Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Top 10 cuộc khủng khoảng tài chính lịch sử

Quan điểm của Marx - Engels cho rằng tiền bạc là gốc rễ của mọi tội ác.Nhưng quan điểm kinh tế thị trường của Milton Friedman khi cho rằng tiền là thứ chúng ta cần , chúng ta muốn kiếm càng ngày càng nhiều , cho dù chúng ta có thừa nhận điều đó hay không



 

Sự trỗi dậy của nền kinh tế tư bản là chủ nghĩa kinh tế được đa số các nước sử dụng.Nó mang lại mức sống cũng như sự thịnh vượng cho người dân.Tuy nhiên khi chủ nghĩa tư bản đi sai đường , thị trường tài chính sẽ mang lại những cảm xúc hoảng loạn và định hướng lệch lạc đối với nền kinh tế .Điều này sẽ dẫn đến giai đoạn khủng hoảng.

 

Chúng tôi xin giới thiệu 10 cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong lịch sử 

 

10. Nhật Bản "Lost Decade", 1990-2000

 

Sự sụp đổ của bong bóng tài sản Nhật Bản vào năm 1991 đã dẫn đến một thời gian dài tăng trưởng thấp, từ đó kéo theo hệ lụy nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát kéo dài . Từ năm 1981-1991, giá đất thương mại tại 6 thành phố lớn nhất của Nhật tăng 500 lần. Sau khi “bong bóng” nổ, giá đất này sụt dưới mức của năm 1981 và cho tới năm 2007, mức giá này vẫn thấp hơn 83% mức giá đỉnh ở năm 1991

 

Thập kỷ mất mát ban đầu được gây ra bởi mức độ đầu cơ không bền vững từ một lượng lớn tín dụng và lãi suất thấp . Khi chính phủ can thiệp để giải quyết vấn đề này , tín dụng trở nên khó khăn hơn nhiều để có được nó.Điều này dẫn đến vốn đầu tư suy giảm đáng kể . 

 


 

Nhật Bản đã may mắn tránh được một cuộc suy thoái, nhưng các tác động của năm 1991 vẫn còn được cảm thấy, thậm chí ngay cả ngày hôm nay Nhật Bản vẫn chìm đắm trong những khoản nợ. Bài học khủng hoảng Nhật Bản vẫn là một tình huống mà một số nhà kinh tế cảm thấy có thể được lặp đi lặp lại trong các nền kinh tế phương Tây trong tương lai gần nếu những chính sách tài chính đưa ra không mang lại hiệu quả

 

9. Hệ thống ngân hàng hoảng loạn - 1907

 


 

Kinh tế Mỹ năm 1907 không có Ngân Hàng Trung ương.Trong khi đó các công ty đầu tư uỷ thác thời đó lại nắm giữ nhiều nghiệp vụ mà ngân hàng không thể có và chính phủ lại hết sức thông thoáng về mặt quản lý. Tất cả những điều này khiến cho các công ty đầu tư uỷ thác ra tay thu hút nguồn vốn xã hội và đầu tư vào các ngành nghề có rủi ro cao hay thị trường cổ phiếu. 

 

Đến khi cuộc khủng hoảng bùng phát vào tháng 10 năm 1907, khoảng một nửa các khoản gửi ngân hàng ở New York đều bị các công ty đầu tư uỷ thác gán nợ với lãi suất cao để đầu tư vào thị trường cổ phiếu và công trái có mức rủi ro cao, và như vậy, cả thị trường tài chính rơi vào trạng thái đầu cơ tột độ.Trong giai đoạn này  , JP Morgan là tổ chức tài chính duy nhất đứng ngoài cuộc chơi và lưu trữ lượng tiền mặt khổng lồ

 


 

Khi bong bóng nổ ra , thị trường chứng khoán tuột dốc thảm hại , DJI đã sụt giảm 50%.Bộ Tài chính Mỹ và các ông chủ tài chính đã phải chạy vạy và nhờ cậy JP Morgan trong việc hỗ trợ các khoản vay tài chính , đổi lại họ sẽ bán rẻ tài sản của mình.Nổi bật nhất trong thương vụ này có lẽ phải kể đến vụ thâu tóm Tennessee Coal and Iron với giá siêu rẻ 45 triệu đô-la, trong khi giá trị thực của công ty này theo tính toán của John Moody ít nhất cũng khoảng 1 tỉ đô-la.Thị trường lấy lại niềm tin và hồi phục vào tháng 2 năm 1908, và tháng 5/1908 Quốc hội đã thông qua Đạo luật Aldrich-Vreeland, tạo ra Ủy ban tiền tệ quốc gia.

 

Mỗi một cuộc khủng hoảng tài chính đều là sự định hướng chính xác cho sự bùng nổ những âm mưu đã nung nấu từ lâu.Lâu đài tài chính mới tinh nguy nga rực ro luôn được xây trên đống hoang tàn đổ nát của hàng ngàn hàng vạn người phá sản.

 

8.Ngày thứ 2 đen tối - 19/10/1987

 


 

Không ai hoàn toàn chắc chắn về nguyên nhân của thứ 2 đen tối , ngày 19 tháng 10 năm 1987. Nhưng điều chắc chắn là hàng tỷ đô la đã được xóa từ các thị trường chứng khoán trên toàn cầu.Chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt xuống tới 22,6% - đây là mức giảm nhiều nhất chưa từng có chỉ trong một ngày giao dịch Hồng Kông đã mất 45,8% lớn giá trị của nó, Vương quốc Anh đã mất 26,4%, Úc giảm 41,8%, và New Zealand giảm 60% so với mức đỉnh của nó.

 

Có rất nhiều giả thuyết được đưa ra về việc sụp đổ của thị trường trong năm 1987 mà khởi nguồn từ ngày thứ 2 này.Tuy nhiên không có giả định nào mang tính hợp lý.Nhiều người cho rằng thị trường dịch chuyển theo những bước đi ngẫu nhiên và tâm lý bầy đàn diễn ra tạo nên 1 sự hoảng loạn mang tính hệ thống
7. Khủng hoảng đồng Rúp Nga – 1998

Tình trạng tham nhũng, chính sách cải cách kinh tế không đem lại hiệu quả, việc phá giá đồng Rúp và bất ổn chính trị đã khiến cho nước Nga rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện vào giai đoạn cuối thiên niên kỷ.

Thêm vào đó, là nước đang nắm 1/3 lượng dự trự dầu khí của thế giới, kinh tế của Nga phụ thuộc rất nhiều vào biến động giá của mặt hàng này.

Khi dòng vốn nước ngoài tháo chạy, các ngân hàng gặp nguy đến nổi các khoản vay khẩn cấp từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng không còn phát huy được tác dụng. Lợi suất trái phiếu tăng lên đến 200%/năm.

Cuộc khủng hoảng này cũng đã tác động mạnh đến thị trường chứng khoán Mỹ, với chỉ số Dow Jones có mức sụt giảm vào loại lớn nhất trong lịch sử.

6. Khủng hoàng tài chính Đông Á – 1997

“Điều kỳ diệu” châu Á đã biến thành thảm họa vào tháng 7/1997 khi nhà đầu tư mất niềm tin trầm trọng vào đồng tiền một số nước. Lợi nhuận cao khiến thị trường chứng khoán châu Á rất hấp dẫn, nhưng khi Mỹ cố gắng kiềm chế đà suy thoái bằng cách hạ lãi suất thì thị trường nước này lại hấp dẫn hơn và đẩy châu Á vào thế rủi ro.

Hiệu ứng domino bắt đầu ở Thái Lan lan rộng ra Phillipines, Hồng Kông, Indonesia, Malaysia và nhiều nước khác, khơi mào cho một cuộc khủng hoảng toàn cầu chưa có tiền lệ. Chứng khoán Thái Lan sụt giảm 75%, Hồng Kông mất 23%, Singapore bốc hơi 60%.

 -

5. Khủng hoảng nợ công châu Âu, 2009 – nay

Không một ai có thể khẳng định chắc chắn cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu hiện nay bắt đầu từ khi nào, bằng cách nào và khi nào sẽ chấm dứt.

Sự lo lắng của thị trường tăng dần lên qua thời gian và lan rộng khắp các nước, đặc biệt là Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Italy. Khả năng hoàn trả các khoản nợ của chính phủ và mối liên hệ các khoản nợ này với hệ thống ngân hàng quốc tế là nguồn gốc của các e ngại.

Khủng hoảng nợ công ở châu Âu còn lan rộng sang Mỹ, làm bùng phát tranh cãi giữa Đảng Cộng hòa và Dân chủ về mức trần nợ và khiến nước Mỹ bị hạ mức tín nhiệm khỏi AAA lần đầu tiên trong lịch sử.

Những rủi ro trong nền kinh tế thế giới như tăng trưởng chậm lại hay nợ công phình to vẫn còn rất lớn trong thời điểm hiện nay.

4. Khủng hoảng dầu mỏ, 1973

Trong bối cảnh bùng nổ cuộc chiến tranh giữa Syria và Ai Cập đối với Israel, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã áp lệnh cấm vận dầu mỏ đối với những nước Ả rập ủng hộ Israel. Khi sản lượng bị suy giảm, giá dầu thô tăng mạnh, đặc biệt là ở Mỹ và Hà Lan.

Lệnh cấm vận này chỉ kéo dài có 5 tháng nhưng còn tác động cho tới ngày nay: các nước OPEC đã nhận ra được sức mạnh của dầu mỏ.

Chỉ trong 6 tuần, chứng khoán Mỹ đánh mất 97 tỷ USD. Các hãng sản xuất xe hơi Nhật Bản tấn công thị trường bằng các loại xe nhỏ, tiết kiệm nhiên liệu và bắt đầu chiếm lợi thế cạnh tranh.

Mỹ đưa ra điều luật giới hạn tốc độ xe ở mức 55 dặm/giờ để tiết kiệm xăng. Năm 1977, Tổng thống Carter đã thiết lập Bộ Năng lượng để chuyên phát triển nguồn dự trữ dầu mỏ chiến lược của Mỹ.

3. Đại suy thoái, 2008

Năm 2008, cú sụp đổ gây choáng váng của đại gia ngân hàng đầu tư Lehman Brothers với tổng tài sản hơn 600 tỷ USD đã trở thành ngòi nổ mang tính biểu tượng cho cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng 1929.

Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này được cho là vì các quy định trong ngành tài chính bị thả nổi, chính sách tiền tệ sai lầm và nền kinh tế được xây trên lâu đài cát với sự bấp bênh của nợ nần ở khu vực công lẫn tư nhân.

Hậu quả là thị trường chứng khoán sụp đổ, kinh tế rơi vào suy thoái. Ước tính cho thấy chỉ tính đến tháng 3/2009, cuộc khủng hoảng này đã phá hủy 45% của cải toàn cầu.

2. Lạm phát phi mã ở Đức, 1918-1924

Năm 1914, tỷ giá giữa đồng USD và Mark Đức là 1/4. Đến năm 1923, tỷ giá này vọt lên mức không tưởng tượng nổi 1/1.000 tỷ Mark.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ I, các nước thắng trận đòi nước Đức bồi thường chiến tranh, với tổng giá trị chiếm đến 1/3 mức thâm hụt ngân sách của Đức trong giai đoạn này. Một số nước còn cho rằng Đức cố tình hủy hoại nền kinh tế để tránh phải bồi thường.

Bằng các đợt đổi tiền vào các năm 1923 và 1924, Đức đã kiểm soát được lạm phát. Nhưng giai đoạn này được cho là đã đóng vai trò quan trọng làm bùng phát chủ nghĩa dân tộc và tạo ra những hệ lụy về sau (Chiến tranh Thế giới thứ II).

Mặc dù không phải là đợt lạm phát lớn nhất trong lịch sử (thấp hơn trường hợp Zimbabwe), nhưng sự kiện này được xem là tạo ra hệ lụy nặng nề nhất. (Ảnh: Một phụ nữ Đức đốt những đồng Mark để đun bếp vì rẻ hơn đi mua than hay củi).

1. Đại khủng hoảng, 1929

Đại khủng hoảng (Great Depression) kéo dài nhất và để lại hậu quả nặng nề nhất trong lịch sử. Khởi phát từ năm 1929 sau một giai đoạn thịnh vượng được gọi là “Roaring ‘20s”, cuộc Đại khủng hoảng này kéo dài cho đến lúc nổ ra cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II.

Cuộc Đại khủng hoảng bắt đầu bằng sự sụp đổ trên thị trường chứng khoán. Vào ngày Thứ Ba đen tối 29/10/1929, 10 tỷ USD (tương đương với 95 tỷ USD ngày nay) đã bốc hơi khỏi thị trường chứng khoán Mỹ.

Những năm trước đó, chứng khoán đã giúp không biết bao nhiêu người trở thành triệu phú. Nhiều nhà đầu tư không có kinh nghiệm mua bất thứ cổ phiếu nào mà không cần tìm hiểu thông tin.

Khi chính phủ nâng lãi suất, tình trạng hoảng loạn bắt đầu xuất hiện, nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu. Nhiều ngân hàng cũng đầu tư chứng khoán, đẩy tình trạng thanh khoản căng thẳng và phá sản.

Đại khủng hoàng sau đó còn lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét