Theo một công trình sưu khảo của tờ Huffington Post thì hầu hết người dân Anh nghĩ rằng tôn giáo gây ra nhiều điều có hại cho con người hơn là có lợi. Đáng ngạc nhiên là có tới 20% trong những người nặng lòng tôn giáo cũng cho rằng tôn giáo có hại cho xã hội loài người. Vì vậy mà chúng tôi cám ơn internets đã phổ biến rộng rãi những thông tin từ những chuyện nhà nước Hồi Giáo cắt cổ các nạn nhân cho đến (1) những chuyện các bệnh viện Ca-tô giáo từ chối không nhận điều trị cho các bà xẩy thai, (2) danh sách ghi các tôn giáo quái đản và man rợ, và (3) các bài báo nói đến những tác hại về tâm lý từ trong kinh thánh Ki-tô Giáo.
Năm 2010, nhà xã hội học Phil Zuckerman phát hành cuốn sách có nhan đề là “Xã Hội Không Có Thượng Đế: Những Điều mà Các Xã Hội Ít Tin Tường Vào Tôn Giáo Nhất Sẽ Nói Cho Chúng Ta Biết Về Sự Hài Lòng Của Họ.” Đồng thời, tác giả Zuckerman cũng đưa ra những bằng chứng hiển nhiên mà các quốc gia ít tin tường vào tôn giáo nhất có khuynh hướng yêu chuộng hòa bình, thịnh vượng, bình đẳng về xã hội, với những chính sách giúp cho người dân thăng tiên phúc lợi cũng như làm giảm bớt những thất vọng não nề và lòng tham lợi của người dân.
Chúng ta có thể tranh luận để xem thịnh vượng và hòa bình sẽ làm cho người dân giảm bớt niềm tin tôn giáo hay ngược lại. Thực ra, những bằng cớ hiển nhiên đã hỗ trợ cho quan niệm cho rằng tôn giáo làm cho con người quá ưu phiền về sự tồn tại của đời sống con người. Nhưng ngay cả ở vào trường hợp này, cũng có những lý do chính đáng để nghi ngờ rằng tôn giáo có sư liên hệ mật thiết với những xã hôi có nhiều sai lầm và tội ác. Dưới đây là 6 lý do hay phương cách mà tôn giáo làm cho công cuộc kiến tạo nền hòa bình và phồn vinh của xã hội loài người trờ nên khó có thể hoàn thành được.
Rõ ràng nhất, những lời dạy của tôn giáo có chủ tâm làm nản lỏng hay cấm kết thân và cấm thành hôn với những người khác tôn giáo. Làm như vậy là giúp cho tinh thần thị tộc và bộ lạc phát triển trong cộng đồng tôn giáo của họ. Tệ nhất là tín đồ bị nhồi sọ, phải xem người thuộc các tôn giáo khác là kẻ thù của Chúa, kẻ thù của lương thiện, và có thể là người cúa quỷ Satan, là thiếu đạo đức và không thể tin được. Tín đồ phải sống túm tụm với nhau và được chuẩn bị cho tinh thần tử vì đạo. Khi mà sự căng thẳng bùng lên, thì xã hội bị phân hóa chia rẽ theo đường phân ranh giữa các hệ phái tôn giáo khác nhau.
Những bản văn được coi như là thiêng liêng kể cả kinh thánh như Torah và Korran, tất cả loại kinh thánh này, duy trì và bảo vệ từng mảnh rời của văn hóa thời Đồ Sắt, đã ghi tên những thần linh và chứng thực một vài sự xung động nhất của con người. Bất kỳ tín đồ nào muốn bào chữa cho cơn giận dữ của mình, cảm giác ưu việt, háo chiến, mê tín, hay tàn phá địa cầu đều có thể tìm được sự cho phép, chuẩn nhận từ các bản văn được cho là viết theo ý Chúa.
Ngày nay, sự ý thức về đạo đức của loài người đã tiến bộ, căn cứ vào những hiểu biết sâu xa và rộng lớn của luật vàng. Thế nhưng, những tín đồ bảo thủ vẫn lì lợm bất động. Họ vẫn hướng về Thời Đại Đồ Sắt. Họ xúi giục tín đồ chống lại những thay đổi (tiến bộ) trong một cuộc chiến không bao giờ chấm dứt làm tiêu hao năng lược của con người và làm trì trệ công việc giải quyết những khó khăn có tính cách sáng tạo của con người.
Khi mà khoa học làm cho những vùng đất mà tôn giáo đã từng thống lĩnh ngày càng bị thu hẹp, thì các niềm tín tôn giáo cổ truyền càng đòi hỏi phải tự vệ về tâm linh nhiều hơn để chống lại những thông tin bất lợi cho tôn giáo. Để có thể tồn tại vững mạnh, tôn giáo phải rèn luyện tín đồ thực thi những phượng cách tự lừa dối, nhắm mắt không tin và không nghe những bằng cớ hiển nhiên trái ngược với tôn giáo của họ, và chỉ tin tưởng vào các đấng bề trên của họ hơn là tin tường và khả năng suy nghĩ của họ. Phương cách này đã thấm nhập vào những phần khác trong đời sống của họ. Đặc biệt là chính quyền đã phải lao vào cuộc chiến giữa những ý thức hệ đối nghịch hơn là phải dồn nỗ lực vào sự điều nghiên để tìm ra các giải pháp thực tế dựa trên những bằng chứng hiển nhiên để thăng tiến phúc lợi cho nhân dân.
Ngoài những khai thác tích cực năng lượng về đạo đức như sự tử tế hay lòng hào hiệp của con người, tôn giáo thường xuyên hướng dẫn làm cho con người ghê tởm và phẫn nỗ với đạo đức bằng cách gắn liền những xúc cảm này với những giáo luật chuyên chính hơn là những vấn đề thực sự gây nguy hại cho con người. Những người Do Thái Chính Thống chi tiền cho những mớ tóc giả của phụ nữ và tăng gấp đôi máy rửa chén. Các phụ huynh trong giáo phái Phúc Lâm (Evangelical) bị cưỡng bách phải chọn lựa giữa tình nghĩa và tình yêu, đẩy những trẻ em bất hạnh vì khác thường ra ngoài đường phố. Các giám mục Ca-tô áp đăt luật lê đạo đức ở trong phòng quản lý thanh thiếu niên.
Thái độ này làm hại rất nhiều cho xã hội cũng như cho các cá nhân. Khi những tôn giáo lớn nhất (như hiện nay) ra đời, thì người dân thường có rất ít quyền lực để thay đối các cơ cấu xã hội hoặc là bằng những phát minh kỹ thuật hoặc là bằng biện minh. Sống tốt và làm tốt là hầu hết những vấn đề của con ngươi. Một khi tâm lý này tồn tại, tôn giáo truyền cảm hứng đạo đức cá nhân mà không có trách nhiệm của xã hội. Những vấn đề cơ cấu tổ chức có thểbỏ qua khi các tín đồ của tôn giáo đó tử tế với bạn bè cũng như với gia đình và hào hiệp vơi những đồng đạo trong cộng đòng của họ.
Thực ra, không biết những người hành xử tôn giáo, làm hại xã hội có thể thực sự là một phần trong chiến lược để cứu sống tôn giáo hay chăng. Theo ngôn từ của nhà xã hội học Phil Zuckerman và nhà khảo cứu Gregory Paul thì “Không có một chế độ dân chủ tiến bộ nào thích thú tình trạng kinh tế xã hội tiến bộ và tử tế mà có thể duy trì lòng mộ đao rất cao của quần chúng. Khi nhân dân cảm thấy đời sống của họ thịnh đạt và an toàn thì niềm tin tôn giáo của họ đương nhiên là suy yếu.”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét