc Thập
Ác Chinh. Ca-tô Rô-maGiáo cũng giết những người Do Thái trong những cuộc tàn sát vô tiền khoáng hậu. Nhưng không phải tất cả chỉ có thế. Ca-tô Rô-maGiáo cũng còn xuống tay giết những người Ki Tô Giáo mà họ cho là lạc đạo hay dị giáo (heretics), nghĩa là những người không chịu tin theo những tín lý nhảm nhí của Ca-Tô Rô-MaGiáo. Cuộc tàn sát những người “lạc đạo” dã man, tàn nhẫn và ghê tởm nhất của giáo hội Công giáo là cuộc Thập Ác Chinh Albigense, phát động bởi giáo hoàng Innocent III năm 1208.
Giáo phái Ki Tô Albigense tương tự như đạo Cao Đài của Việt Nam. Giáo phái này tin vào giáo thuyết của một nhà cải cách Ba Tư, Mani, người bị đóng đinh trên thập giá năm 277. Đầu óc cởi mở của Mani chấp nhận tất cả những nhà lập giáo lớn – Moses, Zoroaster, Đức Phật và Giê-su. Ngoài ra, Giáo phái này còn lên án sự giàu sang và phi luân của giới giáo sĩ Công giáo (denounced the riches and immorality of the clergy), cho nên giáo hoàng Innocent III đã phát động một cuộc “Thập Ác Chinh” chống giáo phái này, cho phép các thập ác quân được cướp bóc, hãm hiếp và giết bọn người xấu số này (The Pope preached a “crusade” against them, so giving complete licence to any wandering scoundrel to rob, rape and kill these unfortunates).
Sau đây là sơ lược diễn tiến của cuộc Thập Ác Chinh Albigense, được kể trong cuốn Máu Thánh, Chén Thánh ("Holy Blood, Holy Grail", Michael Baigent, Richard Leigh, and Henry Lincoln, trg. 49-50):
"Năm 1209, một đoàn quân khoảng 30 ngàn người, gồm các kỵ sĩ và bộ binh, như 1 cơn gió lốc từ miền Bắc Âu Châu tràn xuống Languedoc - vùng chân núi phía Đông Bắc của dãy núi Pyrenees, ngày nay là miền Nam nước Pháp. Trong cuộc chiến tranh này, toàn vùng bị tàn phá, mùa màng phá hoại, các thành phố và thị trấn thành bình địa, cả 1 dân tộc bị chém giết. Cuộc tiêu diệt này rộng lớn và khủng khiếp đến độ ta có thể coi đó như là trường hợp đầu tiên của chính sách "diệt chủng" trong lịch sử Âu Châu hiện đại. Thí dụ, chỉ nguyên trong thành phố Béziers, ít nhất là có 15 ngàn người: đàn ông, đàn bà, trẻ con bị tàn sát, nhiều người bị giết ngay chính trong cung Thánh của nhà thờ. Khi một sĩ quan hỏi vị đại diện của Giáo Hoàng: 'làm sao phân biệt được ai là tín đồ và ai là tà đạo?' thì câu trả lời là: "Giết hết đi. Thiên Chúa sẽ nhận biết ai là tín đồ của Người." Sau đó, chính vị đại diện trên hãnh diện báo cáo với giáo hoàng Innocent III ở La Mã là: "Không một ai, bất kể thân phận, tuổi tác, hay trai gái, được sống sót."
Sau Béziers, đoàn quân xâm lăng tràn qua toàn vùng Languedoc. Các vùng như Perpignan, Narbonne, Carcassonne, Toulouse lần lượt rơi vào tay đoàn quân này. Và bất cứ nơi nào đoàn quân đi qua cũng để lại dấu vết của cảnh tàn sát, máu đổ, chết chóc. Cuộc chiến này, kéo dài trong 40 năm, ngày nay được biết dưới tên "Cuộc Thập Ác Chinh Albigense." Đây là cuộc Thập Ác Chinh theo đúng nghĩa của nó. Chính giáo hoàng đã huy động cuộc Thập Ác Chinh này. Đoàn Thập ác quân, mang dấu thập ác trên quân phục, như những Thập ác quân ở Palestine trước đó. Phần thưởng cho họ cũng giống như phần thưởng cho những Thập ác quân trong vùng đất Thánh: được tha mọi tội lỗi, được giải tội, được bảo đảm một chỗ trên Thiên Đàng, và được làm chủ tất cả những tài vật có thể chiếm đoạt được." 24
Với lịch sử tàn bạo giết người Ki Tô không cùng niềm tin với người Công giáo của Giáo hội Công giáo ngay từ đầu, chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy Công giáo đã ra tay tàn sát những người Tin Lành trong thế kỷ 17, 18 và còn kéo dài cho đến ngày nay tại một vài vùng địa dư, điển hình là ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Tuy nhiên, ngày nay giáo hội Công giáo đã mất đi quyền lực thế tục nên ít còn khả năng giết người “lạc đạo” cũng như người “ngoại đạo”. Nhưng lịch sử rất có thể tái diễn bất cứ ở nơi nào mà Công giáo nắm được quyền lực thế gian. Những cuộc giết người khác đạo của Công giáo trong thời cận đại, điển hình là Palevich ở Croatia đã giết 700000 người Chính Thống (Orthodox) và Hippies ở Croatia, Ngô Đình Diệm giết hoặc cưỡng bách nhiều ngàn Phật tử và người ngoài đạo cải đạo ở Nam Việt Nam là những kinh nghiệm để cho chúng ta luôn luôn phải đề phòng khi người Công giáo nắm được địa vị thế quyền. Avro Manhattan, tác giả cuốn Vatican’s Holocaust, cũng đã báo động trong cuốn sách nổi tiếng trên của ông:
“Những đoan quyết (về đức tin) căn bản của Công Giáo chưa bao giờ thay đổi chút nào. Cho đến nay, cũng như tự bao giờ, sự chấp chặt của giáo hội Công giáo vào tính cách duy nhất của mình vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì sự chấp chặt này mà đã xảy ra những tòa án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Công giáo ở (Nam) Việt Nam.
Nếu quá khứ là một dấu hiệu về sự thành hình những việc có thể xảy ra trong tương lai, thì khi nắm được cơ hội và trong một bối cảnh chính trị thích hợp, những tòa án xử dị giáo mới, những Cratia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi nào, ở đâu, và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được.” 25
Trong thời Trung Cổ, giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo ở vị thế quyền lực thế gian tuyệt đối. Giáo hoàng đứng trên vua chúa, giáo dục quần chúng nằm trong tay giáo hội. Nền giáo dục Công giáo, hay nói cho đúng hơn, chính sách nhồi sọ của giáo hội trên những đầu óc còn non dại đã khiến cho lớp trẻ mê mẩn về những điều giáo hội dạy về Ca-tô Rô-maGiáo, về Thánh Kinh, tuyệt đối tin vào những điều mê tín hoang đường. Thí dụ điển hình về chính sách nhồi sọ của giáo hội Công giáo đã đầu độc đầu óc lớp trẻ, đưa đến cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ vị thành niên như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Cuộc Thập Ác Chinh Của Những Đứa Trẻ.-
Sau đây là lời tường thuật cuộc Thánh chiến của những đưa trẻ vị thành niên trong cuốn Các cuộc Thập Ác Chinh (The Crusades by Henry Treece, trg. 182-185). Thực ra đây không phải là một cuộc Thập Ác Chinh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ là một thảm trạng bắt nguồn từ một niềm tin tôn giáo sai lầm, mang tinh thần Thập Ác Chinh, của những trẻ vị thành niên bị đầu độc tư tưởng bởi những huyền thoại trong Thánh kinh.
"Năm 1212 một sự việc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử thế giới đã xảy ra: trẻ em Pháp và Đức đã tổ chức một cuộc Thập Ác Chinh, không được sửa soạn kỹ càng, không có vũ khí và không có gì giúp chúng ngoài sự ngay thẳng ngây thơ của chúng.
Vua Pháp là Philip, đang ở St. Denis, thì một em bé trai chăn cừu 12 tuổi, tên là Stephen ở vùng Cloyes, gần Orleans, đến yết kiến ngài với một lá thư mà em nói rằng do chính Chúa Ki tô gửi cho em, bảo em tổ chức một cuộc Thập Ác Chinh tiến vào Jerusalem.. Vua Pháp ra lệnh cho em nhỏ trở về nhà cha em, nhưng Stephen đang ở trong sự say mê điên cuồng tôn giáo. Hắn dám bất tuân ngay cả lệnh vua, tuyên bố rằng, trong một kiến giác (vision) (ngày nay chúng ta gọi là ảo giác (delusion)), Chúa KiTô đã hứa là biển sẽ khô cạn để cho Stephen và tất cả những ai theo hắn có thể an toàn đi trên biển như đi trên bộ tới Jerusalem. giống như câu chuyện hoang đường ngày xưa (trong Thánh Kinh): Hồng Hải đã mở ra cho Moses, con người chăn cừu kia.
Một vài giáo sĩ thất kinh về cái sự phỉ báng của đứa trẻ - nhưng, kỳ thay, Giáo hoàng Innocent III tuyên cáo là "chính những đứa trẻ đặt chúng ta vào sự ô nhục" (một lời khuyến khích có ý nói là lòng tin của những đứa trẻ mãnh liệt hơn của chúng ta), và, chắc hẳn Stephen có một khả năng thuyết phục làm cho người ta ngỡ ngàng trước một người còn quá trẻ và vô học như Stephen. Trẻ em từ nhiều vùng trong nước Pháp tụm lại quanh Stephen, mang theo cờ xí trên có dấu cờ hiệu của Vua. Đến tháng 6, 1212, ở nơi họp, Vendôme, có tới 30,000 đứa trẻ tập họp lại để bắt đầu cuộc tiến quân lâm ly tới vùng đất Thánh, không có bản đồ và không có ngay cả lương thực. Họ sắp sửa dự phần trong cái mà ta chỉ có thể gọi là một niềm tin thống thiết.
Chúng ta không thể biết được có bao nhiêu em lẩn tránh được sự ngăn cấm của bố mẹ: có thể các bậc cha mẹ, nghe lời tán thán của giáo hoàng, sợ không dám tranh đua với sự chấp thuận của giáo hoàng, có thể họ không có mấy quyền trong những địa hạt mà chính họ đã đi theo Boniface và Dandolo (2 tư lệnh trong cuộc Thập Ác Chinh thứ 4; TCN); và có thể vì cái khả năng quyến rũ của Stephen đã khiến cho đám trẻ trai gái này trở thành điếc trước mọi lời khiển trách. Dù sao thì, đám trẻ này đã lên đường mùa hè năm đó, có nhiều người lớn thuộc loại ăn bám nhập bọn, kể cả những linh mục bị lôi cuốn bởi cái sự ngây ngất truyền nhiễm này, và đi qua những vùng Tours, Lyons xuống tới Marseilles, dọc đường kiếm ăn ở nơi nào có thể kiếm được.
Nhưng mùa hè năm 1212 nóng một cách bất thường, mùa màng chưa gặt, thực phẩm và nước uống hiếm hoi vì hạn hán. Nhiều em chết ở dọc đường trong khi một số khác tìm đường quay trở về quê. Sau cùng, khi số còn lại tới được Marseilles thì chúng bị thất vọng lớn vì thấy biển không khô cạn như đứa trẻ chăn cừu Stephen đã hứa để chúng đi tới vùng đất Thánh.
Sau vài ngày sống cực khổ ở hải cảng này, chúng được hai người lái buôn vô lương tâm đến tiếp xúc. Hai người này, tên là Hugh the Iron và William the Pig đề nghị chở đoàn trẻ này tới Palestine bằng 7 chiếc tàu, hoàn toàn miễn phí.
Stephen vui vẻ nhận lời, coi đó như là cánh tay của Thiên Chúa cứu vớt chúng một cách huyền nhiệm. Những tàu này ra khơi nhưng đi xuống phía Nam chứ không đi tới vùng đất Thánh. Nơi tới là hải cảng Bougie của dân Saracen, nơi đây tất cả các đứa trẻ Pháp này đều bị bán đi làm nô lệ.
...Người ta cho rằng trong số 30000 trẻ em phát xuất từ Vendôme, chỉ có một người duy nhất, một linh mục trẻ, trở về được nước Pháp, sau 18 năm bị làm nô lệ."
Cái cơn sốt Thập Ác Chinh này lan tới các trẻ em Đức. Chúng bị kích động bởi lời thuyết giảng của một em trai tên là Nicholas. Nicholas cũng nói với chúng về biển cả sẽ mở ra để chúng có thể an toàn bước qua tới Jerusalem. "Quân đội" của Nicholas ước lượng khoảng 20000 đứa trẻ và những kẻ ăn bám, tốt và xấu. Cái đoàn trẻ tả tơi này vất vả đi qua dãy núi Alps và, hao hụt một cách đáng buồn bởi chết chóc và đào ngũ, sau cùng cũng tới được Genoa. Ở đây chúng bị một ông thống đốc, vì không muốn dung dưỡng một đám trẻ lộn xộn đói khát và bệnh tật, đuổi đi không cho vào thành. Thế rồi, như những sinh vật trong giấc mộng chết chóc, chúng lê lết xuống phía Nam, những viễn tượng về sự giải thoát Thánh địa đã bị quên đi trong đói khát và hấp hối.
Giáo hoàng Innocent III đã nói:."Chính những đứa trẻ đã đặt chúng ta vào vòng ô nhục". Ngài đã nói đúng như thực, dù có thể trong một nghĩa khác với ý định của ngài. Sự ô nhục thuộc chính giáo hoàng vì đã không ngăn cấm sự phí phạm độc ác này; thuộc các bậc cha mẹ vì đã để cho con cái ra đi; và thuộc các nông dân vì đã từ chối không cho bọn trẻ ăn, ở, hoặc thuộc những người chấp chứa chúng chỉ để kiếm lời trên sức lao động nô lệ của chúng. Người ta ước tính trong số 20000 trẻ em dự cuộc hành trình để cứu những nước KiTô, không quá 2000 được trở về nhà. Kể ra chúng còn tốt số hơn là những đứa trẻ Pháp." 26
Có lẽ tôi cũng nên ghi thêm ở đây là, Joseph L. Daleiden, Ibid., trg. 55, có một nhận định như sau về những cuộc Thập Ác Chinh:
"Càng suy nghĩ về vấn đề này tôi càng thấy cả 9 cuộc Thập Ác Chinh đều là những cuộc Thập Ác Chinh của trẻ con. Tất cả những người lính nông dân chất phác đó đều ngu tối như đám trẻ, mù quáng tuân theo sự cổ võ của các giáo hoàng để đi giết những người dân Ả Rập đang bảo vệ đất đai của họ." 27
Đó là những sắc thái và đặc tính của những cuộc Thập Ác Chinh, và Thập Ác Chinh là sản phẩm đặc thù của Công Giáo La Mã ở Âu Châu, khi các giáo hoàng ở vị thế nắm quyền thế gian, dùng quyền hành và khai thác lòng mê tín dị đoan của các tín đồ, gây ra những cuộc tàn sát khủng khiếp, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, để chiếm đất, giành dân.
Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm vài chi tiết về những sự kiện xung quanh các cuộc Thập Ác Chinh. Tháng 4, 1095, một trận mưa thiên thạch lớn rơi xuống Âu Châu. Giám mục Gislebert ở Lisieux diễn giải đó là dấu hiệu của Thiên Chúa kêu gọi một cuộc Thập Ác Chinh chiếm lại Thánh Địa ở miền Đông. Đến tháng 11 năm 1095, giáo hoàng Urban II triệu tập một công đồng ở Clermont, Auvergne, để phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất. Trong một bài diễn văn nẩy lửa, giáo hoàng nói: “Ngày tận thế đã gần kề. Ngày cáo chung của tên Chống Chúa (Antichrist = Satan) cũng sắp tới. Tuy nhiên, nếu hắn tới, hắn sẽ không thấy một tín đồ Ki Tô nào ở Thánh Địa (đang ở trong tay Hồi giáo), vì ngày nay không còn ai ở đó để mà chống hắn.”
Rồi giáo hoàng đưa ra nhiều hứa hẹn với đám giáo dân thấp kém như ban “ơn toàn xá” và cho vé lên thiên đường nếu chết trận, hứa sẽ săn sóc gìn giữ của cải của các chiến binh để lại hậu phương, điều mà giáo hoàng không hề giữ lời, được giữ những tài vật chiếm đoạt được, và nhất là được quyền cướp những thánh tích trong các mộ thánh tử đạo (Pope Urban gave sanction to a repetition of such an act of relic-gathering, of expiation by the robbery of martyr-tombs). Điều này rất hấp dẫn đối với dân Âu Châu vì họ đang sống trong một thời đại mà bất cứ cái gì còn lại của các “thánh”, hay đã được các “thánh” sờ tới, đều được tin là có những năng lực siêu nhiên. (It was an age in which the remains of “holy” people, or things touched by “saints”, were believed to be imbued with supernatural power). Jerusalem không những chỉ là miền đất mà các “thánh” đã đi qua đi lại, mà chính Giê-su, hiện thân của Thiên Chúa, cũng đã từng đi trên miền đất đó, chết đi và sống lại ở đó. Đối với những giáo dân và những kẻ đi thâu thập “thánh tích” cho những nhà thờ, giáo xứ để thờ phụng, thì không còn gì hấp dẫn hơn là Jerusalem. Vì ở đó có ngọn “thánh giáo” (holy lance) đã đâm lên cạnh sườn Giê-su, có cây “thánh giá” mà Giê-su bị đóng đinh trên đó, có xá lị của John the Baptist, thân thể của Thánh George, những mảnh đá trong mồ Chúa, và ngay cả nước sông Jordan mà Giê-su, con Thiên Chúa, đã được rửa tội trên đó. [Người Ca-tô Rô-maGiáo thời đó tin rằng nước sông Jordan mà Giê-su rửa tội trên đó không có chảy đi đâu hết, vẫn còn nguyên vị ở chỗ cũ. TCN]. Hơn nữa, trong thế kỷ 11, vì để tự cứu linh hồn, họ có thể ăn cắp bất cứ cái gì để tránh bị thiêu đốt bởi ngọn lửa dưới hỏa ngục mà các linh mục đã bảo họ là đã liếm mỗi bước chân của họ (To save his soul, the man of 11th-century Europe would have stolen anything to avoid the hot flames of Hell which, the priests had told him, licked his legs at every step).
Trong nhiều tháng tiếp theo, giáo hoàng đích thân cổ động và ra lệnh cho các giám mục, linh mục trong các giáo xứ địa phương ở Âu Châu cũng phải cổ động cho cuộc Thập Ác Chinh này. Giáo dân khắp nơi reo hò cuồng nhiệt: “Thiên Chúa muốn thế” (Deus Vult = God wills it). Rất nhiều kẻ trộm cướp, sát nhân được thoát khỏi vòng lao lý với điều kiện là chuộc tội bằng cách làm đổ máu dân ngoại đạo (Many thieves and murderers who escaped block and gallows only on condition that they redeemed themselves by spilling heathen blood).
Trên đây chỉ là vài nét về những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo. Trước những sự thật lịch sử đen tối, bạo tàn của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo mà chính giáo hoàng John Paul II ngày nay và tòa thánh Vatican đã thú nhận, tôi xin đặt một câu hỏi cho các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam: Có thật là quý vị đang ở trong một “hội thánh” hay không? Và quý vị có tin rằng cái lịch sử đẫm máu của “hội thánh” Ca-tô Rô-maGiáo kéo dài suốt 2000 năm hoàn toàn không dính líu gì đến niềm tin của quý vị không? Muốn trả lời câu hỏi này, quý vị cần biết rõ điều sau đây:
Thật ra, những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo không chỉ có mục đích giết dân Ả Rập mà còn giết những người Do Thái và giết luôn cả những người Ki Tô giáo khác không có cùng quan niệm tôn giáo với Công giáo, như chúng ta đã thấy trong cuộc Thập Ác Chinh Albigense mô tả ở trên. Các cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo đã nhận chìm Âu Châu trong vòng chiến tranh tàn sát suốt hai thế kỷ 11 và 12, dài gần 200 năm.
Nhưng, ngoài sách lược tiêu diệt văn hóa nhân loại và các cuộc Thập Ác Chinh, lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo còn một vết nhơ vĩ đại khác, đó là những Tòa Án xử những người Dị Giáo (khác đạo) hay những người mà Giáo hội kết tội là lạc đạo, nghĩa là không công nhận quyền lực của Giáo hoàng và của hàng giáo phẩm, những người Do Thái và cả những người theo Ki Tô Giáo nhưng không cùng tín ngưỡng với Ca-tô Rô-maGiáo. Những tòa án xử dị giáo này kéo dài hơn 500 năm và đã làm cho trên 11 triệu người chết vì tra tấn bởi những hình cụ khủng khiếp nhất, phát minh bởi những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo, vì thiêu sống v...v... (Zindler, p. 183: The Roman Catholic Church killed over 11 million people in the course of the Inquisition)) Tôi sẽ đi vào chi tiết của những hành dộng dã man tàn bạo nhân danh Chúa của các tòa án xử dị giáo của Công giáo trong một phần sau, qua một số tài liệu lịch sử.
NHỮNG TÒA HÌNH ÁN XỬ DỊ GIÁO VÀ LẠC ĐẠO
Sang thiên niên kỷ thứ hai, Hoàng đế Ca-tô Rô-maGiáo Robert the Pious thiêu sống 13 người “lạc đạo” ở Orleans năm 1022. Năm 1051, trong cộng đồng Ca-tô Rô-maGiáo ở Goslar, Đức quốc, một số người vì một niềm tin nào đó, không chịu giết gà (unwilling to kill chickens), bị kết tội “lạc đạo” và bị treo cổ (hanged). Năm 1141, linh mục Peter Alebard bị lên án phải tù chung thân vì ông ta đã liệt kê những mâu thuẫn của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo trong cuốn sách nhan đề “Yes and No”.
Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo cũng còn giết nhiều tín đồ Ki Tô khác không theo đúng giáo luật của Ca-tô Rô-maGiáo. Thí dụ trường hợp Peter Waldo ở Lyon, một tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo thường dân giảng đạo ngoài đường phố. Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo ra luật chỉ có linh mục mới có quyền giảng đạo. Do đó những người theo Waldo, Waldensians, đều bị coi như là lạc đạo và bị tuyệt thông, và trong cuộc Thập Ác Chinh Albigense, những người này cũng bị tàn sát hoặc thiêu sống trong vùng Savoy, Pháp quốc. Một trường hợp khác là nhà thần học Pháp Almaric. Ông này rao giảng là mọi người đều có khả năng trở nên thần thánh (all people are potentially divine), và những lễ tiết trong giáo hội là không cần thiết (church rites aren’t needed). Sau khi ông ta chết, xác ông ta bị khai quật lên và đem đi thiêu, những người theo ông bị thiêu sống (After his death, his followers were burned alive as heretics, and his body was dug up and burned).
Nhiều nhóm “lạc đạo” khác cũng bị Ca-tô Rô-maGiáo tiêu diệt. Giáo hoàng và các Thánh trong Ca-tô Rô-maGiáo chủ trương giết người lạc đạo. Họ viện dẫn Cựu Ước để biện minh cho các cuộc tàn sát vì Cựu Ước dạy rằng: Kẻ nào phỉ báng tên Chúa đều phải bị giết (He who blasphemes the name of the Lord shall be put to death). Thánh Thomas Aquinas tuyên bố: “Nếu những kẻ bất lương đáng tội chết, thì những kẻ lạc đạo còn đáng bị giết hơn nữa” (St. Thomas Aquinas declared: “If malefactors are justly doomed to death, much more may heretics be justly slain.”)
Nghiên cứu về các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, tất cả các nhà nghiên cứu đều đồng ý, đó là một trong nhiều vết nhơ không sao gột sạch trong lịch sử Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo, tuy rằng có vài nhà Thần học Ca-tô Rô-maGiáo đã đưa ra vài lý luận để bào chữa cho những hành động tàn bạo của Giáo hội, thí dụ như, đó là hành động của những người cuồng nhiệt tôn giáo, tin rằng mình đã làm theo ý Chúa, hoặc các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo chỉ có mục đích cứu vớt linh hồn những người lạc đạo, lẽ dĩ nhiên, cứu vớt bằng cách tra tấn và thiêu sống họ.
Những lời bào chữa như trên chỉ có mục đích lạc dẫn đám tín đồ kém hiểu biết, vì các chuyên gia nghiên cứu về lịch sử tôn giáo đã chứng minh rằng, sự thiết lập các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo giáo bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân thế tục như: bảo vệ cấu trúc quyền lực độc tài của chế độ giáo hoàng, vơ vét của cải, tài nguyên v...v...
Thật vậy, trong cuốn Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo Tây Ba Nha (The Spanish Inquisition, Barnes & Nobles Books, New York, 1994, p.18) Jean Plaidy viết như sau:
"Đó là lời bào chữa nghe có vẻ hợp lý, nhưng chúng ta phải nhớ rằng, chính sự sợ hãi những người dị giáo đã đưa đến sự thiết lập những tòa hình án xử dị giáo; và những nạn nhân phần lớn là những người giầu có, của cải của họ rất đáng để tịch thu, còn số ít là những người nghèo không có của cải." 28
Nhưng tại sao Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo lại sợ những người dị giáo? Lý do chính là để bảo vệ quyền lực của Giáo hội trước những tư tưởng khai phóng, khao khát tự do của những người mà Giáo hội gọi là "lạc đạo". Quyền lực của Giáo hội nằm trong những giáo điều mà giáo hội đưa ra để nắm giữ cả phần hồn lẫn phần xác của đám tín đồ kém hiểu biết. Nếu những giáo điều này trở thành phi lý trước những tư tưởng khai phóng, tự do v..v.. thì giáo hội sẽ mất đi quyền lực. Gần đây, tuy sợ hãi trước sự bành trướng một cách hòa bình của Phật Giáo và Hồi Giáo trên khắp thế giới, nhưng vì Giáo hội Công giáo không còn quyền lực của thời Trung Cổ ở Âu Châu để tra tấn và thiêu sống những người "dị giáo" nữa, nên Giáo Hoàng John Paul II đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó Giáo hoàng xuyên tạc và hạ thấp Phật Giáo cũng như vài tôn giáo khác. Hành động này đã bị cả thế giới (trừ đám tín đồ có đầu óc thời Trung Cổ) lên án và đại diện của Tòa Thánh đã phải xin lỗi Phật Giáo. Nhưng hành động này cũng chứng tỏ một sự sợ hãi và thiếu tự tin của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo, không còn khả năng thuyết phục nhân loại bằng những giáo lý hoang đường, nên phải dùng đến hạ sách là xuyên tạc và hạ thấp các tôn giáo khác. Những ngôn từ thiếu văn hóa của John Paul II phê bình các nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là "Những con chó sói đói mồi" và của Hồng Y Ratzinger, nay đã là Giáo hoàng, nguyên là phụ tá thân cận nhất của John Paul II và là người đứng đầu Cơ Quan Truyền Bá Đức Tin, biến thể của Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo, cũng phê bình Phật Giáo là một tôn giáo thuộc loại Tự Thỏa Dâm (Auto Eroticism), chứng tỏ sự sợ hãi nói trên nhưng cũng đồng thời cho chúng ta thấy thực chất vô đạo đức tôn giáo của những người cầm đầu Giáo Hội Ca-tô Rô-maGiáo ngày nay. Buồn thay, những người Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam vẫn gọi những kẻ vô đạo đức tôn giáo như trên là “Đức Thánh Cha”.
Sự sợ hãi những tư tưởng khai phóng của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo được học giả Ca-tô Rô-maGiáo Joseph D. Daleiden phân tích như sau trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng: Một Sự Định Giá Phê Bình Về Di Sản Do Thái-Ki Tô (The Final Superstition, A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, 1994), trg. 61:
"Với sự tăng trưởng về kiến thức và về ý thức phán đoán, lòng khao khát có thêm tự do là điều không thể tránh được. Cả hai chế độ Giáo Hoàng và chế độ quân chủ ở Âu Châu đều nhận biết sự đe dọa trầm trọng này. Cho nên chúng ta không lạ gì khi hai chế độ trên đã mở một cuộc chiến toàn diện để tiêu diệt những người tranh đấu cho sự giải phóng nhân loại ra khỏi những sự cùm kẹp song sinh của Vua chúa và Giáo hoàng. Đó là mục đích thực sự của những tòa hình án xử dị giáo." 29
Trên đây chỉ là vài nét đại cương về nguyên nhân thiết lập các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo. Thực chất của những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo này ra sao, chúng ta hãy nghe lời mô tả của một nhà Thần học Ki Tô Giáo, Mục sư Ernie Bringas, trong cuốn Theo Đúng Sách Viết: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Bởi Quyền Lực Thánh Kinh (Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub. Co., 1996), trg 37, và đây chỉ là một phần nhỏ sự thực về bản chất của những tòa hình án xử dị giáo:
"Những người bị kết án là dị giáo trước hết bị bắt giữ và cô lập với thế giới bên ngoài. Họ được coi là có tội ngay từ lúc khởi đầu, và bắt các tội nhân thú nhận tội lỗi được coi như là nhiệm vụ mà Thượng đế trao cho phán quan. Người ta tin rằng, chỉ có cách này linh hồn bị cáo mới được cứu vớt khỏi nanh vuốt của quỷ. Bị cáo phải dựa vào chính khả năng của mình, không được phép có luật sư biện hộ.
Ngược lại, cơ quan truy tố được phép đưa ra bất cứ số nhân chứng nào, gồm cả thân nhân của bị cáo. Những lời chứng và nghe đồn của ngay cả những nhân chứng không đáng tin cậy nhất, gồm cả trẻ con, đều được nhận như là những bằng chứng xác định sự phạm tội. Bị cáo không được phép chất vấn các nhân chứng hoặc cũng không biết họ là ai. Tuy nhiên, bị cáo được quyền tự biện.
Không lấy gì làm ngạc nhiên, tra tấn là phương pháp nhanh nhất và hữu hiệu nhất để ép nạn nhân thú tội. Mới đầu, bị cáo được kéo vào phòng tra tấn và chỉ cho xem những hình cụ dùng để tra tấn. Nếu họ không nhận cái tội mà người ta gán cho họ, họ sẽ bị tra tấn từ từ với cường độ tra tấn tăng dần. Những phiên tra tấn này thường kéo dài từ hai tới bốn tiếng đồng hồ, thân thể các nạn nhân bị xâm phạm và phá hủy.
Thường thì những hình cụ tra tấn dùng trong các cuộc tra hỏi này trước hết được rảy nước Thánh (nước đã được một linh mục làm phúc). Trong những hình cụ tra tấn có:
CÁI KẸP NGÓN TAY. Ngón tay của bị cáo bị đặt trong cái kẹp có đinh vít. Đinh vít được quay để kẹp chặt ngón tay dần dần cho tới khi máu phọt ra và xương ngón tay bị nghiền nát.
ĐÔI ỦNG SẮT. Cái hình cụ hữu hiệu này dùng để nghiền nát xương ống chân.
CÁI GIÁ CĂNG. Nạn nhân bị căng trên một khung hình tam giác, chân tay bị buộc chặt để không cử động được. Cổ tay và cổ chân bị cột vào một cái đinh vít căng. Khi vặn đinh vít, chân tay nạn nhân bị căng ra một cách vô cùng đau đớn cho tới khi cổ tay và cổ chân bị kéo ra khỏi những khớp xương tương ứng.
(Mục sư Bringas còn tả thêm 2 hình cụ tra tấn nữa nhưng vì quá độc ác nên tôi không muốn dịch. Hai hình cụ đó là: CÁI GIÁ CĂNG THẲNG ĐỨNG (The Vertical Rack) và HÌNH CỤ TRA TẤN BẰNG NƯỚC (Water Torture). Tuy nhiên, trong phần trích dẫn bằng tiếng Anh ở cuối bài tôi xin để nguyên lời mô tả những hình cụ này để độc giả tham khảo. TCN).
...Những phương pháp độc ác và tàn nhẫn dùng để trừng phạt những người bị kết án là dị giáo chứng tỏ chiều sâu của sự rồ dại và lạc dẫn sự say mê tôn giáo gây ra bởi những người tự cho là làm theo ý Chúa." 30
Chúng ta nên để ý rằng, trên đây nhà Thần học Ki Tô Ernie Bringas chỉ mô tả 5 hình cụ thường dùng để tra tấn những người dị giáo trong số hơn 40 hình cụ, được phát minh bởi những người con Chúa thường được rao giảng là Chúa dạy phải thương yêu kẻ thù, trong đó có những hình cụ tra tấn một cách tàn ác và dã man hơn những hình cụ mô tả ở trên. Độc giả nào tò mò muốn thấy tận mắt một số những hình cụ này thì tôi xin mời họ hãy đến thăm một bảo tàng viện có tên là "Medieval Dungeon" ở trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, thành phố San Francisco, Cali. Trong bảo tàng viện này có trưng bày hơn 40 hình cụ mà các tòa hình án dùng để tra tấn những người bị tố cáo là dị giáo. Ở ngoài cửa bảo tàng viện có đề:
"Trưng bày hơn 40 hình cụ man rợ để tra tấn và hủy diệt con người trong thời đại Trung Cổ ở Âu Châu. Đằng sau những cánh cửa này là sự khủng khiếp thực sự của thời đại Trung Cổ ở Âu Châu. Những ngày đen tối nhất của cái quá khứ nhơ nhớp của họ." 31
Ngoài ra, Linh Mục Joseph Dunn cũng viết trong cuốn Đám Tín Đồ Ca-tô Chúng Tôi (The Rest of Us Catholics, Templegate Publishers, 1994), trg. 184, như sau:
"Có một cuộc triển lãm thường xuyên những hình cụ tra tấn tại Amsterdam - Đã một lần tôi đặc biệt tới xem cuộc triển lãm này. Tôi nghĩ rằng mọi cá nhân mới tuyển mộ cho Cơ Quan Truyền Bá Đức Tin (hay Văn Phòng Thánh, Holy Office, Nguyên là cơ quan chỉ đạo các tòa hình án. TCN) của Hồng Y Ratzinger đều phải đến xem cuộc triển lãm này và viết một bài nghiên cứu về nó.
Đây là những hình cụ tra tấn của những tòa hình án xử dị giáo mà Văn Phòng Thánh là cơ quan thừa kế. Có những hình cụ nghiền nát đầu, nghiền nát ngón tay, giá thang để căng người, phanh ngực, chẻ đầu gối, hình cụ giống quả lê và làm nó nở ra dần dần sau khi đâm vào miệng, hậu môn, âm hộ, khuôn người bằng sắt, những cái chĩa dành cho dị giáo, và những con nhện Tây Ba Nha - kèm theo những bản khắc và tài liệu chỉ cách những hình cụ này đã được xử dụng như thế nào." 32
Đọc về những tòa hình án xử dị giáo tôi không tài nào hiểu nổi những hành động dã man, tồi tệ, và phản lại chính tín ngưỡng của mình, của những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo. Thí dụ: một trong những hình cụ tra tấn được tìm thấy trong nhà tù của Tòa Án Xử Dị Giáo tại vùng Toledo có một bức tượng giống hình Mary Đồng Trinh. Phía trước có nhiều đinh và dao sắc. Những đòn bẩy được vận dụng để cho hai tay bức tượng xiết chặt nạn nhân dần dần trong khi những đinh và dao sắc xuyên qua thân thể. (Plaidy., 143: One of the instruments of torture, which was discovered in the prison of the Inquisition in Toledo by the invading French, was a statue built to resemble the Virgin Mary. The front of the statue was covered with sharp nails and knives. Levers were pulled, and the arms of the statue would embrace its victim who would be crushed tighter and tighter, while the knives and nails pierced the naked flesh.). Trong cuốn “Unzipped: The Popes Bare All”, Tiến sĩ Arthur Frederick Ide mô tả hình cụ tra tấn mang hình Mary như sau, trang 45, theo tài liệu của Linh Mục Joseph McCabe trong cuốn Lịch Sử Tra Tấn (Austin, 1980):
“Một con đường đi thẳng tới Jesus hơn [để hiệp thông với Chúa] có thể kiếm thấy trong hình cụ “Bà Đồng Trinh Bằng Sắt” của những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo. Bà ta khoác một bộ áo choàng bằng gỗ và sắt, khi mở ra thì có những hàng mũi nhọn trông như những răng của cái bừa, dài khoảng 20cm. Nạn nhân đứng trên một cánh cửa ở trên một hố nước sâu, khi hai cánh của hình cụ mở ra và các mũi nhọn rút ra khỏi thân người thì cái xác sẽ rơi xuống nước ở hố sâu. Những mũi nhọn được xếp đặt cẩn thận để sao cho hai cái xuyên vào hai mắt nạn nhân, những cái khác thì xuyên qua ngực và bụng.” 33
Trong một số sách đã xuất bản, chúng ta cũng có thể thấy những hình ảnh của những hình cụ tra tấn này, kèm theo lời mô tả cách tra tấn.. Độc giả có thể đọc vài cuốn điển hình, thí dụ như cuốn Những Tòa Hình Án Tây-Ban-Nha (The Spanish Inquisition) của Jean Plaidy, hoặc cuốn Vạch Trần Các Giáo Hoàng: Một Khảo Cứu Bộc trực về Vấn Đề Tình Dục và Đồi Bại Trong Vatican (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex & Corruption in the Vatican) của Arthur Frederick Ide, và nhất là tập sử nổi tiếng Lịch Sử Những Tòa Hình Án Trong Thời Trung Cổ (The History of the Inquisition in the Middle Ages) của Henry Charles Lea, nếu muốn biết nhiều hơn về những sự dã man tàn bạo của Giáo hội Công giáo La Mã.
Sau đây chúng ta hãy đọc vài tài liệu mô tả phần nào chi tiết về những hành động man rợ, độc ác không thể tưởng tượng được của các con cái Chúa. Đầu tiên là tài liệu trong cuốn "Các Đại Diện của Chúa KiTô: Mặt Đen Tối Của Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy,Crown Publishers, 1988, trg. 162-166) của Giám Mục Công giáo Peter de Rosa:
"Khủng bố thực sự bắt đầu với Gregory IX, lên ngôi giáo hoàng năm 1227.
Hai năm sau, tại Công Đồng Toulouse ở Languedoc, Gregory ra sắc lệnh giải giao những người "dị giáo" cho chính quyền dân sự trừng phạt. Ông nói: "Bổn phận của mọi tín đồ Ca-Tô là phải truy tố những kẻ dị giáo".
Năm 1232 giáo hoàng đã đi đến một quyết định: Ông ra chiếu chỉ thành lập Tòa Án xử Dị Giáo. Những Giám mục thì quá lơ là, thực ra là, họ thiếu thì giờ và khả năng để hoàn thành công việc một cách chu đáo. Những người dị giáo, nghĩa là những người chống bất cứ lời tuyên bố nào của giáo hoàng, đều phải giải giao cho chính quyền dân sự thiêu sống (sau khi bị Tòa Hình Án tra tấn, thẩm vấn và kết tội; TCN). Nếu họ sám hối họ sẽ bị tù chung thân. Chưa có giáo hoàng nào dương lên ngọn đuốc khủng bố với sự thích thú hơn.
Tháng 4, 1233, giáo hoàng chỉ chọn những quan tòa hình án trong dòng Đa Minh (Dominic) và chẳng bao lâu các linh mục dòng này vinh dự được sự chọn lựa đó. Ngày 27 tháng 7, 1233, là ngày giáo hoàng phê chuẩn bằng bút đỏ: hai phán quan của tòa hình án làm việc toàn thời gian được bổ nhiệm - Peter Seila và Wìliam Arnald. Hai ông này là hai người đầu tiên của một đoàn dài những công tố viên của nhân loại, làm việc một cách thanh thản và không hề thắc mắc. Khi bức màn hình án được kéo lên, năm 1239, 2 năm trước khi Gregory chết, linh mục dòng Đa Minh Robert le Bougre đi tới Champagne để điều tra một giám mục tên là Moranis. Ông giám mục này bị kết tội là để cho những người dị giáo sống và lan ra trong giáo phận của mình. Ngày 29 tháng 5, le Bougre đưa 180 người, kể cả ông giám mục, lên giàn hỏa thiêu sống.
Đây là sự trở lại thời man rợ.
Lịch sử không ủng hộ quan điểm cho rằng giáo hội Ca-tô luôn luôn đứng đầu về vấn đề nhân quyền. Trong thế kỷ 13, giáo hội vẫn còn đưa ra giáo điều như thuở ban đầu: dị giáo không có một nhân quyền nào. Họ có thể bị tra tấn không chút đắn đo, ngại ngùng. Giống như những kẻ phản bội quốc gia, họ tự đặt mình ra ngoài sự thương xót của luật pháp. Họ phải chết.
Trải qua 3 thế kỷ không có một giáo hoàng nào chống đối cái giáo điều man rợ trên. Do đó, giáo điều này đã trở thành một phần thường trực trong giáo lý Ca-tô. Dựa vào đó, quyền năng của tòa hình án đã lên tới mức chưa từng thấy. Kết quả là sự đàn áp toàn diện những người không hề có được một sự bảo vệ nào trước những sự buộc tội hoặc chỉ bị nghi ngờ là dị giáo.
Tòa hình án được phép làm bất điều gì. Những phán quan của tòa hình án dòng Đa Minh, được giáo hoàng bổ nhiệm, họ không ở dưới quyền bất cứ một ai ngoài Thượng đế và giáo hoàng. Họ đứng ngoài vòng xét xử của các giám mục và luật dân sự. Trong những quốc gia thuộc quyền giáo hoàng họ chính là luật lệ, vừa đóng vai công tố viên vừa đóng vai quan tòa xử án. Nguyên lý chỉ đạo của họ là: "Thà giết oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do."
Họ hoạt động một cách độc đoán và trong vòng bí mật. Bất cứ người nào hiện diện trong cuộc tra hỏi - nạn nhân, thư ký, người tra tấn - mà tiết lộ thì sẽ bị lên án mà chỉ có giáo hoàng mới có thể tha cho. Những quan tòa hình án, giống như giáo hoàng, được hiểu rằng không thể phạm một lỗi lầm nào và không thể làm sai...
Tra tấn được dùng thả dàn. Mới một trăm năm trước đây, người ta trưng bầy trong cái nhà ở góc đường của giáo hoàng cuốn Sổ Đen dùng làm chỉ đạo cho những quan tòa hình án. Cuốn sổ có đánh số trang này thuộc trách nhiệm của Phán Quan Trưởng Tòa hình án. Cái tên phổ thông của nó là Cuốn Sổ của Thần Chết. Sau đây là một phần được trích dẫn từ đó:
"Hoặc bị cáo thú tội và như vậy là có tội theo sự thú tội của chính hắn, hoặc hắn không thú tội nhưng vẫn là có tội dựa theo chứng cớ của các nhân chứng. Nếu một người nhận tất các tội đã gán cho hắn, đương nhiên hắn hoàn toàn có tội; nhưng nếu hắn chỉ thú có một phần các tội trạng, hắn vẫn phải bị coi như là phạm tất cả các tội, vì phần mà hắn đã thú tội chứng tỏ rằng hắn có khả năng phạm tất cả các điểm khác trong bản cáo trạng...
Sự tra tấn thân xác đã chứng tỏ đó là phương cách có ích và hữu hiệu đưa tới sự sám hối tinh thần. Cho nên, sự chọn lựa một hình cụ tra tấn thích hợp nhất là trách nhiệm của quan tòa hình án, ông ta sẽ quyết định dựa trên tuổi tác, phái nam hay nữ, và sự cường tráng thân thể của tội nhân. Nếu, trong trường hợp đã dùng đủ mọi cách mà con người xấu số kia vẫn không chịu nhận tội, phải coi hắn như là một nạn nhân của quỷ; và, như vậy, không được hưởng sự thương xót từ các kẻ tôi tớ của Thượng đế (các linh mục xử án), hoặc sự thương hại hay khoan hồng nào của giáo hội Mẹ Thánh thiện. Hắn là đứa con của sự đày đọa. Hãy để cho hắn chết rục cùng với những kẻ đã bị đày đọa vĩnh viễn xuống hỏa ngục."
Thật khó mà có thể kiếm được một văn kiện nào mà trái với những nguyên tắc công lý tự nhiên như vậy. Theo cuốn Sổ Đen, một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phải phản bội đứa con. Không làm như vậy là một "tội lỗi đối với Tòa Án Thánh" và đáng bị tuyệt thông, nghĩa là, không được hưởng các bí tích và, nếu không có tu chính án, không được lên thiên đàng.
Những ông Tòa hình án chưa bao giờ thua một vụ nào. Sử liệu cho thấy không có một vụ phán quyết nào được xem là vô tội. Ngay cả trong trường hợp rất hiếm mà phán quyết của tòa hình án là Không Đủ Bằng Cớ, thì cũng không ai được công nhận là vô tội. Nếu bị cáo thực sự không có tội dị giáo cũng không thành vấn đề. Các ông tòa hình án tin rằng may ra chỉ có một trong trăm ngàn linh hồn thoát được sự đọa đày mà thôi." 34
Trên đây, Peter de Rosa chỉ nói là các quan án đạo, thường là linh mục, được quyền tra tấn thả dàn, nhưng không mô tả những cảnh tra tấn đó như thế nào. Chúng ta có thể thấy thêm một chút ánh sáng về khía cạnh này qua một đoạn trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh, Một Lịch Sử Minh Họa Về Sự Điên Rồ Sát Nhân Tôn Giáo (Holy Horrors, An Illustrated History of Religious Murder and Madness, Prometheus Books, 1990) của James A. Haught, trang 61-68. Tôi thành thực khuyên những người yếu tim không nên đọc đoạn mô tả những cách tra tấn này của giáo hội Công giáo thánh thiện:
Những nỗ lực để tiêu diệt những kẻ lạc đạo đã đưa đến sự thành lập những Tòa Án Xử Dị Giáo Mang Nhãn Hiệu Thánh (Holy Inquisition), một trong những hành động khủng khiếp siêu việt của nhân loại. Vào đầu thế kỷ 13, các giám mục địa phương được quyền kiếm ra, xử án và trừng phạt những kẻ lạc đạo. Khi các giám mục không tỏ ra là hữu hiệu cho lắm, các quan án đạo của giáo hoàng, thường là các linh mục dòng Đa Minh (Dominician), được phái từ La Mã đi khắp nơi để thực hiện cuộc tẩy trừ.
Năm 1252, Giáo hoàng Innocent IV cho phép tra tấn, và những phòng xử án đạo trở thành những nơi khủng bố. Những người bị tố cáo là lạc đạo bị bắt và giam trong phòng tối, không được phép có gia đình vào thăm, không được quyền biết tên những người đã tố cáo họ. Nếu họ không nhận tội ngay, những cảnh độc ác không thể thốt lên lời bắt đầu xẩy ra. Nhà sử học Thụy Sĩ Walter Nigg kể lại:
“Cái kẹp ngón tay thường là hình cụ được xử dụng đầu tiên: Các ngón tay bị kẹp giữa những cái kẹp và rồi được vặn xiết lại cho đến khi các ngón tay bị tóe máu ra và cương bị nghiền nát. Kẻ bị tố cáo có thể bị đặt ngồi trên một chiếc ghế sắt mà mặt ghế là những đinh sắt nhọn chổng lên và các đinh này có thể được nung nóng đỏ lên từ phía dưới. Có hình cụ được gọi là đôi ủng (boots) dùng để nghiền nát xương ống chân. Một hình cụ tra tấn khác được ưa dùng là làm trật các khớp xương của kẻ lạc đạo trên những giá căng, hay là buộc chân tay, đeo đá nặng vào người, rồi dùng bánh xe quay, kéo lên hạ xuống. Để cho những kẻ tra tấn khỏi bị phiền vì những tiếng kêu la, nạn nhân thường bị nhét giẻ vào miệng. Những cuộc tra tấn kéo dài 3, 4 tiếng đồng hồ là thường. Trong những cuộc tra tấn, các hình cụ thường được rẩy nước thánh.”
Những nạn nhân không chỉ bắt buộc phải nhận tội mình là kẻ lạc đạo, mà còn phải tố cáo vợ con, bạn hữu của mình cũng lạc đạo như mình, do đó những người này cũng phải trải qua cùng một cảnh như mình. Những người ít tội là những người nhận tội ngay và chịu hình phạt nhẹ hơn. Những người tội nặng hơn mà sám hối thì sẽ bị tù chung thân và tài sản bị tịch thu. Những kẻ cứng đầu hơn được mang đi thiêu sống trong một cuộc lễ diễn hành được gọi là “auto-da fé” (hành động của đức tin). Một sắc lệnh của Giáo hoàng năm 1231 quy định thiêu sống là hình phạt tiêu chuẩn. Sự hành hình được thi hành bởi các viên chức dân sự, không phải là linh mục, để bảo tồn sự thánh thiện của giáo hội [Trong các cuộc thiêu sống, các linh mục thường đứng giơ cây thập ác trước mặt nạn nhân, một biểu tượng cứu vớt linh hồn lạc đạo của nạn nhân].
Một số quan án đạo giết người như vạt cỏ. Robert le Bourge đưa 183 người lên dàn hỏa trong một tuần lễ. Bernard Gui kết tội 930 người – tịch thu tài sản của tất cả 930 người – cho 307 người vào tù, và thiêu sống 42. Conrad of Marburg thiêu sống mọi người nào cho mình là vô tội.
Theo lịch sử, các cuộc hình án xử dị giáo được chia làm ba đợt: sự tiêu diệt những kẻ lạc đạo trong thời Trung Cổ, những tòa hình án xử dị giáo Tây Ban Nha vào thế kỷ 15, và những tòa án xử dị giáo của La Mã, bắt đầu sau cuộc cải cách [trong đó Tin Lành cũng nhúng tay vào]
Ở Tây Ban Nha, nhiều ngàn người Do Thái đã cải đạo sang Ki Tô Giáo để tránh tử hình trong những cuộc tàn sát của người Ki Tô Giáo. Một số người Hồi Giáo cũng vậy. Thuy nhiên, họ vẫn bị nghi ngờ là không được thành thật khi cải đạo và vẫn bí mật theo đạo cũ. Năm 1487, Giáo hoàng cho phép Vua Frenidand và Hoàng hậu Isabelle làm sống lại những tòa hình án xử dị giáo để săn lùng những người “Do Thái bí mật” và những người “Hồi Giáo bí mật” [Những người bị nghi ngờ là không thành thật cải đạo sang Ki Tô Giáo]. Linh mục dòng Đa Minh Tomas de Torquemada được chỉ định là Tổng Phán Quan, và hắn ta trở thành biểu tượng của sự độc ác tôn giáo. Hàng ngàn nạn nhân kêu la bị tra tấn, và ít nhất là 2000 người bị thiêu sống.
Thời kỳ xử dị giáo của La Mã bắt đầu năm 1542 khi Giáo hoàng Paul III muốn tiêu diệt tận gốc những ảnh hưởng của Tin Lành ở Ý. Dưới triều đại Paul IV, những tòa án xử dị giáo là một triều đại khủng bố, giết nhiều người “lạc đạo” chỉ vì nghi ngờ. Trong số những nạn nhân có cả nhà khoa học-triết gia Giordano Bruno, người tin theo thuyết các hành tinh quay xung quanh mặt trời của Copernicus. Ông ta bị thiêu sống ở La Mã vào năm 1600.
Những tòa án xử dị giáo làm tàn lụi nhiều quốc gia trong nhiều thế kỷ. Ở Bồ Đào Nha, tài liệu ghi lại là 184 người bị thiêu sống. Những tòa án xử dị giáo được những chiến thắng quân Tây Ban Nha mang tới các thuộc địa Mỹ Châu, để trừng phạt những thổ dân theo những tôn giáo của họ. Có 879 cuộc xử án những người lạc đạo ở Mexico vào cuối thế kỷ 16..
Lord Acton, một tín đồ Công giáo, viết vào cuối thế kỷ 19: “Nguyên tắc của Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo là giết người.. Những giáo hoàng không chỉ là những tên sát nhân có hạng, mà còn cho sự giết người là một căn bản hợp pháp của Giáo hội Ki Tô và là một điều kiện của sự cứu rỗi.” 35
Cuối cùng trong bài này, vì tôi không thể đưa ra tất cả những tài liệu, là thêm một tài liệu về các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo của Helen Ellerbe trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo (The Dark Side of Christian History, Morningstar & Lark, 1995, Chapter VI, pp. 76-92):
Chưa từng có nỗ lực có tổ chức của một tôn giáo để kiểm soát con người và giam giữ tâm linh của họ như là những tòa hình án của Ki Tô Giáo. Được phát triển từ trong khuôn khổ hợp pháp của chính giáo hội, những tòa hình án xử dị giáo toan tính khủng bố con người để bắt họ vào trong vòng tuân phục giáo hội. Như quan án đạo (Inquisitor) Francisco Pena phát biểu năm 1578: “Chúng ta phải nhớ rằng mục đích chính của các cuộc xử án và hành hình không phải là để cứu vớt linh hồn của kẻ bị cáo buộc mà để cho sự tốt lành công cộng và reo rắc sự sợ hãi cho những kẻ khác.” Những Tòa Án Xử Dị Giáo đã lấy đi vô số mạng người ở Âu Châu và trên thế giới khi nó theo gót những giáo sĩ thừa sai đi truyền đạo. Cùng với sự tàn bạo của những tòa án xử dị giáo, những giáo sĩ cũng đem sự biện minh tôn giáo (như được viết trong Thánh Kinh) để thực hành chế độ nô lệ.
Cái tinh thần bất phục trong thời Trung Cổ có vẻ như đã làm cho sự đòi hỏi tuyệt đối tuân phục của giáo hội trở nên trầm trọng. Cái hiểu về Thiên Chúa của Giáo hội là cái hiểu duy nhất. Không làm gì có chuyện bàn cãi hay tranh luận. Như quan án đạo Bernard Gui nói, tín đồ Công giáo không có tranh luận với những kẻ bất tín, “mà chỉ cần dùng gươm đâm vào bụng chúng cho thật sâu.” Trong một thời mà con người nẩy nở tâm linh, giáo hội khăng khăng cho rằng giáo hội là con đường duy nhất mà con người được phép biết về Thiên Chúa. Giáo hoàng Innocent III tuyên bố rằng: “bất cứ người nào mà toan tính có một quan điểm riêng về Thiên Chúa mà không đúng theo những tín điều của giáo hội đều phải bị thiêu sống mà không được thương sót.”..
Giáo hội xử dụng giáo luật của chính mình để hình thành một cơ quan có thể cưỡng bức con người phải tuân theo quyền lực của giáo hội. Năm 1231 giáo hoàng Gregory IX thiết lập một tòa án riêng biệt, độc lập đối với những giám mục hay các cấp cao hơn. Những viên chức của tòa án, những quan án đạo, chỉ chịu trách nhiệm trước giáo hoàng. Luật xử dị giáo của giáo hội thay thế luật truyền thống thường dùng; “vô tội cho đến khi chứng thực là có tội” bằng luật “có tội cho đến khi chứng thực là vô tội.” Tuy rằng bề ngoài có vẻ như là một cuộc xử án, phương thức xử dị giáo khiến cho người bị nghi ngờ lạc đạo không có cách nào có thể chứng minh mình vô tội; phương thức xử án trên đưa đến kết quả cuộc là kết tội ngay cả những người chỉ mới là nghi ngờ lạc đạo. Người bị cáo buộc không có uyền được tham vấn. Không có chi tiết nào được đưa ra về thời gian và nơi chốn phạm những tội lạc đạo, hoặc những loại lạc đạo nào đã bị nghi ngờ là phạm phải.
Quan Án Đạo (The Inquisitor) chủ tọa phương thức xử dị giáo như cả hai: vừa là công tố viên vừa là quan tòa tuyên án… Một quan án đạo được tuyển chọn căn cứ trên sự nồng nhiệt truy tố lạc đạo của ông ta. Ông ta và những phụ tá, những liên lạc viên và mật thám, được quyền mang vũ khí. Và năm 1245, giáo hoàng cho phép các quan án đạo được tha tội cho những phụ tá của mình trước bất cứ những hành động bạo lực nào. Điều này khiến cho những tòa án xử dị giáo, vốn đã không chịu dưới quyền của nền pháp luật thế tục, cũng còn không chịu trách nhiệm ngay cả trước những tòa án của giới giáo sĩ..
Những quan án đạo trở nên rất giầu có. Họ nhận hối lộ và tiền hụi hàng năm mà những người giầu có phải trả để tránh bị tố cáo là lạc đạo. Tòa án xử dị giáo tịch thu tài sản của nhữngngười bị cho là lạc đạo. Vì các nạn nhân không có cách nào để chứng tỏ mình vô tội trước tòa nên các quan án đạo không cần chờ đến khi định tội rồi mới tịch thu tài sản của nạn nhân. Không như luật của La Mã để ra một phần tài sản cho người thừa kế của người có tội, giáo luật của tòa án xử dị giáo không để lại chút nào. Giáo hoàng Innocent III đã giải thích là chính Thiên Chúa đã trừng phạt con cái vì tội lỗi của cha mẹ. Cho nên, trừ khi con cái đứng ra ngay để tố cáo cha mẹ, chúng không được thừa hưởng chút nào. Những quan án đạo lên án ngay cả những người lạc đạo đã chết, đôi khi cả tới 70 năm sau khi chết. Chúng khai quật và hỏa thiêu xương cốt của người mà chúng cho là lạc đạo và rồi tịch thu mọi tài sản của những người thừa kế..
Những tòa án xử dị giáo thật tàn nhẫn đối với các nạn nhân của họ. Cùng một người vừa là công tố viên (người kết tội) vừa là quan tòa (người định tội) quyết định án tội. Năm 1244 Công đồng ở Narbonne ra lệnh rằng khi định tội những người lạc đạo, phải kết tội luôn người chồng hay người vợ của nạn nhân, hoặc cha mẹ của đứa con, và không có bản án nào được giảm vì đau ốm hay tuổi tác.
Tuy Giáo hội đã bắt đầu giết những người lạc đạo vào cuối thế kỷ 4 và sau đó ở Orléan vào năm 1022, lệnh của giáo hoàng năm 1231 quy định những người lạc đạo phải bị thiêu sống. Thiêu sống con người tránh được đổ máu [nhưng khi tra tấn nạn nhân thì tha hồ làm đổ máu] Câu trong Phúc Âm Giăng (John) được hiểu để trừng phạt nạn nhân bằng cách thiêu sống: “Nếu một người không tin vào Ta, nó sẽ bị dẹp đi như một cành cây, để khô héo; và các người sẽ thu thập nó, ném vào ngọn lửa, và chúng bị đốt cháy”(John 15: 16).
Cái sắc thái ác độc nhất của hệ thống xử dị giáo là những cách dùng để bắt buộc nạn nhân phải thú tội: phòng tra tấn. Tra tấn là hành động hợp pháp của Giáo hội từ năm 1252 khi được giáo hoàng Innocent IV cho phép và kéo dài cho tới năm 1917 khi văn kiện Codex Juris Canonici (giáo luật về cách xử xét) được thi hành. Innocent IV cho phép sự xét xử được kéo dài vô hạn để lấy lời thú tội, cho các quan án đạo tất cả thời gian họ muốn để tra tấn người bị kết tội. Năm 1262 những quan án đạo và phụ tá của họ được quyền tha tội cho nhau vì những tội ác làm đổ máu của họ. Họ chỉ cần giải thích là người bị tra tấn chết là vì đã bị quỷ bẻ gãy cổ.
Do đó, được phép của chính giáo hoàng, những quan án đạo tha hồ nghĩ ra những cách độc ác và kinh khủng nhất [để tra tấn kẻ lạc đạo]. Mặc những bộ áo chùng thâm và phủ vải đen trên đầu, các quan án đạo có thể lấy lời thú tội của bất cứ ai. Họ phát minh ra mọi hình cụ có thể tưởng tượng ra được để gây đau đớn cho nạn nhân bằng cách từ từ làm trận những khớp xương tr6n người hoặc làm tứ chi tước khỏi thân thể con người. Trên nhiều hình cụ này được khắc câu “Chỉ Cho Sự Vinh Quang Của Thiên Chúa”. Giá căng người, bánh xe kéo người lên xuống, tra tấn bằng nước là những hình cụ thông dụng nhất. Nạn nhân bị thoa mỡ lên người và từ từ nướng sống. Những lò sát sinh để giết người, biểu tượng ô nhục của Đức Quốc Xã trong thế kỷ 20, đã được những tòa án xử dị giáo xử dụng trước hết ở Đông Âu. Nạn nhân bị ném xuống hố sâu có đầy rắn độc và rồi bị chôn sống. Một cảnh tra tấn ghê rợn là lật úp một cái đĩa chứa đầy chuột trên bụng trần của nạn nhân. Lửa được đốt từ phía trên làm cho những con chuột hỏang sợ tìm cách chui rúc vào bụng nạn nhân.
Sự bạo hành nằm trong niềm tin về một đấng siêu đẳng duy nhất đã đi theo những nhà phiêu lưu và các nhà truyền giáo trên khắp thế giới. Khi Columbus tới Mỹ năm 1492, hắn ta tưởng lầm đó là Ấn Độ và gọi các thổ dân là “người Ấn” (Indians). Chính vì mục đích của hắn, chủ trương cải đạo các thổ dân vào “Đức Tin Thánh” của chúng ta (our Holy Faith) đã đưa đến sự nô lệ hóa và xuất cảng nhiều ngàn thổ dân Mỹ đi làm nô lệ. Cách đối xử có tính cách diệt chủng như vậy không phải là vấn đề vì các thổ dân Mỹ đã được cho cơ hội để sống cuộc sống đời đời trong Ki Tô Giáo.
Những tòa án xử dị giáo mau chóng theo gót nhửng nhà phiêu lưu và truyền giáo này. Vào khoảng 1570 những tòa hình án xử dị giáo đã thiết lập những tòa độc lập ở Peru và Mexico với mục đích “giải phóng quốc gia đã bị ô nhiễm bởi những người Do Thái và kẻ dị giáo”. Những thổ dân không chịu cải đạo vào Ki Tô Giáo đều bị thiêu sống giống như những kẻ lạc đạo. NHững Tòa Hình Án Xử Dị Giáo lan sang đến cả Goa, Ấn Độ, ở đ1o vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, ít nhất là 3800 bị giết.
Dù không có những tòa án xử dị giáo ở địa phương, cung cách truyền giáo minh họa rõ ràng niềm tin vào một Thiên Chúa siêu đẳng duy nhất. Nếu hình ảnh của một Thiên Chúa thờ phụng ở một quốc gia nào mà không phải là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, thì đó không phải là Thiên Chúa. Những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha ở Viễn Đông đã phá hủy chùa chiền, bắt buộc các học giả phải dấu đi nhưng kinh sách của tôn giáo họ, và dẹp bỏ những tục lệ cổ truyền.
Những nhà truyền giáo Ki Tô Giáo thường dự phần vào việc khai thác bóc lột đất đai ở ngoại quốc một cách vô lương tâm. Nhiều người trở thành nhà truyền giáo để trở thành giầu có nhanh chóng rồi trở về Âu Châu sống với những lợi nhuận từ những sự khai thác này. Ở Mễ Tây Cơ, những giáo sĩ dòng Đa Minh, dòng Augustine, dòng Tên được biết là sở hữu chủ của “những đàn cừu lớn nhất, những vườn mía tốt nhất, những địa ốc tốt nhất” [Ở Việt Nam, Nhà Chung cũng chiếm hữu nhiều đất đai và cơ sở kinh doanh nhất, theo Linh Mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn “Thập Giá và Lưỡi Gươm”]. Đặc biệt là ở Nam Mỹ, Giáo hội hỗ trợ việc nô lệ hóa các thổ dân và cướp đoạt đất đai của thổ dân. [Chúng ta hẳn câu nói thời danh của tổng giám mục Desmond Tutu, người đã đoạt giải Nobel về Hòa Bình năm 1984: “Chúng tôi có đất đai và họ tới với cuốn Thánh Kinh của họ. Chúng tôi tin họ, cầm cuốn Thánh Kinh trên tay, nhắm mắt cầu nguyện. Khi chúng tôi mở mắt ra thì chúng tôi có cuốn Thánh Kinh và họ có tất cả đất đai của chúng tôi.” (We have our lands and they came with their Bible. We believed in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands] Một sắc lệnh của giáo hoàng vào năm 1493 cho phép người Ki Tô được khai chiến với bất cứ dân tộc nào ở Nam Mỹ từ chối không theo Ki Tô Giáo…
Ki Tô Giáo cũng ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ. Anh Giáo, vào thế kỷ 18 khẳng định rõ là Ki Tô Giáo giải tho át con người khỏi sự đầy đọa vĩnh viễn chứ không phải khỏi những trói buộc của nô lệ.. Tuy nhiên, nô lệ nên cải đạo vào Ki Tô Giáo, vì họ sẽ trở thành ngoan ngoãn và vâng lời hơn.
Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo cũng như chế độ nô lệ đều dựa trên cùng một biện minh tôn giáo. Để giữ niềm tin chính thống của Ki Tô Giáo vào một Thiên Chúa duy nhất và đáng sợ như là đấng cai trị cao nhất của hệ thống giáo quyền, quyền năng nằm trong giới có quyền, chứ không nằm trong cá nhân. Vâng lời và tuân phục được đánh giá cao hơn là tự do và tự quyết. Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo đã thực hiện những kết quả đen tối của một niềm tin như vậy qua việc cầm tù và giết hại thể xác cũng như tinh thần của vô số người – và không chỉ trong một thời gian ngắn. Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo kéo dài qua nhiều thế kỷ và vẫn còn tồn tại ở vài nơi cho đến năm 1834. 36
Trên đây chỉ là một số tài liệu lịch sử, lẽ dĩ nhiên không phải là tất cả, về những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo thánh thiện, tông truyền. Theo một số trí thức Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam thì rất có thể những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo đó là cơ quan thực thi "công lý Ca-tô Rô-maGiáo ", "ý niệm về công bằng, bác ái, nhân quyền" của Ca-tô Rô-maGiáo (theo giáo sư Đỗ Mạnh Tri trong cuốn Ngón Tay và Mặt Trăng), hoặc đó là "ý niệm tiến bộ của văn minh toàn thế giới" và "sứ mạng cao cả của Giáo hội: mang sự thật đến cho nhân loại" của Ca-tô Rô-maGiáo (theo Lý Chánh Trung trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc). Tôi không hiểu tại sao những bậc trí thức Ca-tô Rô-maGiáo như Đỗ Mạnh Tri hay Lý Chánh Trung có thể trơ tráo đến độ có thể viết lên những điều hoàn toàn sai với những sự thực về lịch sử cũng như bản chất của giáo hội Công giáo như vậy. Viết như vậy không hiểu họ có biết ngượng hay không, ngượng vì chính cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Ca-tô Rô-maGiáo, hay ngượng vì chính sự ngu dốt của mình đã tin theo những lời lừa bịp của giáo hội. Thật là khó hiểu, Ca-tô Rô-maGiáo đã không từ một hành động tàn ác bất nhân nào để vinh danh Chúa và Mary Đồng Trinh và làm cả tượng “Đồng Trinh” để tra tấn và giết hại con người. Làm sao mà Giáo hội có thể gột sạch được những vết nhơ như thế. Hay là Giáo hội nghĩ rằng, nếu các tín đồ không biết đến những vết nhơ này thì sẽ không có vết nhơ nào trên khuôn mặt Giáo hội? Tôi không hiểu các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam, khi đọc những tài liệu về những hành động vô cùng ác độc của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đối với con người như trên, sẽ nghĩ sao về cái “giáo hội thánh thiện” của họ, và họ có còn dám ngửng mặt lên nhìn những người ngoại đạo và huênh hoang ca tụng Ca-tô Rô-maGiáo láo như Đỗ Mạnh Tri và Lý Chánh Trung như ở trên hay không?
Về sau những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo cũng được Tin Lành áp dụng ở khắp nơi mà Tin Lành nắm quyền, kể cả ở Mỹ, nhưng thường ở mức độ thấp hơn. Qua một số sự kiện lịch sử kể trên, tôi xin để cho quý độc giả tùy ý nhận định về ảnh hưởng và thực chất của một tôn giáo thường được rêu rao vào tai con người bằng những danh từ hoa mỹ như "cao quý, thiên khải, thánh thiện, cứu thế, bác ái, mang tới "tin mừng", tôn trọng nhân quyền, tự do, duy nhất chân thật v...v..." Tiếp nối tinh thần của những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo là những cuộc Săn Lùng Phù Thủy không kém phần dã man của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo thánh thiện, tông truyền. Đây là đề tài của “Núi Tội Ác Thứ Tư Của Ca-tô Rô-maGiáo”.
Sau đây là vài hình ảnh điển hình về các cảnh tra tấn và hình cụ tra tấn dị giáo của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo thánh thiện tông truyền trong thời Trung Cổ. Quý độc giả có thể vào Internet đánh chữ GALLERY INQUISITION trong mục SEARCH thì có thể thấy rất nhiều hình ảnh về một trong những trang sử đen tối nhất của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo.
Độc giả có phương tiện vào Internet có thể xem vài hình ảnh giáo hội Ca-tô Rô-ma tra tấn những người dị giáo và lạc đạo trong đoạn phim: http://youtube.com/watch?v=Rx8PdvOELvY
300 NĂM SĂN LÙNG PHÙ THỦY
4.1: NGUYÊN NHÂN.
Trong Phần Dẫn Nhập, chúng ta đã biết, Hồng Y John O’Connor, tổng giám mục giáo phận New York, đã nhận định như sau, sau khi Giáo Hoàng John Paul II xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội Công Giáo trước thế giới:
"Hầu hết các tín đồ Công Giáo không biết đến lịch sử mà Giáo hoàng nói đến, và nếu tín đồ Công Giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào." 37
Vì đã quen đi trong bóng tối, cho nên chúng ta thấy rõ các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo, nhất là những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam, không chịu được ánh sáng của những sự thật về tôn giáo của họ. Bởi vậy, ngay cả khi chính sự thật đến gõ cửa họ cũng đóng sập của vào mặt sự thật.
Sau đây là một trong những trang sử đen tối nhất của Ca-tô Rô-maGiáo và Tin Lành: chủ trương “Săn Lùng Phù Thủy”, kéo dài từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18 ở khắp Âu Châu, và lan sang cả Mỹ, với cao điểm cực kỳ dã man tàn bạo trong 300 năm, từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, như sẽ được trình bày qua một số tài liệu trong một phần sau. Chủ trương “Săn Lùng Phù Thủy” cũng được Tin Lành áp dụng ở Mỹ, Salem và Boston, Massachusetts, năm 1692: 19 người bị treo cổ vì bị kết tội là phù thủy, 150 người bị giam tù..
R. H. Robbins đã gọi mấy trăm năm săn lùng và giết hại phù thủy này là: “Cơn ác mộng làm mọi người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn minh Tây phương” (The shocking nightmare, the foulest crime and deepest shame of Western civilization) (mà Ki Tô Giáo thường coi là nền văn minh Ki Tô Giáo). Và Helen Ellerbe cũng viết: “Số lớn người bị bạo hành và giết bỏ, cũng như tác động của quan niệm thông thường về Thiên Chúa, làm cho những cuộc săn lùng phù thủy là một trong những chương sử đen tối nhất của nhân loại.” (The vast numbers of people brutalized and killed, as well as the impact upon the common perception of God, make the witch hunts one of the darkest chapters of human history).
Cuộc nghiên cứu này không ngoài mục đích là theo lời Hồng Y John O'Connor, giúp cho các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo và Tin Lành Việt Nam, biết một phần sự thật về những tội ác của Ki Tô Giáo, hi vọng họ có thể “được sự thật giải phóng”, nếu họ có đủ can đảm bỏ được cái tâm cảnh sợ sự thật...
Đã vài lần tôi đặt trước giới trí thức Ca-tô Rô-maGiáo, giới Linh Mục, câu hỏi:
Tại sao Giáo Hội Ca-tô, một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như vậy? trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm? Tại sao và tại sao ???
Cho tới nay, tôi chưa thấy một lời giải đáp nào về phía Ca-tô Rô-maGiáo, từ Giáo hoàng trở xuống cho tới các con chiên. Họ không muốn và không thể trả lời câu hỏi này. Và họ cũng không dám chấp nhận sự thật là: Giáo hội Ca-tô không do Chúa thành lập [trái với lời Chúa phán trong Tân Ước là ngày tận thế sẽ tới ngay khi một số tông đồ của ông còn sống, vậy lập ra giáo hội để làm gì?],
Giáo hội Ca-tô cũng không phải là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... [xét đến lịch sử ô nhục, đẫm máu của giáo hội, đã được trình bày sơ lược trong 3 phần trước]. Tất cả chỉ là những điều dối trá lừa bịp đám tín đồ thấp kém, vậy thì làm sao họ có thể trả lời câu hỏi trên? Cho nên họ phải giữ im lặng, hi vọng đó là giải pháp tốt đẹp nhất để giữ tín đồ trong ngục tù tăm tối của tâm linh. Tuy họ không trả lời nhưng tôi sẽ tiếp tục nhắc đi nhắc lại câu hỏi trên, và tôi hi vọng những người ngoại đạo, mỗi khi đối thoại với người Ca-tô, trước hết hãy mang câu hỏi này đặt với họ xem họ trả lời ra sao.
Có một câu trả lời có tính cách mạ lỵ đầu óc con người mà giáo hội thường dùng để “giải thích” cho đám tín đồ thấp kém những điều không thể giải thích được: “Đó là ý Chúa, mà ý Chúa thì con người không thể nào hiểu nổi”. Nhưng rồi, mặt khác, Giáo hội lại diễn giải Kinh Thánh, đặt ra những tín lý, đều nói là theo “ý Chúa” cả, tuy rằng theo định nghĩa về Chúa của họ, con người không ai có thể hiểu được “ý Chúa”. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, phát động các cuộc Thập Ác Chinh (crusades), kích động tín đồ đi giết người ngoại đạo cũng được giáo hoàng nói đó là “ý Chúa”. Và con người, vì một cái bánh vẽ trên trời, vẫn tiếp tục lao đầu vào vòng mê tín để cho Giáo hội khai thác, tự tạo quyền lực và vơ vét của cải thế gian. Tâm cảnh nô lệ Vatican của các giáo hội Ca-tô địa phương, trong đó có Việt Nam, và tài sản của Vatican đã lên tới cả ngàn tỷ đô la, trong khi giáo hội và các linh mục thuộc hạ của giáo hội ở Việt Nam vẫn quảng cáo Ca-tô Rô-maGiáo là tôn giáo của người nghèo, là những bằng chứng chứng minh rõ ràng hơn gì hết sự khai thác tâm linh tín đồ và vơ vét của cải thế gian của Vatican.
Nguyên nhân từ đâu mà Ki Tô Giáo, Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành, lại chủ trương săn lùng để tiêu diệt phù thủy, tuyệt đại đa số là phụ nữ. Chính là vì đầu óc quá hẹp hòi, mê tín, u mê cuồng tín của những người lãnh đạo giáo hội: tuyệt đối tin vào những điều không thể tin được trong Kinh Thánh, cộng với lòng tham lam vơ vét tích tụ của cải thế gian, và cộng với tâm cảnh giáo phụ: coi thường, nhục mạ phái nữ. Do đó, những bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo đã cùng nhau dẫn giắt đám tín đồ thấp kém đi vào ma đạo, vì chỉ có ma đạo mới có thể có một lịch sử với nhiều tội ác như vậy. Ai không đồng ý xin lên tiếng !
Charlie Nguyễn, một trí thức Công Giáo tỉnh ngộ, trong bài viết về Quan niệm về phụ nữ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô, có viết về đề tài Tội Ác Dã Man đối với Phụ Nữ của Công Giáo La Mã và Thệ Phản Giáo dưới chiêu bài Diệt Nạn Phù Thủy một cách hết sức tóm tắt như sau:
Tác phẩm “Búa Phù Thủy”, do bác sĩ Trần Quý Nhu dịch, Giao Điểm xuất bản Hè 2003. Nguyên tác bằng tiếng La-tinh “Malleus Maleficarum” của hai linh mục “quan án đạo” là Heinrich Kramer và Jacob Sprenger [2 linh mục dòng Đa Minh]. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1486 để làm tài liệu chính thức cho các quan tòa án đạo xử dụng.
Mấy trang đầu sách có in sắc lệnh 1482 của giáo hoàng Innocent VIII. Sắc lệnh của giáo hoàng là văn kiện luật pháp tối cao chỉ đạo công cuộc diệt phù thủy. Đây là chứng tích không thể chối cãi về một thời kỳ kinh hoàng cho phụ nữ kéo dài 300 năm (1450-1750). Bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng bị ghép vào tội phù thủy. Người phụ nữ có thể bị người hàng xóm thù ghét vu cáo cho tội đã dùng bùa phép làm chết con bò hay con ngựa của hắn ta. Thế là người phụ nữ đó có thể bị truy tố ra Tòa Án Đạo, kết tội là phù thủy, tra tấn cực hình đến khi phải thú nhận. Một phụ nữ bỗng nhiên bị nổi ở trên mặt một vài cái nốt ruồi hay mụn cơm có hình thù đặc biệt khiến cho kẻ mê tín tin đó là dấu hiệu của ma quỉ. Người phụ nữ đó có thể bị kết án về tội phù thủy.
Vào đầu thế kỷ 15, các tu sĩ dòng Đa Minh (Dominicans) được giáo hoàng cử làm các quan án xử tội phù thủy. Trong hai thế kỷ 15 và 16, riêng tại Đức có 100,000 người bị giết bằng cách thiêu sống trên dàn hỏa.
Năm 1572, tại Saxony, phe Thệ Phản giáo (Tin Lành) tỏ ra còn khắc khe với phù thủy hơn cả Công giáo La Mã. Cuối thế kỷ 16, phe Thệ Phản giáo thiêu sống 20,000 người riêng tại Saxony. Từ 1615-1635, hơn 5,000 người bị đưa lên dàn hỏa về tội phù thủy tại miền Strasburg.
Sắc lệnh 9-12-1482 của giáo hoàng Innocent VIII.
Sắc lệnh của giáo hoàng đưa ra nhiều “kiến thức lạ lùng” về phù thủy, thầy pháp, bói toán... Giáo hoàng cũng đưa ra nhiều “niềm tin mê tín” của riêng ông ta để dạy dỗ các quan án :
- Các phù thủy có thể thông đồng với “quỉ đực, quỉ cái” để gây ra bão táp phá hoại mùa màng, giết hại súc vật.
- Bọn phù thủy đã lạc ra ngoài đức tin Công giáo, sa vào tay quỉ dữ và có khả năng xử dụng tà thuật , phù phép, bùa ngải để làm các việc ác.
- Phù thủy có khả năng vận dụng sự di chuyển các ngôi sao để gây ra bệnh hoạn. Họ kết ước với ma quỉ để có thể biết trước tương lai bằng cách đoán mộng.
Đó là tiêu biểu những “kiến thức” của giáo hoàng về phù thủy. Giáo hoàng đã tán bậy theo sự suy tưởng ngu xuẩn của hắn.
Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
Phải chăng Charlie Nguyễn đã viết đoạn trên một cách vu vơ, vô căn cứ? Không hẳn vậy. Trong Kinh Thánh có những câu, Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version: “You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version: “You must not allow a witch to live.”]; Leviticus 19:26 “Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này trước mặt dân chúng”; Levi. 20:26-27 “Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải được đem ra giết hết”. Và Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành sau này đã theo đúng những luật man rợ này của Thiên Chúa trong Kinh Thánh để tiêu diệt những phù thủy, sản phẩm tưởng tượng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh mà Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành tin là có thật, hay vu là có thật, để theo đuổi những mục đích thế tục. Bác sĩ Trần Quý Nhu, tác giả bản dịch cuốn Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy) của hai linh mục dòng Đa Minh, Heinrich Kramer và James Spencer, cũng viết trong Chương Dẫn Nhập như sau, trang 6:
Giáo hội Công Giáo không những chỉ dồn lực lượng vào những cuộc chiến diệt các nhóm dị giáo, mà còn chú trọng đến việc tiễu trừ những cá nhân lẻ loi về tội tin vào thần khác thay vì tin vào Thiên Chúa và Giê-su. Giáo hội Công Giáo gọi những thần khác là quỉ sứ và nhiều cá nhân như thế bị kết tội là phù thủy.
Chủ trương diệt phù thủy đã được dạy trong Thánh Kinh. Giê-su phán rằng: “Đừng tưởng ta đến để phá luật pháp hay lời các nhà tiên tri [trong Cựu Ước]. Ta đến không để phá mà để thực hiện toàn vẹn. Ta đoan chắc rằng, chừng nào mà trời đất còn tồn tại, thì một dấu chấm, một nét phảy trong luật pháp cũng không được bỏ qua cho đến khi tất cả các luật đều được thi hành trọn vẹn.”
Một trong những luật man rợ này là Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version: “You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version: “You must not allow a witch to live.”]. Chúng ta thấy, từ “Chúa” Giê-su cho đến tín đồ các cấp về sau, đều tin nhảm tin nhí vào những luật mà ngày nay không ai không cho rằng man rợ thuộc thời bán khai, sản phẩm của những đầu óc chưa mở mang, đặt những sản phẩm này vào đầu một Thần theo sự tưởng tượng và mê tín của họ: Thiên Chúa. Cũng vì vậy mà Giám mục John Shelby Spong đã phải than: “Cuốn Thánh Kinh mang đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng đừng nói đến thờ phụng”. [It (the Bible) offers me a God I cannot respect, much less worship]
Một yếu tố khác góp phần trong cuộc săn lùng tiêu diệt phù thủy của Ca-tô Rô-maGiáo chúng ta có thể thấy qua một trong 7 núi tội lỗi của Giáo Hội Ca-tô Rô-maGiáo mà Giáo Hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới: “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”. Vậy có lẽ chúng ta cũng nên biết qua Ca-tô Rô-maGiáo đã kỳ thị, hạ thấp và nhục mạ phụ nữ như thế nào? Tôi không hiểu, một khi phái nữ trong giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo biết rõ sự kỳ thị, nhục mạ, coi thường phẩm giá phụ nữ, thì họ sẽ nghĩ như thế nào về cái giáo hội của họ. Phải chăng, đầu óc của họ đã bị nhồi sọ cho nên chỉ cần đến cái bánh vẽ “cứu rỗi” trên trời và không cần để ý đến chuyện giáo hội đã từng coi họ còn thấp hơn cả súc vật. Sau đây là một số quan điểm về phụ nữ của các bậc “thượng phụ” trong “hội thánh” Ca-tô và trong Kinh Thánh:
Thánh Clement ở Alexandria (150-215): “Mọi phụ nữ đều nên cảm thấy mình nhục nhã vì nghĩ đến điều mình đã sinh ra là đàn bà” (Every woman should be filled with shame by the thought that she is a woman.
Thánh Jerome (342-420): “Về phần tôi, tôi nói rằng những người con gái đã trưởng thành không được tắm, vì họ sẽ cảm thấy xấu hổ nhìn thấy mình trần truồng.” (But for my part I say that mature girls must not bathe at all, because they ought to blush to see themselves naked.”; “Đàn bà là cửa ngõ của quỷ, của đường ác, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một vật nguy hiểm.” (Woman is the gate of the Devil, the way of evil, the sting of the scorpion, in a word, a dangerous thing.)
Thánh John Chrysostom (347-407): "Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như một người đàn bà" (Among savage beasts none is found so harmful as a woman). Trách cứ những người đàn ông đi chơi gái điếm, Thánh John Chrysostom còn phán: “Các người không chỉ để một gái điếm như là một gái điếm, mà các người còn làm cho nó thành một sát nhân Đàn bà, được tạo nên để sinh sản, vì các ngươi mà trở thành công cụ của sát nhân.” [vì gái điếm dùng các phương pháp ngừa thai]…(You not only let a harlot be a harlot, you made her into a murderess….Woman, made for reproduction, becomes, because of you, a tool of murderer.)
Thánh Augustine (354-430): “Tôi không thấy người đàn bà đã được tạo ra để giúp cho đàn ông như thế nào, ngoài mục đích sinh sản. Nếu người đàn bà không giúp đàn ông để sinh con, thì họ có thể giúp được gì?“ (I don’t see what sort of help woman was created to provide man with, if one excludes the purpose of procreation. If woman is not given to man for help in bearing children, for what help could she be?
Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)
Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thiên Chúa đã phạm phải một sai lầm khi sáng tạo ra người đàn bà: không nên tạo ra cái gì thiếu sót hoặc hư hỏng [như đàn bà] khi sáng tạo ra những vật đầu tiên; do đó đàn bà không nên được tạo ra khi đó.” (God had made a mistake in creating woman: nothing (deficient) or defective should have been produced in the first establishment of things; so woman ought not to have been produced then.)
Odo of Cluny, 10th century: “Ôm người đàn bà là ôm một túi phân” (To embrace a woman is to embrace a sack of manure.. )
Thượng phụ Tertullian: “Đàn bà xứng đáng ở vị thế thấp kém và bị khinh khi. “Ngươi là cửa ngõ của quỷ”. (Women deserve their status as despised and inferior human beings. “You are the devil’s gateway”)
Boethius, một triết gia Công Giáo trong thế kỷ 6: “Đàn bà là một đền thờ xây trên những ống cống” (Women is a temple built upon sewer. )
Thánh Paul, 1 Corinthians 7:1 : “Thật tốt cho đàn ông là đừng có dính dáng gì tới một người đàn bà.” (It is a good thing for a man to have nothing to do with a woman.)
Thánh Paul, 1 Corinthians 11:3: “Nhưng tôi muốn các người hiểu rằng đấng Ki Tô là chủ nhân của mọi đàn ông, chủ nhân của mọi đàn bà là chồng họ, và chủ nhân của đấng Ki Tô là Thượng đế.” (But I want you to understand that the head of every man is Christ, the head of every woman is her husband, and the head of Christ is God.)
Leviticus 12: 1-5: “Một người đàn bà thì không được sạch sẽ 40 ngày sau khi sinh con trai, 80 ngày sau khi sanh con gái.” (A woman is unclean 40 days after the birth of a son, 80 days after the birth of a daughter.)
Thánh Paul, 1 Tim. 2:11-12: “Hãy để cho người đàn bà học sự phục tùng trong im lặng. Tôi không cho phép người đàn bà nào được giảng dạy hay được quyền hơn người đàn ông; họ phải giữ im lặng” (Let a woman learn in silence with all submissiveness. I permit no woman to teach or to have authority over men; she is to keep silent.) [Phải chăng vì vậy mà cho đến ngày nay Giáo hội vẫn không cho phụ nữ làm linh mục?? Và ngay trong thời buổi này, ngày 9/8/2006, Mục sư Timothy Labouf của First Baptist Church, Watertown, N.Y., đã giải nhiệm bà Mary Lambert, một thầy giáo dạy các lớp học ngày chủ nhật trong 54 năm, giải thích là theo đúng lời Thánh Paul dạy như trên trong Kinh Thánh. Ông mục sư này đần đến độ không hiểu rằng phụ nữ ngày nay giữ nhiều chức vụ cao cấp trong ngành giáo dục.]
Martin Luther (1483-1546): “Đàn ông thì vai rộng, hông hẹp, do đó họ thông minh. Đàn bà vai hẹp, hông lớn. Đàn bà phải ở trong nhà: cách sáng tạo ra cơ thể họ chứng tỏ vậy, vì họ có hông lớn, bàn tọa rộng để ngồi, làm việc nhà, sinh con và nuôi con” (Men have broad shoulder and narrow hips, and accordingly they possess intelligence. Women have narrow shoulders and broad hips. Women ought to stay home: the way they were created indicates this, for they have broad hips and a wide fundament to sit upon, keep house and bear and raise children.)
Xét đến vai trò của phụ nữ trong xã hội Việt Nam từ xưa, từ những Nữ Tướng như Hai Bà Trưng, Bà triệu, Bùi Thị Xuân v..v.. cho đến các bậc văn tài như Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương v..v.., và vai trò của phụ nữ trong những xã hội văn minh tiến bộ ngày nay trên thế giới, chúng ta thấy rằng quan niệm về phụ nữ trong đầu óc của những bậc Thánh trong Công Giáo, cũng như của những lãnh tụ Tin Lành như Martin Luther, John Calvin v..v…, đều thuộc loại bán khai, ngu si vô trí.
Cũng vì vậy mà sự tin nhảm tin nhí vào phù thuỷ có thực trên thế gian không chỉ ở trong Ca-tô Rô-maGiáo mà còn trong Tin Lành. Thật vậy, Martin Luther, ông tổ của Phản Thệ Giáo, alias Tin Lành [thực sự chỉ là Tin Dữ], tin chắc cuốn Kinh Thánh là quyền uy tối cao, không ngần ngại thiêu sống phù thủy. Ông ta cho phép thiêu sống 4 phù thủy ở Wittenberg,. Ông ta phát biểu: “Tôi không hề có lòng thương các phù thủy..Tôi có thể thiêu sống tất cả bọn họ.” (Martin Luther, upholding the Bible as the supreme authority, had no reservations about burning witches. He sanctioned 4 executions at Wittenburg. “I should have no compassion on the witches…I would burn them all.” và John Calvin (1545) đích thân chỉ huy một chiến dịch ở Geneva chống 31 người bị kết án là phù thủy. Calvin tuyên bố: “Kinh Thánh dạy chúng ta là có những phù thủy và họ phải bị giết.. luật này của Thiên Chúa là một luật phải được áp dụng khắp nơi” (John Calvin personally led a campaign in Geneva against 31 persons accused of witchcraft. Calvin declared: The Bible teaches us that there are witches and they must be slain… this law of God is a universal law.)
Chắc quý độc giả cho rằng niềm tin về sự có thực của phù thủy và phải thiêu sống họ chỉ có trong quá khứ chứ ngày nay không còn ai nghĩ như vậy nữa. Không hẳn vậy. Sau vụ 9-11 ở New York, trước ngày lễ Halloween, 31 tháng 10 hàng năm, Mục sư Tin Lành Deacon Fred, trong một bài giảng cho các tín đồ, cho rằng bổn phận của người Ki-tô là phải giết phù thủy ngay trong thời đại này:
Thiên Chúa rất rõ ràng ở đây, thưa quý vị, ông ta không muốn cho các phù thủy sống. Chúng ta phải giết các phù thủy! Nếu không, chúng ta đang bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Jesus sẽ vui mừng đến chảy nước mắt nếu ông ta từ trên đám mây cúi xuống và hít hà lên mùi thịt nướng của một phù thủy trong ngày lễ Halloween này. [Trong ngày lễ Halloween vào 31 tháng 10 mỗi năm, rất nhiều người ăn mặc giả làm phù thủy kéo ra chật đường phố] Có phải là như vậy đã phá tan ngày sinh nhật nhỏ của Satan không? Hãy ca tụng Thiên Chúa. [Vui mừng khi được hít hà mùi thịt nướng của một con người] Thật là xấu hổ vì chính quyền Mỹ đã ngăn cấm người dân không được thực hành lệnh trong Kinh Thánh là phải thiêu sống phù thủy. 38
Sự tai hại của niềm tin vào những điều viết nhảm nhí trong Kinh Thánh thật đã rõ rệt. Ở nơi nào mà Khi Tô Giáo, đặc biệt là đám Tin Lành cuồng tín, đám người tin tất cả vào uy quyền tối thượng của Kinh Thánh, nắm quyền thế tục thì lịch sử đẫm máu của Ki Tô Giáo sẽ lại tái diễn. Tất cả bắt nguồn từ niềm tin vào cuốn sách gọi là Kinh Thánh và nhân danh Thiên Chúa của họ. Do đó, mọi người Việt Nam phải gia tâm bác bỏ đạo Tin Lành, một đạo hoàn toàn không thích hợp với người Việt Nam vì những niềm tin thuộc thời man rợ bán khai của họ..
Sau đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về 300 năm săn lùng phù thủy của Ki Tô Giáo, Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành, để thấy rằng chính giáo hoàng của Ca-tô Rô-maGiáo, các linh mục Ca-tô, các Mục sư Tin Lành, và cả các trí thức Ki Tô Giáo, trong 300 năm tội ác ngập trời trên, thực sự mới là hiện thân của quỷ (human demons) chứ không phải là người. Họ săn lùng tiêu diệt phù thủy mà họ cho là ma quỷ theo sự tưởng tượng của họ chứ sự thực không làm gì có phù thủy hay ma quỉ, kết quả là họ hành động như những ác quỷ của thế gian. Thật vậy, chúng ta có thể đọc trên Internet đoạn sau đây trong bài The Witch Hunters of Europe, The Cruelest of Executioners [Những Đao Phủ Tàn Ác Nhất: Những Kẻ Săn Lùng Phù Thủy Ở Âu Châu]:
Cuộc săn lùng phù thủy một cách điên cuồng đã làm chấn động Âu Châu trong những thế kỷ 15, 16, 17 có thể đã không chứng minh được sự hiện hữu của những con quỷ siêu nhiên [phù thủy] nhưng đã sinh sản ra một đám kỳ cục những con quỷ người ~ những người săn lùng phù thủy ~ một tổ chức những người bệnh hoạn tự cho là mình đúng và hiến thân cho công cuộc săn lùng những đầy tớ gái của quỷ [phù thủy] 39
Điều đặc biệt nhất trong Ki Tô Giáo, Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành, là những con quỷ người này lại thường là các linh mục, mục sư, nhà thần học, luật sư, y sĩ v..v.. trong Ki Tô Giáo, những người tự cho là đã ở trong một “hội Thánh” thánh thiện, trong người tràn đầy Thánh Linh, nhưng thực ra chỉ là những con người thường như mọi người khác, cũng mê tín như Giáo hoàng của họ, và gồm cả các Mục sư Tin Lành nổi tiếng như Martin Luther và John Calvin.
4.2. Những Biện Pháp Săn Lùng Và Tiêu Diệt Phù Thủy:
Jakob Sprenger và Heinrich Kramer, tác giả cuốn Búa Phù Thủy (Malleus Maleficarum): “Chưa từng biết có một người vô tội nào bị trừng phạt vì nghi ngờ là phù thủy, và không còn nghi ngờ gì là Thượng đế sẽ không bao giờ cho phép việc đó xảy ra.” 40
Ronald Seth trong Witches and Their Craft:
“Công lý đã sai lầm và nhiều ngàn nam nữ chết vì những bằng chứng kết tội ngụy tạo của những kẻ đố kỵ hoặc trả thù ” 41
Mark Twain trong Europe and Elsewhere:
“Có những phù thủy trong nhiều thời đại. Thánh Kinh viết vậy. Thánh Kinh ra lệnh không được để cho các phù thủy sống sót. Do đó, Giáo hội thu thập những giây thòng lọng, những cái kẹp ngón tay, và củi lửa, rồi khởi sự công cuộc thánh thiện trong sự hăng say nhất.. [để tra tấn, treo cổ và thiêu sống các nạn nhân] Rồi người ta khám phá ra rằng chẳng có cái gì là phù thủy, và chưa từng bao giờ có phù thủy. Người ta không biết nên cười hay khóc” 42
Clifford Lindsey Alderman trong The Devil’s Shadow:
“Quy tội (phù thủy) cho hàng trăm nam nữ thật là vô nghĩa, và những phiên xử án chỉ là những trò hề công lý.” 43
Trong Phần trên: 4.1, viết về nguyên nhân của chủ trương săn lùng và giết hại phù thủy của giáo hội Công Giáo trong 300 năm ở Âu Châu, tôi đã đưa ra nhận định của một trí thức đạo gốc, Charlie Nguyễn, như sau:
Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
Sau đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về thời kỳ mấy trăm năm săn lùng và giết hại phù thủy này mà R. H. Robbins đã gọi là: “Cơn ác mộng làm mọi người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn minh Tây phương” (The shocking nightmare, the foulest crime and deepest shame of Western civilization), một thời kỳ “đã sinh sản ra một đám kỳ cục những con quỷ người ~ những người săn lùng phù thủy ~ đặc biệt là những con quỷ người này thường lại là các giám mục, linh mục, mục sư, nhà thần học, luật sư, y sĩ v..v.. trong Ki Tô Giáo, những người tự cho là đã ở trong một “hội Thánh” thánh thiện, trong người tràn đầy Thánh Linh. “
Đọc những tài liệu về “cơn ác mộng” trên, chúng ta không thể tưởng tượng được là tại sao một tôn giáo, theo định nghĩa là phải có mục đích hướng dẫn tâm linh con người theo sự thăng tiến của trí tuệ và đạo đức, nhưng ngược lại, lại nhốt con người vào những tù ngục tâm linh tăm tối, cùng lúc lại có những hành động vô cùng độc ác đối với nhân loại. Vậy thực chất Ki Tô Giáo có phải là một tôn giáo hay không, và những tín đồ Ki Tô Giáo nghĩ sao về cái “lịch sử tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất” của tôn giáo mà mình đang theo. Trên thế gian từ xưa tới nay không thiếu gì những sự bạo hành ở khắp nơi, trong những chế độ phong kiến và quân phiệt, và ngay trong thời đại này trong sách lược xuất cảng dân chủ của Mỹ. Nhưng tại sao những sự bạo hành vô tiền khoáng hậu đó lại nằm trong chính sách của một tôn giáo? Mà tôn giáo này lại do Chúa thành lập, một vị Chúa “quá thương yêu thế gian” theo như lời rao giảng của giáo hội cho đám tín đồ ở dưới, và một số không nhỏ các giáo hoàng thừa kế tự nhận là đại diện của Chúa trên trần (Vicars of Christ) nhưng lại phạm đủ mọi tội ác trên thế gian, những tội ác mà những người không hề biết đến Chúa không bao giờ có thể phạm. Ai có thể giải thích tại sao và cho tôi biết thực chất của Ki Tô Giáo là như thế nào, xin lên tiếng. Phải chăng các tín đồ Ki Tô Giáo đã bị mờ mắt trước những cái bánh vẽ “cứu rỗi”, “thiên đường” mà không nhìn thấy những sự việc sờ sờ ngay trước mắt trong tôn giáo của mình?
Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo cố che dấu lịch sử của giáo hội, nhưng Giê-su đã từng nói, Mark 4:22: “Không có gì được che dấu mà không bị phanh phui ra, cũng như không có gì được giữ bí mật mà không bị đưa ra ánh sáng.” [Mark 4:22: "For there is nothing hidden which will not be revealed, nor has anything been kept secret but that it should come to light."]
Vậy, sau đây chúng ta hãy đưa ra ánh sáng một số chi tiết về các cuộc săn lùng phù thủy của giáo hội Ca-tô thánh thiện tông truyền. Các tài liệu này đều là của các nghiên cứu gia trong giáo hội cũng như ngoài giáo hội ở Tây phương, không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản [Tôi xin nhấn mạnh điểm này], do đó những luận điệu chống đối lố bịch như nhân danh Phật Giáo để gây chia rẽ tôn giáo, hay theo sách lược chống Thiên Chúa Giáo của Cộng Sản v..v… đều chỉ là những luận điệu chụp mũ vu vơ của những kẻ hạ căn, thiển cận, không thuộc hàng ngũ trí thức. Và đây cũng chỉ là vài tài liệu điển hình trong số hàng trăm các tài liệu viết về một trang sử ô nhục nhất của Ki Tô Giáo.
1. Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999:
Một cuộc săn lùng phù thủy điên cuồng , kéo dài hơn 400 năm – từ thế kỷ 14 qua thế kỷ 17 – đã giết hại nhiều triệu người ở Âu Châu, tuyệt đại đa số là phụ nữ. Sự điên cuồng này khởi sự trong thời trung Cổ và kéo dài cho tới Thời Đại Lý Trí. Lâu sau đó, trong thế kỷ 20, nhà độc tài Đức Quốc Xã, Adolf Hitler, đã chỉ đạo một chiến dịch bạo hành có tổ chức – thường gọi là săn lùng phù thủy – những người Do Thái ở Đức và Âu Châu đưa đến cái chết của 6 triệu người đàn ông, đàn bà và con trẻ.
Cuốn Thánh Kinh chỉ đạo cuộc săn lùng phù thủy xuất hiện năm 1486.. Đó là một cuốn sách dày gọi là Búa Phù Thủy (Malleus Maleficarum). Đây là cuốn sách đầu tiên về ảo thuật và phù thủy, viết bởi hai linh mục dòng Đa Minh ở Đức: Heinrich Kramer và Jacob Sprenger.
Hai năm trước, Giáo Hoàng Innocent VIII đã cho phép hai ông linh mục này quét sạch phù thủy ờ Đức. Cuốn sách chỉ nam về bạo hành này đã là một dụng cụ ở trong tay mọi ông tòa xét xử phù thủy và mọi kẻ săn lùng phù thủy trong 3 thế kỷ. Cuốn Búa Phù Thủy đã được tái bản 14 lần. Nó trở thành một cuốn sách có ảnh hưởng nhất trong những cuốn sách đã được in ra trước đó. Cuốn sách mở đầu bằng sự phản bác quan niệm về sự không hiện hữu của phù thủy. Cuốn sách viết, đức tin chân thật dạy rằng có một số thiên thần sa ngã từ thiên đường xuống và nay trở thành quỷ và do bản chất quỷ của chúng, chúng có thể làm những việc phi thường mà chúng ta không làm được. Các tác giả trên viết rằng Satan và các quỷ có thể tự chúng làm những điều tác hại, hoặc cùng với, hoặc qua các phù thủy để tác hại. Cuốn sách mô tả những chuyện phù thủy có thể làm và những phương thức chống phù thủy.
Hai linh mục trên viết ra từ những kinh nghiệm của mình, vì chính họ đã đích thân xử 50 phù thủy trong đó 48 là phụ nữ. Cuốn Búa Phù Thủy trở thành quyền hành chỉ đạo cho những cuộc săn lùng phù thủy có tổ chức. Những cuộc săn lùng phù thủy được phát động và thi hành bởi giáo hội và chính quyền [trong thời mà thần quyền đứng trên chính quyền]. Cuốn Búa Phù Thủy dạy phải tra tấn nạn nhân như thế nào để cưỡng bách họ phải thú tội rồi kết án họ ra sao. Cách tra tấn thông thường là lột trần truồng người phụ nữ bị cho là phù thủy, cạo hết lông trên người, rồi dùng cái kẹp ngón tay, giá căng người, những hình cụ có đinh dài nhọn hoặc dùng để nghiền gẫy xương, và đánh đập hoặc bỏ đói.
Khi cơn lốc bạo hành đi vào thế kỷ 15, số nạn nhân thật nhiều vô kể. Nicholas Remy, một quan án đạo ở Lorraine, Pháp, chủ tọa các cuộc xử án phù thủy, viết rằng sau một thời gian tra tấn phù thủy, ông ta biết rằng “chúng xứng đáng chịu mọi sự tra tấn và rồi thiêu sống… và những cảnh khủng khiếp này có thể dùng làm gương và cảnh báo cho những người khác.”
Remy đã thiêu sống từ 2000 đến 3000 nạn nhân trong khoảng 21 năm, từ 1595 đến 1616.
Torquemada (1420-1498), Đại Phán Quan (Grand Inquisitor) Tây Ban Nha được biết là đích thân đã thiêu sống hơn mười ngàn (10000) người và kết án 97 ngàn người khác trong vòng chưa đầy 20 năm. [Theo Bernard Fall trong The Two Viet-Nams" , Frederik A. Praeger Publisher, New York 1967, trang 236, thì Ngô Đình Diệm cũng là một loại Phán Quan Tây Ban Nha (Spanish Inquisitor) : Tính hiếu chiến của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này: Đức tin của ông ta ít có tính chất từ ái của các tông đồ hơn là tính hiếu chiến tàn nhẫn của một Đại Phán Quan Tây Ban Nha của Tòa Án Dị Giáo (Torquemada) (Ngo Dinh Diem's militancy is of that kind: His faith is made less of the kindness of the apostles, than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor)]
Trong 12 năm, từ 1581 đến 1593, những sự bạo hành phù thủy hoành hành khắp thị trấn Trier đầy nhà thờ ở Đức. Giám mục thị trấn Trier, Peter Binsfield, tuyên án tử hình khoảng 6000 người.
Năm 1620 ở vùng Wurzburg, Đức, chúng ta có thể thấy những thí dụ ngoạn mục về một sự tận diệt toàn diện các phù thủy. Giám Mục Wurzburg thiêu sống 900 người vì tội làm phù thủy..
Tổng giám mục Trier thiêu sống 268 phù thủy trong 22 làng mạc trong khoảng từ 1587 đến 1593. Trong 2 làng trong số này, tới năm 1595 chỉ có một phụ nữ được sống sót.
Người Do Thái là một nhóm người khác bị bạo hành, nhất là khi những cuộc săn lùng phù thủy ở cao điểm. Trong Tân ước, John 8:44 gọi quỷ là cha đẻ của dân Do Thái. Trong Khải Huyền 2:9 và 3:9 có nói đến “giáo đường [nơi người Do Thái tụ họp cầu nguyện] của Satan”. Những vị lãnh đạo trong giáo hội Ki Tô Giáo lên án người Do Thái thờ phụng Satan và trao con cái cho các quỷ.
Ở Anh quốc, dưới triều đại Tin Lành của Henry VIII và Elizabeth 1, sự bạo hành thật nghiêm trọng. Và đó không phải là những nhà cầm quyền Tin Lành duy nhất đã kẹp gẫy xương phù thủy trên giá căng hay áp sắt nung đỏ vào người nạn nhân. Ở Netherland cũng vậy, tra tấn bằng roi, kẹp sắt, và thiêu sống cũng là điều hiển nhiên.
Martin Luther, 1483-1546, người sáng lập ra giáo phái Chống Đối [Tin Lành], đã tăng gia sự mê tín trong thời của ông ta. Những tác phẩm ông viết ra làm chứng cho những sự tấn công của quỷ đối với ông ta, và ông ta thường cho những hành động ác ôn là của phù thủy – trong số này ông ta gồm những người đối nghịch với ông. Ông ta nghĩ rằng quyền năng của phù thủy thật đáng kinh ngạc; đã có lần ông viết: “ Tôi không có sự thương hại nào đối với các phù thủy, tôi có thể thiêu sống tất cả chúng.”
Thôi thúc bởi cuốn Búa Phù Thủy, nước Đức [nước của Hitler và của giáo hoàng đương nhiệm: Benedict XVI] có một lịch sử đen tối nhất về sự bạo hành phù thủy, nhưng các nước khác – Pháp, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Tô Cách Lan – tất cả đều nâng cao tổng số sát nhân. Khi cuộc khủng bố đạt tới đỉnh cao [trí tuệ của Ki Tô Giáo] , những người nghi ngờ bắt buộc phải tỏ sự đồng tình tin là có phù thủy. Tỏ ý không tin là có phù thủy đặt con người vào nguy cơ là chính họ sẽ bị tố cáo là phù thủy. 44
2. James A. Haught, Holy Horrors: An Illustrated History of religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76:
Trong thế kỷ 15, Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo Thánh Thiện [The Holy Inquisition] chuyển mục tiêu sang các phù thủy, và ba thế kỷ tiếp theo đã chứng kiến sự cuồng loạn kỳ quái của ảo tưởng tôn giáo. Nhân viên của Giáo Hội đã tra tấn vô số ngàn người phụ nữ, và một số đàn ông, để bắt họ phải thú nhận là họ đã bay trên không để thi hành những nhiệm vụ của quỷ, làm tình với Satan, tự biến thành súc vật, tự làm cho mình trở nên vô hình, và làm những việc ác siêu nhiên. Hầu như mọi người bị kết án là phù thủy đều bị xử chết.
Mới đầu Giáo Hoàng Gregory IX cho phép giết các phù thủy trong thế kỷ 13, và những tòa xử phù thủy không nhiều, nhưng sự điên cuồng không bắt lửa cho đến thế kỷ 15. Năm 1484 Giáo hoàng Innocent VIII ban một sắc lệnh tuyên bố về sự hiện hữu tuyệt đối có thật của phù thủy – do đó nghi ngờ sự hiện hữu của phù thủy là lạc đạo [nghĩa là có thể bị các Tòa Hình Án xử dị giáo xử]. Truy tố phù thủy tăng lên vùn vụt. Quan án đạo Cumanus thiêu sống 41 phụ nữ trong năm tới và một đồng nghiệp ở Piedmont nước Ý hành quyết 100 người.
Sau đó không lâu, hai quan án đạo dòng Đa Minh, Jakob Sprenger và Heinrich Kramer, xuất bản cuốn sách ô nhục Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy) nêu ra một bản kinh cầu khủng khiếp về những hành động quỷ thuật của các phù thủy và những tiểu yêu , những thân nhân, ma quái, quỷ, quỷ đực, quỷ cái của chúng. Cuốn sách mô tả những phù thủy đã làm hại mùa màng, ăn thịt trẻ con, làm ra bệnh tật, và làm phù chú như thế nào. Cuốn sách chứa đầy những chuyện tình dục của phù thủy và coi phụ nữ như là xảo quyệt và đáng khinh. Jakob Sprenger và Heinrich Kramer viết: “Mọi phù thủy đều xuất thân từ sự khao khát xác thịt, điều mà phụ nữ không bao giờ thỏa mãn.” Khoa tâm lý học hiện đại nhận ra dễ dàng chứng bấn loạn thần kinh của các linh mục này về tình dục – nhưng trong nhiều thế kỷ cuốn sách của họ đã là cuốn chỉ nam chính thức cho các quan án đạo để đưa các phụ nữ đến những cái chết khủng khiếp.
Những cuộc săn lùng phù thủy nở rộ ở Pháp, Đức, Hung Gia Lợi, Tây Ban Nha, Ý, Thụy Sĩ, Thụy Điển và hầu như trên khắp mọi nơi ở Âu Châu – sau cùng lan tới Anh, Tô Cách Lan, và vùng thuộc địa Vịnh Massachusetts (Đông Bắc Mỹ). Hầu hết các nạn nhân là phụ nữ đã già mà những hành động khác thường đã gây nên sự nghi ngờ trong láng giềng. Một số khác còn trẻ, đẹp. Vài người là đàn ông. Nhiều người trong lục địa Âu Châu chỉ là những công dân bình thường nhưng tên của họ là do những nạn nhân bị tra tấn khai ra [vì không chịu nổi sự tra tấn] khi được lệnh phải khai ra đồng bọn.
Phương thức xử dị giáo tiêu chuẩn là cô lập và tra hỏi những người bị nghi ngờ là phù thủy – thêm vào một bước: những nạn nhân bị lột trần truồng, cạo hết lông trên người, và dùng mũi nhọn đâm dò trên người. Cuốn Malleus Maleficarum chỉ rõ rằng mọi phù thủy đều mang trên người một “dấu của quỷ” không có cảm giác, mà người ta có thể dò ra được bằng cách đâm để dò bằng một vật nhọn. Những quan án đạo cũng nhìn vào các đầu núm vú của “phù thủy”, những vết chàm có thể là những đầu vú bí mật để cho các quỷ bú.
Nếu tìm dò trên người không thấy thì sự tra tấn bắt đầu. Móng tay bị rút ra. Những miếng sắt nóng đỏ được áp vào ngực. Nhà nghiên cứu Nancy Van Vuuren viết: “Bộ phận sinh dục của phụ nữ đặc biệt hấp dẫn những người tra tấn phái nam”. Thân thể bị căng trên giá hay trên bánh xe. Erica Jong viết “Tay bị trật khớp xương và nạn nhân thường thú nhận có những thỏa thuận hoặc hội họp với quỷ.” Hầu như mọi nạn nhân bị tra tấn như vậy đều thú tội – và bị hành quyết dựa trên sự thú tội này.
Ở vùng Basque, Tây Ban Nha, hồ sơ ghi chép của giáo hội Công giáo ghi rõ là trong cuộc tra tấn, Maria ở Ituren đã thú nhận chính mình và các chị em phù thủy đã tự biến thành những con ngựa phi trên trời. Ở một quận trong nước Pháp, 600 phụ nữ thú nhận là đã làm tình với quỷ.
Tổng số phù thủy bị chết không thể biết được. Một vài hồ sơ lịch sử còn hiện hữu; một số đã mất mát. Các ghi chép viết 5000 phù thủy bị giết ờ tỉnh Alsace, 900 ở thị trấn Bamberg, 2000 ở Bavaria, 311 ở Vaud, 167 ở Grenoble, 157 ở Wurzburg, 133 trong một ngày ở Saxony. Trong vài làng mạc, phụ nữ bị tận diệt.
Sự điên cuồng tiếp tục cho đến thế kỷ 18. Ở Scotland, một bà già bị thiêu sống năm 1722 sau khi bị kết tội là đã biến đứa con gái mình thành con ngựa con rồi cưỡi nó đến dự cuộc họp của các phù thủy. Ở Đức, một nữ tu bị thiêu giữa chợ ở Wurzburg năm 1749 sau khi các nữ tu khác chứng nhận là nữ tu này trèo qua tường của tu viện dưới dạng một con heo. Cuộc hành quyết phù thủy cuối cùng là ở Thụy Sĩ, vào năm 1782. Tới thời kỳ này, nhiều khoa học gia và học giả đã nêu lên những nghi vấn về sự thực hữu của các phù thủy do đó chấm dứt sự điên cuồng [tiêu diệt phù thủy của giáo hội].
Một sự khôi hài sâu đậm về những cuộc săn lùng phù thủy là chúng được chỉ đạo, không phải bởi những người man rợ mê tín, nhưng bởi những giám mục có học thức, những ông Tòa, giáo sư, và các cấp lãnh dạo khác trong xã hội. Những thế kỷ ám ảnh bởi phù thủy cho thấy quyền năng khủng khiếp của những niềm tin vào siêu nhiên. 45
3. Helen Ellerbe, The Dark Side Of Christian History, Chapter 8, The Witch Hunts, pp. 114-138:
Giáo hội Công giáo đã tạo ra một quan niệm tinh vi về sự thờ phụng quỷ và rồi dùng sự bạo hành của giáo hội để đối phó và quét sạch những người bất đồng ý kiến, đưa con người vào vòng kiểm soát độc đoán của giáo hội và công khai hạ thấp phụ nữ.
Phải mất một thời gian lâu giáo hội mới làm cho xã hội tin rằng phụ nữ thường có khuynh hướng thờ phụng quỷ và làm những việc ác của phù thủy…Trong thế kỷ 13, giáo hội bắt đầu miêu tả phù thủy là nô lệ của quỷ..
Giáo hoàng John XXII chính thức hóa sự bạo hành phù thủy năm 1320 khi ông ta cho phép tòa án xử dị giáo truy tố phù thủy. Sau đó những sắc lệnh và tuyên ngôn của giáo hoàng càng ngày càng lên án mãnh liệt phù thủy. Năm 1484 giáo hoàng Innocent VIII ban sắc lệnh Summis Desiderates cho phép hai quan án đạo Kramer và Spencer hệ thống hóa sự bạo hành phù thủy. Hai năm sau, cuốn Búa Phù Thủy của họ được xuất bản, sau đó với 14 ấn bản trong khoảng 1487-1520 và ít nhất là 16 ấn bản trong khoảng 1574-1669. Một sắc lệnh của giáo hoàng năm 1488 kêu họ mọi quốc gia ở Âu Châu hãy cứu giáo hội bị “nguy hại bởi những nghệ thuật của Satan”. Giáo hoàng triều và cơ quan xử dị giáo đã thành công biến đổi phù thủy từ một hiện tượng mà trước đó giáo hội cực lực phủ nhận thành một hiện tượng có thực, rất đáng sợ, đối nghịch với Ki Tô Giáo, và tuyệt đối đáng bị bạo hành.
Vì những tác giả cuốn Malleus Maleficarum ghi rằng: “Niềm tin vào sự hiện hữu của các phù thủy là phần cần thiết của đức tin Công Giáo nên bướng bỉnh không chịu tin như vậy là lạc đạo”. Đoạn trong Thánh Kinh như “Ngươi không được để cho một phù thủy nào được sống sót” được viện dẫn để biện minh cho sự bạo hành phù thủy. Cả Calvin và Knox [hai nhà lãnh đạo Tin Lành] đều tin rằng phủ nhận sự hiện hữu của phù thủy nghĩa là là phủ nhận quyền năng của Thánh Kinh. Nhà sáng lập hệ phái Tin Lành Giám Lý trong thế kỷ 18, John Wesley, tuyên bố về những người nghi ngờ sự hiện hữu của phù thủy là: “loại bỏ sự hiện hữu của phù thủy là loại bỏ Thánh Kinh.” Và một luật sư người Anh nổi tiếng viết: “Phủ nhận sự khả hữu, không, sự hiện hữu thực sự của phù thủy, là lập tức dứt khoát tỏ sự mâu thuẫn với những lời mạc khải của thiên chúa trong nhiều đoạn trong Cựu Ước và Tân ước.”
Sự bạo hành phù thủy đã giúp kéo dài thời gian thu thập những lợi nhuận của những tòa án xử dị giáo của giáo hội. Những tòa án xử dị giáo đã khiến cho nhiều vùng suy sụp về kinh tế đến độ quan án đạo Eymeric phải than phiền: “Trong thời này, không còn những kẻ lạc đạo giầu có nữa.. thật là đáng tiếc là một định chế có ích lợi như của chúng ta lại không chắc về tương lai của nó.” Thêm những tội ác của những phù thủy vào những người mà giáo hội bạo hành ngoài những kẻ dị giáo, những tòa án xử dị giáo có cả một nhóm người mới để có thể thu vét tiền bạc từ nhóm này và giáo hội lợi dụng tối đa cơ hội này. Tác giả Barbara Walker ghi nhận:
“Những nạn nhân phải trả tiền cho ngay cả sợi giây thừng trói họ và mớ củi thiêu sống họ. Mỗi một phương cách tra tấn đều có một giá (mà nạn nhân phải trả). Sau khi hành quyết một nạn nhân giầu có, các viên chức của giáo hội thường mở tiệc ăn mừng dùng tiền từ tài sản của nạn nhân.”
Năm 1592, linh mục Cornelius Loos viết: “Những nạn nhân khốn khổ vì bị tra tấn tàn bạo bắt buộc phải thú nhận những điều họ chẳng bao giờ làm, và do đó những con người vô tội bị chết bởi cái lò sát sinh độc ác; và bằng thuật luyện kim mới, vàng bạc được lấy ra từ máu người.” 46
4. Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson, London, p. 119:
Cuốn Thánh Kinh chỉ đạo cho những kẻ sát nhân khủng khiếp này là cuốn “Búa Phù Thủy” ô nhục, một cuốn sách viết bởi hai linh mục cuồng tín dòng Đa Minh và xuất bản năm 1486. Đối với các tác giả của cuốn sách, không có mánh khóe gian dối nào là thủ đoạn, không có sự tra tấn nào là quá mức khi dùng để lấy lời thú tội. Cũng không có lý do nào được phép nghi ngờ hay nhân nhượng. Phương châm của cuốn sách là: “Không tin có phù thủy là là lạc đạo nghiêm trọng nhất.”
Một trong những “Búa” nổi tiếng nhất là triết gia – luật sư Pháp Jean Bodin (1529-96). Có lẽ ông ta là người đầu tiên thảo ra định nghĩa “hợp pháp” về một phù thủy ~ “người đã biết luật của thiên chúa nhưng lại có những hành động với sự đồng thuận của Quỷ”
Bodin hữu hiệu ghê gớm trong việc truy tố những người bị nghi ngờ là phù thủy. Đích thân hắn ta tra tấn những em nhỏ và những người tàn tật để moi ra những lời thú tội, và tuyên bố rằng, thiêu sống những người bị kết án là phù thủy thì làm cho chúng chết quá mau đi ~ không lâu hơn nửa tiếng đồng hồ. Năm 1580, vào cuối cuộc đời, Bodin viết cuốn Demonomanie [Hành Động Ác Ôn Của Quỷ]. Gay gắt và xảo quyệt hơn ngay cả đối với cuốn “Búa Phù Thủy” , cuốn đó được nhiều người đón nhận và được nhiều người đọc.
Quan án đạo ở Lorraine, Nicholas Remy, cùng thời với Bodin và, nếu không ngang hàng trí tuệ với Bodin, thì chắc chắn là ngang hàng với hắn về bạo hành. Trong 15 năm xử án phù thủy hắn đã chịu trách nhiệm về sự hành quyết khoảng 900 người.
Khi đứa con cả của hắn chết vào năm 1582, Remy nghi ngờ là do phù thủy làm, sau đó lên án và kết án một người hành khất mà hắn đã đuổi đi trước khi con hắn chết ít lâu. Remy giải thích: “Những phù thủy có cách xảo trá nhất để đánh thuốc độc, vì tay của chúng đã thoa đầy thuốc độc, chúng nắm lấy quần áo của một người và do đó gài vào để hại người đó.” Giống như Bodin, Remin về hưu với tư cách một người danh giá và viết một cuốn sách kể lại kinh nghiệm của mình. Hắn ta thú nhận, điều đáng tiếc nhất trong đời của hắn là hắn không giết được nhiều hơn những con cái của phù thủy.
Trong số những người đi săn phù thủy, người giết nhiều nhất là Giám mục dòng Tên Peter Binsfeld ở Suffragan, Trier, nước Đức, vào cuối thế kỷ 16. Hắn là người năng nổ truy tố phù thủy và nhấn mạnh là tra tấn nhẹ là chẳng phải là tra tấn. Người ta cho rằng Binsfeld chịu trách nhiệm về cái chết của 6500 đàn ông, đàn bà và trẻ con. Bản Luận Về Những Lời Thú Tội Của Những Ác Nhân và Phù Thủy được nhiều người cùng thời coi như là một tài liệu hợp pháp. Ít người dám cất lên tiếng nói để chống đối nghiệp vụ đẫm máu về săn lùng phù thủy. Khi học giả Hà Lan Cornelius Loos, khủng khiếp trước sự quá độ của Binsfeld trong việc cho phép giết người theo phán quyết của hắn, toan tính phản đối nhân danh nhân loại, thì ông ta bị lên án và phải công khai sửa sai trước quần chúng.
Sự kiện là hầu hết những người săn lùng phù thủy thành thực tin vào sự chính đáng của những công cuộc đeo đuổi giết người đó cũng không làm cho cái lôgíc tai ác của họ, thiên kiến cực đoan và phương pháp bất nhân của họ kém kinh khủng đối với chúng ta ngày nay.
Henri Boguet (1550-1619), một luật sư người Pháp được biết là đã tiêu diệt khoảng 600 “phù thủy”, đã giúp kết án một người sùng tín căn cứ trên cây thánh giá bà ta đeo trên chuỗi tràng hạt có một vết nhỏ trên đó ~ một dấu chỉ rõ ràng mà Boguet nói rằng cái đó chứng tỏ là bà ta là đồng bọn với quỷ.
Pierre de Lancre, viên chức săn lùng phù thủy trong vùng Basque của Vua Pháp Henry IV, cũng giỏi trong việc dò ra được sự hiện diện của phe phái Satan. Vì những lý do mù mờ có vẻ như liên hệ đến vấn đề tình dục, de Lancre tin rằng tất cả 30000 người dân (gồm cả các linh mục) trong địa phận Labourd đều là phù thủy.
Khi người dân nghe được tin này, hàng ngàn người đã bỏ nhà chạy khỏi, một số di dân xa đến tận Newfoudland để thoát khỏi cuộc truy tố không thể tránh được. Trong vòng 4 tháng, de Lancre thiêu sống khoảng 600 người còn lại trong địa phận, rồi hắn ta vinh quang trở lại Paris và được Vua Henry tạ ơn phong cho chức cố vấn quốc gia.
Người Anh săn lùng phù thủy nổi tiếng nhất là một luật sư thất bại, theo hệ phái Thanh Giáo Tin Lành, tên là Matthew Hopkins. Không như các đồng nghiệp săn lùng phù thủy, trong một thời gian ngắn vào thập niên 1640 hắn chỉ có thể giết vào khoảng 600 người. Ngoài ra, vì một sắc lệnh của Quốc hội, hắn ta bắt buộc phải bỏ phương pháp đầu tiên của hắn dùng để tìm ra phù thủy: ném những người bị nghi ngờ là phù thủy đã bó chặt lại xuống sông xem có nổi hay không, nếu chúng nổi thì đúng là phù thủy, vì quỷ đã đỡ chúng. [Lẽ dĩ nhiên không có ai nổi và sẽ bị chết chìm]… Một trong những phương pháp hắn dùng thành công nhất là tra tấn tâm lý: các nạn nhân bị bắt buộc phải đi không ngừng, không được ăn, ngủ cho đến khi kiệt sức hay trở thành mê sảng, và thú nhận là phù thủy. 47
Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu về vài chi tiết của những cuộc săn lùng phù thủy của Ki Tô Giáo. Hiển nhiên là tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo, Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành, không hề biết đến những trang sử đen tối của Ki Tô Giáo nói chung. Vì vậy, họ vẫn hãnh diện tự cho là mình được ở trong những “Hội Thánh Ki Tô”. Hi vọng ánh sáng của những sự thật lịch sử trong Ki Tô Giáo sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về chính tôn giáo của họ, và từ đó sẽ có một thái độ khác hơn, khiêm nhường hơn đối với những người phi Ki-Tô và các tôn giáo khác, những tôn giáo mà lịch sử truyền đạo chưa từng bị vấy một giọt máu.
Để kết luận, tôi xin trích dẫn nhận định của Aldous Huxley trong cuốn The Devis of Loudun, xuất bản năm 1952, một cuốn sử viết về quỷ ám, mê tín và cuồng tín tôn giáo trong thế kỷ 17 ở Pháp, dựa trên những biến cố trong tỉnh nhỏ Loudun. [It is a historical account of demonic possession, superstition and religious fanaticism in seventeenth-century France, based on events which took place in the small town of Loudun]:
Điều đáng sợ nhất, và lố bịch nhất, là đầu óc của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo có thể viện vấn đề “tâm linh” ra để biện minh cho những sự độc ác như vậy, cho bất cứ nguyên nhân nào.
Sự ngu xuẩn và mê tín của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo lên cao đến cực điểm vào thế kỷ 17, được khuyến khích, xúi giục bởi giáo hội, vì giáo hội dạy rằng có quỷ ở khắp nơi, và bất cứ hiện tượng nào khác lạ đều có thể là kết quả hành động của quỷ. Mưa đá, gió lớn, rận chấy, sữa trở thành chua, hay một con lừa khó bảo đều có thể quy trách cho người phụ nữ láng giềng. Tỏ ý nghi ngờ về sự hiện hữu của các phù thủy thì có giá trị như chính mình là quỷ, và bất cứ người nào tỏ ý chống đối đều bị nghi ngờ, canh chừng, và coi là phù thủy.
Sự ám ảnh của Ki Tô Giáo về Quỷ và phù thủy thực sự đã cổ vũ và tăng gia sự đàn áp của Ki Tô Giáo; và như là trước đây, ngày nay cũng vậy.
“Để biện minh cho những hành động của họ, họ đã biến những lý thuyết của họ thành những tín điều, những quy chế của họ thành những nguyên lý căn bản, những lãnh đạo chính trị của họ thành những Thiên chúa, và tất cả những người không đồng ý với họ đều là hiện thân của quỷ. Sự biến đổi để mà sùng bái cái tương đối thành cái tuyệt đối, nhân bản thành thần bản, đã làm cho họ có thể say đắm trong những tình cảm đam mê xấu xa đáng sợ nhất với một lương tâm yên ổn và trong niềm tin chắc là đang phục vụ cho Thượng đế. Và khi những niềm tin đó tự chúng trở thành ngu mê, thì một tập hợp những niềm tin mới sẽ được phát minh ra để cho những sự điên rồ khi xưa có thể tiếp tục mang những bộ mặt quen thuộc của tính hợp pháp, của lý tưởng, và của tôn giáo chân thật. 48
Độc giả có phương tiện vào Internet có thể xem vài hình ảnh giáo hội Ca-tô Rô-ma thiêu sống các phù thủy trong đoạn phim này: http://www.dailymotion.com/video/x3p... deotcg2_people
GÂY HẬN THÙ VÀ BÁCH HẠI NGƯỜI DO THÁI
Thật vậy, học giả nổi tiếng Raul Hillberg, chuyên gia nghiên cứu về Holocaust, đã viết trong cuốn “Sự Tiêu Diệt Những Người Do Thái Âu Châu” (The Destruction of the European Jews, Holmes & Meier, New York, 1985), pp 7f, như sau:
Từ thế kỷ thứ 4 đã có ba chính sách chống Do Thái: cưỡng bức cải đạo, trục xuất khỏi xứ, và hủy diệt. Chính sách thứ hai là chính sách thay thế cho chính sách thứ nhất khi chính sách này không thành công, và chính sách thứ ba cũng là để thay thế cho chính sách thứ hai… Những nhà truyền giáo Ki Tô Giáo đã chẳng từng nói: Các ngươi không có quyền sống giữa chúng tôi như là người Do Thái [nghĩa là phải cải đạo thành tín đồ Ki Tô và mất đi căn cước Do Thái]. Các nhà cai trị thế tục [thường là ở dưới thần quyền hay cai trị song song với thần quyền] tuyên bố: Các người không có quyền sống cùng với chúng tôi [nghĩa là phải bị trục xuất ra khỏi xứ, thí dụ, theo đề nghị của Marin Luther v..v..]. Sau cùng, Đức Quốc Xã ra nghị định: Các người không được quyền sống [do đó thực hiện “Giải pháp cuối cùng” (Final solution), nghĩa là tận diệt người Do Thái]
Quá trình này bắt đầu bằng toan tính lùa người Do Thái vào Ki Tô Giáo. Một sự phát triển chính sách được tiếp nối để cưỡng bách trục xuất những nạn nhân. Và cuối cùng là lùa người Do Thái vào chỗ chết. Như vậy, Đức quốc xã (Nazis) không dẹp bỏ quá khứ [chống Do Thái của Ki Tô Giáo] mà được xây dựng trên đó, không bắt đầu sự phát triển chính sách chống Do Thái mà là hoàn tất chính sách đã có. 49
John Cornwell, một học giả Ca-Tô, viết trong cuốn “Giáo Hoàng Của Hitler” (Hitler’s Pope):
“Vào khoảng giữa năm 1997, tôi ở trong tình trạng bị một cú “sốc” về đạo lý. Những tài liệu tôi thu thập được không thể dùng được để miễn trách nhiệm [cho Giáo hoàng Pius XII] mà là một bản cáo trạng còn gây tai tiếng hơn là bản cáo trạng của Hoshhuth [Rolf Hoshhuth là người đã chỉ trích Pius XII. Bằng chứng thật là mạnh mẽ. Lần đầu tiên nó chứng tỏ Pacelli [tên tục của Pius XII]], qua chính những lời của ông ấy, là một người chống Do Thái có môn bài. Nó chứng tỏ rằng ông ta đã giúp cho Hitler lên cầm quyền và cùng lúc phá ngầm khả năng kháng chiến của Ca Tô Giáo ở Đức. Nó chứng tỏ rằng ông ta ngụ ý phủ nhận và tầm thường hóa những lò sát sinh của Đức Quốc Xã dù rằng ông ta đã biết rõ nội vụ. Và tệ hơn cả, ông ta là một người đạo đức giả, vì sau khi đệ nhị thế chiến chấm dứt ông ta lại mang danh không xứng đáng là người đã công khai chống sự bạo hành của Nazi.” 50
Và Sam Harris, trong cuốn sách mới xuất bản, Thư Cho Một Quốc Gia Ki Tô (Letter To A Christian Nation, Alfred A. Knopf, New York, 2006), đã viết, trang 41-42:
Hãy xét đến những lò thiêu sống tập thể của Đức Quốc Xã: chủ nghĩa chống Do Thái dựng lên những trại tử thần của Nazi là thừa hưởng trực tiếp chính sách của Ki Tô Giáo thời Trung Cổ. Trong nhiều thế kỷ, những người Âu Châu Ki Tô đã coi những người Do Thái như là những giống người lạc đạo tệ mạt nhất và gán cho sự hiện diện của người Do Thái trong đám tín đồ Ki Tô là nguyên nhân của mọi điều xấu xa trong xã hội… Chính Vatican đã thường xuyên quy tội cho người Do Thái giết Chúa trong báo chí của Vatican cho tới năm 1914. Và cả hai giáo hội, Ca-Tô cũng như Tin Lành, đều có một thành tích ô nhục đồng lõa trong chính sách diệt chủng dân Do Thái. 51
Từ vài tài liệu trên trong vô số tài liệu về sự liên hệ giữa chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo và lò sát sinh của Đức Quốc Xã, ngày nay không ai còn có thể phủ nhận sự liên hệ ô nhục giữa một tôn giáo, Ki Tô Giáo, và một chính quyền thế tục, Đức Quốc Xã, đưa đến kết quả là 6 triệu người Do Thái đủ mọi lứa tuổi bị giết không thương tiếc. Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu thêm vào Núi Tội Ác Thứ Năm của Ca-Tô Rô-maGiáo: Bách hại người Do Thái.
Nghiên cứu lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng, những chính sách chống Do Thái là những sản phẩm đặc thù của Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, được chế tạo ra từ những đầu óc thuộc loại cuồng tín cùng cực hẹp hòi thuộc thời bán khai của một số Giáo hoàng như Innocent III; của một số “Thánh” Ca Tô như Paul (Phao Lồ), John (Giăng) trong Tân ước; của một số “Thánh thượng phụ” Công Giáo như Chrysostom, Bernard, Augustine; và của những nhà lập giáo Tin Lành như Martin Luther, John Calvin v..v.. Cuồng tín hẹp hòi vì chỉ dựa vào một vài câu viết bậy trong Tân ước mà vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa”, nếu Chúa toàn năng, toàn trí của họ có thể bị giết bởi người thường.
Trước khi trích dẫn những “lời nói kỳ thị, nguyền rủa” của các vị trên về người Do Thái, chúng ta hãy điểm qua một số ý kiến của các học giả về sự liên hệ giữa chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo và những lò “thiêu người tập thể” của Đức Quốc Xã.
Trước hết chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn “Một Mặt Đen Tối Của Lịch Sử: Chính Sách Chống Do Thái Qua Các Thời Đại” (A Dark Side of History: Antisemitism Through The Ages, Anti-Defamation League, 2000) của Jerome A. Chanes, đã viết như sau, trang 11:
Tác giả Ca Tô Rô-maGiáo (Roman Catholicism) có tên tuổi, Malcolm Hay, đã viết cho Jules Isaac cách đây 40 năm như sau: “Auschwitz (Nơi thiêu người tập thể kinh khủng nhất của Đức Quốc Xã) không thể nào thực hiện được nếu không có những lời nói láo độc địa mà các Giáo hội Ki Tô đã làm nhiễm độc các dân tộc Ki Tô trong ít nhất là 1600 năm” [Trg. 11]
Không quá 40 năm trước đây, nghiên cứu những chủ đề và những tài liệu về chống Do Thái của Ki Tô Giáo thường bị coi là điều cấm kỵ. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về Holocaust, do tinh thần thảo luận cởi mở trong các giáo hội Ki Tô, đã phanh phui ra vai trò cốt yếu của Giáo hội trong chính sách bạo hành những người Do Thái sống trong những xứ Ki Tô. [Trg. 29] 52
Thái độ của Luther chẳng bao lâu trở thành chống Do Thái một cách hiển nhiên. Năm 1542, Luther phát tán một tờ truyền đơn, “Về người Do Thái và nhưng lời nói láo của họ”, tiếp theo là một tiểu luận khác trong đó ông ta chỉ trích gắt gao bằng loại ngôn từ không kém độc địa như những lời đã đã từng đưa ra đối với người Do Thái từ trước hoặc sau đó. Luther, với lời lẽ vừa châm biếm vừa tục tĩu, nhắc lại mọi luận điệu lên án Do Thái từ trước, với những điều chúng ta đã quen thuộc: Người Do Thái là những kẻ bỏ thuốc độc [vào giếng nước]; nhũng kẻ cho vay nặng lãi; những ký sinh trùng trong xã hội Ki-Tô; song hành với Satan; những kẻ bị đầy đọa xuống hỏa ngục. Trong những bản văn của Luther, một hình ảnh cũ được đưa ra: Do Thái là những kẻ ”chống-Chúa.” Luther không để cho những độc giả của ông ta tự tưởng tượng ra những điều ông ta quan niệm về một chương trình đối xử với người Do Thái. Ông ta vạch rõ: cần phải đốt sập những giáo đường Do Thái, tịch thu sách vở Do Thái, cưỡng bách người Do Thái phải lao động chân tay cực nhọc, tốt hơn nữa, cần phải trục xuất người Do Thái ra khỏi những đất đai của họ. 53
Theo sử gia Lucy Dawidowics, “Người ta có thể dễ dàng kéo một đường chống Do Thái thẳng từ Martin Luther tới Adolf Hitler”. Cả Luther và Hitler đều bị ám ảnh bởi một vũ trụ quỷ sứ mà người Do Thái sống trong đó. Khi chúng ta duyệt lịch sử chống Do Thái trong thế kỷ 20 ở Tây Âu, chúng ta nhận ra rằng có một chuỗi xích quan niệm và triết lý nối sự Cải Cách của Ki Tô Giáo và sự nổi giậy của chủ nghĩa Hitler. 54
Tiến sĩ Michael L. Brown, Khoa Trưởng Trường Cao Cấp về Thần học tại Gaithersburg, Maryland, USA, trong cuốn "Bàn tay của chúng ta dính nhơ đầy máu" (Our Hands are Stained With Blood, Messiah Biblical Institute, MD, 1992, p. 7) viết với nhiều chi tiết về chương trình đối xử với người Do Thái của Martin Luther như sau:
"Thứ nhất, phải đốt sạch những giáo đường Do Thái... Thứ nhì, nhà cửa của họ cũng phải thiêu hủy...Thứ ba, họ không được giữ những cuốn kinh cầu nguyện và Thánh kinh Do Thái. Thứ tư, phải cấm những giáo sĩ của họ giảng đạo nếu không sẽ bị xử tội chết... Thứ năm, những quyền lợi về giấy thông hành và du hành của những người Do Thái phải tuyệt đối cấm. Thứ sáu, họ phải ngưng lấy lãi khi cho vay tiền...Thứ bảy, hãy cấp cho thanh thiếu niên nam nữ Do Thái những cái đập lúa, búa dìu, cuốc, thuổng để chúng kiếm ăn bằng mồ hôi trên mũi chúng.. Chúng ta phải trục xuất bọn nhãi ranh lười biếng trên ra khỏi hệ thống của chúng ta. Như vậy là đuổi chúng cút đi chỗ khác.
Nói tóm lại, các ông hoàng và nhà quý phái thân yêu mà có người Do Thái trong các xứ của mình, nếu lời khuyên này của tôi không hợp với các người, thì các người hãy tìm một cách tốt hơn để quý vị và tôi không còn phải mang cái gánh nặng không thể chịu đựng được nữa của những kẻ gian ác,người Do Thái 55
Trong một đoạn khác, tiến sĩ Brown viết, trang 7:
"Ki Tô Giáo không tạo ra sự hủy diệt tập thể dân Do Thái [của Đức Quốc Xã], nhưng Ki Tô Giáo đã làm cho sự hủy diệt trên thành hình. Không có sự chống Do Thái của Ki Tô giáo, người ta không thể quan niệm nổi một chính sách hủy diệt như vậy. Hitler và những đảng viên quốc xã đã tìm thấy trong pháp chế chống Do Thái của Công giáo trong thời Trung Cổ một mẫu mực hành dộng cho chính họ, và họ in lại những văn kiện chống Do Thái độc địa của Martin Luther. Chúng ta nên biết chính sách hủy diệt tập thể này chỉ được gây ra bởi một nước lớn ở Âu châu trong đó số tín đồ Công giáo và Tin Lành xấp xỉ bằng nhau. Cả hai tôn giáo trên đều chứa đầy sự thù hận người Do Thái.
Trong gần 2000 năm, thế giới Ki Tô đã tàn nhẫn làm mất nhân tính của người Do Thái khiến cho chính sách hủy diệt tập thể, kết quả chung cùng của sự làm mất nhân tính này, có thể thành tựu.
Trong những năm dài, đen tối của thời Trung Cổ, người Do Thái thường được phép chọn: rửa tội hoặc bị trục xuất, rửa tội hoặc bị tra tấn, rửa tội hoặc là chết" 56
Một tài liệu khác trên Internet cho chúng ta biết thêm chi tiết về con người của Martin Luther đối với người Do Thái:
“Đây là một phần những gì Luther viết vào năm 1543. Nên để ý là có vẻ như Adolf Hitler đã dùng chúng như là sự chỉ đạo tổng quát để áp dụng giai đoạn đầu tiên trong “giải pháp cuối cùng” đối với người Do Thái:
“Hãy để tôi cho các người những lời khuyên chân thật của tôi;
Thứ nhất, hãy đốt sạch mọi giáo đường hay trường học của chúng và chôn vùi chúng dưới lòng đất những gì không thể đốt được, để cho không ai có thể thấy được một viên đá hay một mảnh than cháy dở. Phải thực hành điều này để vinh danh Chúa của chúng ta và cho tập thể người Ki Tô.
Thứ nhì, hãy phá hủy triệt hạ nhà của chúng.
Thứ ba, phải cướp đi mọi kinh cầu nguyện, và kinh Talmud mà những điều viết trong đó có những lời nói láo, nguyền rủa, phỉ báng và thờ thần tượng.
Thứ tư, phải cấm không cho những thầy tu Do Thái giảng đạo nếu không sẽ bị hành quyết và chặt chân tay.
Thứ năm, phải cấm tuyệt không cho chúng du hành tự do trên các trục giao thông. Vì chúng không có nhiệm vụ gì ở các vùng quê, vì chúng không phải là những lãnh chúa, viên chức chính quyền, thương gia v..v.. Hãy bắt chúng ở yên trong nhà [Nhà nào ?? Sau khi đã phá hủy và triệt hạ nhà của người Do Thái trong “lời khuyên” thứ hai]
Thứ sáu, phải cấm chúng hành nghề cho vay lãi, và phải tịch thu mọi tiền bạc, vàng bạc quý giá của chúng, giữ riêng nơi an toàn [ai giữ riêng??]
Thứ bảy, hãy cấp cho thanh thiếu niên nam nữ Do Thái những cái đập lúa, búa dìu, cuốc, thuổng để chúng kiếm sống bằng mồ hôi trên lông mày chúng.” 57
Linh mục David R. Mason, Giáo sư về tôn giáo, đại học John Carroll ở Cleveland, Ohio, viết , trang 27: (Anti-Semitism, Mark McKain, Editor, Green Haven Press, MI 2005)
Không còn nghi ngờ gì là lò thiêu sống tập thể người Do Thái trong những thập niên 1930 vá 1940 ít nhất cũng là một phần kết quả trực tiếp của 2000 năm người Ki-Tô chống Do Thái. Hơn nữa, sự lương thiện trí thức đòi hỏi rằng căn nguyên của những lời phỉ báng chống Do Thái của Ki Tô Giáo thì nằm trong chính cuốn Tân Ước, đặc biệt là những Phúc Âm.. 58
Và học giả Eliezer Berkovits, viết trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era), về “sự phá sản đạo đức của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of Christian religion) như sau, trang 287:
“Sau 19 thế kỷ của Ki Tô Giáo, sự hủy diệt 6 triệu người Do Thái, trong đó có một triệu rưỡi là trẻ con, được thi hành với máu lạnh ngay trong lòng của Ki Tô giáo ở Âu Châu , được khuyến khích bởi sự im lặng tội lỗi của hầu như toàn thể thế giới Ki Tô Giáo, gồm cả một “Đức Thánh Cha” không thể sai lầm ở La Mã, đó chính là kết quả tất nhiên của sự phá sản. Có một đường thẳng kéo dài từ hành động áp bức đầu tiên đối với người Do Thái và đạo Do Thái vào thế kỷ 4 cho đến các lò “giết người tập thể” trong thế kỷ 20.” 59
Chính sách diệt chủng Do Thái của Ki Tô Giáo là một sự kiện bất khả phủ bác. Chính Giáo Hoàng John Paul II cũng đã thú nhận núi tội ác này của Ca Tô giáo. Đúng vậy, năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II đến thăm viếng Do Thái, bày tỏ lòng tôn kính đối với những nạn nhân Holocaust của Đức quốc Xã, và để lại giữa những tảng đá cổ của bức tường phía Tây Jerusalem lời cầu nguyện sau đây:
“Thiên Chúa của cha chúng tôi, Ngài đã chọn Abraham và những hậu duệ của ông ta để mang tên Ngài tới những quốc gia: chúng con vô cùng sầu thảm về những hành động của những người trong dòng lịch sử đã làm cho con cái của Ngài đau đớn, và xin Ngài tha thứ , chúng con ước mong sẽ dấn thân trong cuộc tạo tình anh em chân thật với dân tộc mà Ngài đã giao ước.” 60
Những người trong dòng lịch sử mà giáo hoàng nói đến là những người nào? Giáo hoàng không nói rõ nhưng ai cũng biết đó chính là những người Ki Tô Giáo, Ca-Tô Giáo cũng như Tin Lành. Chúng ta hẳn còn nhớ, ngày 12 tháng 3 năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II cùng một số Hồng Y và Tổng Giám Mục đã xưng thú 7 núi tội ác của Ca-Tô Rô-maGiáo đối với nhân loại tại Vatican, và một trong 7 núi tội ác này là vu khống cho người Do Thái cái tội giết Chúa và bách hại người Do Thái trong nhiều thế kỷ.
Lời cầu nguyện trên chứng tỏ là Ca-Tô Rô-maGiáo thờ cùng một Thiên Chúa với người Do Thái. Suốt 2 ngàn năm lịch sử, Ca-Tô Rô-maGiáo đã gây ra hết tội ác này đến tội ác khác đối với nhân loại. Bất cứ khi nào cần, hoặc khi không còn có thể che dấu tội ác của Giáo hội trước những tác phẩm nghiên cứu của các học giả ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, thì Giáo hội lại diễn xuất màn kịch ăn năn hối cải, và xin được Thiên Chúa tha thứ chứ không phải là xin được các nạn nhân của Giáo hội tha thứ, và lương tâm giáo hội lại yên ổn để tiếp tục làm tội ác, bất kể là thực ra có Thiên Chúa hay không và nếu có thì Thiên chúa có chịu tha tội cho giáo hội hay không. Nhưng ngày nay, đối với giới trí thức và hiểu biết, thì vấn đề xin Thiên Chúa tha thứ cho Giáo hội đã trở thành vô nghĩa mà thực chất chỉ là hành động che dấu tội ác (cover-ups). Bởi vậy, Lloyd Graham đã viết trong cuốn “Những Dối Trá Và Huyền Thoại Của Thánh Kinh” (Deceptions and Myths of the Bible), trang 425, như sau: “Con người! Hãy tha thứ cho Thiên chúa, vì hắn ta không biết là mình đã làm gì [dựa theo một câu của Giê-su trước khi chết trên cây thập giá]. Tất cả sự sống đã chứng tỏ sự kiện thê thảm này, do đó, vấn đề không phải là Thiên Chúa có tha thứ tội lỗi của con người không? mà là con người có thể tha thứ cho sự độc ác của Thiên chúa không? (Man! forgive God, for he knows not what he does. All life attests this tragic fact, and so the question is not, will God forgive man for his sins? but can man forgive God for his cruelty?) Và ngày nay, vấn đề đặt ra không phải là Thiên chúa có tha thứ cho Giáo hội hay không, mà là những nạn nhân của Giáo hội trong suốt 2000 năm nay có chịu tha thứ cho Thiên Chúa của Giáo hội hay không, vì tất cả những gì Giáo hội làm đều nhân danh Thiên Chúa và áp dụng những điều Thiên Chúa đã dạy trong Thánh Kinh, đặc biệt là coi người Do Thái như là tập đoàn kẻ thù đã “giết Chúa”.
Phân tích vấn đề, chúng ta thấy, Giê-su, cùng với bà mẹ Mary, 12 tông đồ, và 3 trong 4 tác giả của 4 phúc âm, đều là người Do Thái. Vậy tại sao Ki Tô Giáo lại reo rắc hận thù và bách hại người Do Thái trong gần 2000 năm nay. Vấn đề chính là dân Do Thái không tin Giê-su là Chúa Cứu Thế, chỉ coi Giê-su như là một nhà tiên tri Do Thái như mọi nhà tiên tri khác. Điều này trái với tín ngưỡng của Ca-Tô Rô-maGiáo, chủ trương đưa con người vào trong vòng mê tín, thờ phụng thần linh mà họ gọi là Chúa. Chúng ta đã biết, Ca-Tô Rô-maGiáo tự nhận là “Tông truyền” cho nên bất cứ niềm tin nào khác với Ca-Tô Rô-maGiáo đều phải diệt bỏ. Trong thời Trung Cổ, Giáo hội Công Giáo đã phát động những cuộc Thập Ác Chinh, không những để diệt những người Hồi Giáo, Do Thái Giáo, mà con tiêu diệt cả những tín đồ Ki Tô Giáo nào không phải là Ca-Tô Rô-maGiáo chính thống, thí dụ như dân Cathars ở Languedoc, Pháp, chẳng hạn..
Để khuyến khích và nuôi dưỡng sự thù hận của tín đồ Ki Tô đối với dân Do Thái, Giáo hội Ca Tô, bắt đầu từ Thánh Phaolồ (Paul), vu khống cho dân Do Thái cái tội “giết Chúa”. Nhưng Giáo hội cố tình quên rằng, Giê su là người Do Thái, bố mẹ Giê su là người Do Thái, tổ tiên Giê su là người Do Thái, 12 tông đồ đầu tiên của Giê su cũng là người Do Thái, và Giê su chịu ảnh hưởng rất nhiều của Do Thái Giáo, qua cuốn Cựu Ước. Tuy có thể người đóng đinh Giê-su lên thập giá là người Do Thái, nhưng người kết tội tử hình Giê su là Pilate, toàn quyền La Mã, vậy những người đóng đinh Chúa trên thập giá chỉ là những người thi hành một bản án, cũng như các đao phủ khi xưa chém đầu tội nhân bị kết án tử hình.
Ngoài ra, Giáo hội luôn luôn dạy rằng: "Chúa là con một của Thượng đế, giáng trần để làm nhiệm vụ chuộc tội cho nhân loại trước sự đầy ải thù hằn của Thượng đế, tình nguyện chết trên thập giá, dùng máu mình để "rửa sạch tội lỗi của con người"”, vậy những người đóng đinh Giê-su trên thập giá, dù họ thực sự là người Do Thái, thì đó chẳng qua họ chỉ làm theo sở nguyện của chính Chúa Giê su, đáng lẽ phải được tuyên dương công trạng vì đã giúp Chúa hoàn thành nhiệm vụ chuộc tội, chứ sao lại bị kết tội là giết Chúa.
Kết tội người Do Thái giết Chúa là thừa nhận Giê su không phải là Chúa con, quyền phép vô biên, và phủ nhận luôn việc ý nghĩa của việc Chúa giáng trần, ý nghĩa của việc tình nguyện chịu đóng đinh trên thập giá v...v... Nhưng theo những chuyện không thể tin được trong Tân ước thì Giê-su đâu có chết, vì chưa đầy 3 ngày sau ông ta đã sống giậy và 40 ngày sau đó bay lên trời. Vậy thì thực ra Giê-su chết hay không chết? Nếu không chết thì ai là người “giết Chúa”? Và cái màn bị đóng đinh trên cây thập giá chỉ là một màn bịp bợm về cái gọi là “chịu khổ nạn để chuộc tội cho thế gian”.
Những sự mâu thuẫn cùng cực trong sách lược chống Do Thái của Giáo hội Ca Tô như trên không hề làm bận tâm các tìn đồ, và họ thản nhiên hành hạ, tàn sát người Do Thái theo sách lược của Giáo hội, và tiếp tục thù ghét người Do Thái cho tới ngày nay, khi họ không còn quyền lực để cưỡng bức người Do Thái phải cải đạo, trục xuất lưu đầy, hoặc thiêu sống người Do Thái như họ đã làm trong quá khứ.
Đọc về những cung cách đối xử với dân Do Thái của Giáo hội Ca Tô Rô-ma nói riêng, của Ki Tô Giáo nói chung, tôi thấy thật là tội nghiệp cho dân Do Thái và tội nghiệp luôn cho đám tín đồ Ki Tô, đầu óc mù mịt, nhắm mắt theo sách lược chống Do Thái của Ki Tô Giáo, để cho những bàn tay của mình dính đầy máu của những người Do Thái vô tội mà không hề biết đến những mâu thuẫn cùng cực trong sách lược này.
Sau đây tôi sẽ đi vào một số chi tiết của những biện pháp mà một số Giáo hoàng, những vị đại diện của Chúa trên trần, và một số chức sắc cao cấp trong hàng Giáo phẩm Ca Tô và Tin Lành đã dùng để đối phó với dân Do Thái.
Chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-Tô Rô-maGiáo, suốt 2000 năm nay được Mục Sư Bringas (Ibid., trg. 27-35) tóm tắt trong 7 trang sách, sau đây là vài đoạn trích dẫn:
"Điều rõ ràng là nhiều sự bạo tàn đối với người Do Thái trong 2000 năm qua có thể tìm thấy trong những hạt giống nghi ngờ và bất tín gieo trong Tân Ước. Ngay từ thời đầu của Ki Tô Giáo, các tín đồ đã coi người Do Thái như là những đứa con ương ngạnh của Thượng đế và là kẻ thù của Giê-su. Những cảm nghĩ chống Do Thái này ta có thể thấy rõ ràng trong quyển "Công Vụ các Sứ Đồ" trong đó người Do Thái bị gọi bằng những danh từ "cứng cổ," "phản bội," và "dân giết người". Cái luận điệu này đã được nhấn mạnh trong bức thư tông đồ đầu tiên của Phao-lồ gửi cho dân Thessalonians trong đó ông đổ cho người Do Thái cái tội giết Chúa.
Phúc âm Matthew mô tả người Do Thái đã thốt ra một lời nguyền rủa trên chính dân tộc của họ: "Hãy đòi máu Chúa trên chúng tôi và con cái chúng tôi". Tuy rằng ngày nay hầu hết các học giả đều cho câu trên là do sự ngụy tạo của tác giả phúc âm Matthew, qua nhiều thế kỷ, câu trên đã được dùng làm cái cớ và biện minh cho sự giết chóc người Do Thái.
Có lẽ luận điệu chống Do Thái mạnh nhất là ở trong phúc âm của John. Thật khôi hài là trong phúc âm này, mà nhiều tín đồ Ki Tô gọi là "phúc âm của tình thương yêu", lại có những câu phỉ báng và nguyền rủa người Do Thái... Chỉ là vấn đề thời gian cho đến khi những lời trên và những lời khác làm giảm giá trị của Thánh kinh được làm nhiên liệu cho những ngọn lửa của đức tin mù quáng. Người Do Thái đã trở thành mục tiêu của nền thần học méo mó dựa trên sự ngu tối, thiên kiến, và uy quyền tràn ngập kết hợp với những điều viết trong Thánh kinh.
...Ngay từ buổi sơ khai, các tín đồ Ki Tô coi người Do Thái như là "những kẻ giết Chúa" và là kẻ thù của Ki Tô Giáo. Những thái độ độc địa này lan nhanh từ cộng đồng Ki Tô sang mọi khu vực của xã hội, và đưa đến sự bách hại người Do Thái, đặc biệt là sau khi Ki Tô Giáo trở thành tôn giáo của Rô-ma [Công giáo Rô-ma] dưới thời Constantine ở thế kỷ thứ tư.
Hàng giáo phẩm Ca Tô giáo khuyến khích các hoàng đế La Mã đối đãi khắc nghiệt với người Do Thái. Dân thường không được theo đạo Do Thái và đời sống của người Do Thái bị nhiều hạn chế. Những người Do Thái và Ca Tô giáo lấy nhau bị xử tội chết. Hoàng đế La Mã Theodosius II cấm người Do Thái không được giữ những chức vụ trong chính quyền hoặc xây những giáo đường. Hoàng đế Justinian còn đi xa hơn: kết án người Do Thái là dị giáo và ra lệnh tịch thu các giáo đường Do Thái để làm nhà thờ Ca Tô. Justinian cũng còn hợp pháp hóa những hành động của những giám mục và linh mục Ca-Tô cướp phá và thiêu hủy các giáo đường Do Thái.
Những đạo luật chống Do Thái ở Tây Ba Nha còn khắc nghiệt hơn. Năm 694, công đồng thứ bảy ở Toledo tuyên cáo mọi người Do Thái là nô lệ, và ra lệnh tịch thu tài sản của họ. Công đồng cũng ra sắc lệnh là khi các em nhỏ Do Thái lên bảy tuổi thì phải tách chúng ra khỏi gia đình để cho hàng giáo phẩm Ca Tô giáo dạy dỗ chúng và khi lớn lên chúng phải kết hôn với người Ca Tô.
Sử gia nổi tiếng Solomon Grayzel ước tính có 10000 Do Thái bị giết ở Trung Âu trong cuộc đệ nhất thánh chiến. Sự tàn sát tập thể kéo dài và ghê rợn, những nạn nhân người Hồi giáo và Do Thái giáo - nam, nữ và trẻ con - đã gia tăng khi Jerusalem thất thủ. Nhiều người Do Thái bị thiêu sống ngay trong giáo đường của họ.
Năm 1215, dưới triều đại của Giáo hoàng Innocent III, sắc lệnh được ban bố quy định mọi người Do Thái, nam trên 13 tuổi, nữ trên 11 tuổi, đều phải mang một mảnh băng màu vàng ở đằng trước và đàng sau áo của họ. Cái "huy hiệu" này được coi như một dấu hiệu của sự ô nhục, tượng trưng cho sự chia rẽ thù nghịch giữa người Ca Tô giáo và những kẻ được gọi là giết Chúa.
... Sự bách hại dân Do Thái này đã được tiếp tục suốt trong thời Trung Cổ. Ngày 4 tháng 6, 1391, phó chủ giáo ở Ecija xúi giục một cuộc nổi giậy ở Seville, Tây Ba Nha, với kết quả là có 4000 người Do Thái bị giết. Cùng mùa hè năm đó, từ thị trấn này qua thị trấn khác ở khắp châu Âu, người Do Thái bị thiêu sống trong nhà hoặc giáo đường của họ. Số người chết lên tới 50000.
Ngay từ lúc đầu, đạo Tin Lành cũng chống Do Thái như là đạo Ca Tô. Martin Luther, sáng lập viên và lãnh tụ của cuộc cải cách Tin Lành (1517) cũng mãnh liệt bách hại người Do Thái. Điều này đã đưa chúng ta tới một kỷ nguyên chống Do Thái kinh khủng nhất mà thế giới đã thấy. Sự tàn sát tập thể nhiều triệu người Do Thái bởi những lực lượng Đức quốc xã trong kỳ đệ nhị Thế Chiến là kết quả của nhiều yếu tố xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lý, và tôn giáo. Tuy nhiên, Ki Tô giáo phải gánh một phần trách nhiệm.
Adolf Hitler là một tín đồ Ca Tô. Hắn chưa bao giờ bỏ Giáo hội, và cũng chưa bao giờ bị tuyệt thông. Trong cuộc thảo luận với Giám mục Berning ở Osnabruk vào tháng 4 , 1933, Hitler ghi nhận: "Đối với dân Do Thái, tôi chỉ thi hành cùng một chính sách mà Giáo hội Ca Tô đã theo trong 1500 năm." Hitler cho rằng mình đã theo sự chỉ đạo của Giáo hội, đặt kế hoạch thực hiện những gì mà những tín đồ Ca Tô đã làm trong suốt dòng lịch sử, giết người Do Thái.
Không còn nghi ngờ gì nữa là sự chống Do Thái của Đức quốc xã là dẫn xuất từ, ít ra là một phần, chính sách chống Do Thái của Ki Tô giáo, nền tảng của chính sách này do Giáo hội Ca Tô đặt ra và những điều mà Luther chủ trương sau này. Cùng nhau, lòng tin mù quáng của Ki Tô Giáo và ý niệm quốc gia của Đức đã gây nên sự điên rồ giết hại 6 triệu người Do Thái." 61
Ki Tô Giáo đã làm mất nhân tính của người Do Thái như thế nào? Chúng ta hãy đọc lời mô tả giáo đường Do Thái sau đây của chính "Thánh" John Chrysostom trong thế kỷ 4, người được coi là một trong những “Thượng phụ” lập giáo vĩ đại nhất của Ca Tô Giáo (Saint John Chrysostom, 4th century, one of the greatest of the "Church Fathers", Brown, Ibid., p. 10):
" Giáo đường Do Thái còn tệ hơn là một ổ điếm...là sào huyệt của những tên vô lại và là nơi vãng lai của loài dã thú...là đền đài của quỷ dữ hiến thân cho sự sùng bái hình tượng...là nơi trú ẩn của quân cướp và kẻ trụy lạc. Đó là nơi hội họp của những kẻ phạm tội...nơi hội họp của những kẻ giết Chúa... một nơi tệ hơn là một tiệm rượu, là sào huyệt của những tên trộm cắp, là một nhà chứa, nơi trú ngụ của những kẻ phạm tội, nơi trú ẩn của quỷ." 62
Đó là ngôn từ của một vị “thánh” Ca Tô, một nhà lập giáo vĩ đại của Ca Tô giáo. Không biết có phải do truyền thống Ca Tô giáo hay không mà trước đây Giáo hoàng John Paul II đã dùng những ngôn từ thiếu văn hóa để phê bình những nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ, và Hồng Y Ratzinger, nay là giáo hoàng Benedict XVI, cũng dùng những ngôn từ khá hạ cấp và thiếu giáo dục để phê bình Phật Giáo như chúng ta đã biết.
Nhưng không phải chỉ có “thánh” John Chrysostom là có loại ngôn từ đặc biệt như trên. Chúng ta hãy đọc vài lời “thánh phán” khác của Ca-Tô Rô-maGiáo.
“Thánh” Bernard coi toàn thể dân tộc Do Thái là “súc vật ngu đần và còn tệ hơn cả súc vật nữa”, “một loại thông minh thô thiển, ngu đần” vì chúng không chịu theo Chúa. [Với kiến thức của nhân loại ngày nay về vũ trụ học, sinh học, xã hội học, tôn giáo học v..v.. thì lời mô tả này để dành cho những người theo Chúa thì có lẽ đúng hơn] 63
“Thánh” Augustine, nhà thần học vĩ đại nhất của Ca Tô Giáo, nói trong một bài giảng đạo:
Người Do Thái bắt giữ ông ta (Giê-su), nhục mạ ông ta, trói ông ta, đội mũ gai cho ông ta, phỉ nhổ làm nhục ông ta, quất roi lên người ông ta, treo ông ta trên cây, đâm ông ta bằng một cây giáo… Người Do Thái đã giết ông ta.”
Trong một bài giảng khác, Augustine gán cho người Do Thái tội “cố ý mù quáng không biết đến Thánh Kinh”, “thiếu hiểu biết” và “những kẻ ghét chân lý” 64
Những lời “thánh phán” như trên chứng tỏ những “thánh Ca-Tô” đó bản chất chỉ là những kẻ cuồng tín ngu đần của thời bán khai. Đó là những người mà Ca Tô Giáo ca tụng là “Thượng phụ lập giáo” của Ca Tô Giáo (Church fathers). Ngày nay chúng ta biết rằng, “vô thần”, “không tin vào Thiên Chúa”, “không tin vào Thánh Kinh”, “không chịu theo Chúa” chính là một biểu hiện của danh dự, của sự thông minh (a badge of honor, of intelligence). Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, song song với sự tiến bộ trí thức của nhân loại, hơn gì hết đã chứng tỏ điều này.
Về những lời “thánh phán” như trên và về vấn đề Ca Tô giáo bách hại dân Do Thái, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một người theo Ca Tô giáo khoảng 30 năm lúc thiếu thời, trong một bài viết vô cùng giá trị đối với các tín đồ Ca Tô giáo để họ hiểu rõ đạo của mình với nhan đề "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo" đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập I, trg. 41-42, đã viết một cách châm biếm như sau:
"Cái thắc mắc khác của tôi, là một giáo hội đầy ơn Chúa, đầy chân lý và tình thương như vậy, khi thực sự đã cai trị Âu châu, lại làm cho Âu châu run sợ vì tàn ác.
Linh mục Edward A. Synam, tác giả quyển The Popes and The Jews in the Middle Ages cũng đã phải thành khẩn công nhận rằng: khi Âu châu được đặt dưới quyền thống trị của các giáo hoàng thời Trung Cổ đã không biết chuyện bình đẳng và công bằng, luật pháp thì dã man từ ý hướng đến hình phạt, và đã chĩa mũi dùi vào dân chúng Do Thái tội nghiệp.
Tôi lại càng thêm phục Giáo hoàng Innocent III vì đã coi dân tộc Do Thái ngang hàng với "BÒ", với "SÚC VẬT", và ngài còn cho thế là lịch sự tử tế, vì theo Ngài, tiên tri Isaiah đã coi dân Do Thái thua bò, thua giống vật nữa.
Nếu Nostradamus, Marx, Einstein (các vị này đều là gốc Do Thái) mà đọc được những lời của Giáo hoàng Innocent III, chắc phải khiếp vía, vì không biết Ngài thông minh đến mức nào, mà dám coi người Do Thái như bò, như súc vật.
Khi đã coi rẻ Do Thái đến như vậy, đã coi đạo Do Thái tầm thường đến như vậy, thì tịch thu các sách Talmud - thánh thư của Do Thái giáo - chất lên nhiều xe, đem ra đốt giữa thành phố Paris năm 1242, theo lệnh của vua thánh Louis và được sự chúc phúc tán đồng của Giáo hoàng Gregory IX là một chuyện rất tầm thường đối với Công Giáo, vì những "thánh thư Do Thái" đồi bại như vậy, giữ nó làm cái gì.
Có một điều khó hiểu là những thế kỷ từ 11 đến 15 huy hoàng như vậy, đối với người Do Thái lại là 4 thế kỷ kinh hoàng. Chẳng những thế ngay người Âu châu cũng đã vô ơn, đã đầy thiên kiến khi đánh giá những thế kỷ Trung Cổ (476-1453) đầy ánh sáng Thiên Chúa và Phúc Âm ấy là "Thời đại Hắc Ám" (The Dark Ages). Nhưng khi phong trào khảo cứu lại nền văn minh Hi Lạp nảy sinh ra, họ đã dám gọi đó là "Thời kỳ Phục Sinh" (Renaissance, thế kỷ 14-16); và khi phong trào đề cao lý trí con người được khởi xướng, họ lại dám gọi đó là "thời Kỳ Phát Quang" (Enlightenment, thế kỷ 18). Thực là ngạo mạn, nhảm nhí vô cùng."
Các Giáo hoàng, Thánh Ca Tô coi người Do Thái tệ mạt như vậy, nhưng sự thực thì sao? Ai cũng biết Do Thái là một dân tộc thông minh, có nhiều cá nhân xuất sắc trong mọi lãnh vực, và nhất là có tài làm ra tiền. Nền tư bản của Mỹ ít ra là một phần nằm trong tay người Do Thái. Vì là một dân tộc thông minh nên người Do Thái không thể chấp nhận Giê-su, con của một anh thợ mộc, đầu óc và kiến thức không có gì đặc biệt, tư cách kém cỏi, theo như nhận định của triết gia Bertrand Russell, làm Chúa cứu thế của dân tộc họ. Đây là lý do chính làm Ca Tô thù ghét người Do Thái, vu cho người Do Thái cái tội giết Chúa để có cớ kích động sự thù hận trong đám giáo dân ngu tối, cuồng tín, hồ hởi bách hại người Do Thái để "vinh danh Thiên Chúa trên Trời".
Sau đệ nhị thế chiến với chính sách diệt chủng Do Thái của Đức Quốc Xã với sự im lặng đồng lõa của Ki Tô Giáo, chính Giáo Hoàng John XXIII đã đưa ra lời cầu nguyện sau đây cho giáo hội công giáo hoàn vũ:
“Dấu ấn của Cain đã đóng lên trán của chúng ta. Qua nhiều thế kỷ, người anh em Abel của chúng ta đã nằm trên vũng máu mà chúng ta rút ra, và tràn nước mắt mà chúng ta đã gây ra vì đã quên đi tình yêu thương của Người. Xin Chúa hãy tha thứ cho chúng tôi về lời nguyền rủa mà chúng tôi đã gán cho những người Do Thái. Hãy tha thứ cho chúng tôi vì đã đóng đinh Ngài trên thập giá lần thứ hai trong thân thịt của họ. Vì chúng tôi không biết là chúng tôi đã làm gì.” (Thánh Kinh viết, vì sự bất công của Thượng đế nên Cain ghen tị và giết em ruột của mình là Abel. TCN) 65
Nhiều người Ca Tô cho rằng “Đức Thánh Cha” của họ rất chân thành thú nhận tội ác của Ca Tô giáo trong vấn đề bách hại người Do Thái. Nhưng thực ra thì không phải là “Vì chúng tôi không biết là chúng tôi đã làm gì.” mà là “chúng tôi” đã biết rất rõ là “chúng tôi” đã làm gì. “Chúng tôi” đã theo sát lời dạy của Chúa Jésus Christ trong Tân Ước, Luke 19:27: “Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên chúng (nghĩa là những người không muốn trở thành tôi tớ hèn hạ của Chúa), và giết chúng ngay trước mặt ta.” Mặt khác, gây tội ác với người Do Thái thì phải thành tâm xưng tội và tạ tội với người Do Thái, chứ không thể xin Chúa tha tội. Chúa ở đâu mà tha tội. Mang một cái hình bóng tưởng tượng ra để chạy tội thế gian là một điều không ai có thể chấp nhận ngày nay. Mấy ông mục sư, linh mục đi hiếp dâm con nít vẫn phải vào tù ngồi để đền tội, bất kể là Chúa có tha tội cho họ hay không.
Sau đệ nhị Thế Chiến, cả hai giáo hội Ca Tô và Tin Lành, với mặc cảm tội lỗi, đã tỏ ra hòa hoãn hơn đối với dân Do Thái. Hai tôn giáo này cũng tỏ ra, ít nhất là ở ngoài mặt, bớt kỳ thị hơn đối với những tôn giáo phi Ki Tô. Chính sách bách hại người Do Thái của Ca Tô và Tin Lành, đưa đến sự tàn sát có tính cách diệt chủng 6 triệu người Do Thái trong những trại tập trung của Đức quốc xã, đã làm cho cả thế giới bất bình lên án. Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca Tô không còn chọn lựa nào khác, vì quyền lực thế tục đã mất không còn khả năng bách hại những người ngoại đạo bằng những hành động bất nhân tàn ác, là phải đưa ra chiêu bài hòa hợp tôn giáo trên đầu môi chót lưỡi qua Công Đồng Vatican II. Nhưng trên thực tế, Ca-Tô Rô-maGiáo vẫn cho rằng chỉ có một con đường duy nhất đưa đến sự “cứu rỗi” của Giê-su là đi qua ngả trung gian Vatican. Và cũng vì vậy, trong hơn 40 năm nay, chiêu bài hòa hợp tôn giáo của Vatican vẫn chỉ có trên mặt văn tự, vì không có hệ phái Ki Tô nào khác chịu hòa hợp với một định chế tôn giáo gian dối, chuyên nói ngược nói suôi. Những tôn giáo phi Ki Tô còn dè dặt hơn nữa, vì những kinh nghiệm lịch sử cho thấy rõ rằng, hòa hợp tôn giáo với Ca Tô Rô-maGiáo là đánh đu với tinh.
Sau đây tôi sẽ đưa ra vài điều để các tín đồ Ki Tô Giáo, Ca-tô Rô-maGiáo cũng như Tin Lành, suy nghĩ và thấy rằng không phải tôi viết bừa mà không có căn cứ.
Các bạn tin vào một Thiên Chúa toàn năng [nghĩa là làm gì cũng được], sáng tạo ra cả vũ trụ và muôn loài trong đó. Nhưng các bạn lại tin rằng Thiên Chúa phải cần đến những con người thế tục, đầy tội lỗi như các bạn để đi kiếm thêm linh hồn cho Thiên Chúa của các bạn. Chẳng vậy mà các bạn rình mò xem có người quen nào sắp chết, nhân lúc gia đình vắng mặt, đến ban tên thánh cho người sắp chết, hoặc dùng mọi thủ đoạn để kéo người ngọai đạo vào trong niềm tin của các bạn. Vậy thực ra các bạn đang vinh danh Thiên Chúa hay đang mạ lỵ Thiên Chúa của các bạn? Các bạn đã không tin ở thuộc tính toàn năng của Thiên Chúa, không tin ở khả năng sáng tạo của Thiên Chúa, không tin ở khả năng thực hiện tất cả những gì mà Thiên Chúa muốn. Các bạn tin rằng Thiên Chúa có nhiều nhu cầu, thí dụ như nhu cầu độc tài, không ai được thờ Thần khác, hoặc nhu cầu về sự yêu thương hết lòng hết sức của những con người do chính Thiên Chúa tạo ra, hoặc nhu cầu cần được người trần vinh danh v..v.. và Thiên Chúa lại phải nhờ đến các bạn để cung cấp những nhu cầu ấy cho Thiên Chúa? Vậy thực chất Thiên Chúa của các bạn là cái gì, có khác gì người thường không? Các bạn đã mang những tính xấu trần tục của con người để áp đặt lên Thượng đế của các bạn.
Các bạn tin lời giải thích của giáo hội hay của chính giáo hoàng John Paul II gần đây ở Lourdes, là mọi bất hạnh, tật nguyền xảy tới với các bạn là nằm trong “kế hoạch kỳ diệu” của Thiên Chúa (God’s wondrous plan). Các bạn không hiểu tại sao những bất hạnh đó lại đến với các bạn, và để tự an ủi các bạn đã tin vào lời giải thích như trên. Cũng như khi xưa, người dân Do Thái được các thầy tu hay tiên tri Do Thái giải thích là những đau khổ triền miên xảy ra cho dân Do Thái là do sự trừng phạt của Thiên Chúa vì dân Do Thái đầy tội lỗi, không theo đúng luật của Thiên Chúa. Một ngày nào đó, Thiên Chúa sẽ hồi tâm, mang nước thiên đường, nghĩa là một Jerusalem mới tràn đầy sữa và mật cho người Do Thái. Vậy thật ra các bạn đã tin vào một Thiên Chúa chuyên làm ác, gây ra bao đau khổ và bất hạnh cho nhân loại chỉ vì Thiên Chúa không vừa ý [ai biết ý Chúa ra sao?]. Điều này đối ngược hẳn với niềm tin của các bạn về một Thiên Chúa “quá thương yêu thế gian”. Có niềm tin nào có thể hạ thấp Thiên Chúa của các bạn xuống hàng ác ôn hơn không?
Trong nhiều thế kỷ, các giáo hội Ki-tô đã gây ra bao thảm họa cho nhân loại qua những cuộc Thánh chiến, những cuộc săn lùng phù thủy, thiêu sống con người, những tòa án xử dị giáo với những cuộc tra tấn khủng khiếp con người, những cuộc cưỡng ép cải đạo khắp năm châu v..v.. mà tất cả đều được biện minh là làm theo ý Chúa (God’s will it = Motto trong cuộc thánh chiến đầu tiên). Như vậy là các bạn đã tin và chấp nhận một Thiên Chúa toàn năng chủ trương giết chóc, tra tấn, thiêu sống và cưỡng bách cải đạo v..v... Một Thiên Chúa như vậy thì có giá trị gì cho nhân loại, hay thực chất chỉ là một tên ác ôn khát máu?
Đã một thời, và ngày nay vẫn còn nhiều người tin, là những thiên tai như động đất, bão lụt, bệnh dịch truyền nhiễm v..v.. đều là những biện pháp của Thiên Chúa để trừng phạt những người không tin theo Ngài. Và tất cả cũng đều là do ý Chúa. Nhưng thiên tai, bệnh tật có chừa ai đâu, đâu chỉ chọn người ngoại đạo để mà trừng phạt. Các bạn đã tin vào một Thiên Chúa, tác giả của những tai họa của nhân loại. Một Thiên Chúa như vậy có đáng để con người kính trọng không, khoan nói đến thờ phụng?
Các bạn tin vào một ông Thiên Chúa đòi hỏi các bạn phải yêu ông ta hết sức hết lòng nếu không thì..., phải tin ông ta và tuân theo những luật lệ của ông ta dù những luật lệ đó đã trở thành lỗi thời, phản ánh một trình độ man rợ của thời chưa khai hóa, nếu không thì...., phải nhân ơn tha thứ của ông ta nếu không thì..., phải tin rằng ông ta có khả năng “cứu rỗi” nếu không thì.... Chỉ có một Thiên Chúa dùng sự đe dọa và sợ hãi để bắt con người phải tin vào mình mới có những đòi hỏi như vậy. Một Thiên Chúa nhân từ, đầy lòng thương yêu không bao giờ có thể đòi hỏi như vậy. Thật ra các bạn không hiểu các bạn là ai, không hiểu Thiên Chúa là cái gì, không hiểu sự vận hành của thiên nhiên, của vũ trụ, của thế giới mà chúng ta đang sống trên đó. Do đó các bạn không hiểu tình yêu là căn bản của mọi sự sống, cũng như không hiểu tình yêu của một Thiên Chúa, theo đúng nghĩa của nó, phải là một tình yêu không có điều kiện, không có sự phân biệt.
Vấn nạn lớn thứ hai của các tín đồ Ki-tô, nhất là Tin Lành, là tin vào cuốn Kinh Thánh, hay nói đúng hơn, tin vào vài điều vụn vặt trong Kinh Thánh, hoàn toàn không biết đến toàn bộ Kinh Thánh viết những gì.. Lẽ dĩ nhiên, họ chưa bao biết ai là những người viết Kinh Thánh, chưa bao giờ đọc những tác phẩm nghiên cứu về Kinh Thánh, phân tích Kinh Thánh từng câu từng chữ, và tuyệt đối không bao giờ để ý đến tính cách nhất quán, một tính cách không thể không có trong một cuốn sách có thể gọi là có phần nào giá trị. Tính cách nhất quán này không hề có trong Kinh Thánh. Do đó, bất kể là họ tin như thế nào, cuốn Kinh Thánh cũng chỉ là một sản phẩm hạ đẳng của thời bán khai vì chứa rất nhiều điều độc ác, vô đạo đức, phi luân lý, phản khoa học, phi lôgic, hoang đường v..v..
2. Chicago Tribune, June 5, 1995: In a 1994 confidential letter to cardinals which was later leaked to the Italian Press, Pope John Paul II asked: "How can one remain silent about the many forms of violence perpetrated in the name of faith - wars of religion, tribunals of the Inquisition and other forms of violations of the rights of persons?"
3. Ibid.,: Pope John Paul II had urged the Roman Catholic Church to seize the "particularly propitious" occasion of the new millennium to recognize "the dark side of its history".
4. Over a period of almost two millennia, the Christian Church has oppressed and brutalized millions of individuals in an attempt to control and contain spirituality. The Dark Side of Christian History reveals in painstaking detail the tragedies, sorrows and injustices inflicted upon humanity by the Church. This exposé is a compelling and passionate cry for human dignity and spiritual freedom.
5. The Christian Church claims to inherit its spiritual authority directly from Jesus through the teaching of the gospels. But was there really a smooth transfer of power from Jesus to Peter and thence to the Church? Or has a long-term campaign of propaganda, forgery and deception concealed the true nature of events? This thought-provoking new book on the origins of Christianity charts the Church's relentless pursuit of power, from its beginnings to the present day. In a compelling and often disturbing analysis of Christian belief, it examines how Jesus the Nazarene was inflated into a figure of cosmic proportions far-removed from everyday reality...
6. The [Catholic] Church had devastating impact upon society. As the Church assumed leadership, activity in the fields of medicine, technology, science, education, history, art and commerce all but collapsed. Europe entered the Dark Ages. Although the Church amassed immense wealth during these centuries, most of what defines civilization disappeared.
7. Joseph L. Daleiden, Ibid., p. 52: The Christian sect known as the Gnostics chided those who "call themselves bishops and also deacons, as if they had received their authority from God..." and called those who made such audacious claims "waterless canals."
8. The companion of the Savior is Mary Magdalene. But Christ loved her more than all the disciples and used to kiss her often on her mouth. The rest of the disciples were offended...
9. The destruction of all evidence of Christianity's gnostic and pagan source was "the first work." It was the evangelists themselves who started it, in Antioch, as stated in Acts... By order of the Church the books of the Gnostic Basilides were burned, likewise Porphyry's thirty-six volumes. Pope Gregory VII burned the Apollo library filled with ancient lore. Emperor Theodosius had 27,000 schools of the Mysteries paprus rolls burned because they, contained the doctrinal basis of the Gospels.
Nor did the destruction end with the Founders; the fanatics they made carried on the work: the Crusaders burned all the books they could find, including original Hebrew scrolls. ln 1233 the works of Maimonides were burned along with twelve thousand volumes of the Talmud. In 1244 eighteen thousand books of various kind were destroyed. According to Draper, Cardinal Ximenes "delivered to the flames in the square of Granada eighty thousand Arabic manuscripts." On finding similar lore in the New World, the Spanish Christians destroyed it and the temples that contained it.
All evidence of source destroyed, the Christian Fathers coulld now substitute their own absurdities. And to substantiate them they altered words and inserted verses that did not exist in the original texts... On this same subject Massey wrote thus: "..They had almost reduced the first four centuries to silence on all matters of the most vital importance for any proper understanding of the true origins of the Christian superstition. The mythos having been at last published as a human history, everything else was suppressed or forced to support the fraud."
According to their teaching "the blood of Christ washed away the sins of the world," still with us. What it actually washed away was the sanity of the world. In due time its doctrines so bedeviled the Western mind that Agobard of Lyons wrote thus "The wretched world lies now under the tyranny of foolishness; things are believed by Christians of such absurdity as no on ever could aforetime induce the heathen to believe." Should the skeptical reader wish a sample, we offer another tale of Christian martyrdom, this time about the precursor of the curse, lohn of the Gospels. According to the saints, John, when very old, incurred the anger of the Emperor Domitian. To punish him, the latter had this holy man thrown into a caldron of oil and resin. A fire was lit, and when the liquid began to boil the jeering crowd heard a voice singing in the flames - the Christian Shadrach, etc. When the caldron boiled dry, there was John still alive and quite unharmed. Jerome, Eusebius, Tertullian all relate this miracle and practically all hagiographies contain it. And now if these eminent Christians could believe this absurdity, they could believe anything even the Gospels.
10. As the Church grew more powerful, Christians closed academies and burned books as well as whole libraries. The Church burned enormous amounts of literature. In 391 Christians burned down one of the world’s greatest libraries in Alexandria, daid to have housed 700000 rolls. All the books of the Gnostic Basilides, Porphyry’s 36 volumes, papyrus rolls of 27 schools of the Mysteries, and 270000 ancient documents gathered by Ptolemy Philadelphus were burned. Ancient academies of learning were closed. Education for anyone outside the Church came to an end.
The Church opposed the study of grammar and Latin. Pope Gregory I objected to grammatical study. He also condemned education for all but the clergy as folly and wickedness. He forbade laymen to read even the Bible. He had the library of the Palatine Apollo burned “lest its secular literature distract the faithful from the contemplation of heaven.
After Christians had spent years destroying books and libraries, St. John Chrysostom, the preeminent Greek Father of the Church, proudly declared, “Every trace of the old philosophy and literature of the ancient world had vanished from the face of the earth.
11. No mere recitation of statistics can convey the immeasurable evil that the Roman Catholic Church dispensed in God's name. From the time that the papacy cemented its power with the state in the fifth century until the Renaissance, the cloak of ignorance and superstition was draped over Europe. The light of freedom was extinguished. It is no longer fashionable to call them the Dark Ages, but indeed they were. The ancient Romans had libraries of 500,000 volumes, there was not a library of over 600 volumes in Christian Europe the period 500 to 1000. Scientific advance, especially in medicine, came to a screeching halt. Human culture regressed to a more brutal level.
Ironically, it was the initiation of the Crusades against the Muslims that shed a ray of intellectual light through the gloom of ignorance and primitive superstitions. Unlike the Christians who sought to destroy all knowledge that contradicted their theology, the Muslims had preserved the wisdom of the ancient Greeks. Moreover, they had made significant advances in Mathematics, philosophy, and science. When the Crusaders returned from the East they brought with their spoils of war the seeds of knowledge which, eventually, gave birth to the Renaissance. Along with the pile of plundered Eastern artifacts and phony relics, the Crusaders also brought back the art and literature of ancient Greece. The writings of the Greek philosophers, which the Church had suppressed centuries before, reappeared. Some of the philosophers such as Plato and Aristotle were accornmodated in Church doctrine. Indeed, the writings of Thomas Aquinas, especially his demonstrations for the existence of God, were basically a rehash of Aristotle. But more importantly in the long run, Greek humanistic philosophy found fertile ground in the minds of those who were painfully aware of the futility of theological speculation and the evil of papal dogmatism. As a result, the very foundation of the Church's intellectual and moral despotism would begin to shake.
12. When Christianity came in power it destroyed every statue it could lay its ignorant hands upon. It defaced and obliterated every painting; it destroyed every beautiful building; it burned the manuscripts, both Greek and Latin; it destroyed all the history, all the poetry, all the philosophy it could find, and reduced to ashes every library that it could reach with its torch. And the result was, that the night of the Middle Ages fell upon the human race. But by accident, by chance, by oversight, a few of the manuscripts escaped the fury of religious zeal; and these manuscripts became the seed, the fruit of which is our civilization today.
13. These gnostic writings describe many of the people and events found in the New Testament, but from a strikingly different perspective. They show us that the early church, far from the unified body we have assumed it to be, was deeply split from the beginning; that many followers of Christ were not in agreement on the facts of his life, the meanings of his teachings, or the form the church should take. From such texts as the Gospel of Philip and the Gospel of Thomas, in which the apostle appears as Jesus' twin, we learn that some gnostic Christians denied that Christ returned in the flesh and appointed Peter his successor; that many gnostics challenged priestly authority and believe instead in the presence of the divine within the human; that the way to salvation was through self-knowledge...how these extraordinary texts compel us to reconsider profoundly the traditional view of the origins and meanings of Christianity.
14. In summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity in both the Old World and the New was due in large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history, from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition, and repression of other cultures throughout the world, Christianity has demonstrated its destructive antihuman values.
15. When religion was all-powerful in Europe, it produced the epic bloodbath of the Crusades, the torture chambers of the Inquisition, mass extermination of “heretics”, hundred of massacres of Jews, and 300 years of witch-burning.
“The Age of Faith” was an age of holy slaughter. When religion gradually ceased to control daily life, the concept of human rights and personal freedom took roots.
...In reality, the Crusades were a sickening nightmare of slaughter, rape, looting, and chaos – mixed with belief in magic.
16. But as we read more about the crusades this vision tarnishes; enquiry hardly bears out the truth for which we had hoped. Crusades and crusaders are seen to be different from what we had imagined, and finally we are led to agree with Sir Steven Runciman's masterly summing-up in The Kingdom of Acre: "Faith without wisdom is a dangerous thing... In the long sequence of interaction and fusion between Orient and Occident, out of which our civilization has grown, the Crusades were a tragic and destructive episode...There was so much courage and so little honour, so much devotion and so little understanding. High ideals were besmirched by cruelty and greed, enterprise and endurance by a blind and narrow self-righteousness; and the Holy War itself was nothing more than a long act of intolerance in the name of God.
17. The Deutoronomist’s philosophy, that killing the adherents of every mythology but one’s own in order to protect believers from competing doctrines was a godly and laudable act, was in medieval times carried to its logical conclusion by the Christians who, over the course of several centuries, dutifully massacred between 30 and 50 million enemies of the various Christian gods in such events as the Crusades, the Inquisition, the Thirty Years War, and various minor atrocities.
18. In the days of ignorance there had been an extraordinary willingness to believe the Catholic priesthood good and wise. Relatively it was better and wiser in those days.
The beginning of the Crusades displays all Europe saturated by a naive Christianity, and ready to follow the leading of the pope trustfully and simply.
19. Why did they go? They lived in a society very different from ours. It was a society of believers, whose faith was reinforced by a view of nature and the universe which we now know to have been wrong but which was at least coherent and in accord with their experience.
The shocking acts of cruelty – the persecution of defenceless Jews in the “First Holocaust” – were perpetrated by men whose minds were conditioned by vendettas. They got the Church’s message that fighting infidels expressed love of God so wrong that the Crusade became for them an act of vengeance against those they accused of “dishonoring” Christ.
20. The First Crusade was launched by Pope Urban II. He fanned the flames of righteous hatred by granting a plenary indulgence – the total remission of punishment due to past sins – to anyone who went to kill for the greater honor and glory of God. In other words, if the crusader was killed, he was guaranteed immediate admission to heaven.
21. A plenary indulgence remitting all punishments due to sin was offered to those who should fall in the war. Serfs were allowed to leave the soil to which they had been bound; citizens were exempted from taxes; debtors enjoyed a moratotium on interest; prisoners were freed, and sentences of death were commuted, by a bold extension of papal authority, to life service in Palestine. Thousands of vagrants joined in the sacred tramp.
22. Pope Urban II launched the First Crusade in 1095 to wrest the Holy Land from infidels. “Deus Vult” (Gos wills it) became the rallying cry. Around Europe, masses of zealots swarmed into mob-type armies led by charismatic priest, Peter the Hermit, who displayed a letter he said was witten to him by God and delivered to him by Jesus as his credentials for leadership. Other thousands followed a priest called Walter the Penniless.
In the Rhine Valley of Germany, one throng of crusaders followed a goose they thought had been enchanted by God to be their guide. This group joined the army of Emich of Leisingen, a leader who said a a cross miraculously had appeared on his chest as a holy sign. Emich’s multitude decided that, before marching 2000 miles to kill God’s enemies in Israel, their first religious duty was to slay “the infidels among us”, the Jews of Mainz, Worms, and other German cities. They swept in unstoppable waves through Jewish quarters, chopping and burning thousands of defenseless men, women, and children. Many Jews, trapped and doomed in barricaded quarters, tearfully killed their children and themselves before the mob broke in.
Similar hordes led by priests Wolkmar and Gottschalk likewise massacred Jews of Prague and Regensburg, Bavaria. Occasionally, victims were given a last-minute opportunity, at swordpoint, to save their lives by converting to Christianity.
As the various peasant armies moved through Christian Hungary, Yugoslavia, and Bulgaria, they pillaged the countryside for food, provoking battles with local peoples and armies. In one clash, Peter the Hermit’s army killed 4000 Christian residents of Zemun, Yugoslavia, then burned nearby Belgrade. In tuen, thousands of crusaders died in confused fighting in Bulgaria. Only a fraction of the peasant mobs finally reached Muslim Turkey, where they soon were exterminated by Turkish armies.
Organized regiments of Christian knights followed the rabble, bringing professionalism to the Crusade. Accompanying bishops blessed their atrocities. The advancing legions decapitated Muslim and carried the heads as trophies. During three sieges – at Nicea, Antioch, and Tyre – crusaders catapulted Muslim heads into the surrounded cities to demoralize defenders. After a victory on the Syrian coast near Antioch, Frankish crusaders brought 500 heads back to camp. 300 of them were put on stakes before the city to torment defenders atop the walls. Chronicler-priests recorded that a crusader bishop called the impaled heads a joyful spectacle for the people of God. The other 200 heads were catapulted into Antioch. Inside, Muslim decapitated Antioch’s Christian residents and catapulated their heads outward in a grotesque crossfire. The crusaders finally broke through on June 3, 1098, and slaughtered inhabitants.
Then an arriving Muslim army encircled Antioch and besieged the former besiegers. The Franks were near starvation when one Peter Bartholomew announced that a saint had appeared to him in a vision and disclosed that the lance that pierced Christ’s side at the crucifixion was buried beneath a Christian church in Antioch. The Holy Lance was drug up and became a miraculous relic inspiring the crusaders to derocity. They stormed out of the city in a fanatical onslaught that sent the Muslim soldiers fleeing in panic, abandoning their camp – anh their wives. Chronicler Fulcher of Chartres proudly recorded: “When their womwn were found in the tents, the Franks did nothing evil to them except pierce their bellies with their lances.”
Marching on to Jerusalem, the crusaders soon topped the walls and “purified” the symbolic city by slaughtering virtually every resident. Jews who took shelter in their synagogue were burned alive. Corpses were piled in the street. Chronicler Raymond of Aguilers recoreded:
“Wonderful things were to be seen. Numbers of the Sacarens were beheaded…Others were shot with arrows, or forced to jump from the towers; others were tortured for several days, then burned in flames. In the streets were seen piles of heads and hands and feet. One rode about everywhere amide the corpes of men and horses…
In the temple of Solomon, the horses waded in blood up to their knees, nay, up to the bridle. It was a just and marvelous judment of God, that this place should be filled with the blood of the unbelievers.”
During the subsequent two centuries, Muslim recaptures of portions of the Holy Land caused seven other Christian crusades. Most of these expeditions began, as the first, with massacres of Jews at home.
In the Third Crusade, after Richard the Lion-Hearted captured Acre in 1191, he ordered 3000 captures – many of them women and children – taken outside the city and massacred. The corpses were cut open in a search for swallowed gems. Bishops intone blessings. Chronicler Ambroise wrote: “ They were slaughtered everyone. For this be the Creator blessed!” Infidel lives were no consequence. As St. Bernard of Claivaux had declared in launching the Second Crusade: “The Christian glories in the death of a pagan, because thereby Christ is glorified.”
In the Fourth Crusade, the armies became diverted and sacked the Christian cities of Constantinople and Zara. The Children’s crusade in 1212 was a tragedy based on the mistaken belief that God would empower innocent Christian tots to overwhelm Muslim armies. Most of the children perished without reaching the Holy Land.
Finally, it all came to an end in 1291 when Muslim recaptured the last Christian stronghold, Acre, and slaughtered its garrison in retaliation for Richard’s massacre a century earlier. The Holy Land was back in Muslim hands. Two centuries of death and destruction had been for nothing.
23. Whether the Holy Lance was genuine or a planted fake wasn’t questioned by the crusade’s chronicler-priests. Christendom was obsessed with finding and worshiping sacred relics, alleged evidence from Bible stories. Fragments of “the true cross”, pieces of saints’ bodies, still wet tears shed by Jesus, barbs from the Crown of Thorns, Mary’s undergarments – such were treasured in jeweled cases in every major church. A ruler of Saxony proudly possessed 17,000 relics, including a branch from Moses’s burning bush and a feather from the wings of angel Gabriel. Canterbury Cathedraldisplayed part of the clay left over after God fashioned Adam. Historian Charles Mackay said Spanish churches had six or seven thighbones of the virgin Mary, and others had enough of St. Peter’s toenails to fill a sack. Voltaire noted that six sacred foreskins were snipped from Jesus at his circumcision; later rechearchers counted fifteen.
24. In 1209 an army of some thirty thousand knights and foot soldiers from northern Europe descended like a whirlwind on the Languedoc - the mountainous northeastern foothills of the Pyrenees in what is now southern France. In the ensuing war the whole territory was ravaged, crops were destroyed, towns and cities were razed, a whole population was put to the sword. This extermination occurred on so vast, so terrible scale that it may well constitute the first case of "genocide" in modern Europe history. In the town of Béziers alone, for example, at least fifteen thousand men, women, and children were slaughtered wholesale - many of them in the sanctuary of the church itself. When an officer inquired the Pope's representative how he might distinguish heretics from true believers, the reply was, "Kill them all. God will recognize His own.".. The same papal representative, writing to Innocent III in Rome, announced with proud that "neither age nor sex nor status was spared."
After Béziers the invading army swept through the whole of Languedoc. Perpignan fell, Narbonne fell, Carcassonne fell, Toulouse fell. And wherever the victors passed, they left a trail of blood, death, and carnage in their wake. This war, which lasted for forty years, is now known as the "Albigensian Crusade." It was a crusade in the true sense of the word. It had been called by the Pope himself. Its participants wore a cross on their tunics, like crusaders in Palestine. And the rewards were the same as they were for crusaders in the Holy Land - remission of sins, an expiation of penances, an assured place in Heaven, and all the booty one could plunder.
25. The basic Catholic claims haver never changed one single iota. The Catholic Church’s insistence about her own uniqueness has remained as granically firm now, as it has always been. These are the same claims which produced the Inquisition, Cratia and the Catholic Dictatorship in Vietnam.
If the past be an indication of the shape of things to come then, given the right opportunities and appropriate political climate, New Inquisition, New Croatia and New Vietnams will be created again and again. When, where and how, only the future can tell.
26. In 1212 an event took place which has no resemblance to any other in world history: the children of France and Germany went on a crusade, ill-prepared, unarmed and with nothing but their innocent integrity to aid them.
King Philip of France was at St. Denis when a twelve-year-old sheperd boy, Stephen of Cloyes, near Orleans, came to him with a letter which the peasant lad said had come from Christ himself, bidding him organize a crusade to march on Jerusalem... The French king ordered the boy to return to his father's house; but Stephen was under the spell of religious mania. He even dared to disobey his king, announcing that, in a vision, Christ had promised that the sea would dry up and allow Stephen, and whoever followed him, to walk dry-shod to Jerusalem, just as the Red Sea had opened for that other shepherd, Moses.
Certain clerics were appalled by the simple lad's blasphemy - but Innocent III, curiously, announced that "the very children put us to shame," and, undoubtedly, Stephen had a most bewildering power of persuation for one so young and unlettered. Children from many parts of France flocked round him, carrying banners bearing the sign of Oriflamme. By June, 1212, at the meeting place, Vendôme, it is estimated that 30,000 young people had assembled for this pathetic march to the Holy Land, without maps and even without food supplies. They were about to parcipate in what can only be called a pathetic fact of faith.
How so many children evaded the prohibition of their parents cannot be known: perhaps the parents, hearing of the Pope's admiration, were afraid to contest papal approval; perhaps there was little parental authority exertable in those areas where the fathers themselves were away with Boniface and Dandolo; and perhaps the hypnotic power of Stephen's words had transported these boys and girls in such a way that they were invincibly deaf to any remonstrance. At any rate, they set off that summer, joined by many adults hangers-on, including priests who found themselves caught up by this infectious ecstasy, and marched through Tours and Lyons down to Marseilles, finding food and shelter where they could.
But the summer of 1212 had been unusually hot, graincrops had not thrived, and food and water were scarce because of the drought. Many of the children died by the wayside, while others turned back and tried to find their way home once more. When the remainder at last reached Marseilles they found to their great disappointment that the sea did not dry up as the shepherd-lad Stephen had promised, to let them walk to the Holy Land.
After a few days of misery in the port, they were approched by two unscrupulous merchants.. These men, called Hugh the Iron and William the Pig, offered to transport the horde of children to Palestine in seven ships, free of all charge.
Stephen of Cloyes saw in this offer the hand of God, who works in a mysterious way, and accepted gladly...
...The ships sailed on, but now southwards and not towards the Holy Land. Their destination was the Saracen port of Bougie, in Algeria, where all the French children were sold into slavery.
...It is alleged that of the 30,000 children who set forth from Vendôme but one, a young priest, ever returned to France - and that only after 18 years of slavery.
This crusading fever spread among the German children, who were excited by the preaching of a boy named Nicholas Nicholas told the same story of the sea opening to let the faithful walk dry-shod to Jerusalem. His estimated "army" was of 20,000 children and hangers-on, good and bad. This ragged horde struggled over the Alps and, sadly depleted by death and desertions, at last got as far as Genoa. Here they were turned away from the city walls by a governor who would not tolerate such a hungry and sickly rabble. Then, like creatures in a dream of death, they shuffled on southwards, their visions of relieving the Holy City forgotten in their hunger and agony.
.. "The very children put us to shame," had said Pope Innocent III. He spoke truly, through perhaps in a different sense from his intention. The shame was on the Pope himself for not forbidding this cruel wastage; on the parents for letting their children go; and on the peasants who denied them food and shelter all along the route, or who took them in only to profit by their slave labour. It is estimated that of the 20,000 German children who set out to save Christendom not more than 2,000 ever reached their home again. In this they were more fortunate than their French counterpart.
27. The more I reflect on the matter, all nine crusades were Children's Crusades. All those simple peasant soldiers were as ignorant as children, blindly following the exhortations of the popes to kill those Arabs who were defending their land.
28. It is a plausible excuse; but we must remember that it was fear of the heretic which inspired the foundation of the Inquisition; and that its victims were more likely to be rich men, whose goods were worthy of confiscation, than men whose wordly goods were few.
29. With the growth in knowledge and critical thinking, inevitably came the desire for more freedom. Both the papacy and the monarchies of Europe recognized this grave threat. It is no wonder, then, that an all-out war was declared on those who sought to free humankind from the twin shackles of king and pope. This was the true purpose of the Inquisition.
30. The accused heretics first were arrested and isolated from the outside world. They were considered guilty from the outset, and it was regarded as the God-given obligation of the inquisitor to shake loose confessions. Only in this way, it was believed, could the accuseds's souls be saved from the clutches of the devil. Defense lawyers were not allowed; the accused had to rely on his own resources.
In contrast, the prosecution was authorized to produce any number of witnesses, including blood relatives.
Testimony and hearsay by even the most unreliable witnesses, including children, were accepted as conclusive evidence of guilt. The accused was not allowed to challenge witnesses or even know who they were. The accused, however, was permitted to testify.
Not surprisingly, torture was the quickest and most effective method of obtaining a confession. The heretics first were dragged into the torture chamber and shown all the instruments of torment. If they did not confess their alleged guilt, torture was applied slowly with increasing intensity. These sessions usually lasted two to four hours, leaving the victims violated and shattered.
Often the torture instruments used in these interrogations were first sprinkled with holy water (water blessed by a priest). These numerous devices included:
THE THUMBSCREW. The accused's fingers were placed between clamps. The screws were turned until blood spurted and the bones were crushed.
THE BOOTS. This effective device was used to crush the shinbones.
THE RACK. The accused was stretched across a triangle frame, bound hand and foot to prevent movement. Wrists and ankles were secured by cords affixed to a jackscrew. When the screw was turned, the limbs were stretched execruciatingly until the wrists and ankles were pulled from their sockets.
THE STRAPPADO (Vertical Rack). The accused's hands were tied behind his or her back and raised by a rope attached to a pulley to the ceiling. The prisoner was then dropped repeatedly with a jerk to within a few inches of the floor. On occasion, weights were tied to the victim's feet to increase the shock and agony of the fall.
THE TOCA (Water torture). The accused was tied to a rack, the mouth was kept forcibly open, and a linen cloth put down the throat to conduct water poured slowly from a vessel. The severity of this torture depended on the amount of water released.
...The cruel and heartless methods used to punish persons accused of heresy indicates the depth of madness and misguided religious passion perpetrated by those who claimed to be doing God's will.
31. More than 40 barbaric exhibitions of torture and annhiliation from European Medieval days. Beyond these doors lies the true horror of the European Medieval days. The darkest days of its sordid past.
32. There is a permanent exhibition of torture instruments in Amsterdam - I once made a special point of going to see it. I think that every new recruit to Cardinal Ratzinger's Congregation of the Doctrine of the Faith (or Holy Office) should be required to visit the exhibition and write a study paper on it.
Here are the tools of the Inquisitions of which the Holy Office is the heir. There are headcrushers, thumbscrews, ladder racks, breast rippers, knee splitters, oral, rectal, and vaginal pears, iron maidens, heretic forks, and Spanish spiders - with woodcuts, engraving and documents to show how they were used.
33. A more direct route to Jesus was found in the “Iron Virgin” of the Inquisition. She wore a cloak of wood and iron which when opened revealed an interior lined with spikes shaped like harrow teeth.. The figure stood above a trapdoor opening into a moat so that when the doors were opened and the spikes pulled out of the corpse, it would drop into the water below. The spikes were carefully placed so that two of them would enter the eyes, others into the chest, and still others into the abdomen.
34. The terror began in earnest with Gregory IX, who ascended the papal throne in the year 1227.
Two years later, at the Council of Toulouse in Languedoc, Gregory decreed that heretics had to be handed over to the secular arm for punishment. "It is the duty of every Catholic," he said, "to persecute heretics."
In the year 1232 he made his decisive move. He published a Bull establishing the Inquisition. Bishops were too lax and, in any case, they lacked the time and talent to do a thorough job. Heretics, that is, all opposed to any papal pronouncement, were to be handed over to the civil authorities for burning. If they repented, they were to be imprisoned for life. No pope ever took up the torch of terror with more enthusiasm.
In April 1233 he restricted inquisitors to members of the mendicant orders; soon, the Dominicans had the honor to themselves. The 27th day of July 1233 was a red-letter day for the pontiff: the first two full-time inquisitors were appointed - Peter Seila and William Arnald. They were the first in a long line of serene untroubled persecutors of the human race. As a curtain-raise, in 1239, two years before Gregory died, the Dominican Robert le Bougre went to Champagne to investigate a bishop named Moranis. He was accused of allowing heretics to live and spread in his diocese. On 29 May he sent 180 people, including the bishop, to the stake.
This was a return to barbarism. ..
History does not support the view that the Catholic church has always championed the rights of man. In the 13th century, it went so far as to teach what the early church condemned: heretics have no rights. They can be tortured without scruple. Like traitors to the state, heretics have put themselves outside the mercy of the law. They must be put to death.
No one pope for over three centuries opposed this teaching which should therefore by rights be a permanent part of Catholic doctrine. By means of it, the Inquisition achieved unprecedented power. The result was wholesale intimidation of those who had no protection against the charge or even slightest suspicion of heresy.
To the medieval Inquisition, everything was permitted. The Dominican Inquisitors, being the pope's appointees, were subject to no one but God and his Holiness. They were outside the juridiction of bishops and of civil law. In the Papal States they were a law unto themselves, acting as prosecutors and judges. Their guiding principle was: "Better for a hundred innocent people to die than for one heretic to go free."
They operated arbitrarily and in secrecy. Anyone present at the interrogation - victim, scribe, executioner - who broke his silence incurred a censure that only the pope could lift. The inquisitors, like the pope, could make no mistake and do no wrong...
Torture was freely used. Only a hundred years ago, there was on display in the pope's House on the Corner the Black Book, or Libro Nero, for the guidance of
inquisitors. This manuscript in folio form was the charge of the Grand Inquisitor. Its popular name was the Book of the Death. This is part of what it said:
Either the person confesses and he is proved guilty from his own confession, or he does not confess and is equally guilty on the evidence of witnesses. If a person confesses the whole of what he is accused of, he is unquestinably guilty of the whole; but if he confesses only a part, he ought still to be regarded as guilty of the whole, since what he has confessed proves him to be capable of guilt as to the other points of the accusation...
Bodily torture has ever been found the most salutary and efficient means of leading to spiritual repentance. Therefore, the choice of the most befitting mode of torture is left to the Judge of the Inquisition, who determines according to the age, the sex, and the constitution of the party...If, notwithstanding all the means employed, the unfortunate wretch still denies his guilt, he is to be considered as a victim of the devil: and, as such, deserves no compassion from the servants of God, nor the pity and indulgence of Holy Mother Church: he is a son of perdition. Let him perish among the damned.
It would be hard to find any document so contrary to the principles of natural justice. According to the Black Book, a child must betray his parents, a mother betray her child. Not to do so is a "sin against the Holy Office" and merits excommunication, that is, exclusion from the sacraments and, if there is no amendement, exclusion from heaven...
The inquisitors never lost a single case. There is no record of an acquittal. When, rarely, the verdict was Not Proven, no one was declared innocent. If the accused was not actually guilty of heresy, no matter. Inquisitors believe that only one in every hundred thousand souls would escape damnation anyway.)
35. Efforts to stamp out heresy led to the establishment of the Holy Inquisition, one of mankind’s supreme horrors. In the early 1200s, local bishops were empowered to identify, try, and punish heretics. When the bishops proved ineffective, traveling papal inquisitors, usually Dominician priests, were sent from Rome to conduct the purge.
Pope Innocent IV authorized torture in 1252, and the Inquisition chambers became places of terror. Accused heretics were seized and locked in cells, unable to see their families, unable to know the names of their accusers. If they didn’t confess quickly, unspeakable cruelties began. Swiss historian Walter Nigg recounted:
“The thumbscrew was usually the first to be applied: The fingers were placed in clamps and the screws turned until the blood spurted out and the bones were crushed. The defendant might be placed on the iron torture chair, the seat of which consisted of sharpened iron nails that could be heated red-hot from below. There were the so called boots, which were employed to crush the shinbones. Another favorite torture was dislocation of the limbs on the rack or the wheel on which the heretic, bound hand and foot, was drawn up and down while the body was weighted with stones. So that the torturers would not be disturbed by the shrieking of the victim, his mouth was stuffed with cloth. Three-and-four-hour sessions of torture were nothing unusual. During the procedure the instruments were frequently sprinkled with holy water.”
The victim was required not only to confess that he was a heretic, but also to accuse his children, wife, friends, and others as fellow heretics, so that they might be subjected to the same process. Minor offenders and those who confessed immediately received lighter sentences. Serious heretics who repented were given life imprisonment and their possessions were confiscated. Others were led to the stake in a procession and church ceremony called the “auto-da-fé” (act of the faith). A papal statute of 1231 decreed burning as the standard penalty. The actual executions were performed by civil officers, not priests, as a way of preserving the church’s sanctity.
Some inquisitors cut terrible swathes. Robert le Bourge sent 183 to the stake in a single week. Bernard Gui convicted 930 – confiscating the property of all 930 – sending 307 to prison, and burning forty-two. Conrad of Marburg burned every suspect who claimed innocence.
Historically, the Inquisition is divided into three phases: the medieval extermination of heretics; the Spanish Inquisition in the 1400s; anf the Roman Inquisition, which began after the Reformation.
In Spain, thousands of Jews had converted to Christianity to escape death in recurring Christian massacres. So, too, had some Muslims. They were, however, suspected of being insincere converted clandestinely practicing their old religion. In 1478 the pope authorized King Fernidand and Queen Isabella to revive the Inquisition to hunt “secret Jews” and their Muslim counterparts. Dominican friar Tomas de Torquemada was appointed inquisitor general, and he became a symbol of religious cruelty. Thousands upon thousands of screaming victims were tortured, and at least 2,000 were burned.
The Roman period began in 1542 when Pope Paul III sought to eradicate Protestant influences in Italy. Under Pope Paul IV, this inquisition is a reign of terror, killing many “heretics” on mere suspicion. Its victims included scientist-philosopher Giordano Bruno, who espoused Copernicus’s theory that planets orbit the sun. He was burned at the stake in 1600 in Rome.
The Inquisition blighted many lands for centuries. In Portugal, records recount that 184 were burned alive. The Inquisition was brought by Spaniards to the American colonies, to punish Indians who reverted to native religions. A total of 879 heresy trials were recorded in Mexico in the late 1500s…
Lord Acton, himself a Catholic, wrote in the late 1800s: “The principle of the Inquisition was murderous..The popes were not only murderers in the great style, but they also made murder a legal basis of the Christian Church and a condition of salvation.”
36. There has been no more organized effort by a reeligion to control people and contain (giam giữ) their spirituality than the Christian Inquisition. Developed within the Church’s own legal framework, the Inquisition attempted to terrify people into obedience. As the Inquisitor Francisco Pena stated in 1578, “We must remember that the main purpose of the trial and execution is not to save the soul of the accused but to achieve the public good and put fear into others.” The Inquisition took countless human lives in Europe and around the world as it followed in the wake of missionaries. And along with the tyranny of the Inquisition, churchmen also brought religious justification for the practice of slavery.
The unsubmissive spirit of the Middle Ages only seemed to exacerbate the Church’s demand for unquestioning obedience. The Church’s understanding of God was to be the only understanding. The was to be no discussion or debate. As the Inquisitor Bernard Gui said, the layman must not argue with the unbeliever, but “trust his sword into the man’s belly as far as it will go.” In a time burgeoning ideas about spirituality, the Church insisted that it was the only avenue through which one was permitted to learn of God. Pope Innocent III declared “that anyone who attempted to construe a personal view of God which conflicted with Church dogma must be burned without pity.”…
The Church turned to its own canon law to authenticate an agency which could enforce adherence to Church authority. In 1231 Pope Gregory IX estabhished the Inquisition as a separate tribunal, independent of bishops and prelates. It administrators, the inquisitors, were answerable only to the Pope. Its inquisitinal law replaced the common law tradition of “innocent until proven guilty” with “guilty until proven innocent”. Despite an ostensible trial, inquisional procedure left no possibility for the suspected to prove his or her innocence; the process resulted in the condemnation of anyone even suspected of heresy. The accused was denied the right of counsel. No particulars were given as to the time or place of the suspected heresies, or to whatkind of heresies were suspected…
The inquisitor presided over the inquisitional procedure as both prosecutor and judge… An inquisitor was selected primarily on the basis of his zeal to prosecute heretics. He and his assistants, messengers and spies were allowed to carry arms. And in 1245, the Pope granted him the right to absolve these assistants for any acts of violence. This act rendered the Inquisition, which was already free from any secular juridiction, unaccountable to even ecclesiastical tribunals..
Inquisitors grew very rich. They received bribes and annual fines from the wealthy who paid to escape accusation. The Inquisition would claim all the money and property of alleged heretics. As there was little chance of the accused being proven innocent, there was no need to wait for conviction to confiscate his or her property. Unlike Roman law that reserved a portion of property for the convicted’s nearest heirs, canon and inquisitional law left nothing. Pope Innocent III had explained that God punished children for the sins of their parents. So unless children had come forth spontaneaously to denounce their parents, they were left penniless. Inquisitors even accused the dead of heresy, sometimes as much as seventy years after their death. They exhume and burned the alleged heretic’s bones and then confiscated all property from the heirs…
The Inquisition was merciless with its victims. The same man who had been both prosecutor and judge decided upon the sentence. In 1244 the Council of Narbonne ordered that in the sentencing of heretics, no husband should be spared because of his wife, nor wife because of her husband, nor parent because of helpless children, and no sentence should be mitigated because of sickness or old age.
Although the Church had began killing heretics in the late fourth century and again in 1022 at Orléan, papal statutes of 1231 now insisted that heretics suffered death by fire. Burning people to death technically avoided spilling a drop of blood. The words of the Gospel of John were understood to sanction burning: “If a man abide not in me, he is cast forth as a branch, and is withered; and men gather them, and cast them into the fire, and they are burned” (John 15: 16)
By far the cruelest aspect of the inquisitional system was the means by which confessions were wrought: the torture chamber. Torture remained a legal option for the Church from 1252 when it was sanctioned by Pope Innocent IV until 1917 when the new Codex Juris Canonici was put into effect. Innocent IV authorized indefinite delays to secure confessions, giving inquisitors as much time as they wanted to torture the accused… In 1262 inquisitors and their assistants were granted the authority to quietly absolve each other from the crime of bloodshed. They simply explained that the tortured had died because the devil broke their necks.
Thus, with licence granted by the Pope himself, inquisitors were free to explore the depths of horror and cruelty. Dressed as black-robed fiends with black cowls over their heads, inquisitors extracted confessions from nearly anyone. The Inquisition invented every conceivable devise to inflict pain by slowly dismembering and dislocating the body. Many of these devices were inscribed with the motto “Glory be only to God”. The rack, the hoist and water tortures were the most common. Victims were rubbed with lard or grease and slowly roasted alive. Ovens built to kill people, made infamous in 20th century Nazi Germany, were first used by the Christian Inquisition in Eastern Europe. Victims were thrown into a pit full of snakes and buried alive. One particularly grusome torture involved turning a large dish full of mice upside down on the victim’s naked stomach. A fire was the lit on top of the dish causing the mice to panic and burrow into the stomach…
The tyranny inherent in the belief in singular supremacy accompanied explorers and missionaries throughout the world. When Columbus landed in America in 1492, he mistook it for India and called the native inhabitants “Indians”. It was his avowed aim to “convert the heathen Indians to our Holy Faith” that warranted the enslaving and exporting of thousands of Native Americans. That such treatment resulted in complete genocide did not matter as much as that these natives had been given the opportunity of everlasting life through their exposure to Christianity…
The Inquisition quickly followed in their wake. By 1570 the Inquisition had established an independent tribunal in Peru and the city of Mexico for the purpose of “freeing the land, which had become contaminated by Jews and heretics. Natives who did not convert to Christianity were burned like any other heretic. The Inquisition spread as far as Goa, India, where in the late 16th and early 17th centuries it took no less than 3,800 lives.
Even without the formal Inquisition present, missionary behavior clearly illustrated the belief in the supremacy of a single image of God… If the image of God venerated in a foreign land was not Christian, it was simply no divine. Portuguese missionaries in the far East destroyed pagodas, forced scholars to hide their religious manuscripts, and suppressed older customs.
Missionaries often took part in the unscrupulous exploitation of foreign lands. Many became missionaries to get rich quickly and then to return to Europe to live off their gains. In Mexico, Dominicans, Augustinians and jesuits were known to own “the largest flocks of sheep, the finest sugar ingenios, the best kept states. The Church, particularly in South America, supported the enslavement of native inhabitants and the theft of native lands. A 1493 papal Bull justified declaring war on any natives in South America who refused to adhere to Christianity…
Orthodox Christianity also supported the practice of slavery in North America. The 18th century Anglican Church made it clear that Christianity freed people from eternal damnation, not from the bonds of slavery…Slaves should, howver, be converted to Christianity, it was argued, because they would then become more docile and obedient..
Both the Inquisition and those supporting the practice of slavery relied upon the same religious justification. In keeping with the orthodox Christian belief in a singular and fearful God who rules as the pinnacle of hierarchy, power resided solely with authority, not with the individual. Obedience and submission were valued far more than freedom and self determination. The Inquisition played out the darkest consequences of such a belief system as it imprisoned and killed the bodies and spirits of countless people – and not simply for a brief moment of time. The Inquisition spanned centuries and was still in some places as late as 1834.
37. Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.)
38. God is very clear here, folks, he doesn't want witches to live. We are supposed to be killing witches! If we don't, we are disobeying God. Jesus would weep tears of joy if He leaned down off His cloud and sniffed up the burning flesh of a witch this Halloween. Wouldn't that ruin Satan's little birthday party! Praise God! It's just a shame that the United States Government has placed restrictions on the Biblically-mandated practice of witch burning. [I]
39. The witch hunting mania that convulsed Western Europe during the 15th, 16th and 17th centuries may not have revealed the existence of supernatural demons but it did generate an extraordinary array of human monsters ~ the witch hunters ~ a pathological righteous brotherhood that devoted itself to ferreting out suspected handmaidens of the devil.
40. It has never yet been known that an innocent person has been punished on suspicion of witchcraft, and there is no doubt that God will never permit such a thing to happen.
41. Justice was perverted and thousands of innocent man and women died on the false evidence of envious or vengeful accusers.)
42. During many ages there were witches. The Bible said so. The Bible commanded that they should not be allowed to live. Therefore, the Church…gathered up its halters, thumbscrews. and firebrands, and set about its holy work in earnest.. Then it was discovered that there was no such thing as witches, and never had been. One does not know whether to laugh or cry.
43. The charges brought against the hundreds of women and men were senseless, and the trials themselves travesties of justice.
44. Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999: A witchcraft craze lasting more than 400 years – from the 14th through the 17th centuries – caused the deaths of millions in Europe, the great majority of them women. The craze arose in the Middle Ages and lasted well into the Age of Reason. Long after, in the 20th century, the Nazi dictator, Adolf Hitler, led an organized campaign of persecution – often called a witch-hunt – of the Jews in Germany and Europe that led to the deaths of six million men, women, and children.
The Bible of witch-hunting appeared in 1486.. It was a book of great length called the Malleus Maleficarum, or Hammer of Witches. The first printed encyclopedia of magic and witchcraft, it was written by two Dominician priests of Germany, Heinrich Kramer and Jacob Sprenger.
Two years earlier, Pope Innocent VIII had authorized the two priests to wipe out witchcraft in Germany. Their manual on persecution was a tool in the hand of every judge and witch-hunter for three centuries. The Malleus was reprinted in 14 editions very quickly. It became one of the most influential of all early printed books. The Malleus begins by challenging the opinion that witches do not really exist. The true faith, it says, “teaches us that certain angels fell from heaven and are now devils” who “by their very nature…can do many wonderful things we cannot do.” The authors state that Satan and demons can do harm by themselves, or by acting with or through witches. It dealt in much detail with the practice of witchcraft and with the judicial procedures to be used against it.
The two priests spoke from experience, for they themselves had tried 50 people for witchcraft, 48 of whom were women. The Malleus became the authoritative guide to organized witch-hunting. The hunts were initiated, and carried out by church and state…The Malleus told how to use torture to force confession and further accusations. The common practice was to strip the accused naked, shave off all her body hair, subject her to thumbscrew and the rack, to spikes and bone-crushing devices, and to beat her and starve her.
When the whirlwind of persecution descended in the 15th century, the toll was immense. Nicholas Remy, a judge from Lorraine, France, who presided over witch trials, wrote that after spending much time grilling witches, he knew that “they are justly to be subjected to every torture and put to death in the flames.. and that its very awfulness may serve as an example and a warning to others.” Remy sent between two and three thousand victims to the stakes between 1595 and 1616…
Torquemada (1420-1498), the Spanish churchman known as the Grand Inquisitor, is credited personally with burning more than ten thousand people and with condemning another 97 thousand in less than two decades.
For 12 years, from 1581 to 1593, witch persecutions raged through the cathedral city of Trier in Germany. The bishop of Trier, Peter Binsfield, ordered the death of some 6000 people..
In the 1620s the area of Wurzburg, Germany, saw spectacular examples of wholesale extermination. The bishop of Wurzburg burned 900 people for witchcraft…The archbishop of Trier burned 268 witches from 22 villages between 1587 and 1593. In two of these villages, by 1595 only one woman was left alive.
Jews were another group that suffered especially during the height of the witch-hunts. In the New Testament, John 8:44 calls the Devil the father of the Jews. It is in Revelation 2:9 and 3:9 that the “synagogue of Satan” is first mentioned. Church leaders accused Jews of worshiping Satan and giving their children to the demons..
In England, under the Protestant rulers Henry VIII and Elizabeth I, persecution was severe. And they were not the only Protestant rulers to break bones on the rack or brand with hot irons. In the Netherlands, too, the whip, steel pincers, and burning at the stake were much in evidence.
Martin Luther, who lived from 1483 to 1546 and was the founder of Protestantism, reinforced the superstition of his time. His writings testify to the Devil’s assaults upon him, and he often refers to the evil actions of witches – among them he includes his opponents. He thought the power of witches was awesome; he once wrote, “I should have no compassion on these witches, I would burn all of them.”
Spurred on by the Malleus, Germany had the worst history of witchcraft persecution, but other countries – France, Switzerland, Sapin, Sweden, Scotland – all swelled the total number of murders. When the terror reached its peak, doubters felt obliged to voice a belief in witches. Denying the existence of witchcraft placed people in great danger of themselves being accused.
45. James A. Haught, Holy Horrors: An Illustrated History of religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76: During the 1400, the Holy Inquisition shifted its focus toward witchcraft, and the next three centuries witnessed a bizarre orgy of religious delusion. Agents of the Church tortured untold thousands of women, and some men, into confessing that they flew through the sky on demonic missions, engaged in sex with Satan, turned themselves into animals, made themselves invisible, and performed supernatural evils. Virtually all the accused were put to death.
Pope Gregory IX originally authorized the killing of witches in the 1200s, and random witch trials were held, but the craze didn’t catch fire until the 15th century. In 1484 Pope Innocent VIII issued a bull declaring the absolute reality of witches – thus it became heresy to doubt their existence. Prosecutions soared. The inquisitor Cumanus burned 41 women the following year, and a colleague in the Piedmont of Italy executed 100.
Soon afterward, two Dominician inquisitors, Jakob Sprenger and Heinrich Kramer, published their infamous Malleus Maleficarum (Withches’ Hammer) outlining a lurid litany of magical acts performed by witches and their imps, familiars, phantoms, demons, succubi, and incubi. It described how the evil women blighted crops, devoured children, caused disease, and wrought spells. The book was filled with witches’ sexual acts and portrayed women as treacherous and contemptible. “All witchcraft comes from carnal lust, wich is in women insatiable,” they wrote. Modern psychology easily perceives the sexual neusoris of these priests – yet for centuries their book was the official manual used by the inquisitors sending women to horrible deaths.
Witch-hunts flared in France, Germany, Hungary, Spain, Italy, Switzerland, Sweden, and nearly every corner of Europe – finally reaching England, Scotland, and the Massachusetts Bay Colony. Most of the victims were old women whose eccentricities roused suspicions of neighbors. Others were young, pretty women. Some were men. Many in the continental Europe were simply citizens whose names were shrieked out by torture victims when commanded to identify fellow witches.
The standard Inquisition procedure of isolating and grilling suspects was followed – plus an added step: the victims were stripped naked, shaved of all body hair, and “pricked”. The Malleus Maleficarum specified that every witch bore a numb “devil’s mark”, which could be detected by jabbing with a sharp object. Inquisitors also looked for “witches’ tits”, blemishes that might be secrets nipples whereby the women suckled their demons.
If the body search failed, the torture began. Fingernails were pulled out. Red-hot tongs were applied to breasts. “The women’s sex organ provided special attraction for the male torturer,” researcher Nancy Van Vuuren wrote. Bodies were stretched on racks and wheels. “Arms came out of sockets and trysts with the Devil came out of the unlikeliest mouths”, novelist Erica Jong wrote. Virtually every mangled and broken victim confessed – and was executed on the basis of the confession.
In the Basque region of Spain, church records dutifully report that Maria of Ituren admitted under torture that she and sister witches turned themselves into horses and galloped through the sky. In a district of France, 600 women confessed to copulating with demons.
The complete death toll is impossible to learn. Some historical records exist; others are gone. Various accounts say 5000 witches were killed in the province of Alsace, 900 in the city of Bamberg, about 2000 in Bavaria, 311 in Vaud, 167 at grnoble, 157 at Wurzburg, 133 in a single day in Saxony. Some entire villages were exterminated.
The mania continued until the 18th century. In Scotland, an old woman was burned in 1722 after being convicted of turning her daughter into a pony and riding her to a witches’ coven. In Germany, a nun was burned alive in the marketplace of Wurzburg in 1749 after other nuns testified that she climbed over convent walls in the form of a pig. The last legal execution of a witch occurred in Switzerland in 1782. By that time, various scientists and scholars had raised enough doubt about the reality of witchcraft to bring an end to the madness.
A profound irony of the witch-hunts is that they were directed, not by superstitious savages, but by learned bishops, judges, professors, and other leaders of society. The centuries of witch obsession demonstrated the terrible power of supernatural beliefs.
46. Helen Ellerbe, The Dark Side Of Christian History, Chapter 8, The Witch Hunts, pp. 114-138: The Church created the elaborate concept of devil worship and then, used the persecution of it to wipe out dissent, subordinate the individual to authoritarian control, and openly denigrate women…
It took the Church a long time to persuade society that women were inclined toward evil witchcraft and devil worship… In the 13th century the Church began depicting the witch as a slave of the devil…
Pope John XXII formalized the persecution of witchcraft in 1320 when he authorized the Inquisition to prosecute sorcery. Thereafter papal bulls and declarations grew increasingly vehement in their condemnation of witchcraft. In 1484 Pope Innocent VIII issued the bull Summis Desiderates authorizing two inquisitores Kramer and Sprenger, to systematize the persecution of witches. Two years later their manual, Malleus Maleficarum, was published with 14 editions following between 1487-1520 and at least 16 editions between 1574-1669. A papal bull in 1488 called upon the nations of Europe to rescue the Church of Christ which was “imperiled by the arts of Satan”. The papacy and the Inquisition had successfully transformed the witch from a phenomenon whose existence the Church had previously rigorously denied into a phenomenon that was deemed very real, very frightening, the antithesis of Christianity, and absolutely deserving of persecution.
It was now heresy not to believe in the existence of witches. As the authors of the Malleus Maleficarum noted, “A belief that there are such things as witches is so essential a part of Catholic faith that obstinately to maintain the opposite opinion savors of heresy.” Passage in the Bible such as “Thou shalt not suffer a witch to live” were cited to justify the persecution of witches. Both Calvin and Knox believed that to deny witchcraft was to deny the authority of the Bible. The 18th century founder of Methodism, John Wesley, declared to those skeptical of witchcraft, “The giving up of witchcraft is in effect the giving up of the Bible. And an eminent English lawyer wrote, “To deny the possibility, nay, actual existence of witchcraft and sorcery, is at once flatly to contradict the revealed word of God in various passages both of the Old and New Testament.
The persecution of witchcraft enabled the Church to prolong the profitability of the Inquition. The Inquisition had left regions so economically destitute that the inquisitor Eymeric complained, “In our days there are no more rich heretics..it is a pity that so salutary an institution as ours should be so uncertain of its future.” By adding witchcraft to the crimes it persecuted, however, the Inquisition exposed a whole new group of people from whom to collect money. It took every advantage of this opportunity. The auther Barbara Walker notes:
“Victims were charged for the the very ropes that bound them and the wood that burned them. Each procedure of torture carried its fee. After the execution of a wealthy witch, officials usually treated themselves to a banquet at the expense of the victim’s estate”
In 1592 Father Cornelius Loos wrote:
“Wretched creatures are compelled by the severity of the torture to confess things they have never done.. and so by the cruel butchery innocent lives are taken; and, by a new alchemy, gold and silver are coined from human blood.”
47. Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson, London, p. 119:
The bible of these macabre killers was the infamous Malleus Maleficarum (Hammer of Witches), a book written by two fanatical Dominican priests and published in 1486. For the book's authors no deceit was too devious, no torture too extreme to be used in the pursuit of confessions. Nor was there any room for skepticism or moderation; "Not to believe in witchcraft," read the book's motto, "is the greatest of heresies."
One of the most famous of the Malleus was the French lawyer-philosopher Jean Bodin (1529-96). Possibly the first to formulate a "legal" definition of a witch ~ "someone, who, knowing God's laws, tries to bring about some act through an agreement with the Devil"
Bodin was hideously efficient in his prosecution of suspected witches. He personally tortured young children and invalids in the effort to extract confessions, and proclaimed that burning condemned witches brought death too quickly ~ in not much more than half an hour. In 1580, towards the end of his life, Bodin wrote a book of his own, Demonomanie. Harsher and more insidiously circumstantial even than the Malleus, it was well received and widely read.
The inquisitor of Lorraine, Nicholas Remy, was Bodin's contemporary and, if not his intellectual equal, certainly his persecutional peer. During 15 years of judging witchcraft cases he was responsible for the execution of approximately 900 people.
When his eldest son died in 1582, Remy inevitably suspected witchcraft, later accusing and condemning a beggar whom he had turned away shortly before his son's death. As Remy explained, "Witches have a most treacher manner of applying their poison, for having their hands smeared with it, they take hold of...a man's garment as it were to entreat and propitiate him." Like Bodin, Remy retired an honoured man and wrote a book about his experiences. His main regret in life, he confessed, was that he did not kill more witch children.
By far the most lethal of the witch hunters was Jesuit-trained Peter Binsfeld, Suffragan Bishop of Trier, Germany, in the late 16th century.
A relentless witch prosecutor who insisted that "light" torture amounted to no torture at all. Binsfeld is said to have been responsible for the deaths of about 6,500 men, women and children.
His Treatise on Confessions by Evildoers and Witches was considered by many of his contemporaries to be one of the great legal works of it's day. Few voices were raised in opposition to the bloody business of witch hunting. When Dutch scholar Cornelius Loos, horrified at the enormity of Binsfeld judicially sanctioned murders, attempted to protest in the name of humanity, he was condemned and made to recant publicly.
The fact that most of the witch hunters sincerely believed in the rightness of their murderous pursuits does not make their perverse logic, immoderate prejudice and inhumam methods any less horrifying today.
Henri Bogeut (1550-1619), a French lawyer credited with exterminating about 600 "witches", was, for example, able to help condemn one pious suspect on the grounds that the crucifix she wore on her rosary had a minute flaw in it ~ a clear indication, said Boguet, that she was in league with the devil.
Pierre de Lancre, French King Henry 1V's official witch hunter in the Basque country, was equaly skilled at detecting the presence of of Satanism. For reasons that are obscure but that seem to have had morbid sexual undertones, de Lancre became convinced that all 30,000 (including priests) inhabitants of the Labourd district were witches.
When news of de Lancre's conclusions became known, thousands fled their homes, some emigrating as far as Newfoundland to escape the inevitable conflagration. In the space of four months de Lancre burned some 600 of the people who remained, then returned to Paris in triumph to be made state counselor by a grateful King Henry.
The most notorious of the English witch hunters was a puritanical, failed lawyer named Matthew Hopkins.
Unlike some of his counterparts on the Continent, Hopkins, who flourished for a relatively brief period in the 1640s, only managed to kill about 600 people. In addition, because of a parliamentary decree, he was obliged to forgo his early method of identifying witches ~ throwing the suspects, trussed, into a river to see if they floated, if they did they were considered guilty, as the devil was supporting them…
One of the methods he used most successfully was a form of psychogical torture, in which victims were forced to walk constantly, without food or sleep, until, exhausted or delirious, they confessed to witchcraft.
48. (Aldous Huxley, The Devils of Loudun, 1952, Harper and Brothers, N.Y.): The scariest part is the fundamentalist mind that could justify such cruelty, for any cause, most ironically, a 'spiritual' one.
Fundamentalist ignorance and superstition reached a peak in the 1600's, instigated by the church, who taught that the Devil was everywhere, and that any undesireable manifestation could be and probably was the result of witchcraft and devils. Hail, wind, lice, sour milk, or a difficult mule could all be blamed on the woman next door. Expressing doubt about the existence of witches was tantamount to being a witch, and anyone voicing opposing opinions was suspect, to be watched, and targeted.
The Christian obsession with the Devil and witchcraft actually fostered and propagated what they tried so hard to repress; and as it was then, it is today.
"In order to justify their behavior, they turn their theories into dogmas, their bylaws into First Principles, their political bosses into Gods and all those who disagree with them into incarnate devils. This idolatrous transformation of the relative into the Absolute and the all too human into the Divine, makes it possible for them to indulge their ugliest passions with a clear conscience and in the certainty that they are working for the Highest Good. And when the current beliefs come, in their turn, to look silly, a new set will be invented, so that the immemorial madness may continue to wear its customary mask of legality, idealism, and true religion."
49. Since the fourth century after Christ there have been three anti-Jewish policies: forced conversion, expulsion, annihilation. The second appeared as an alternative to the first, and the third emerged as an alternative to the second… The missionaries of Christianity had said in effect: You have no right to live among us as Jews. The secular rulers who followed proclaimed: You have no right to live among us. The Nazis at last decreed: You have no right to live.
The process began with the attempt to drive the Jews into Christianity. The development was continued in order to force the victims into exile. It was finished when the Jews were driven to the death. The German Nazis, then, did not discard the past; they built upon it. They did not begin a development; they completed it.]
50. By the middle of 1997, I was in a state of moral shock. The material I had gathered amounted not to an exoneration but to an indictment more scandalous than Hochhuth's. The evidence was explosive. It showed for the first time that Pacelli was patently, and by the proof of his own words, anti-Jewish. It revealed that he had helped Hitler to power and at the same time undermined potential Catholic resistance in Germany. It showed that he had implicitly denied and trivialized the Holocaust, despite having reliable knowledge of its true extent. And, worse, that he was a hypocrite, for after the war he had retrospectively taken undue credit for speaking out boldly against the Nazis’ persecution.
51. Consider the Holocaust: the anti-semitism that built the Nazi death camps was a direct inheritance from medieval Christianity. For centuries, Christian Europeans had viewed the Jews as the worst species of heretics and attributed every societal ill to their continued presence among the faithful… The Vatican itself perpetuated the blood libel in its newspapers as late as 1914. And both Catholic and Protestant churches have a shameful record of complicity with the Nazi genocide.
52. The distinguished Roman Catholic author Malcolm Hay wrote to Jules Isaac 40 years ago that “Auschwitz would have been impossible had it not been for the poisonous lies with which the churches have infected Christian populations for at least 1600 years.”
No more than 40 years ago, the subjects of Christian antisemitism and the Christian sources of antisemitism were generally considered taboo.
In recent years, research on the Holocaust, together with a growing tolerance for discussion within the churches, has revealed the crucial role played by the Church in the persecution of Jews in Christendom.
53. p.105: Luther’s attitude toward the Jews became one that before too long was blatantly antisemitic. In 1542, Luther published a tract, Concerning the Jews and Their Lies, soon followed by another essay, which excoriated the Jews in Language that equaled in virulence anything uttered against them before or since. Luther, in language both sarcastic and scatological, renewed all the old charges of the past, perpetuating patterns with which we have become familiar during the course of these talks: Jews are poisoners; Jews are usurers; Jews are parasites on Christian society; Jews consort with Satan himself; Jews are doomed to Hell. In Luther’s writings a new locution of an old image of the Jew emerged: the Jew as “Anti-Christ”
Luther did not leave to his readers’ imagination what he conceived as the appropriate agenda to deal with the Jews. He was quite explicit: their synagogues should be burned, their books seized; they should be forced into back-breaking manual labor; better still, they should be expelled from their territories.)
54. p 151: According to historian Lucy Dawidowics, “A line of antisemitism descent from Martin Luther to Adolf Hitler is easy to draw” Both Luther and Hitler were obsessed by a demonologized universe inhabited by Jews. As we trace the history of antisemitism to 20th century Western Europe, we note that there is a direct conceptual and philosophical chain connecting the Christian Reformation and the rise of Hitlerism.)
55. First, their synagogues should be set on fire.. Secondly, their homes should likewise be broken down and destroyed...Thirdly, they should be deprived of their prayer-books and Talmuds...Fourthly, their rabbis must be forbidden under threat of death to teach any more...Fiftly, passport and traveling privileges should be absolutely forbidden to the Jews...Sixthly, they ought to be stopped from usury (charging interest on loans)...Seventhly, let the young and strong Jews and Jewesses be given the flail, the ax, the hoe, the spade...and let them earn their bread by the sweat of their noses...We ought to drive the rascally lazy bones out of our system.. Therefore away with them.
To sum up, dear princes and nobles who have Jews in your domains, if this advice of mine đoes not suit you, then find a better one so that you and we may all be free of this insufferable devilish burden – the Jews)
56. Christianity did not create the Holocaust; indeed Nazism was anti-Christian, but it made it possible. Without Christian antisemitism, the Holocaust would have been inconceivable...Hitler and the Nazis found in medieval Catholic anti-Jewish legislation a model for their own, and they read and reprinted Martin Luther's virulently antisemitic writings. It is instructive that the Holocaust was unleashed by the only major country in Europe having approximately equal numbers of Catholics and Protestants. Both traditions were saturated with Jew-hatred.
For nearly 2000 years, the Christian world relentlessly dehumanized the Jew, enabling the Holocaust, the ultimate consequence of this dehumanization, to take place.
During the long, dark years of the Middle Ages, Jews were frequently given the option of baptism or expulsion, baptism or torture, baptism or death.
57. Here in part is what Luther wrote in C.E. 1543. Note that Adolf Hitler seemed to use it as a general guide for implementing the earlier phase of his "final solution" against the Jews:
Let me give you my honest advice:
First, to set fire to their synagogues or schools and to bury and cover with dirt whatever will not burn, so that no man will ever again see a stone or cinder of them. This is to be done in honor of our LORD and of Christendom.
Second, I advise that their houses also be razed and destroyed.
Third, I advise that all their prayer books and Talmudic writings, in which such idolatry, lies, cursing, and blasphemy are taught, be taken from them.
Fourth, I advise that their rabbis be forbidden to teach henceforth on pain of loss of life and limb.
Fifth, I advise that safe conduct on the highways be abolished completely for the Jews. For they have no business in the countryside, since they are not lords, officials, tradesmen, or the like. Let them stay at home.
Sixth, I advise that usury be prohibited to them, and that all cash and treasure of silver and gold be taken from them, and put aside for safe keeping.
Seventh, I recommend putting a flail, an ax, a hoe, a spade, a distaff, or a spindle into the hand of young, strong Jews and Jewesses and letting them earn their bread in the sweat of their brow.
58. There can be little doubt that the Holocaust of the Jews in the 1930’s and 1940’s is, at least partially the direct result of 2000 years of Christian anti-Judaism. Moreover, honesty demands that the root of much Christian anti-Jewish slander be located in the New Testament itself, especially the Gospels…
59. After 19 centuries of Christianity, the extermination of 6 million Jews, among them one-and-a-half million children, carried out in cold blood in the very heart of Christian Europe, encouraged by the criminal silence of virtually all Christendom, including that of an infallible Holy Father in Rome, was the natural culmination of this bankrupcy. A straight line leads from the first act of oppression against Jews and Judaism in the fourth century to the holocaust in the twentieth.
60. Pope John Paul II visits Israel. He pays tribute to the victims of the Holocaust, and he leaves the following prayer between the ancient stones of the Western Wall in Jerusalem:
“God of our fathers, you chose Abraham and his descendants to bring your Name to the Nations: we are deeply saddened by the behavior of those who in the course of history have caused these children of yours to suffer, and asking your forgiveness, we wish to commit ourselves to genuine brotherhood with the people of the Covenant.”
61. It is no secret that many atrocities committed against the Jews over the past 2000 years can be traced to the seeds of suspicion and distrust sown in the NT. Since the very beginning of Christianity, believers have regarded the Jew as the wayward children of God and the enemies of Jesus. These anti-Jewish sentiments are clearly reflected in the Book of Acts. Jews are variously called "stiff-necked," "betrayers," and "murderous people" (Acts 7: 51-53). This theme is reinforced in Paul's first letter to the Thessalonians (2:15-16) in which he blames the Jews for the death of Jesus...The Book of Mathew (27:25) describes the Jew as pronouncing a curse upon themselves: "His blood be on us and our children!" Although this statement is now considered by most scholars to have been fabricated by the author of Mathew, throughout the centuries it served to excuse and justify the killing of Jews.
Perhaps the strongest anti-Jewish emotion is registered in the Gospel of John. It is ironic that here, in what many Christians call the "love book," are statements vilifying and damning the Jews...It was only a matter of time until these and other derogatory biblical sentiments fueled the fires of bigotry. The Jews became the targets of distorted theology based on ignorance, bias, and the overwhelming authority associated with biblical writing.
...Early on, Christians looked upon the Jews as "Christ killers" and enemies of Christianity. The venomous attitudes spread quickly from the Christian community to every sector of society, and eventually led to the vicious persecution of Jews, especially after Christianity became the official religion of Rome under Constantine in the fourth century.
The Christian clergy encouraged Roman emperors to deal harshly with the Jews. Pagans were forbidden to convert to Judaism and many restrictions were placed on Jewish life. Marriages between Jews and Christians were punished by death. The Roman Emperor Theodosius II (A.D 408-450) forbade Jews to hold public office or to build synagogues. The Emperor Justinian (A.D 483-565) went further: He condemned the Jews as heretics and ordered their synagogues to be confiscated by the state and trasformed into churches.
Justinian also legalized the pillaging and burning of synagogues by Christian bishops and monks.
The anti-Jewish laws set down in Spain were even harsher. In 694 the seventh Council of Toledo declared all Jews to be slaves, and ordered their property and possession confiscated. The Council also decreed that Jewish children were to be taken from their parents at age seven to be raised by the clergy and later married to Christians.
...Noted historian Solomon Grayzel estimates that 10,000 Jews were slain in Central Europe during the First Crusade. The prolonged and hideous massacre of Moslems and Jews - men, women and children -when Jerusalem fell added to the number of victims. Many Jews were burned to death in their synagogues.
In 1215, during the reign of Pope Innocent III, it was decreed that all Jewish males older than thirteen and Jewish females older than eleven must wear a yellow patch on the front and back of their garnments. This "badge" was regarded as a mark of shame, symbolizing the continuing hostile division between Christians and the so-called murderers of Christ.
...This murderous persecution of Jews continued throughout the Middle Ages. On June 4, 1391, the Archdeacon of Ecija incited a riot in Seville, Sapin, which resulted in the killing of 4000 Jews. The same summer, in city after city across Europe, Jews were burned out of their homes and synanogues. The number of Jewish deaths is placed at 50.000.
From its beginning, Protestantism was as anti-Semitic as Catholicism. Martin Luther, founder and leader of the Protestant Reformation (1517) persecuted the Jews vehemently..
This brings us to what is perhaps the most appalling epoch of anti-Semitism the world has witnessed. The mass extermination of millions of Jews by the Nazi forces during World War II was the result of many social, political, cultural, psychological, and religious factors. Christianity, however, must bear partial liability.
Adolf Hitler was a Catholic. He never left the Church, nor was he excommunicated. In his discussion with Bishop Berning of Osnabruk in April 1933, Hitler remarked: "As for the Jews, I am carry on with the same policy which the Catholic Church has adopted for 1500 years." Hitler claimed to be following the Church's lead, planning to do what Christians had done throughout history - namely, murder Jews.
There was no doubt that Nazi anti-Semitism was derived, at least in part, from Christian anti-Semitism, which grew out of the foundation laid by the Catholic Church and the later teaching of Luther. The Nazi credo was equally a part of German nationalism. Together, Christian bigotry and German nationalism spawned the insanity that murdered 6.000.000 Jews.
62. The synanogue is worse than a brothel...it is the den of scoundrels and the repair of wild beasts... the temple of demons devoted to idolatrous cults...the refuge of brigands and debauchees, and the cavern of devils. It is a criminal assembly of Jews...a place of meeting for the assassins of Christ..a house worse than a drinking shop.. a den of thieves; a house of ill fame, a dwelling of iniquity, the refuge of devils...)
63. Brown, Ibid., p. 12: St. Bernard charged the whole Jewish people with “a stupidity bestial and more than bestial,” an “intelligence coarse, dense, and as it were bovine” because they did not follow the Lord..
64. Brown, Ibid.: Augustine, the great theologian, says in a sermon: "The Jews hold him, the Jews insult him, the Jews bind him, crown him with thorns, dishonor him with spitting, scourge him, hang him upon the tree, pierce him with a spear...The Jews killed him."
In another sermon he characterized the Jews as "willfully blind to Holy Scripture," "lacking in understanding" and "haters of truth." )
65. Peter de Rosa, Vicars of Christ: The Dark Side Of The Papacy, p. 6: The mark of Cain is stamped upon our foreheads. Across the centuries, our brother Abel has lain in blood which we drew, and shed tears we caused by forgetting Thy love. Forgive us, Lord, for the curse we falsely attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying Thee a second time in their flesh. For we knew not what we did.)
Joanne Carlson Brown & Carole R. Bohm, Editors, Christianity, Patriarchy, and Abuse: A Feminist Critique, The Pilgrim Press, Cleveland, Ohio, 1989.
Ernie Bringas, Going By The Book, Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Publishing Company, Inc., Charlottesville, VA, 1996.
Gary Wills, Papal Sin, Doubleday,New York, 2000; Why I Am A Catholic, Houghton Mifflin Company, NY, 2002
Helen Ellerbe, The Dark Side of Christian History, Morningstar and Lark, Orlando, FL., 1995
John Dollison, Pope-Pouri, A Fireside Book, New York, 1994
James A. Haught, Holy Horrors: an Illustrated History of Religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990.
John Shelby Spong, Rescuing the Bible From Fundamentalism: A Bishop rethinks The Meaning of Scripture, Harper, San Francisco, 1991.
Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999.
Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson, London, p. 119
Norman Cohn, Europe’s Inner Demons, Paladin Book, Sussex University Presss, Great Britain, 1975
Peter de Rosa, Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy, Crown Publishers, Inc., New York, 1988.
Trần Quý Nhu, Búa Phù Thủy [Chuyển ngữ từ cuốn Malleus Maleficarum của hai linh mục Heinrich Kramer và James Sprenger], Giao Điểm, 2003.
Uta Ranke-Heinemann, Eunuchs For The Kingdom of Heaven, The Book that accuses the Roman Catholic Church of degrading women and undermining the sexuality of believers, Penguin Books, New York, 1990.
Richard L. Rubenstein & John K. Roth, Approaches To Auschwitz: The Holocaust and its Legacy, John Knox Press, Georgia, 1987.
Robert G.L. Waite, Hitler and Nazi Germany, Holt, Rinehart & Winston, Inc., NY , 1969
Michael Phayer, The Catholic Church and the Holocaust, 1930-1965, Indiana University Press, IN., 2000.
Daniel Jonah Goldhagen, A Moral Reckoning: The Role of the Catholic Church in the Holocaust and its Unfulfilled Duty of Repair, , Alfred A. Knopf, NY, 2002
Mark McKain, Anti-Semitism, Greenhaven Press, MI, 2005.
David A. Rausch, A Legacy of Hatred: Why Christians Must Not Forget The Holocaust, Moody Press, Chicago, 1984.
Các tài liệu trên Internet.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét