Vũ Quang Việt
Lời nói đầu:
Trong bài này, tác giả không nhằm phê phán cá nhân, nhưng nhu cầu phân tích đòi
hỏi nhận định hoặc đánh giá dựa vào những thông tin mà tác giả có được. Những
nhận định này có thể thay đổi khi điều kiện lịch sử cho phép giới chuyên gia có
được những thông tin về lịch sử chính xác hơn. Tác giả viết bài này không chỉ
dưới con mắt của một người ưa thích phân tích mà với tư cách một người Việt Nam
muốn làm sáng tỏ vấn đề với hy vọng đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước. Bài
viết này đã được sửa khá nhiều sau Hội thảo Hè 2006 tại Berkeley, California
(USA) hai ngày 28 và 29 tháng 7 năm 2006, nhất là thêm phần hai. Tác giả xin cám
ơn những góp ý của các anh Cao Huy Thuần, Lương Bá Hùng, Hoàng Thái Việt, Nguyễn
Ngọc Giao, chị Đỗ
Tuyết Khanh, và một số người khác nữa. Tuy nhiên điều này
không có nghĩa là các anh chị trên nhất thiết đồng ý với những nhận định, thông tin trong
bài viết.
Các đảng cộng sản theo quan điểm Quốc tế
Ba của
Lênin được thành lập với mục đích làm cách mạng nhằm lật đổ chính quyền
tư sản,
thiết lập chính quyền chuyên chế của Đảng và trấn áp các phần tử chống
đối. Với
mục đích như thế, quyền quyết định trong Đảng về nguyên tắc tập trung
chủ yếu
vào Bộ Chính trị và thực tế là vào một hay vài người trong Bộ
Chính trị với vai trò thứ yếu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các
cơ quan Nhà nước. Vừa làm chiến tranh giải phóng vừa nhắm vào
việc thực hiện một chính quyền dưới sự lãnh đạo độc tôn của Đảng, Đảng
Cộng sản
Việt Nam và Nhà nước Việt Nam cũng được tổ chức tương tự. Sau năm 1975
và nhất
là sau sự mở đầu của một chính sách cải cách khá triệt để năm 1990, và
nhất là
Đại hội 10 năm 2006, thì mục tiêu chính của Đảng và Nhà nước cũng đã
khác hẳn.
Đảng không chỉ đại diện giai cấp công nhân mà là mọi tầng lớp lao động
kể cả chủ
tư bản với mục tiêu tối hậu là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân
chủ, văn minh”.
Quá trình đổi mới ở Việt Nam
không
mang tính chủ động mà là một chuỗi những phản ứng thụ động trước những
đòi hỏi
bức bách của tình thế, khi những kế hoạch mang tính chủ động nhưng nằm
trong
khuôn khổ của tư duy cũ như chính sách giá lương tiền đã đưa đến kết quả
tệ hại
hơn trước. Việc xin gia nhập tổ chức WTO, vì không thể tiếp tục đứng lẻ
loi,
cũng không thể nói là mang tính chủ động vì Việt Nam có thể xin gia nhập
tổ chức
này từ trước khi WTO ra đời vào năm 1995, ít nhất là khi Trưng Quốc làm
đơn xin
gia nhập vào năm 1986, thay vì mãi đến năm 1995 mới nộp đơn. Việc xin
vào chậm
đưa đến việc Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi so với Ấn Độ và Trung Quốc,
đặc biệt
trong lĩnh vực hàng may dệt vì không đuợc hưởng những cơ hội mở cửa thị
trường
thế giới khi các hạn ngạch áp dụng lên các nước xuất khẩu đuợc bãi bỏ từ
đầu năm
2005 cho các thành viên, với sự chấm dứt của Hiệp ước về dệt may ATC.
Quá trình đổi mới này thể hiện qua vai trò ngày càng quan
trọng của địa phương ở cả trong Đảng lẫn chính quyền, đưa dần đến sự suy
thoái
ảnh hưởng của vài “công thần” chế độ trong Bộ Chính trị Đảng mà kết quả
có thể
là tốt đẹp nếu nó dẫn tới việc hoạt động mang tính tập thể của Bộ Chính
trị. Quá
trình đổi mới cũng thể hiện bằng sự phát triển tự phát nhằm dần dần
khẳng định
quyền lực của Quốc hội đã được ghi trong Hiến pháp. Quyền lực này mang
tính đối
trọng với Đảng và Chính phủ. Nhưng chính vì tính tự phát, phá rào để tự
giải
quyết đời sống đã đưa đến tình trạng trạng tự “làm luật” để tự thu tự
chi nằm
ngoài ngân sách Nhà nước. Thu nhập của công chức đã không còn mang tính
thống
nhất mà được chia thành hai phần: phần lương chính thức và phần thu nhập
thêm
(có thể bằng hoặc vượt lương chính thức). Việc tăng thu nhập bằng mọi
cách tất
yếu dẫn đến những hành động “phi pháp” tập thể kể cả tham nhũng tập thể.
Nhưng
tiêu cực cơ bản là tình trạng “phi pháp” này phá hoại tính hoàn chỉnh và
thống
nhất của ngân sách quốc gia và tính chân thật của công chức. Ngân sách
không còn
phản ánh đúng thu chi của Nhà nước, nhất là công của người lao động
trong hệ
thống nhà nước. Việc Nhà nước hợp pháp hoá thu nhập tự phát này chỉ là
hành vi
chấp nhận sự đã rồi, và sẽ thật tệ nếu nhu cầu cải cách tiền lương và
ngân sách
không phải là ưu tiên số một. Chính việc hợp thức hoá này thực chất đã
trao
quyền cho cấp lãnh đạo ở các cấp có thể tự làm luật, kéo theo bè đảng
tham
nhũng. Nhiều người vì đem một ít quyền lợi cho cấp dưới (và nhiều quyền
lợi cho
chính mình) lại được coi là người có đầu óc tiến bộ, đảng viên tiên
tiến. Do
công chức không được tuyển chọn độc lập và lại không có luật bảo vệ tính
chuyên
nghiệp của công chức, cho nên họ luôn luôn “e dè” cấp trên do Ban Tổ
chức ở
Trung ương, Ban Cán sự ở các Bộ và Ban Tổ chức ở các tỉnh sắp đặt sẵn.
Về mặt
chính trị, chống tham nhũng đòi hỏi xây dựng một hệ thống công chức mang
tính chuyên nghiệp được luật pháp bảo đảm để phân biệt giữa cán bộ chính
trị
được Đảng hay chính phủ cử với công chức được tuyển dụng (sẽ không bàn
đến trong
bài này). Nó cũng đòi hỏi sự phân quyền và hệ thống độc lập của kiểm sát
và toà
án - nghĩa là tạo một bước quan trọng trong quá trình dân chủ hóa. Về
mặt kinh
tế, nó đòi hỏi cải tổ ngân sách với lộ trình xoá bỏ một cách cơ bản thu
nhập
thêm ngoài ngân sách và bảo đảm tiền lương
trong ngân sách đủ sống. Bài này nhằm xem xét quá trình đổi mới vừa qua và khả
năng đổi mới sắp tới trong hệ thống chính trị Việt Nam để từ đó xem xét khả năng
đáp ứng với mục tiêu phát triển dân chủ và chống tham nhũng của hệ thống tổ chức
Đảng và Nhà nước Việt Nam.
PHẦN I
SỰ CHUYỂN ĐỔI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1975
1. Quyền lãnh đạo không tập trung vào một cá
nhân, nhưng cũng không phải là lãnh đạo tập thể mà tập trung vào một vài cá nhân
kéo dài suốt từ 1975 đến Đại hội 10 (2006)
Trước năm 1975, mục tiêu chính của tổ chức Đảng và
Nhà nước miền Bắc Việt Nam là lãnh đạo chiến tranh giải phóng, với mục đích tối
hậu là thực hiện một xã hội thủ tiêu tư bản tư nhân dưới sự lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng Cộng sản. Đứng đầu và có thể quyết định mọi chuyện trong Đảng và Nhà
nước thực chất là một số uỷ viên Bộ Chính trị. Ban Chấp hành Trung ương và Nhà nước chỉ là cánh tay nối dài nhằm thực hiện mọi
quyết định của Bộ Chính trị. Đại hội Đảng lần thứ 3 năm 1960 bầu Bộ Chính trị
gồm 11 người thêm 2 ủy viên dự khuyết, trong đó quan trọng nhất phải kể đến Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng. Ban Chấp hành Trung ương gồm 47
người, thêm 31 dự khuyết. Hệ thống lãnh đạo này được duy trì suốt 16 năm cho đến
năm 1976.
Sau 16 năm, Đại hội Đảng lần thứ 4 họp năm 1976
khi đất nước thống nhất; mục đích tối hậu được xác định rõ ràng hơn: một chế độ
không còn tư bản tư nhân, thị trường bị xoá bỏ. Nhà nước dưới sự chỉ đạo của
Đảng điều động và lên kế hoạch mọi hoạt động của đời sống. Số ủy viên Bộ Chính
trị tăng lên 14 với 3 dự khuyết; Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 người với 32
dự khuyết. Số ủy viên được tăng là nhằm đưa vào Ban Chấp hành Trung ương những
người lãnh đạo tỉnh, ngành trọng yếu trên khắp miền Nam và miền Bắc. Thực chất
lãnh đạo toàn diện vẫn nằm trong tay một vài người trong Bộ Chính trị. Sự mở
rộng Ban Chấp hành Trung ương là nhằm mở rộng vai trò điều hành của Đảng ở mọi
nơi.
Bảng 1. Các Đại hội Đảng từ 1960-2006[1]
Năm
|
Các Đại hội
|
Số ủy viên Bộ Chính trị,
Ban Chấp hành
Trung ương
|
Tổng bí thư, Thủ tướng
|
1960
|
Đại hội 3
|
Bộ Chính trị: 11+2
Ban Chấp hành
Trung ương: 47+31
|
Bí thư thứ nhất: Lê Duẩn
Thủ tướng: Phạm Văn Đồng
|
1976
|
Đại hội 4
|
Bộ Chính trị: 14+3
Ban Chấp hành
Trung ương: 101+32
|
Tổng bí thư: Lê Duẩn
Thủ tướng: Phạm Văn Đồng
|
1982
|
Đại hội 5
|
Bộ Chính trị: 13+2
Ban Chấp hành
Trung ương: 116 + 36
|
Tổng bí thư: Lê Duẩn
Thủ tướng: Phạm Văn Đồng
|
1986
|
Đại hội 6
|
Bộ Chính trị: 13+1
Ban Chấp hành
Trung ương: 124+ 49
|
Tổng bí thư: Nguyễn Văn Linh:
Thủ tướng: Đỗ Mười
|
1991
|
Đại hội 7
|
Bộ Chính trị: 13
Ban Chấp hành Trung
ương: 146
|
Tổng bí thư: Đỗ Mười
Thủ tướng: Võ Văn Kiệt
|
1996
|
Đại hội 8
|
Bộ Chính trị: 19
Ban Chấp hành Trung
ương: 170
|
Tổng bí thư: Lê Khả Phiêu
(Ban Chấp hành Trung
ương bầu cuối năm 1997)
Thủ tướng: Võ Văn Kiệt
|
2001
|
Đại hội 9
|
Bộ Chính trị: 13
Ban Chấp hành Trung
ương: 150
|
Tổng bí thư: Nông Đức Mạnh
Thủ tướng: Phan Văn Khải
|
2006
|
Đại hội 10
|
Bộ Chính trị: 14
Ban Chấp hành Trung
ương: 160+21
|
Tổng bí thư: Nông Đức Mạnh
Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng
|
Bắt đầu từ năm 1977, Đảng chủ trương “cải tạo công
thương nghiệp và nông nghiệp” ở miền Nam mà thực chất là xoá bỏ tư bản tư nhân
và cưỡng bách nông dân vào hợp tác xã. Mới đây, trong góp ý với Đại hội 10
(2006),[2]
Võ Văn Kiệt cho rằng đây là sai lầm tả khuynh mà đến nay những cá nhân ra quyết
định vẫn không bị phê phán. Ông cho rằng đây là “nguyên nhân chính dẫn tới khủng
khoảng và ách tắc, gây những thiệt hại rất lớn lao cho kinh tế…”, tạo ra “hiện
tượng ‘di tản’, ‘thuyền nhân’” “những vết thương trên cơ thể đất nước, để lại
những di chứng trong tâm hồn của không ít đồng bào ta.” Điều này đưa đến việc
Nguyễn Văn Linh từ chức ủy viên Bộ Chính trị, có lẽ vì không đồng ý với quyết
sách đó. Dựa vào lời phê phán của ông Kiệt thì nhiều quyết định của Bộ Chính trị
không hẳn là mang tính tập thể.
Cả một thời gian dài từ 1975 đến 1986 khi Lê Duẩn
qua đời, việc quyết định vận mệnh đất nước có lẽ chỉ nằm trong tay vài người. Và
có lẽ những quyết định ấy không phải là những quyết định tập thể, dựa trên
chương trình làm việc tập thể và thường xuyên bởi vì tập thể Bộ Chính trị chỉ
họp quyết định về một vấn đề quan trọng nào đó khi vài nhân vật chủ chốt đồng ý
họp bàn về vấn đề đó. Dù nhận xét này cần được sử liệu làm rõ thêm, nhưng hồi ký
của một số người cũng phần nào xác nhận sự tin cậy của nhận xét này là quyền
hành quyết định cao nhất về một số vấn đề đã được phân chia ranh giới đến mức
chỉ khi nào người có quyền tối hậu đồng ý thì mới có thể đi đến cái gọi là quyết
định tập thể. Tất nhiên đây là điều được nhiều người giải thích là nguyên tắc
không thành văn: “chờ đợi nhau đồng thuận" của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhờ nó
mà Đảng tránh được những cuộc tranh giành quyền hành đẫm máu xảy ra ở những Đảng
Cộng sản khác. Hồi ký của Anh hùng tình báo Nguyễn Tài[3]
cho thấy là việc ông ta bị nghi ngờ hợp tác với địch khi bị bắt ở miền Nam kéo
dài từ 1977 đến 1988 chỉ được giải quyết khi người trách nhiệm về nhân sự và an
ninh là Lê Đức Thọ (Trưởng ban Tổ chức Trung Ương) gật đầu cho trắng án. Trong suốt thời
gian 10 năm, mọi đề nghị của cá nhân, cơ quan điều tra, hoặc Ban Bí thư chỉ có
tác dụng là tránh được cho ông ta phải nằm nhà đá. Ngoài ra cũng được báo chí nước
ngoài nói tới là sự kiện hoãn ký kết Hiệp định Thương mại Việt Mỹ giữa Bill
Clinton và Phan Văn Khải vào phút chót ngay tại Tân Tây Lan khi hai bên đã sửa
soạn ký[4]
với lý do là Việt Nam muốn làm rõ thêm vài điểm, trong khi thực tế lý do chính
là một lãnh tụ đã về hưu đòi hỏi xem xét. Nhận xét này cho thấy tầm ảnh hưởng cá
nhân, kiềm chế hoặc vượt lên quyết định của tập thể là ở mức cao.
Sơ đồ 1: Tổ chức Đảng
(có một chỗ khác với tổ chức hiện nay là Ban Kiểm tra Trung Ương không do
đại hội bầu)
Trao đổi giữa tác giả với một số người có quyền
trong lúc đó cũng cho thấy là việc giam giữ người trong bộ máy chính quyền miền
Nam trong những trại tù binh (được gọi là trại học tập cải tạo) kéo dài quá lâu,
vi phạm lời hứa của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam cũng chỉ vì
một số người chủ chốt trong Bộ Chính trị chưa đồng ý vì lo sợ sự phá
hoại của họ nếu được thả ra. Việc để quân Việt Nam ở Cam-pu-chia quá lâu, thay
vì giao lại cho Liên Hợp Quốc, cũng thế: nó đòi hỏi Lê Đức Thọ và sau đó là Lê
Đức Anh gật đầu. Nhận xét này không nhằm phê phán cá nhân mà nhằm
đưa tới một phân tích quan trọng mà tác giả sẽ trình bày sau này: đó là do cách
làm việc như trên mà các quyết định, đặc biệt là về kinh tế, không thể nhanh
chóng và phải chờ đợi đến lúc tình thế bức bách tới mức có thể tạo thành nguy cơ
sụp đổ chế độ thì các lãnh tụ mới lấy quyết định. Tại sao phải chờ đợi: Cần đồng
thuận? Không nắm được thông tin? Độc quyền thông tin? Không tin dùng người có
khả năng phân tích? Đánh giá chính trị bất lợi bất cứ những ai có ý kiến ngược
chiều? Sự ngạo mạn của kẻ chiến thắng?
Vâng, không thể bỏ qua yếu tố ngạo mạn của kẻ
chiến thắng, nhất là từ một số lãnh đạo tối cao. Thái độ thách thức biến Trung
Quốc thành kẻ thù sau chiến tranh rõ ràng có nguyên nhân từ thái độ của Trung
Quốc và ý đồ của họ nhằm đổi chác quyền lợi của Việt Nam để tạo mối giao hảo với
Mỹ. Xa hơn, nó có nguyên nhân sâu xa là Trung Quốc có ý đồ chiến lược lâu dài
nhằm kiểm soát toàn bộ biển Đông. Do đó, Trung Quốc đã chiếm đóng Hoàng Sa trước
khi Mỹ và miền Nam hoàn toàn thất bại, và chiếm thêm một vài hòn đảo ở khu vực
Trường Sa sau giải phóng. Tuy nhiên sự thù nghịch với Trung Quốc cũng có thể có nguyên
nhân từ tính ngạo mạn sau chiến tranh chống Mỹ của một số lãnh đạo cao cấp và có thể là toàn ban
lãnh đạo đảng, tưởng rằng kẻ thù nào cũng phải run sợ vì cho rằng Việt Nam có
thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào.
Nhưng, dù đánh bại Cam-pu-chia hay đẩy lùi cuộc tấn công của Trung Quốc vào năm
1979 thì chính Việt Nam lại rơi đúng vào cái bẫy mà Trung Quốc đã gài sẵn: đẩy
Việt Nam vào cuộc chiến tranh dài lâu nhằm cô lập Việt Nam và làm nền kinh tế
của Việt Nam kiệt quệ. Hơn nữa do thiếu tầm nhìn chiến lược dài lâu, cho nên dù
trước tình hình quan hệ với Trung Quốc xấu như thế, Lê Duẩn và có thể các
nhà lãnh đạo khác lúc đó cũng vẫn không thấy sự cần thiết phải liên hệ với Mỹ để
cân bằng sự đe doạ của Trung Quốc. Thay vì chấp nhận lập lại ngoại giao với Mỹ
theo đề nghị của Tổng thống Mỹ Carter thì lại đòi họ bồi thường chiến tranh như
là điều kiện để có ngoại giao.[5]
Điều gì đã đưa đến quyết định trên – vượt
khỏi truyền thống được chấp nhận gần cả ngàn năm của cha ông ta từ thời Lý, Trần
và gần nhất là thời Quang Trung Nguyễn Huệ là gửi sứ thần sang Trung Quốc xin
triều cống để tránh việc họ gửi quân trở lại sau khi quân xâm lược của họ bị
Việt Nam đánh bại? Chính sách sai lầm này đưa đến việc Việt Nam hoàn toàn bị cô lập
trên thế giới cho đến khi rút quân khỏi Cam-pu-chia và giải quyết với Trung
Quốc. Hàng chục năm chiến tranh để chỉ trở lại chỗ cũ!
Võ Văn Kiệt đã viết rằng: “Các cuộc họp Ban Chấp
hành Trung ương là nơi phát huy dân chủ và trí tuệ của Ban Chấp hành Trung ương
để thảo luận, ra các quyết định và chính sách…Không nên tái diễn lại tình trạng
có lúc Ban Chấp hành Trung ương biến thành nơi ‘quán triệt’ một chủ trương chính
sách đã định trước…”[6]
Phát biểu này cũng khẳng định thêm nhận xét ở trên về vai trò lãnh đạo tối cao
của Bộ Chính trị. Chỉ có điều Võ Văn kiệt không cho biết rõ là tình trạng
đã bắt đầu từ khi nào. Võ Văn Kiệt nhắc lại nguyên tắc của Đảng là Đại hội là cơ
quan quyền lực cao nhất và cho rằng Uỷ Ban Kiểm Tra Trung ương phải do Đại hội
bầu (Góp ý về điều lệ Đảng, thư 2/7/2005). Sơ đồ 1, khác với sơ đồ tổ chức hiện
nay của Đảng ở chỗ nó phản ánh ý kiến đề nghị của Võ Văn Kiệt là Uỷ Ban Kiểm Tra
Trung ương nên được đại hội bầu ra. Trong khi theo sơ đồ này, như Võ Văn Kiệt
phát biểu, Bộ Chính trị không phải là cấp cao của Ban Chấp hành Trung ương (vì
được Ban Chấp hành Trung ương bầu ra) và Ban Kiểm tra Trung ương nên do Đại hội
bầu (nhưng ý kiến này không thành hình, Uỷ Ban Kiểm Tra Trung ương theo điều 17
Điều lệ Đảng hiện nay vẫn do Ban Chấp hành Trung Ương, khác với sơ đồ 1). Tuy
nhiên ở đây cũng cần phân biệt rõ đâu là cơ quan làm chính sách và đâu là cơ
quan lấy quyết định thực hiện chính sách nếu không tính hiệu quả của hệ thống sẽ
không còn.
2. Đổi mới từ năm 1988 đưa đến sự tăng cường
quyền lực của địa phương và sự suy yếu quyền lực của Bộ Chính trị
Đổi mới, chủ yếu về chính sách kinh tế, chỉ bắt
đầu mang tên gọi rõ nét này khi Trường Chinh lên chức Tổng bí thư vào tháng 7
năm 1986 với khẩu hiệu “đổi mới”, tức là trước đó vẫn còn một vài người lãnh đạo
chủ chốt chưa chịu gật đầu. (Vấn đề này thường được giải thích là lãnh đạo cần
chờ đợi nhau vì yêu cầu đoàn kết nhất trí). Tuy nhiên, quá khứ đè nặng, đồng
thời với sự không đồng tình ủng hộ của Lê Đức Thọ, Trường Chinh không tiếp tục
được ngôi vị. Ba lãnh tụ cao cấp nhất, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và đặc biệt
là Lê Đức Thọ về hưu, như một giải pháp nhân danh "đoàn kết nội bộ". Nhưng dù về
hưu họ vẫn muốn giữ “uy” (chữ của Võ Văn Kiệt) trong vai trò cố vấn, và sau này
dù không còn ban cố vấn trung ương, các nhân vật quan trọng vấn tìm cách giữ cái
“uy” .
Đại hội 6 vào tháng 12 năm 1986 bầu Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư. Số ủy viên
Bộ Chính trị không tăng so với trước đó nhưng số ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương tăng lên 124 chính thức + 49 dự khuyết.
Nguyễn Văn Linh lên chức vị Tổng bí thư năm 1986
được sự ủng hộ của địa phương, đặc biệt là ở miền Nam, vì uy tín của ông trong
việc không chấp nhận và tiếp tục phản bác sau đó chính sách cải tạo tư sản ở
miền Nam sau năm 1975.[7]
Cũng do hậu thuẫn của địa phương mà ông lên nắm quyền, ông ta càng muốn tăng
hoặc ủng hộ đòi hỏi tăng số đại diện của địa phương trong Ban Chấp hành Trung
ương và tăng cường vai trò tự chủ trong quản lý kinh tế của địa phương. Trước
năm 1975, cả nước có 70 tỉnh (41 tỉnh ở miền Nam và 29 tỉnh ở miền Bắc).[8]
Sau khi thống nhất, với chính sách tập trung và kế hoạch hoá, năm 1979 số tỉnh
bị gộp lại thành 37 tỉnh và 3 thành phố. Do chủ trương tản quyền đồng thời với
đòi hỏi của địa phương, bắt đầu từ năm 1986, số tỉnh được từ từ chia ra theo
giới tuyến trước giải phóng. Thí dụ Bình Trị Thiên tách ra lại thành ba tỉnh là
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế; Hà Nam Ninh tách ra lại thành Hà Nam,
Nam Định và
Ninh Bình. Vào năm 1990 số tỉnh và thành phố tăng lên con số 44, năm 1996 tăng
lên 53, 1997 là 61, và từ năm 2004 là 64 tỉnh và thành phố. Số ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương do đó tăng lên, đạt mức cao nhất là 170 uỷ viên chính thức
(không còn dự khuyết) thời Lê Khả Phiêu năm 1996.[9]
Quyền lực của địa phương tăng cường có nguyên nhân
tất yếu từ sự phá sản của chính sách xoá bỏ kinh tế thị trường của trung ương và
tập trung kế hoạch và từ sự suy yếu quyền lực của Bộ Chính Trị do những thất bại
từ sau 1975. Do các chính sách sai lầm về nhiều mặt của trung ương, Việt
Nam bị bao vây kinh tế, cô lập về chính trị trên trường quốc tế, viện trợ của
Liên Xô và các nước Đông Âu chỉ giúp Việt Nam khỏi chết đói. Để tự sống, địa
phương đã phá rào, điển hình là Công ty lương thực của Thành phố Hồ Chí Minh do
bà Ba Thi, một thời nổi tiếng, làm giám đốc. Bà Thi sẵn sàng mua lúa gạo với giá
thị trường, kể cả tự xuất khẩu để có ngoại tệ nhập hàng bán cung cấp hàng hoá
cho nông dân. Bà được phong Anh hùng lao động vì có công phá rào. Tiếp đó là các
chính sách vượt rào của Long An và khoán sản phẩm của Đoàn Duy Thành ở Hải
Phòng.
Công ty bà Ba Thi cuối cùng mang nợ nước ngoài tới
hơn 10 triệu USD vì thiếu khả năng tính toán kinh tế. Công ty của bà
cuối cùng gần như phá sản.[10]
Đó là mặt trái của vấn đề phá rào. Vô kỷ luật có
lúc được coi là anh hùng, và thực tế nó đòi hỏi thế khi hệ thống mất tính logic
không còn đáp ứng nổi với đòi hỏi của cuộc sống, nhất là khi hệ thống đưa con
người tới chỗ không tự nuôi nổi mình để có thể phải hành động mất nhân tính,
nhưng mặt trái của nó là phá hỏng tính thống nhất và kỷ cương của hệ thống.
Tình trạng vô kỷ luật, coi thường pháp luật, địa phương chủ nghĩa phát triển và
kéo dài sau đó. Các cuộc cải cách sau này là những cố gắng xây dựng một hệ thống
mới. Tuy nhiên như đã nói, vì lãnh đạo mất thời gian
“chờ đợi nhau” đồng thuận,
và vì họ chỉ bàn bạc tìm giải pháp khi phải đối phó khi tình hình trở nên nghiêm
trọng, cho nên việc tìm kiếm mô hình mới không mang tính tự giác dựa trên nghiên
cứu và thảo luận chuyên sâu của chuyên gia, kết quả là ngay trong thời điểm hiện
nay mô hình quản lý nhà nước và sự liên hệ giữa đảng và chính quyền không thể rõ
ràng. Liên hệ trong hệ thống quyền lực chưa rõ ràng thì tham nhũng, tình trạng
thiếu hiệu quả trong việc quản lý nhà nước là khó lòng tránh khỏi. Điều này sẽ
được phân tích sâu hơn ở phần II.
Trong thời phá rào, nổi bật từ năm 1986 đến đầu
năm 1989, kinh tế địa phương có khá hơn nhưng nền tài chính quốc gia đi gần đến
suy sụp gần như toàn diện. Trung ương rỗng túi. Địa phương thu thuế nhưng không
muốn nộp về trung ương vì họ cần giữ lại để cứu đói hoặc cứu nguy nền kinh tế
địa phương. Tỷ lệ thuế thu được trên GDP lúc đó cũng ở mức rất thấp khoảng 4%
năm 1989-1990 so với năm 2005 là 16.7%. Tổng thu của Nhà nước từ nội địa chỉ là
13% so với hiện nay là 23.7% GDP.[11]
Vào khoảng thời gian này, lạm phát tăng phi mã vì nguồn chi chủ yếu là in khống
tiền, nhất là khi viện trợ của Liên Xô chấm dứt.
Vai trò của địa phương tăng nhưng vẫn chưa đủ sức
mạnh để chấm dứt được vai trò quyết định của “một số cá nhân” thường được dư
luận gọi là “công thần” trong Bộ Chính trị và ngay cả khi họ không còn ở trong
Bộ Chính trị. Trên ý niệm khái quát trên, ảnh
hưởng của vài cá nhân tiếp tục tăng tới đỉnh điểm ở Đại hội 8 (1996). Do vậy,
đây là lần đầu tiên chức Tổng bí thư của Lê Khả Phiêu không được bầu ngay tại
Đại hội mà được các công thần dàn xếp sau đó, với danh nghĩa Ban Chấp hành Trung
ương bầu năm 1997. Khi ba vị công thần trong Ban Cố vấn là Đỗ Mười, Lê Đức Anh
và Võ Văn Kiệt còn ngồi đó, Lê Khả Phiêu không khác gì một nhà lãnh đạo bị trói
tay, lại phải đối phó với nền kinh tế bắt đầu gặp khó khăn do cuộc khủng hoảng
tài chính ở Á châu năm 1997, đưa đến tình trạng số lượng đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam giảm hẳn. Lê Khả Phiêu là một người không có kinh nghiệm gì về kinh tế
và hành chính mà chỉ là một thượng tướng, Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị, một chính trị viên được đánh giá là trong sạch. Sự
xuất hiện của Lê Khả Phiêu có vài lý do: (a) sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 đòi
hỏi một người trung thành và cứng rắn, (b) Nông thôn và Tây nguyên nổ ra những
cuộc biểu tình phản đối việc chiếm đoạt đất đai và nạn tham nhũng ngày càng tràn
lan.
Vào thời điểm 1997, tác dụng tích cực lúc đầu của
chính sách tự do giá cả lương thực và sự xoá bỏ các hợp tác xã của đổi mới không
còn nữa. Không những thế đời sống nông thôn ngày càng thấp kém so với thành phố
vì đầu tư của nhà nước và của nước ngoài chỉ tập trung vào thành phố. Thêm vào
đó là quyền hành không kiềm chế của Đảng và chính quyền địa phương được mở rộng
trong thời trước đổi mới đưa đến việc thao túng quyền lực như tự “làm thuế” ở
địa phương, áp dụng lao động cưỡng bách, cùng với việc đòi nhân dân đóng góp quá
đáng để xây đường, làm đường tải điện (như ở Thái bình mỗi cá nhân bị ép đóng góp
lên tới 200 ngàn đồng theo giá thời điểm 1997) nhưng lại bị tham ô đục khoét.
Các cuộc biểu tình của nông dân xảy ra khắp nơi, cao điểm nhất là cuộc biểu tình
của nông dân Thái Bình vào tháng 4 và tháng 7 năm 1997, mở rộng đến 128 làng ở 6
trong 7 huyện.[16]
Theo báo Nhân Dân (6/11/1992), từ 1988 đến 1992 có 50 vụ xung đột nghiêm trọng
phản đối việc phân chia ruộng đất không bình đẳng. Kết quả của các cuộc biểu
tình này là sự tham gia phản kháng của một số người, trong đó có tướng Trần Độ.[17]
Thay vì đặt vấn đề phát triển cả kinh tế lẫn cải
cách bộ máy nhà nước để chống tham nhũng là mục tiêu đồng thời, Lê Khả Phiêu lại
chỉ đưa chủ trương chống tham nhũng với Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) năm 1999
và tỏ thái độ nghi ngờ Tây phương và lực lượng “diễn biến hoà bình” cả trong và
ngoài nước. Nghị quyết này không đả động gì đến việc cải cách thể chế quyền lực
theo hướng phân quyền, kiểm soát và cân bằng quyền lực trong hệ thống Đảng và
nhà nước để chống tham nhũng. Chỉ mới đây ông ta mới than phiền là Đảng “chưa
xây dựng được thiết chế để nhân dân tham gia giám sát đảng viên và giám sát
Đảng…Rồi toàn Đảng giám sát Trung ương. Trung ương giám sát Bộ Chính trị ra sao?”.[18]
Thời gian đó một số người liên quan đến tham nhũng bị phê phán như ủy viên trung
ương, Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc, ủy viên trung ương và Thống đốc ngân hàng nhà
nước Cao Sỹ Kiêm; hai bí thư tỉnh ủy (trong đó có tỉnh Thái Bình) bị cách chức.
Ngoài ra là các vụ Tân Trường Sanh (1999),
Minh Phụng EPCO (2000) và hàng loạt đảng viên cấp cao bị lật tẩy ở thành phố Hồ
Chí Minh. Trong bài phỏng vấn nhắc đến ở trên Lê Khả Phiêu kể rằng “khi tôi
còn làm TBT, có anh mang đến 5.000USD, tôi gọi anh Trần Đình Hoan lúc đó là
Chánh văn phòng Trung ương lên, ghi biên bản. Tôi không muốn đưa ra công khai
việc này nhưng muốn cảnh cáo người mang tiền đến xem anh đưa mấy nghìn USD để
làm gì, có phải để chạy chức, chạy quyền không. Không phải ít những trường hợp
như vậy đâu.” Tiền hối lộ tận tay mà không đưa ra công khai thì đúng là
người lãnh đạo cao nhất cũng còn không áp dụng theo tinh thần luật pháp. Khi Lê
Khả Phiêu, người cổ võ chống tham nhũng mất chức, tham nhũng được thể tiến tới,
thậm chí dư luận phổ biến trong quan chức cho rằng đó là “chất nhờn” cần thiết
cho bộ máy Nhà nước. Xì căng đan PMU18 trước Đại hội 10 (2006) là dễ hiểu.
Có nhiều lý do được giới quan sát nước ngoài,[19]
do ảnh hưỏng bởi tin đồn từ những người chống Lê Khả Phiêu, đưa ra giải thích để
sự mất chức của Lê Khả Phiêu như việc dùng Cục An ninh Quân đội để theo dõi hoạt
động của các ủy viên Bộ Chính trị, việc bị kết án bởi những tin đồn là nhượng
đất cho Trung Quốc, việc tiến cử người cùng quê Thanh Hoá và ý muốn kết hợp chức
Tổng bí thư với chức Chủ tịch nước. Tất nhiên cũng có tin đồn ngược lại là Lê
Khả Phiêu dùng bộ phận A10 để điều tra của cải đặc biệt của gia đình các công
thần. Sự thật như thế nào thì phải đợi các sử gia sau này trả lời. Lê Khả Phiêu
bị thay thế trong Đại hội Đảng năm 2001 và người thay thế là Nông Đức Mạnh, lần
này được bầu trong Đại hội.
Ở Đại hội 8 năm 1996, Bộ Chính trị vẫn không giải
quyết được vấn đề lãnh đạo cao cấp như một tập thể, điều này thể hiện rõ nhất
qua việc các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt bị áp lực về hưu một năm sau
đại hội (lần đầu tiên xảy ra) để nhường chức cho ông Lê Khả Phiêu lên nắm chức
Tổng bí thư vào cuối năm 1997. Dù về hưu, ba vị trong Ban Cố vấn, những nhân vật
chủ chốt trong Bộ Chính trị cũ, vẫn tìm cách khống chế Tổng bí thư. Cuộc tranh
dành ảnh hưởng này đưa đến việc ông Lê Khả Phiêu bị loại ở Đại hội 9 vào năm
2001 và ông Nông Đức Mạnh lên thay thế. Sự việc này đánh dấu sự suy yếu thực
quyền của Bộ Chính trị.
Chống tham nhũng thất bại bởi vì tham nhũng không
phải chỉ do người có quyền tạo ra mà còn do cơ chế và chính sách. Chống tham
nhũng chí ít đòi hỏi việc bảo đảm hoạt động dân chủ trong trong quá trình đổi mới
cơ chế và chính sách. Điều này sẽ được phân tích thêm ở Phần II.
Kết quả Đại hội 10 (2006) cho thấy vai trò nòng
cốt của địa phương. Trong 64 tỉnh thì Bí thư Tỉnh ủy của 63 tỉnh trở thành ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương và riêng thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mỗi tỉnh
còn được thêm 1 ghế nữa. Số ghế dành cho địa phương như vậy chiếm 40% tổng số
ghế Ban Chấp hành Trung ương, số ghế quan trọng thứ hai là 28 ghế dành cho đầu
não trong hệ thống hành chính như các bộ ngành trung ương, rồi đến Quân đội dành
được 18 ghế, Công an 7 ghế; tổng số này có thể chiếm 40% ghế Ban Chấp hành Trung
ương. Các đoàn thể mặt trận, phụ nữ, lao động, đoàn thể quần chúng khác, đại
biểu chuyên biệt trong quốc hội chỉ chiếm khoảng 20%. Vai trò địa phương này
đối với sự phát triển của kinh tế và xã hội thật sự là điều cần thiết cho dân
chủ nhằm phát triển tính năng động và cạnh tranh trong quá trình phát triển,
miễn rằng nền tài chính quốc gia và tiền tệ được quản lý tập trung và thống nhất
và luật pháp quốc gia được tôn trọng. Vấn đề địa phương hoá Đảng đặt ra câu hỏi
mới: cái gì về dài lâu làm hệ thống Đảng gắn kết với nhau ngoài mục tiêu tiếp
tục nắm chính quyền?
4. Sự chuyển hướng triệt để trong mục tiêu phát
triển của Đảng
Các Đại hội Đảng trước đây còn xác định vai trò
lãnh đạo của giai cấp vô sản trong Đảng. Đại hội 10 (2006) về thực chất bỏ hẳn
mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa một Nhà nước Cộng sản, không có
giai cấp, qua việc cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân, việc chấp nhận
mọi thành phần kinh tế, và việc cho rằng Đảng là của tất cả mọi người lao động,
Đại hội Đảng 2006 đã đánh dấu một cách dứt điểm sự chuyển hướng mục tiêu của
Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng đã rũ bỏ vai trò làm cách mạng chuyên nghiệp dưới
sự lãnh đạo của thành phần ưu tú nhất trong Đảng sang một Đảng chính trị thuần
túy trong một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đảng ngày càng mang tính chất đại
diện địa phương, thành phần xã hội và cơ quan hành chính, cơ bản là từ dưới cử
lên. Chỗ ngồi lãnh đạo địa phương và ngành nghề đã được định sẵn từ vòng bỏ
phiếu ở đại hội cấp dưới trước Đại hội toàn Đảng. Thậm chí việc bầu người vào
Ban Chấp hành Trung ương xảy ra trước khi Đại hội bàn về phương hướng và chính
sách của Đảng. Tinh thần và mục tiêu cách mạng, tính ưu tú và tầm nhìn chiến
lược gần như không còn chỗ đứng. Trước Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương cũ đã
sắp đặt sẵn hoặc chấp nhận tính đại diện hành chính đã được địa phương sắp đặt
sẵn. Trong Đại hội, gần như chỉ có 2 người được sắp đặt sẵn không trúng cử vì có
vấn đề.
Đến Đại hội 10, vai trò và ảnh hưởng của các công
thần không còn mang tính quyết định. Điển hình là
quan điểm thủ cựu giáo điều của một số công thần dùng chiêu bài chống diễn biến
hoà bình và bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê đến cùng (được đăng tải rộng rãi trên báo
chí) đã không còn được chấp nhận. Đảng đã chấp nhận cho việc đảng viên làm nhà
tư bản, và chấp nhận xem xét, bổ sung và sửa đổi các tín điều của chủ nghĩa. (Sẽ
bàn thêm ở phần sau). Qua đó cũng thấy các công thần đã mất khả năng điều
động Ban Chấp hành Trung ương và xã hội một cách toàn diện như trước đây, do đó
cũng mở ra cơ hội
cho phép Bộ Chính trị hoạt động trong tương lai
theo nguyên tắc tập thể cá nhân phụ trách.[20]
Võ Văn Kiệt cho rằng Bộ Chính trị không phải là cấp trên của Ban Chấp hành Trung
ương. Nhưng trên thực tế Bộ Chính trị chỉ có sức mạnh nếu như nó dám lấy quyết
định dựa vào phương hướng mà Ban Chấp hành Trung ương đề ra. Về thực tế, theo
tác giả nghĩ, Ban Chấp hành Trung ương sẽ tiếp tục mang tính đại diện địa phương
và ngành nghề, do đó thành viên Bộ Chính trị phải vượt lên trên tính địa phương
và chuyên ngành, phải là trí tuệ ưu tú, mang tầm nhìn chiến lược cho toàn quốc
gia, đặt lợi ích toàn thể trên lợi ích cục bộ thì Đảng mới tạo được sức mạnh,
mới đóng nổi vai trò lãnh đạo trong giai đoạn tới. Người ta có cảm tưởng thành
viên Bộ Chính trị vẫn chỉ gồm những người dĩ hoà vi quí để không mất lòng ai.
Chỉ trích của Võ Văn Kiệt nói chung là đúng đắn, nhưng về thực tế cái gút của
vấn đề là Bộ Chính trị. Ban Chấp hành Trung ương sẽ chỉ đóng vài trò bổ nhiệm
những người ưu tú vào Bộ Chính trị và kiểm soát Bộ Chính trị. Tất nhiên cũng phải
cần cơ chế kiểm soát Ban Chấp hành Trung Ương.
Đại hội 10 cũng đánh dấu một điểm thay đổi nhỏ
khác mà nếu phát huy đúng sẽ mang lại sự cân bằng cần thiết về quyền lực:
đó là lần thứ hai Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung
ương Đảng, Nguyễn Văn Chi, là một ủy viên Bộ Chính trị. (Trước đây, bà
Nguyễn Thị Xuân Mỹ cũng là Uỷ viên Bộ Chính trị, nhưng rõ ràng là vai trò của
Ban Kiểm tra Trung ương
đã không được đặt đúng mức vì bà không được coi là người có vị thế mạnh).
Điều này xảy ra có lẽ là do sự nổi cộm của vụ tham nhũng PMU18. Trước đây Ban
Kiểm tra Trung ương
chỉ gồm những người trong Trung ương. Để tạo được tính độc lập của Ban
Kiểm tra Trung ương, Sơ đồ
1 cho thấy ít nhất Ban này phải do Đại hội trực tiếp bầu ra thì mới có đủ tư
cách độc lập để kiểm tra Đảng.
Có thể tóm lược một số chuyển biến quan trọng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện rõ ràng hơn trong Báo cáo chính trị ở Đại hội,
nhưng lại không được thể hiện trong Điều lệ Đảng.[21]
Điều này có thể trong tương lai đưa đến việc diễn giải của đảng viên khác nhau,
một đàng dùng Báo cáo và một đàng dùng Điều lệ, nhưng cần để ý là Báo cáo không
chỉ là tuyên ngôn với đảng viên mà còn là lời hứa với dân chúng, còn Điều lệ chủ
yếu dành cho đảng viên:
-
Trong Báo cáo chính trị thì mục đích của Đảng
đã thay đổi, trọng tâm đặt vào mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, trong đó tư hữu được tôn trọng và mọi
thành phần kinh tế kể cả tư bản tư nhân trong và ngoài nước được bảo vệ (đã
có trong Hiến pháp 1992). Còn trong Điều lệ mới, thì vẫn xác định mục tiêu
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản, tức là xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ quyền tư
hữu: "Mục đích của Ðảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản."
-
Báo cáo chính trị đã được thông qua trong Đại
hội 10 (2006), đã có những thay đổi quan trọng như sau:[22]
-
đảng viên được quyền làm nhà tư sản không
hạn chế về mức độ. Điều này phản ánh qua câu viết trong Báo cáo:
"Đảng ta chủ trương: đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp
hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ
Đảng và quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương." Điều lệ mới
của Đảng hoàn toàn không nhắc đến chủ trương này.
-
đảng viên là “đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc." Tuy nhiên trong Điều lệ mới, Điều
1.1 vẫn giữ nguyên việc coi đảng viên là các chiến sĩ cách mạng như cũ:
"Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam..."
-
Báo cáo chính trị viết: “xây dựng Đảng theo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh” một cách mơ hồ nhưng đã
bỏ nhóm chữ “kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin ”[23]
mà sẵn sàng xét lại, bổ sung và sửa đổi bằng cách “tiếp thu kết quả tổng
kết 20 năm đổi mới, các công trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn
về xây dựng Đảng để xem xét, bổ sung, sửa đổi một số điểm cần thiết, chín
muồi.” Điều này mở cửa cho sự phát huy trí tuệ, giảm sự trói buộc của
kinh điển giáo điều, vượt cả những điểm viết trong Dự thảo Báo cáo: “Thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn
những vấn đề do cuộc sống đặt ra.”[24]
-
Các nhà lãnh đạo Đảng hiện nay và tương lai
cũng chỉ là những người lớn lên như bất cứ một người Việt Nam nào khác. Vai
trò lãnh đạo sẽ không được xây dựng trên sự hy sinh và cũng không bị đòi hỏi
hy sinh như thời chiến tranh. Ngược lại, chính ở vai trò lãnh đạo mà họ có
thể có quyền lực thu vén lợi ích cá nhân và gia đình nếu không có hệ thống
kiểm sát và cân bằng quyền lực.
Dù xã hội thay đổi có tính triệt để như thế, nhưng
trước mắt Đảng Cộng sản vẫn là đảng duy nhất ở Việt Nam lãnh đạo nhà nước, và do
đó có quyền cử người, chủ yếu là đảng viên, vào tất cả các chức vụ của nhà nước
từ Trung ương đến địa phương, cũng như chức vụ lãnh đạo các doanh nghiệp quốc
doanh, tạo ra khả năng gắn kết giữa tiền và quyền lực. Chính vì thế mà việc kiểm
tra sự trong sạch của đảng viên và việc cải cách bộ máy để thực hiện điều này là
điều cần thiết hơn bao giờ hết.[25]
Đòi hỏi của khách quan là một thể chế kiểm soát và cân bằng quyền lực chứ không
phải là phê bình tự phê bình.
5. Sự tăng cường quyền lực của Quốc hội
Trước đây, Quốc hội chỉ là nơi quán triệt quyết
định của Đảng và chỉ có tính nghi lễ. Từ Đại hội 8 (1996), khi vai trò của Tổng
bí thư
Lê Khả Phiêu yếu thế thì vai trò của Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh
trở nên mạnh hơn trước. Ít nhất là có một lần Quốc hội đã dùng quyền ghi trong
Hiến pháp 1992 bác bỏ ứng cử viên Cao Sĩ Kiêm (một ủy viên trung ương) vào chức
vụ Thống đốc Ngân hàng theo đề nghị của Thủ tướng Phan Văn Khải. Quốc hội cũng
đã bắt đầu có những buổi chất vấn Bộ trưởng, rồi phát hình cho quần chúng xem.
Vai trò của Quốc hội được nâng cao hơn thời kỳ sau Đại hội 9 (2001) khi Nông Đức
Mạnh làm Tổng bí thư và Nguyễn Văn An làm chủ tịch Quốc hội. Quốc hội đã có đại biểu
chuyên trách, khoảng 20% số đại biểu, thay vì kiêm nhiệm như vừa làm bí thư,
chủ tịch tỉnh, hoặc bộ trưởng vừa làm đại biểu quốc hội. Những chất vấn đã có
nội dung hơn nhưng vẫn chưa đạt được phẩm chất của những buổi chất vấn được tổ
chức công khai, kéo dài nhiều ngày nếu cần như ở các nước phương Tây. Các buổi
chất vấn của Quốc hội thiếu tính chuyên nghiệp vì chỉ xảy ra trong các hai kỳ
họp thường xuyên hàng năm của Quốc hội với thời gian ít ỏi và thiếu chuẩn bị của
những người hỏi không chuyên nghiệp.
Dù sao ở một nước độc đảng, diễn biến ở Việt Nam
cho thấy Quốc hội vẫn có thể trở thành một cơ quan đối trọng quan trọng với cơ
quan hành pháp và Đảng, đóng góp vào việc mở rộng dân chủ và làm giảm bớt tham
nhũng và lạm quyền trong bộ máy nhà nước và Đảng, và tính đối trọng này sẽ mạnh
hơn nếu Quốc hội chỉ gồm các nghị sĩ chuyên nghiệp, được dân chúng chọn lựa. Lý
thuyết cân bằng quyền lực vẫn có thể thực hiện trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sự tự
phát xử dụng quyền lực Quốc hội Việt Nam theo Hiến pháp trong thời gian qua cho
thấy bản thân xã hội đã ngầm bày tỏ nhu cầu này.
Vai trò đối trọng trong hệ thống chính trị và quá
trình dân chủ hoá vẫn còn thuộc về tương lai vì mặc dù Hiến pháp bảo vệ quyền
ứng cử của dân chúng nhưng Luật Bầu cử thì vi hiến rõ rệt. Theo Luật Bầu cử,
người tự ứng cử chỉ được đưa vào danh sách ứng cử nếu như “hội nghị cử tri” ở cơ
quan, tổ chức và nơi ứng cử viên cư trú đồng ý. Điều 37 và 39 trong Luật Bầu cử
đề ra cơ chế nhằm loại trừ những người tự ứng cử. “Hội nghị hiệp thương lần
thứ hai do Đoàn Chủ tịch Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tổ chức…dự kiến
…danh sách sơ bộ những ứng cử người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý kiến ở
nơi cư trú” (Điều 37, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội) “chiếu theo tiêu
chuẩn đại biểu Quốc hội nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với ứng cử đại biểu
Quốc hội bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của Hội nghị.”
(Điều 39, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội). Chính Luật Bầu cử này cho phép Đảng
loại trừ bất cứ ai tự ứng cử mà họ không chấp nhận vì cái gọi là hội nghị cử tri
có thể được dùng làm biện pháp loại trừ ứng cử viên. Việc xoá bỏ điều vi hiến
này có thể là biện pháp nâng cao tính đại diện của Quốc hội Việt Nam. Nếu
chỉ muốn giảm số ứng cử viên thì một số nước đã thực hiện theo hai cách sau: a)
người ứng cử là đại biểu của đảng chính thống với số đảng viên đạt được một tỷ
lệ nhất định so với số dân, b) người ứng cử phải tự lấy được một tỷ lệ chữ ký
nhất định của cử tri trong khu vực mình ứng cử.
Sơ đồ 2: Tổ chức nhà nước
Sơ đồ 2 cho thấy tổ chức Nhà nước hiện nay. Vai
trò của Quốc hội đã được Hiến pháp xác định rõ ràng trong việc bổ nhiệm và cách
chức mọi thành viên trong chính phủ (Điều 84.7). Việc một số chức sắc cao cấp
của nhà nước thuộc quyền quản lý của Bộ Chính trị hay Ban Chấp hành Trung ương
thay vì thuộc quyền kiểm soát của Thủ tướng là sự hiểu ngầm giữa các đảng viên
(hay do luật ngầm của Đảng), chứ bản thân Thủ tướng có toàn quyền hành động theo
Hiến pháp (Điều 114.2), kể cả cách chức các chủ tịch và phó chủ tịch ủy ban nhân
dân tỉnh (Điều 114.3) cũng như đình chỉ các quyết định và nghị quyết của cấp
dưới (Điều 114.4 và 114.5). Vấn đề trên bảo dưới không nghe chính là do Thủ
tướng không dám thực hiện quyền được Hiến pháp giao. Ở địa phương, chính quyền
cấp trên cũng có quyền như thế. Cái chưa được trong Hiến pháp là tính độc lập
của Toà án Nhân dân Tối cao vì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu và
miễn nhiệm. Hai người, chánh án Toà án Nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm
sát Nhân dân, theo Hiến pháp lại có quyền bổ nhiệm tất cả các thành viên ở cấp
địa phương. Quyền hạn có vẻ lớn nhưng hiện nay thì chắc là mọi quyết định đều
phải có sự đồng ý của bí thư tỉnh. Tuy nhiên cũng như Quốc hội và Thủ tướng,
quyền hành của hai cơ quan này không đến nỗi hạn chế nếu bản thân người lãnh đạo
dám sử dụng quyền hạn của mình.
6. Vài nhận định về chuyển biến của Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam sau 1975
Bất cứ một kết luận cũng sẽ có người phản bác, tuy
nhiên một bài nghiên cứu về chuyển biến, dù ở dạng rất thô sơ, cũng không thể
không đưa ra một số nhận định. Nhận định có thể sơ lược như sau:
Khoá
4 và 5 (1975, 1982) thời Lê Duẩn:
Áp đặt chính trị và kinh tế toàn trị một cách duy ý chí trong cả nước theo mẫu
hình chủ nghĩa xã hội đã có mặt trên nhiều nước trên thế giới, bất chấp hoặc
không nắm bắt được những chuyển biến trong tình hình thế giới. Kinh tế Việt Nam
suy thoái, xã hội mất niềm tin.
Khoá
6 (1986) thời Nguyễn Văn Linh:
Khoá 6 có các đặc điểm: mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất ở trong nước, còn
bên ngoài, chủ nghĩa toàn trị sụp đổ một mảng lớn khi sự đổi mới về tư tưởng do
sự phá sản của đường lối cũ không thành công ở Đông Âu và đặc biệt ở Liên Xô,
hai năm đầu (1987 và 1988). Trước tình hình đó, từ mùa hè 1989, có sự co cụm và
siết chặt trở lại. “Ổn định”
bằng mọi giá, chống “diễn biến hoà bình”
bắt đầu từ đó.
Khoá
7 (1991) thời Đỗ Mười:
Đổi mới khá triệt để qua việc chấp nhận kinh tế thị trường, mặc dù chính sách
toàn trị trong chính trị vẫn tiếp tục. Kinh tế phát triển mạnh nhờ đổi mới kinh
tế và đầu tư nước ngoài. Mâu thuẫn trong nội bộ giữa ý hướng phát triển kinh tế
và chống diễn biến hoà bình. Hai năm 1990-1991 là cao điểm thời chống diễn
biến hoà bình trong đó có việc đề nghị với Trung Quốc giải pháp
“đỏ” ở
Cam-pu-chia mà Trung Quốc không đồng ý và Cam-pu-chia phản đối (coi thêm Hồi ký
Trần Quang Cơ, nguồn ở ghi chú 5).
Khoá
8 (1996) thời Lê Khả Phiêu
(Đỗ Mười làm phần đầu khoá, Lê Khả Phiêu chỉ phần sau khoá này): :
Nêu cao khẩu hiệu chống tham nhũng, chống diễn biến hoà bình, nhưng bỏ quên các
biện pháp cần thiết nhằm tăng đầu tư của tư nhân trong nước và làm giảm bớt ảnh
hưởng của việc giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, một phần do suy thoái của
khu vực vì khủng hoảng tài chính ở Á châu năm 1997 nhưng phần chính là do cải
cách đã không tiến thêm được bước nào đáng kể nên không đáp ứng được sự mong đợi
của tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài.
Khoá 9 (2001) thời Nông Đức Mạnh kỳ 1:
Tập trung trở lại việc đổi mới chính sách kinh tế nhằm vực dậy sức phát triển
kinh tế. Đảng hoá chính quyền, chất lượng lãnh đạo giảm sút (theo đánh giá của
Võ Văn Kiệt)[26]
vì quyền lực dựa vào “cơ cấu”, “quan hệ”, “dĩ hoà vi quí”. Tham nhũng phát triển
ở mức cao chưa từng thấy. Chính vì bức xúc chống tham nhũng mà vai trò đối trọng
của Quốc hội có dịp phát triển, có thể nói là tự phát.
Khoá 10 (2006) thời Nông Đức Mạnh kỳ 2:
Xoá bỏ tính chất “cách mạng” của Đảng về danh nghĩa, cho phép đảng
viên làm kinh tế tư bản tư nhân và cho
phép xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Cái cần được đặt ra là liệu thể chế có
thể dân chủ hơn không và Quốc hội có thể tăng cường quyền lực của mình hơn
không? Và liệu những phát triển trên vẫn mang tính tự phát hay do Đảng chủ động
thực hiện?
Các khoá tới:
Câu hỏi liên quan vẫn là liệu Đảng có thể chủ động đi vào hướng cải cách thể chế
nhằm tạo cạnh tranh trong Đảng, giữa các nhóm chủ trương chính sách khác nhau,
trong việc nắm chính quyền (chức Thủ tướng và các Bộ)? Câu hỏi quan trọng này
được đặt trong bối cảnh mục tiêu xã hội của Đảng đã thay đổi, do đó nhu cầu ổn
định xã hội đòi hỏi sự đồng thuận chứ không phải là sự đoàn kết nhất trí của
thời chiến tranh và cách mạng.
PHẦN II
THỬ TÌM MÔ HÌNH VIỆT NAM NHƯ MỘT MÔ HÌNH CHÍNH TRỊ
VÀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG NHẰM GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN XÃ HỘI:
VẤN ĐỀ CHỐNG THAM NHŨNG
Điều không ai nghi ngờ là tham nhũng là con đẻ của
một hệ thống nhà nước mà ở đó quyền lực không minh bạch, trách nhiệm không rõ
ràng, và lại không được kiểm sát, và hạn chế; và ở đó xã hội công dân bị kềm
kẹp, không thể phát triển để người dân tự bảo vệ quyền lợi của họ. Nhưng chính
tình trạng tham nhũng ngày
càng cao đã đòi hỏi sự cải cách thể chế một cách chủ động hơn trước đây, quan
trọng nhất là xác định các khâu cốt lõi để đổi mới: đó là xác định một hệ thống
nhà nước pháp quyền dựa trên nguyên tắc phân quyền có tính độc lập, kiểm sát lẫn
nhau và một hệ thống lương hợp lý. Nhưng để tìm hiểu về khả năng chống tham
nhũng ta cần thiết phải phân tích Việt Nam như một mô hình chính trị trong dạng
chuyển tiếp. Cải cách như thế nào? Có thể nghĩ về Việt Nam như một mô hình chính
trị ở trong dạng chuyển tiếp, dân chủ với những hạn chế nhất định nhưng có khả
năng chống tham nhũng?
1. Về sự chuyển động ra khỏi mô
hình toàn trị ở Việt Nam
Người ta có thể dễ dàng đi đến kết
luận là hệ thống hay mô hình độc Đảng tất dẫn đến tham nhũng. Nhưng điều này thì
Singapore hiện nay hay chế độ quân phiệt Park Chung Hee ở Nam Triều Tiên trước
đây là hai thí dụ phản bác. Hai chế độ này rất ít tham nhũng vì mục tiêu của
những người lãnh đạo là vì sự phát triển đất nước họ chứ không chỉ vì mục đích
nắm giữ quyền lực cho cá nhân để trục lợi cho bản thân, gia đình và phe phái do
đó họ chủ động thiết lập hệ thống, cơ cấu nhà nước và luật pháp nhằm tích cực
chống tham nhũng. Cái chính không phải là chỉ có cá nhân lãnh đạo đứng ra chống
tham nhũng và bảo đảm công lý. Điều quan trọng là có hệ thống và cơ cấu được
thiết chế để làm những chuyện này, để rồi khi cá nhân lãnh đạo không còn ngồi
ghế thì hệ thống, cơ cấu và luật pháp vẫn còn đó. Nhưng tất nhiên nó phải bắt
đầu từ người hay nhóm lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược.
Sơ đồ 3. Phân
loại các mô hình toàn trị và độc quyền
|
Cá nhân tự do kinh
doanh
|
Cá nhân không tự do
kinh doanh
|
Tôn giáo
|
|
|
Có chọn lựa
|
Mô hình xã hội dân sự:
Hầu hết các nước nằm ở mô hình này
|
|
Không có chọn lựa
|
Mô hình toàn trị tôn
giáo: Iran,
Saudi Arabia
|
|
Ý thức hệ
|
|
|
Có chọn lựa
|
|
|
Không có chọn lựa
|
Mô hình độc đảng:
Singapore, Trung quốc, Việt Nam hiện nay và Đài Loan trước đây. Tất
nhiên có sự khác biệt giữa các nước này về mô hình độc đảng.
|
Mô hình toàn trị ý
thức hệ:
Các nước cộng sản trước đây và các triều đại theo ý thức hệ Khổng tử
trước đây nằm ở mô hình này
|
Độc tài cá nhân
|
Mô hình độc tài cá
nhân: Nam
Hàn thời Park Chung Hee
|
|
Chú thích: Mục
đích của sơ đồ là làm rõ điều tác giả muốn trình bày
chứ không nhằm bàn sâu vào các dạng thức mô hình toàn trị và độc tài.
Tuy nhiên vẫn sẽ có người phản bác
lại “phản bác” trên và cho rằng không thể đánh đồng một chế độ độc tài với một
chế độ toàn trị. Chế độ độc tài có thể là độc tài của một người như Park Chung
Hee hoặc của một đảng như Đảng Nhân dân Hành động (People’s Action Party) của
Singapore chỉ nhằm nắm quyền chính trị; chúng không nhằm xây dựng con người và
tư tưởng con người theo một khuôn mẫu lý thuyết đã định sẵn do đó chúng không
xâm phạm vào đời sống từng người, từng gia đình nhằm uốn nắn tư tưởng và hành
động của họ theo khuôn mẫu đã định sẵn. Trái lại, chế độ toàn trị có mục tiêu
nắm, nặn và sắp xếp mọi hoạt động của con người từ tư tưởng, tôn giáo, đời sống
xã hội, và có thể bao trùm cả đến cả chính trị lẫn kinh tế. Chế độ toàn trị của
Liên Xô trước đây (ở đây tác giả tránh bàn về lý do tại sao một chủ nghĩa với
mục tiêu cao đẹp nhằm giải phóng con người của Marx, khi ghép vào một đảng cầm
quyền, lại trở nên toàn trị) và chế độ toàn trị ở Iran hiện nay khá giống nhau
trên nhiều mặt, đặc biệt là mục tiêu áp đặt một ý thức hệ/giáo lý có tính toàn
diện trên toàn xã hội do đó con người sống trong đó cảm thấy bị bức bách, mất tự
do, không thể chủ động trong sáng tạo. Tuy nhiên có một sự khác biệt quan trọng
là Iran cho phép tự do kinh doanh thì chế độ toàn trị của Liên Xô lại khác hẳn
vì ở đó mọi hoạt động kinh tế, cung cấp việc làm cũng là do nhà nước quyết định,
do đó mà người dân bị kìm cặp một cách ghê gớm hơn, phải giả vờ chấp nhận chế độ
để có việc làm kiếm cơm. Vì phải lợi dụng mọi lỗ hổng để thoát gọng kìm, bệnh
giả dối, không trung thực, sống hai mặt là những biểu hiện phổ biến.
Dựa vào phân loại trong sơ đồ 3 thì
có thể nói xã hội Việt Nam đã thoát khỏi mô hình toàn trị, bởi hai lý do: người
dân đã có quyền tự do làm ăn, có quyền tư hữu và dù về mặt chính thống, chỉ có
một ý thức hệ được công nhận nhưng đã thoát khỏi cảnh mọi phát biểu, chữ viết
không những phải đắn đo mà còn phải theo khuôn khổ mà Đảng và nhà nước quyết
định nếu không, thân nhân có thể bị coi là "kẻ thù của giai cấp, của chế độ", có
thể bị tù tội, hoặc ít nhất là mất việc, hoặc không thể kiếm được việc làm, sống
bên lề xã hội và con cái cũng bị rơi vào vòng bị phân biệt đối xử. Ở Việt Nam
công bình mà nói, nhà nước không còn dùng đủ mọi thủ đoạn để hạn chế hoạt động
tín ngưỡng như trước đây và người dân cũng đã có quyền có niềm tin tôn giáo,
quyền ăn nói riêng tư với nhau, không sợ bị trừng phạt chỉ vì lời báo cáo của kẻ
khác, và quyền này cũng thể hiện cả trên báo chí ở một mức nhất định.
Sự chuyển động trong xã hội Việt Nam
từ 1975 như đã trình bày ở Phần I cho thấy Việt Nam đang trên quá trình thoát
khỏi sự áp đặt về tư tưởng chủ đạo trên mọi người dân: họ không còn bị cầm tù
chỉ vì việc từ chối chấp nhận chủ nghĩa Mác-Lê, và Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
đã chấp nhận tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường mà bản thân đảng viên
cũng có quyền “bóc lột thặng dư.” Hơn nữa như cũng đã trình bày ở phần I, Đảng
đã mở cửa cho việc “xem xét, bổ sung, sửa đổi” chủ nghĩa Mác-Lê. Tất nhiên là
còn sót lại điều nọ điều kia từ quá khứ nhưng có thể nói chế độ toàn trị về cơ
bản đã bị khai tử ở Việt Nam. Nó đang tiến đến chế độ độc tài như ở Nam Triều
Tiên trước kia và Singapore hiện nay. Nhưng khác với Nam Triều Tiên, và rất
giống Singapore, độc tài ở Việt Nam không phải là độc tài cá nhân mà là độc tài
của một đảng. Singapore chống được tham nhũng vì họ tôn trọng luật pháp và sự
phân quyền trong hệ thống nhà nước, đặc biệt là tôn trọng tính độc lập của toà
án, nhưng loại trừ quyền tự do hoạt động chính trị. Gọi là độc tài vì đảng cầm
quyền ở Singapore sẵn sàng mạnh tay đàn áp các hoạt động chính trị chống đối
bằng luật pháp mà chính đảng này viết ra.
2. Về khả năng phân quyền trong
cơ cấu quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Quá trình chuyển đổi ở Việt Nam đã
làm yếu thế quyền độc tôn của Đảng và tăng cường quyền lực của nhà nước. Điều
này trong thời gian qua đã thể hiện quan trọng nhất ở chiều hướng cai trị bằng
luật pháp, thay vì bằng quyết định của Đảng. Nhiều bộ luật quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến người dân đã ra đời như luật hình sự, luật dân sự, luật doanh
nghiệp, luật nhà ở, luật đất đai, luật đầu tư, v.v. Tuy nhiên việc xác định thế
nào là nhà nước pháp quyền thì còn chưa rõ. Nhà nước pháp quyền có thể hiểu là
nhà nước cai trị bằng pháp luật và chỉ bằng pháp luật, ở đó Hiến pháp được coi
là tối cao và mọi luật lệ phải tôn trọng nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Hầu
hết các nước đều viết Hiến pháp và luật pháp bằng văn bản, nhưng Anh là trường
hợp ngoại lệ, họ theo truyền thống luật tập tục không thành văn (common laws),
tức là làm theo và xử theo những gì trước đó đã được chấp nhận, tất nhiên không
phải họ không có luật thành văn. Việc phân quyền trong một nhà nước pháp quyền
là nhằm phân rạch ròi quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chủ yếu
là lập pháp (làm luật), hành pháp (thi hành các quyết định của lập pháp và tư
pháp) và tư pháp (toà án, diễn giải hiến pháp, luật và hướng dẫn thi hành luật).
Ở Việt Nam, vấn đề phân quyền chưa
rạch ròi vì định nghĩa một nhà nước pháp quyền chưa rạch ròi. Lý do chính là
quyền lực của Đảng đối với nhà nước chưa được xác định rạch ròi bằng luật pháp.
Chỉ một câu “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chưa đủ.
Điều lệ Đảng mới[27]
viết là đảng viên phải chấp hành luật pháp nhà nước, nhưng trước tiên là Cương
lĩnh, Điều lệ, nghị quyết và chỉ thị của Đảng:
Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho
mục đích, lý tưởng của Ðảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Ðiều lệ Ðảng, các nghị quyết của Ðảng và pháp luật của Nhà nước;
có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành
mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Ðảng, giữ
gìn đoàn kết thống nhất trong Ðảng. (Điều lệ Đảng, Điều 1.1)
Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan
nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị
quyết, chỉ thị của Ðảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hóa thành các văn
bản luật pháp của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có hiệu
quả. (Điều lệ Đảng, Điều 41.4)
Đảng và luật pháp
Việc đòi hỏi đảng viên
chấp hành quyết định của Đảng là điều đúng đắn, nhưng Hiến pháp và pháp luật
phải được xem là ở cấp bực cao hơn thì mới thực sự phản ánh quan điểm của một
nhà nước pháp quyền.[28]
Như vậy ở đây đối với Đảng viên, Điều lệ Đảng có thể đưa tới tình trạng đặt việc
chấp hành luật pháp nhà nước ở mức thấp hơn việc chấp hành Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng và các nghị quyết và chỉ thị của Đảng. Mâu thuẫn này cần phải được
giải quyết về nguyên tắc trong một nhà nước pháp quyền. Giả thử Bộ chính trị,
hoặc một bí thư đảng bộ địa phương nào đó quyết định không truy tố trước pháp
luật một nhân vật quan trọng trong Đảng thì thử hỏi một viện trưởng Viện Kiểm
sát trung ương (tức là công tố viện, một bộ phận của hành pháp) là một đảng viên
sẽ phải làm gì: chấp nhận nghị quyết của (các cấp trong) Đảng hay thi hành nhiệm
vụ bảo vệ luật pháp? Hay một ông quan toà có phải nhận và làm theo chỉ thị của
đảng bộ toà án không? Ở Singapore thì mọi chuyện đã rõ: họ phải thực hiện pháp
luật và xử lý theo luật pháp, còn ở Việt Nam cho đến nay có lẽ hầu hết là làm
theo quyết định của cấp trên, trừ những trường hợp mà cấp trên nhận thấy không
thể bước qua luật pháp vì sợ dư luận. Để chống tham nhũng, bảo vệ công lý, kỷ
cương phép nước, Việt Nam cần có luật pháp minh bạch, xác định giới hạn quyền
lực của nghị quyết và chỉ thị của Đảng: chẳng hạn phải coi là vi phạm pháp luật
quyết định của Ban Kiểm tra trung ương Đảng (coi sơ đồ 1), nằm ngoài hệ thống
nhà nước, không tố cáo ông Nguyễn Văn Lâm, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ,
khi biết rõ ông này nhận phong bì quá lớn của địa phương và đi mua sừng tê giác
(luật bảo vệ thiên nhiên đã cấm) bởi vì đây là những hành động có biểu hiện vi
phạm pháp luật. Việc xét xem ông Lâm có vi phạm luật pháp hay không là thuộc
quyền quyết định của toà án. Khi có biểu hiện vi phạm luật pháp thì hành pháp có
nhiệm vụ điều tra và đem bằng chứng ra cho toà án xử.
Đảng và chính quyền (hành pháp)
Ở một cấp độ không kém quan trọng là
việc thể hiện sự lãnh đạo của Đảng bằng các chỉ thị cách chức hoặc bổ nhiệm các
chức vụ thuộc hệ thống nhà nước là thuộc quyền Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban cán
sự hay Đảng ủy. Điều này tất nhiên làm bó tay quyền lực nhà nước, nhất là tính
chuyên nghiệp của hệ thống công chức. Với hệ thống này, người lãnh đạo nhà nước
không thể bị truy cứu trách nhiệm khi bản thân họ không có quyền bổ nhiệm và
cách chức người dưới quyền. Hệ thống quyền lực nhà nước hiện nay do đó chỉ phản
ánh sự phân công của Đảng, chứ không phải là dựa trên nguyên tắc căn bằng quyền
lực giữa lập pháp, hành pháp, và tư pháp mà nhiều nước áp dụng. Báo cáo chính
trị ở Đại hội 10 (2006) viết:
Xây
dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp
luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp
pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. (Báo
cáo chính trị ĐH 10)
Báo cáo này chưa thể hiện cách vận
hành của một nhà nước pháp quyền tuy rằng cũng có điều mới là nói về cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ
quan công quyền, nhưng quên nói về tính hợp hiến, hợp pháp của các quyết định
chỉ đạo nhà nước của Đảng, chẳng hạn quyết định chỉ đạo làm chuyện bất hợp pháp
như quyết định không cho truy tố ông Nguyễn Văn Lâm.
Lối ra
Trình bày trên cho thấy rằng quá
trình chuyển đổi đã qua là sự phản tư dưới áp lực của xã hội vì tình trạng tham
nhũng đã thâm nhập sâu và xa trong hệ thống Đảng và do đó chuyển đổi sắp tới sẽ
là cuộc tranh đấu nội bộ trong Đảng, và giữa Đảng, Nhà nước và dư luận quần
chúng về phân công hay phân quyền. Như đã trình bày ở Phần I, Quốc hội đã ngày
càng tự xác lập quyền lực của mình và về mặt nguyên tắc thì Hiến pháp đã trao
quyền cho Chủ tịch nước, Thủ tướng, Viện trưởng Viện Kiểm sát, Viện trưởng Toà
án Tối cao bổ nhiệm và cách chức cấp dưới, cũng như thực thi pháp luật. Khó lòng
tránh khỏi các cuộc đối đầu giữa những người được Quốc hội trao quyền và lãnh
đạo Đảng về việc thực thi các quyền này.
Nhưng nếu như lãnh đạo
Đảng nhận định rõ rằng việc phân quyền trong một nhà nước pháp quyền và việc coi
chỉ thị của đảng phải nằm dưới tầm của luật là những đòi hỏi thiết thực của cuộc
sống thì cuộc chuyển đổi sẽ dễ dàng và xã hội Việt Nam chắc sẽ nhanh chóng bước
sang một thời kỳ tốt đẹp mới. Nói cách khác, mọi quyết định, chỉ thị của Đảng
liên quan đến hoạt động của nhà nước phải phù hợp với Hiến pháp và luật pháp và
sẽ không mang tính pháp lý nếu nó không trở thành pháp luật. Sự liên hệ giữa
Đảng và chính quyền cần được luật pháp hoá, và từ đó xác lập rõ ràng hơn quyền
lãnh đạo của Đảng và quyền dân làm chủ là ở đâu. Nói như trong bài của Cao Huy
Thuần[29]
lãnh đạo nên hiểu là quyền đề nghị, dù chỉ một đảng lãnh đạo cũng không sao, còn
dân làm chủ là dân được quyền chọn lựa giữa các đề nghị. Các đề nghị của Đảng
(người lãnh đạo trong chính quyền và chính sách của nhà nước) cần được minh bạch
hoá để dân bàn bạc, tranh luận công khai qua diễn đàn quan trọng nhất là Quốc
hội, các Hội đồng nhân dân và báo chí. Không thể chỉ Đảng mới có quyền bàn, đưa
đến quyết định cuối cùng rồi đem cho dân "bầu" hoặc cơ quan nhà nước thông qua.
Quyết định, chỉ thị của Đảng có ý nghĩa với đảng viên, nhưng chỉ mang tính đề
nghị đối với dân, và nhà nước bao gồm quốc hội, chính quyền và hệ thống toà án.
3. Chuyển đổi tự phát và các
chính sách không đồng bộ hiện nay là nguyên nhân của tham nhũng
Như đã trình bày ở Phần I và các
đoạn trên, quá trình đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù gắn liền với:
-
Tính tự phát, phá rào từ dưới lên
-
Việc tăng cường quyền lực của lãnh đạo địa
phương trong cả Đảng và nhà nước.
-
Sự tranh chấp về hướng đi của đổi mới và ảnh
hưởng giữa các thế lực.
-
Nhà nước pháp quyền chưa được xác lập.
Có hai mặt vừa tốt vừa xấu của các
đặc thù trên.
Do là phản ứng với đòi hỏi bức bách
của tình thế nên quá trình chuyển đổi ở Việt Nam cho đến nay không mang tính
cách mạng, xoá lập tức cái cũ và dựng hẳn lên một cái mới như ở Liên Xô, đặc
biệt trong việc chuyển sở hữu công thành sở hữu tư và do đó đã không tạo nên sự
đứt khúc, hụt hẫng toàn diện trong hệ thống như ở Liên Xô. Việt Nam đã tránh
được sự rối loạn xã hội, kinh tế suy sụp, đời sống cơ cực như ở Liên Xô mà cho
đến ngày nay vẫn chưa vực dậy được. Quá trình ở Việt Nam, với những đặc thù
riêng, là sự tự vận động của xã hội ở tầng dưới để tạo áp lực điều chỉnh chính
sách, cơ cấu và phương hướng ở tầm quốc gia. Quyết định chấp nhận kinh tế thị
trường của Đảng, dù chậm vì cần mang tính đồng thuận giữa lãnh đạo, đã tạo nên
bước tiến nhảy vọt về kinh tế từ năm 1989 đến nay. Sự chuyển động ở Việt Nam có
tính biện chứng trên cơ sở chuyển động của thức tế và khả năng nhận thức thực
tế. Thực tế đó là việc nắm bắt được tình hình biến chuyển trên thế giới về các
mối đe đoạ thực sự đối với đất nước, về quán tính bảo thủ của bất cứ ai khi nắm
được chính quyền và của xã hội nói chung và lại có cơ hội tăng cường khi đạt
được một số thành công nhất định như về kinh tế sau năm 1989. Vấn đề nhận thức
chậm cũng là do thông tin từ bên ngoài vào bị hạn chế và những suy nghĩ và
nghiên cứu độc lập không có đất đứng ở Việt Nam trong một thời gian rất dài. Dù
chậm nhưng cái giá phải trả thấp hơn ở Liên Xô.
Nhưng quá trình trên cũng có những
mặt xấu của nó.
Khi hoạt động tự phát,
các chủ trương vượt rào của địa phương được trung ương chấp nhận thành chính
sách của cả nước thì lại mang tính chắp vá, làm được đến đâu hay đến đó vì cần
đồng thuận. Việc chấp nhận kinh tế thị trường cuối năm 1988 chủ yếu chỉ trong
giao dịch và sản xuất kinh tế, tiệm tiến, không thể toàn diện và không thể dứt
điểm vì vẫn còn những người lãnh đạo chủ chốt trong Đảng chưa đồng ý. Nền kinh
tế từ năm 1989 do đó chỉ có một phần là được xây dựng trên nền tảng kinh tế thị
trường, phần quan trọng còn lại như đất đai và hầu hết các phương tiện sản xuất
khác vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Vì đất đai trên nguyên tắc thuộc công hữu, cho
nên đảng và chính quyền địa phương vẫn có thể tùy tiện thu hồi, hoặc vì lợi ích
chung như xây dựng khu chế xuất, hoặc chỉ là cái cớ để chuyển đổi sở hữu và qua
đó thu vào túi riêng khác biệt giá. Như đã nói, khi quyền hành được trao thêm
cho địa phương, nhất là về ngân sách địa phương, họ có thể phát huy sáng kiến
phát huy hoạt động sản xuất của địa phương, lôi kéo đầu tư nước ngoài, v.v.
nhưng họ cũng có thể dễ dàng biến của công thành của tư. Việc dùng đất công cấp
cho một số cán bộ công chức cao cấp có "quan hệ" tốt, nhất là trong quân đội, đã
mau chóng biến nhiều người từ nghèo khó sang hàng trưởng giả, nhà tư sản cỡ bự
nếu họ biết dùng tài sản và mánh làm ăn. Việc tư hữu hoá đất, không theo một
luật pháp nào, trong “Thành” thuộc quân đội ở Hà Nội và đất quanh khu vực sân
bay Tân Sơn Nhất ở thành phố Hồ Chí Minh là quá rõ. Những người không được tất
hiểu rõ sự bất công đó. Ông Võ Văn Kiệt khi quyết định giao đất trong tay quân
đội sang tay nhà nước đã phần nào chận đứng việc tư hữu hóa đất công này. Nói
chung khi sở hữu đất đai chưa được giải quyết dứt điểm thì vấn đề tham nhũng
liên quan đến đất đai khó lòng cứu chữa.[30]
Có thể nói tính méo mó của hệ thống
đã mang đến nhiều kết qủa đặc biệt tai hại đối với kỷ cương xã hội khi nó liên
quan đặc biệt đến vấn đề lương bổng. Khi mà ngân sách nhà nước trung ương không
thể trả lương đủ sống cho công chức (trong bộ máy hành chính, giáo dục, y tế,
v.v.) thì giải pháp là để địa phương và bộ ngành tự sống. Việc địa phương, bộ
ngành làm việc phi pháp để tự nuôi nhau là dễ hiểu, từ hành động vượt rào phi
pháp (theo nghĩa qua mặt qui định của nhà nước) tiến đến tham nhũng tập thể và
tham nhũng cá nhân chỉ là bước nhỏ. Một hiệu trưởng cho phép thầy cô dạy thêm để
kiếm thêm đã trở thành một cái máy làm tiền ở khắp các nơi, kể cả bắt ép học
sinh đi học thêm, tập quán hóa việc dưỡng sức ở lớp chính thức và dạy thật ở lớp
dạy thêm. Ở đại học, thì sinh viên những lớp ngoại khoá, tại chức, chuyên tu mọc
ra như nấm, bằng được cấp pháp hoặc cho bán rẻ tràn lan chỉ vì đem lại thu nhập
cho mọi giáo chức, nhưng tất nhiên người chức cao thì nhiều, người chức nhỏ thì
ít. Đây chính là những hành vi tham nhũng tập thể, lấy tài sản công sản xuất
dịch vụ tư.
Ba đặc thù của quá trình đổi mới nói
đến ở trên đã có ảnh hưởng lớn, làm méo mó diện mạo của thể chế kinh tế và chính
trị, với một vài biểu hiện được tả ở trên. Tính tự phát từ địa phương đưa đến
tình trạng phá vỡ tính nhất quán trong hệ thống pháp luật, kỷ cương và chính
sách công bằng ở tầm quốc gia do đó đòi hỏi phục hồi trật tự trong hệ
thống. Quá trình đổi mới chỉ thực sự phát triển được hết tiềm năng của đất nước
và ổn định xã hội khi nó trở thành luật pháp và chính sách quốc gia. Sự phục hồi
trật tự này đòi hỏi một quá trình có ý thức, chủ động sửa sai ở cấp quốc gia của
Đảng và chính quyền cho nên không thể nhanh chóng mà có thể kéo dài. Nhưng quan
trọng hơn cả là phải nhận thấy sự phi lý trong hệ thống, đặc biệt là vấn đề
lương và việc sử dụng công hữu. Cải cách tất nhiên sẽ gặp sự kháng cự từ lợi
ích cục bộ, điạ phương, và các nhóm lợi ích dùng mọi cách bảo vệ đặc quyền, đặc
lợi.
4. Có thể giải quyết tham nhũng được không?
Trở lại mô hình độc đảng của Việt
Nam, về mặt lý luận không có gì ngăn cản nó cải thiện, tiếp tục sửa đổi về
cơ cấu chính trị và quyền lực nhà nước nhằm tạo ra một nhà nước pháp quyền, có
cơ cấu quyền lực sự độc lập, có khả năng kiểm sát lẫn nhau như Singapore đã làm.
Điều này đã bàn đến ở trên. Cũng như ở Singapore, Đảng Nhân dân Hành động không
phải là sự độc tài của một người mà là dựa vào quyết định của Ủy ban Điều hành
Trung ương (Central Executive Committee) thì ở Việt Nam cũng dựa vào quyết định
của Bộ Chính trị như thế về các biện pháp hành động (ở đây tôi cho rằng đề nghị
của Võ Văn Kiệt liên quan đến vai trò quyết định của Ban Chấp hành Trung ương
chỉ hiện thực và hiệu quả nếu tác động lên quyết định chính sách, các hành động
thực hiện tất phải giao cho Bộ Chính trị). Tất nhiên cũng như ở Singapore, mặt tự
do hoạt động chính trị chống đối cũng sẽ vẫn bị hạn chế. Và cũng tất nhiên việc
thực hiện điều mà Singapore đang làm được sẽ khó khăn ở Việt Nam hơn vì Việt Nam
là một nước lớn, có nhiều địa phương với quyền lực mạnh, không như Singapore chỉ là
một thành phố, không có vấn đề địa phương. Nhưng cải cách toàn diện nhằm thống
nhất lại hệ thống đòi hỏi xây dựng một nhà nước pháp quyền, và về mặt chính
sách là cải cách hệ thống lương, sẽ đi sâu ở Phần III. Tuy nhiên để thấy rõ sự
cần thiết của cải cách hệ thống lương cũng cần nhận diện thêm những biểu hiện
của hệ thống lương bất hợp lý qua tham nhũng với những đặc thù rất Việt Nam.
PHẦN III
VỀ BIỂU HIỆN THAM NHŨNG MANG TÍNH
ĐẶC THÙ VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP LƯƠNG
Có thể nói trong chừng
mực có thể, mô hình độc đảng ở Việt Nam có thể cải cách để chống tham nhũng.
Nhưng như đã phân tích ở trên, tính tự phát, phá rào ở địa phương, tự thu tự chi
để tự giải quyết cuộc sống đã phá vỡ tính hệ thống về ngân sách, do đó cần lập
lại trật tự ngân sách. Một phần trật tự quan trọng đã được tái lập qua Luật Ngân
sách năm 1996 do đó đã nâng cao sức mạnh tài chính của ngân sách quốc gia, tạo
ra sức mạnh cho nền kinh tế, giải quyết khá dứt điểm tình trạng lạm phát, nhưng
nó đã không giải quyết nổi vấn đề tiền lương đủ sống cho công chức. Đây cũng là
một trong những điều kiện cốt lõi để có thể chống tham nhũng một cách hiệu quả.[31]
Dù là cốt lõi việc có lương đủ sống cũng chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là
đủ để giải quyết tham nhũng. Muốn giải quyết tham nhũng như đã bàn, cần cải cách
hệ thống quyền lực nhà nước. Điều này có thể dễ thấy nhìn vào tình hình tham
nhũng hiện nay ở Trung Quốc. Ở đó, lương cán bộ đã được tăng nhiều
lần những năm gần đây, như cấp vụ trưởng ở Ngân hàng Trung ương đã được nâng lên
khoảng 10,000 nhân dân tệ một tháng (khoảng 1,250 USD) và vụ trưởng ở Tổng cục
Thống kê khoảng 6,000 tệ (750 USD)[32]
vào thời điểm tháng 8 năm 2006 nhưng tham nhũng dường như vẫn đang tăng.
Trước tiên hãy bàn về vấn đề kinh tế
của tham nhũng.
Bản chất của tham nhũng là đưa đến lợi ích kinh tế
cho người tham nhũng và người đút lót. Tham nhũng chỉ có thể giảm bớt nếu như
lợi ích kinh tế ròng của người nhận tham nhũng và người cho hay chấp nhận tham
nhũng là âm lớn nếu tính theo xác xuất trung bình. Lợi ích ròng sẽ âm nếu như
lợi ích từ tham nhũng nhỏ hơn cái giá phải trả khi người nhận tham nhũng mất
việc, tiền tham nhũng phải bồi hoàn, tiền phạt cao và nếu bị tù thì thời gian
này người nhận không thể tạo ra thu nhập. Tất cả những điều này sẽ chỉ hiện thực
nếu có hình phạt trong luật chống tham nhũng rõ ràng và nếu hệ thống pháp luật
làm việc hiệu quả, phản ánh qua xác xuất người tham nhũng bị bắt cao, và xác
xuất người tham nhũng chịu hình phạt cao. Và như đã nói ở trên phải có một nhà
nước pháp quyền và sự liên hệ giữa Đảng lãnh đạo và nhà nước được minh bạch hoá
bằng luật pháp. Hiệu quả của hệ thống pháp luật này có thể đo được bằng thống
kê. Không những người nhận tham nhũng chịu hình phạt mà người cho tham nhũng
cũng phải chịu hình phạt tương tự.
Trước khi đi vào phân tích cụ thể cơ sở kinh tế
của hành động tham nhũng ở Việt Nam, có lẽ cần duyệt qua các hình thức biểu hiện
của tham
nhũng (corruption), chủ yếu giữa người muốn đạt được lợi ích riêng tư
và người có quyền lực trong hệ thống chính quyền:
Hối lộ
(bribery): Hối lộ có hai hình thức:
·
Hối lộ để tránh bị phạt hoặc tránh trả phí
hoặc thuế. Hối lộ là điều xảy ra phổ biến và thường xuyên ở các nước đang phát
triển trong cán bộ thuế, và lực lượng cảnh sát khi lương của họ quá thấp.
· Hối
lộ để được ưu tiên, được phép làm, được việc làm, được "ghế".
Lại quả
(kickback): Lại quả là chia lại lợi ích kinh tế cho người làm quyết định liên
quan đến lợi ích kinh tế đó. Lại quả thường xảy ra khi nhận thầu xây dựng các
công trình của nhà nước. Thí dụ người được thầu sau đó phải bòn rút dự án (hạ
thấp tiêu chuẩn) để lại quả cho người đại diện chủ dự án. Điều này có thể xảy ra
trong các dự án xây dựng hay các gói thầu cung cấp hàng. Đây là vấn đề lớn nhất
ở Việt Nam hiện nay, bởi vì khu vực công hữu quá lớn, và bởi vì vai trò của Đảng
và nhà nước chưa được luật pháp hóa. Lại quả nghe nói xảy ra ở mọi cơ quan nhà
nước và từ trên xuống dưới trong việc duyệt ngân sách đề nghị và việc cấp ngân
sách, chủ yếu qua bộ/sở tài chính và kế hoạch. Mỗi lần ngân sách được cấp là mỗi
lần có lại quả. Việc vay tiền ngân hàng cũng chịu chung số phận lại quả.
Tình trạng lại quả thường mang tính cá nhân hoặc liên quan đến một vài cá nhân.
Biện pháp tất nhiên nằm chủ yếu ở phương pháp đấu thầu, tính minh bạch trong
quyết định và các biện pháp kiểm sát. Việc nhận diện những người nhận lại quả
cũng không phải khó khăn, nhất là ở Việt Nam khi một số quan chức trở nên giầu
có nhanh chóng, vượt xa thu nhập chính đáng của họ. Số tiền tham nhũng trong
hoạt động đầu tư của nhà nước (bằng 52% tổng đầu tư của cả nước) có thể lên tới 2
đến 3 tỷ USD năm 2005.[33]
Tham ô, ăn cắp của công
(public theft): Có hai hình thức ăn cắp của công ở Việt Nam:
-
sử dụng tài sản nhà nước để tạo thu nhập
riêng. Ở Việt Nam hiện tượng này rất phổ biến, mang tính tập thể, được “chấp
nhận” nhưng lại không mang đúng tên của nó là “ăn cắp tập thể”. Do hiện
tượng lương thấp và chính sách cho phép tạo nguồn thu thêm mà nhiều cơ quan
nhà nước lấy đất công, tài sản công cho mướn rồi chia nhau tiền thuê cũng là
hình thức ăn cắp của công. Điển hình như Thông tấn xã và Truyền hình Việt
Nam, các cơ quan này có thể bán thông tin, làm dịch vụ (quảng cáo chẳng hạn)
một cách hợp pháp theo luật định trên thị trường nhưng phần lớn số tiền thu
nhập được có thể khai man không nộp lại cho ngân sách theo đúng qui định mà
Bộ Tài chính chỉ cho phép giữ lại một phần để tăng thu nhập cho nhân viên.
Thu nhập nhận được thường gấp 2-3 lần lương chính thức. Ngay dù được sử dụng
hợp pháp thì nó cũng là một loại chính sách ngân sách tùy tiện, tạo ra bất
công đối với các công chức làm việc trong các hoạt động khác của nhà nước
không thể tạo ra thu nhập thêm. Có thể nói không ít thì nhiều mọi cơ quan
đều có những thu nhập ngoài ngân sách, hoặc không biết đâu là trong đâu là
ngoài. Hệ thống “tham ô” này có nguồn gốc từ tính trạng xé rào trước đây
nhằm tăng lương cho cán bộ. Và đến năm 2003 thì được Bộ Tài chính hợp thức
sự đã rồi. Sự việc này là ví dụ điển hình cho sự ‘thỏa hiệp’ và ‘cấu kết’ để
luật hóa các hành vi phi pháp của các ‘nhóm lợi ích’ nằm trong các bộ tài
chính, giáo dục, y tế, nội vụ, ủy ban nhân dân, v.v. Chuyện ‘cấu kết’ này,
trên thực tế, vì đem lợi cho không phải ít số người có liên đới, nên càng
tạo ra cản trở lớn lao cho việc cải tiền lương. Theo chính sách năm 2003,
Bộ Tài chính cho phép (a) các đơn vị sự nghiệp (như cơ quan hành chính, giáo
dục, y tế) được thu thêm phí sử dụng và đuợc dùng ít nhất 40% phí này cũng
như tiền tiết kiệm ngân sách để chi tăng lương, và (b) cũng cho phép địa
phương giữ lại 50% tăng thu ở địa phương để tăng lương.[34]
Việc tùy tiện trong chính sách tăng nguồn thu để tăng chi cho lương tất đến
tham nhũng tập thể. Lương chính thức ở Việt Nam hiện nay (trước tháng
9, 2006) được định theo lương cơ bản nhân với một hệ số, tùy theo ngạch
trật. Với lương cơ bản, tức là lương tối thiểu hàng tháng là 410 ngàn đồng,
khoảng 26 USD, một chuyên viên cấp thấp hệ số 5 sẽ có lương là 2 triệu đồng,
khoảng 128 USD, một bộ trưởng hệ số lương 9 có lương khoảng 3.7 triệu đồng,
khoảng trên 230 USD.
Hai hình thức tham ô trên thường xảy ra khi dự
toán ngân sách thiếu chi tiết cụ thể về hạng mục hàng hoá với số lượng và giá
trị được phép mua sắm, chi tiêu lại không qua ngân phiếu, do đó dù có hệ thống
kiểm toán thì quan lại vẫn có thể biến hoá sổ sách để mua sắm tùy tiện hoặc đút
túi riêng. Nếu như ngân sách nhà nước đi vào cụ thể hơn và được báo cáo cụ thể
thay vì chung chung hiện nay thì tham ô hay ăn cắp của công có thể giảm
mạnh.
Tự làm luật, thu thêm
để chia nhau: Dùng quyền lực đòi
hỏi nhân dân đóng góp để cho vào túi riêng. Việc tự làm luật này xảy ra phổ biến
trong việc phụ thu ở các trường học và bệnh viện, và các loại phí và đóng góp do
ủy ban xã và phường tự đặt. Đây là vấn đề lớn gây bất mãn trong dư luận và ảnh
hưởng trực tiếp đến người nghèo. Nếu xử lý đúng đắn đưa vào ngân sách những thu
nhập thêm này để trả lương thì theo nghiên cứu của tác giả lương của giáo sư có
thể cao gấp hai lần lương chính thức.[35]
Mượn giờ công làm
chuyện tư: Chuyện này phổ biến
trong giới khoa học và công chức. Dùng thì giờ chính thức làm công trình nghiên
cứu cho người khác. Như GS Hoàng Tụy đã vạch ra là ở các nước khác thì tài trợ
công trình nghiên cứu chỉ được dùng vào việc làm nghiên cứu (đi lại, dự hội
nghị, mua tài liệu, thiết bị làm nghiên cứu mà sau khi hoàn thành sẽ thuộc cơ
quan nghiên cứu, hoặc trả công cho phụ nghiên cứu), chứ không được dùng để trả
công cho chính mình hoặc làm cai đầu dài thuê người khác làm dùm.
Tất nhiên tùy từng loại tham nhũng mà cần giải
pháp phù hợp nhưng có thể nói các loại tham nhũng ở Việt Nam đều ít nhiều mang
tính tập thể. Có loại không những mang tính tập thể mà cả Đảng và nhà nước chấp
nhận, chẳng hạn như việc dùng tài sản nhà nước để tạo thu nhập riêng chia nhau.
Tập thể chấp nhận vì mọi người cùng được lợi, nhất là khi nhà nước không thể trả
lương đủ sống cho công chức. Cá nhân lãnh đạo chỉ bị tố cáo tham nhũng khi cá
nhân đó quá tham lam, ăn quá nhiều so với tập thể. Và nhiều khi bị bắt thì đảng
và chính quyền cũng kiếm cách xí xoá vì lợi ích nhiều khi to lớn mà anh ta mang
lại. Cho nên dù lương ngày nay đã được nâng cao hơn so với trước đây, tình
trạng tham nhũng không những không giảm mà lại tăng vì tập thể đã quen với đạo
đức mới, cho rằng cái chế độ nó như vậy do đó thế thời phải thế, không thể “ngu
lâu”. Kỷ cương nhà nước và đạo đức xã hội thông thường có dấu hiệu suy yếu
mạnh. Do đó giải pháp chống tham nhũng đòi hỏi lập lại kỷ cương và xoá bỏ
tính tùy tiện trong việc tự làm luật, lấy công làm tư để nâng thu nhập cho tập
thể. Điều này tất nhiên không thể làm ngay nhưng cần có một lộ trình rõ ràng.
Nói một cách tổng quát, để chống tham nhũng cần có thêm những biện pháp sau:
· Luật
pháp về chi tiêu minh bạch;
· Luật
pháp nghiêm minh;
· Trách
nhiệm cá nhân rõ ràng;
· Bảo
đảm tính độc lập của các cơ quan kiểm tra;
· Lương
đủ sống (với Việt Nam thì có thể nói ai cũng đủ sống, nhưng lương chính thức thì
không đủ sống: rõ ràng là lỗi ở hệ thống);
· Xoá
bỏ thu nhập ngoài ngân sách;
· Làm/duyệt
ngân sách chi tiết, chi theo dòng, minh bạch ngân sách ở mọi nơi, mọi cấp để
kiểm tra; (Tình trạng minh bạch ngân sách ở Việt Nam vẫn còn là điều đáng nói.
Ngân sách do Bộ Tài chính “minh bạch hoá” trên mạng có rất ít chi tiết, còn quá
nhiều chỗ thiếu minh bạch, thậm chí mang tính “vẽ voi vẽ chuột”, thí dụ tổng chi
ngân sách trong dự toán năm 2005, thấp hơn dự toán năm 2004; điều này khó tưởng
tượng nổi, và làm cho những số liệu trong dự toán này đáng nghi ngờ, không có
giá trị phân tích.[36]
Ngoài ra, kết toán năm 2004 cũng mới chỉ được mang ra Quốc hội thẩm định vào
tháng 5 năm 2006, chậm gần 3 năm. Với chi tiết ngân sách quá sơ sài như hiện nay
thì không hiểu Quốc hội kiểm toán như thế nào?)
· Thiết
lập hệ thống tuyển dụng công chức minh bạch, có cạnh tranh; Chấm dứt việc bố mẹ,
con cái, anh em ruột cùng làm một cơ quan; chấm dứt việc Đảng quyết định đưa
người vào hệ thống công chức: Đảng và nhà nước cần phân biệt các chức vụ chính
trị quản lý công chức, và hệ thống công chức chuyên nghiệp phi chính trị;[37]
· Thiết
lập hệ thống thống kê để theo dõi số người bị bắt vì tham nhũng hàng quí, hàng
năm và trong số người bị bắt, bao nhiêu phần trăm bị bỏ tù;
· Tổ
chức thường xuyên các cuộc điều tra để công chức và người sử dụng dịch vụ công
đánh giá tình trạng tham nhũng nhằm giúp việc theo dõi tình trạng biến động của
tham nhũng và giúp việc nhận diện các cơ quan bị đánh giá là có dấu hiệu tham
nhũng cao;
·
Đòi hỏi tất cả chi tiêu trong ngân
sách phải bằng séc, trừ những chi tiêu quá nhỏ. Như vậy ngay cả việc trả phong
bì trong các cuộc họp cũng phải trả bằng séc. Đây cũng là biện pháp khuyến khích
dùng ngân hàng.
Những biện pháp trên không có gì là lạ, chúng đều
nằm trong các khuyến nghị về chống tham nhũng của quốc tế. Vấn đề có “tính Việt
Nam” là cho phép lấy công sản tạo thêm thu nhập bù lương, hợp pháp hoá tình
trạng ăn cắp của công và đưa đến tình trạng quản lý tùy tiện, thiếu tính minh
bạch và nhất quán trong ngân sách. Để xoá bỏ tình trạng tuỳ tiện, cần có biện
pháp giải quyết tiền lương ở Việt Nam.
3. Về biện pháp cải thiện tiền lương công chức
Không thể minh bạch hoá tiền lương và minh bạch
hoá ngân sách chỉ bằng cách đơn giản là xoá bỏ thu nhập thêm vì như vậy là đưa
đến việc giảm lương trong hầu hết các hoạt động liên quan đến nhà nước. Biện
pháp nào muốn được chấp nhận cũng phải nâng lương ngang bằng lương hiện có. Câu
hỏi quan trọng là liệu ngân sách nhà nước có thu đủ chi trả không? Nếu tăng thuế
thì liệu việc tăng thuế có đưa đến khả năng làm giảm sức phát triển của nền kinh
tế không? Mức thuế đã quá cao chưa? Nếu chỉ tăng chi mà không thu đủ thì giải
pháp là gì để không làm tăng lạm phát, mà hậu quả của nó có thể xoá xạch yếu tố
tăng lương. Giải pháp đòi hỏi bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế. Một câu hỏi
khác cũng rất quan trọng mà nhiều người thường đặt ra là: phải chăng chính quyền
ở Việt Nam đã phình ra quá lớn so với mức độ phát triển kinh tế. Câu hỏi này
hình như đã trở thành một câu hỏi ám ảnh các nhà làm chính sách ở Việt Nam;
chính vì thế mà giải pháp thường được đưa ra là giảm biên chế. Thế nhưng sau bao
lần thử nghiệm điều trái ngược đã xảy ra: biên chế ngày càng phình thêm ra.
Trước tiên hãy phân tích cỡ chính quyền hiện nay.
Vấn đề phân tích tưởng đơn giản nhưng không đơn giản. Không có một lý thuyết
kinh tế nào có thể xác định được cỡ chính quyền tối ưu do đó việc phân tích cần
dựa vào so sánh quốc tế, với hy vọng là cỡ chính quyền hiện nay trên thế giới,
được xây dựng trên kinh nghiệm lịch sử, cho thấy một mẫu mực nhất định. Nhưng
câu hỏi đầu tiên là chính quyền gồm những hoạt động gì? Phải nói nó chỉ gồm
những hoạt động tạo ra dịch vụ công miễn phí cho xã hội. trong đó có dịch vụ nhà
nước vì lợi ích tập thể (collective services) như hệ thống hành chính, bảo vệ
pháp luật, an ninh và dịch vụ nhà nước vì lợi ích cá nhân như giáo dục và
y tế miễn phí. Tất cả các hoạt động sản xuất quốc doanh không được tính vào dịch
vụ nhà nước.
Bảng 2. Kích cỡ chính quyền (trung
ương và địa phương) các nước OECD, 1960–2004
Tỷ lệ chi tiêu trong ngân sách nhà nước trên GDP
|
Nước
|
1960
|
1970
|
1980
|
1990
|
1996
|
2004
|
Tỷ lệ 1996 so với 1960
|
Úc
|
21
|
25
|
34
|
38
|
37
|
|
1.76
|
Canada
|
29
|
36
|
40
|
48
|
46
|
|
1.59
|
Pháp
|
35
|
39
|
46
|
50
|
55
|
51
|
1.57
|
Đức
|
32
|
39
|
48
|
46
|
56
|
44
|
1.75
|
Ireland
|
28
|
40
|
51
|
41
|
38
|
|
1.36
|
Ý
|
30
|
34
|
42
|
54
|
53
|
|
1.77
|
Nhật
|
17
|
19
|
33
|
32
|
37
|
31
|
2.18
|
Tân Tây Lan
|
28
|
34
|
47
|
50
|
42
|
30
|
1.50
|
Thụy Điển
|
31
|
44
|
62
|
61
|
66
|
|
2.13
|
Anh
|
32
|
39
|
45
|
42
|
44
|
41
|
1.38
|
Mỹ
|
28
|
32
|
34
|
35
|
35
|
32
|
1.25
|
Trung bình
|
27
|
33
|
43
|
46
|
48
|
|
1.78
|
Chú thích:
Tỷ lệ ở Pháp, Đức va Thụy Điển rất cao vì tiền hưu trí trả cho công chức nằm
trong ngân sách trong khi đó các nước khác có quĩ hưu trí độc lập với ngân sách
nhà nước.
Bảng 3. Kích cỡ chính quyền Việt
Nam (trung ương và địa phương)
|
Tỷ lệ chi tiêu trong ngân sách nhà nước trên GDP
|
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
Việt Nam
|
24.4
|
24.2
|
25.1
|
24.8
|
25
|
Chú thích:
chi tiêu này đã trừ đi phần chi có tính trung gian: tiền chi viện trợ của nước
ngoài thông qua nhà nước.
Nguồn:
IMF,
http://www.imf.org/external/pubs/ft/scr/2006/cr0652.pdf
Chi tiêu trong ngân sách nhà nước bao gồm
chi phí tạo ra dịch vụ nhà nước vì lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, chi phí
đầu tư phát triển, chi phí trợ cấp xã hội, trợ cấp thất nghiệp, chi trả bảo hiểm
xã hội (khi về hưu) cho mọi người lao động có đóng góp và chi trả tiền hưu trí
cho công chức, quân đội. Ở các nước phát triển cao thuộc tổ chức OECD (bảng 2)
ta thấy chi tiêu ngân sách nhà nước trung bình lên tới 48% GDP vào năm 1996. Tỷ
lệ chi tiêu này tăng đáng kể (gần gấp đôi) từ năm 1960 cho đến 1996, và có giảm
đi trong thời than gấn đây. Kích cỡ chính quyền ở Việt Nam nếu tính theo cùng
một phương pháp là khoảng 25% GDP (coi bảng 3). Rất tiếc là số liệu tương tự của
các nước đang phát triển không có sẵn để làm nghiên cứu so sánh với Việt Nam vì
số liệu các nước nộp cho tổ chức quốc tế chỉ gồm chi ngân sách chính quyền trung
ương, không gồm ngân sách chính quyền địa phương.
Bảng 4. Chi tiêu dùng
cuối cùng cho dịch vụ nhà nước (bao gồm cả giáo dục, y tế), 2003
Nước
|
Tỷ lệ chi phí trên GDP
|
Úc
|
18
|
Canada
|
18
|
Pháp
|
24
|
Đức
|
19
|
Ý
|
19
|
Nhật
|
18
|
Thụy Điển
|
28
|
Anh
|
21
|
Mỹ
|
19
|
Trung bình
|
20
|
Trung Quốc
|
13
|
Ấn Độ
|
13
|
Mã Lai
|
14
|
Phi Luật Tân
|
13
|
Singapore
|
11
|
Thái Lan
|
11
|
Việt Nam
|
12-13*
|
Trung bình
|
12
|
*Chi phí này được gọi bằng từ ngữ
chuyên môn là tiêu dùng cuối cùng của nhà nước (government final consumption
expenditure) bao gồm cả chi phí cho trường học và nhà thương miễn phí. Riêng Tài
khoản quốc gia Việt Nam không tính dịch vụ giáo dục và y tế nhà nước sản xuất và
chi trả vào hoạt động nhà nước (mà tính chung vào ngành giáo dục y tế) tác giả
đã tự tính thêm vào.
Nếu chỉ so sánh tiêu dùng
cuối cùng của nhà nước (chỉ gồm dịch vụ nhà nước bao gồm cả cho giáo dục
và y tế) thì chi trong ngân sách nhà nước Việt Nam cũng tương đương với mức
trung bình của các nước đang phát triển khác ở Á châu, bằng khoảng 12-13% GDP
(coi bảng 4). Mức này tất nhiên thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình là 20% ở
các nước OECD có GDP đầu người cao hơn nhiều lần. Như vậy có thể nói là kích cỡ
chính quyền Việt Nam không phải là lớn. Nếu không kể giáo dục và y tế thì dịch
vụ nhà nước vì lợi ích tập thể (hành chính, an ninh, quốc phòng) chỉ bằng 7%
GDP, chỉ thấp hơn một chút so với Mỹ hoặc Anh (khoảng 8-9%).
Nếu đo bằng tỷ lệ người
lao động (không kể quân đội) so với dân số, dịch vụ nhà nước vì lợi ích tập thể
ở Việt Nam thấp một cách ngạc nhiên (coi bảng 5): chỉ có hơn một nửa của 1% dân
số hoạt động tạo ra dịch vụ nhà nước trong khi đó các nước khác có tỷ lệ từ 1.6%
tới 2.7%. Tại
sao chi phí cho dịch vụ nhà nước của Việt Nam cũng tương đương với các nước đang
phát triển khác (coi bảng 4), mà lao động trong khu vực này ở Việt Nam lại thấp
như vậy? Khó có câu trả lời thật chính xác nhưng có thể lý do chính là số quân ở
Việt Nam vẫn còn rất cao so với các nước chung quanh, do đó dù số lượng người
làm việc trong hành chính thấp nhưng số lượng quân nhân cao hơn rất nhiều đã đưa
đến sự tương đương về chi tiêu cho dịch vụ nhà nước. Con số của CIA Mỹ cho thấy
là quân đội Việt Nam vẫn có khả năng lên tới 500 ngàn hay hơn.[38]
Bảng 5. Dịch vụ nhà nước vì lợi
ích tập thể (chỉ kể hành chính nhà nước)
Nước
|
Tỷ lệ lao động hành
chính (không kể quân đội) trên dân số theo số liệu năm gần nhất
|
Mỹ
|
2.7
|
Thái Lan
|
1.7
|
Mã Lai
|
2.7
|
Indonesia
|
1.6
|
Việt Nam
|
0.6
|
Nguồn:
US Bureau of Census; The Labor Force Survey, 2004 Thailand;
Yearbook of Statistics of Malaysia 2005;
Statistik Indonesia 2003.
Việc rà soát lại thống
kê để đánh giá kích cỡ nhà nước Việt Nam cho thấy là nhà nước này khá nhỏ (không
kể quân đội), chi phí cho dịch vụ nhà nước cũng không phải là lớn. Riêng nói về
số người làm trong hành chính, hoạt động đảng, an ninh và đoàn thể kể cả cán bộ
xã, phường (không kể quân đội, y tế và giáo dục), thì vào năm 2004 số này chỉ có
523 ngàn, bằng 0.63% dân số, rất nhỏ so với các nước khác. Trong số này có đến
226 ngàn là cán bộ xã phường mà chi phí cho họ chỉ được ghi tượng trưng trong
ngân sách nhưng thực tế là họ tự thu tự chi.[39]
Cái có thể giảm là quân số, nhưng điều này vượt ngoài tính toán kinh tế. Và
thực tế mà nói, số quân mới động viên trong thời hạn 18 tháng tốn kém rất ít vì
họ chỉ được nuôi cơm hai bữa. Chỉ có quân số chính qui mới thật sự tốn kém.
Như vậy không thể giảm biên chế để
tăng lương trong giai đoạn hiện nay.
Vậy tăng lương bằng cách nào khi mà
chi ngân sách hiện nay không thể tăng hơn?
Trước khi bàn về các biện pháp tăng
lương ta cần xem xét qua một số vấn đề ngân sách hiện nay.
Bảng 6.
Lao động trong khu vực nhà nước và ước lượng lao động và lương do ngân sách trả
|
2003(*)
|
Sơ bộ 2004
|
Lương trong
ngân sách 2004 ước tính
|
|
Nghìn người
|
Tỷ đồng
|
|
|
|
|
Tổng số lao động trong
khu vực nhà nước
|
4,035.4
|
4,141.7
|
|
1. Lao động
sản xuất
|
2,246.7
|
2,289.0
|
|
Nông nghiệp và
lâm nghiệp
|
221.4
|
222.4
|
|
Thuỷ sản
|
5.6
|
5.7
|
|
Công nghiệp
khai thác mỏ
|
118.8
|
123.5
|
|
Công nghiệp chế
biến
|
730.4
|
736.8
|
|
Sản xuất và
phân phối điện, khí đốt và nước
|
83.7
|
86.2
|
|
Xây dựng
|
539.9
|
556.0
|
|
Thương nghiệp;
sửa chữa xe có động cơ, mô tô,xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình
|
160.5
|
160.1
|
|
Khách sạn và
nhà hang
|
36.9
|
37.9
|
|
Vận tải; kho
bãi và thong tin liên lạc
|
192.1
|
198.1
|
|
Tài chính, tín
dụng
|
69.2
|
70.9
|
|
Các HĐ liên
quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
|
51.7
|
52.8
|
|
Hoạt động phục
vụ cá nhân và cộng đồng
|
36.5
|
38.6
|
|
|
|
|
|
2. Lao động
dịch vụ nhà nước
|
1,788.7
|
1,852.7
|
|
Hoạt động khoa
học và công nghệ
|
29.0
|
29.1
|
430
|
QLNN và ANQP,
đảm bảo xã hội bắt buộc
|
400.8
|
416.1
|
4,704
|
Giáo dục và đào
tạo
|
1,018.0
|
1,045.4
|
14,602
|
Y tế và hoạt
động cứu trợ xã hội
|
206.3
|
215.5
|
2,832
|
Hoạt động văn
hoá và thể thao
|
38.8
|
39.5
|
540
|
Các hoạt động
Đảng, đoàn thể và hiệp hội
|
95.8
|
107.1
|
1,211
|
Tổng chi phí
lương khu vực ngoài quân đội
|
|
|
24,318
|
3. Quân đội
|
500?
|
500?
|
10,182
|
Tổng chi phí
lương
|
|
|
34,500
|
Có thể nói cách ghi chú ngân sách
theo cái gọi là “minh bạch hoá ngân sách” của Bộ Tài chính vẫn còn mơ hồ, thiếu
minh bạch cho nên việc xem xét vấn đề lương dưới đây mặc dù có thể tiếp cận với
thực tế nhưng không thể coi là chính xác. Theo Tổng cục Thống kê, vào năm 2004
có 4.1 triệu người làm trong khu vực nhà nước, trong đó tạm ước tính có 1.8
người lao động là do ngân sách chi trả (coi bảng 6). Số tạm ước tính này của tác
giả dựa vào đánh giá những ngành hoạt động có tính phi thị trường (Ngân sách
trong minh hoá của Bộ Tài chính không ghi số lương và số lao động do ngân sách
chi trả). Theo tác giả, con số trên (coi bảng 6 và 7) chưa phản ánh lực lượng
quân đội do ngân sách phải trách nhiệm. Dựa vào số lương trung bình trong các
hoạt động kinh tế, tác giả ước tính 24 ngàn tỷ là để chi trả lương cho lao động
phi thị trường (không kể quân đội) và 10 ngàn tỷ là để trả lương cho quân đội
(vì tổng số lương IMF ước tính chi trả từ ngân sách là 34.5 ngàn tỷ). Lương
trung bình như vậy là 13.1 triệu một năm, tương đương với 820 USD.
Bảng 7.
Phân tích ngân sách theo số liệu IMF (2006 là ước lượng của tác giả)
|
|
2004
|
2005
|
2006
|
Chi thường
xuyên
|
|
Tỷ đồng
|
117,800
|
135,000
|
177,632
|
|
Tỷ US
|
7.4
|
8.4
|
11.1
|
Chi đầu tư
|
|
Tỷ đồng
|
59,000
|
66,000
|
96,800
|
|
Tỷ US
|
3.7
|
4.1
|
5.4
|
Lương trong
chi thường xuyên
|
|
Tỷ đồng
|
34,500
|
45,395
|
59,730
|
|
Tỷ US
|
2.16
|
2.84
|
3.73
|
Nguồn:
IMF, Vietnam Statistical Appendix, Feb. 2006
Bảng 8. Các chỉ số tăng lương
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
Tốc độ tăng lương 2004/2000
|
Lương tháng năm 2004 (ngàn đồng)
|
Tốc độ tăng lương danh nghĩa (%)
|
|
|
|
|
|
|
|
Lương bình quân mọi
hoạt động
|
16.5
|
12.3
|
12.0
|
16.6
|
13.1
|
66
|
1410
|
Công nghiệp
|
39.6
|
17.1
|
10.0
|
13.0
|
8.6
|
58
|
2090
|
Giáo dục
|
22.8
|
17.9
|
8.0
|
17.3
|
17.1
|
89
|
1164
|
Hành chính
|
26.7
|
13.5
|
5.0
|
15.3
|
18.1
|
62
|
942
|
Nguồn:
IMF, Vietnam Statistical Appendix, Feb. 2006
Phân
tích về lương chính thức (không kể thu nhập thêm) từ 2000 đến 2004 cho thấy:
· Lương
danh nghĩa tăng đáng kể trong 5 năm từ năm 2000 đến năm 2004 (coi bảng 8). Do
lạm phát thấp những năm 2000-2004, lương thực tế tăng đáng kể. Bắt đầu từ năm
2004 lạm phát tăng mạnh (gần 10%), lương thực tế vẫn tăng nhưng không ở mức cao
như trước.
· Lương
trong khu vực hành chính nhà nước thấp nhất, sau đó là giáo dục. Thời gian qua
có tăng nhưng lương vẫn chỉ bằng một nửa số lương của lao động trong công
nghiệp. Lương trong ngành giáo dục tăng đáng kể nhất so với các hoạt động khác.
Dù tăng như thế nhưng mức lương ở
Việt Nam vẫn thuộc loại thấp nhất thế giới, người được hưởng lương trong giáo
dục và hành chính cùng lắm là tự nuôi sống một mình mình (khoảng 60 USD một
tháng).
Phân tích về chi ngân sách cho thấy
là chi cho đầu tư là quá lớn, năm 2004 lên tới 3.7 tỷ USD, bằng một nửa chi
thường xuyên (coi bảng 7). Số chi đầu tư này lại gần gấp đôi chi lương (2.2 tỷ).
Giả thử chi đầu tư giảm xuống một nửa thì có thể tăng lương gần gấp đôi.
Mục tiêu của chính sách tăng lương
là làm sao trả lương cho công chức đạt mức tương đương trong công nghiệp. Bài
này sẽ không đi vào chi tiết (vì không đủ thông tin để đi sâu hơn) và chỉ đưa
vài nét phác thảo về một số giải pháp tăng lương với mục tiêu đạt mức lương
trung bình trong công nghiệp. Và điều này là khả thi. Số tiền cần để tăng lương
như thế có thể lên tới 3 tỷ USD một năm. Để đạt được mục tiêu, có thể kết hợp
nhiều biện pháp trong đó gồm cả tăng thu và chuyển đổi cơ cấu chi, nhưng quan
trọng nhất là thiết lập một lộ trình minh bạch cho việc tăng lương, tránh dùng
biện pháp in tiền gây lạm phát (qua việc mượn tín dụng ngân hàng):
·
Giảm đầu tư của nhà
nước, thường rất phí phạm vì tham nhũng, để tăng lương cho công chức, đặc biệt
là đầu tư cho doanh nghiệp quốc doanh và xây dựng công sở nhằm khoe mã. Việc trả
công xứng đáng cho người lao động trong hoạt động dịch vụ nhà nước cũng biện
pháp đầu tư: đầu tư vào con người.
· Trả
lương một phần bằng giấy nợ (công trái). Người công chức có công trái có thể
được ưu tiên mua nhà đất của nhà nước trong tương lai.
· Thiết
lập hệ thống thuế cá nhân hợp lý.
· Tăng
thuế tài sản địa ốc.
· Chọn
điểm ưu tiên nâng lương. Điểm ưu tiên này có thể là tăng lương cho các công chức
cấp cao trong chính phủ. Có người sẽ lý luận rằng cần giữ lương thấp để
“cùng
khổ” với nhân dân, nhưng đó chỉ là lý luận mị dân. Với khoảng 10 ngàn người và
với số lương trung bình 500 USD/tháng, thì tổng số tăng chi cần thiết chỉ là 48
triệu USD/năm. Và dù tăng đến 1000 USD /tháng, tổng số lương cần chi thêm cũng
không hơn 100 triệu USD một năm. Nhà nước không nên giả vờ trả lương thấp cho
cán bộ cấp cao. Với lương Chủ tịch nước, Thủ tướng, bộ trưởng không hơn 300 USD
một tháng thì hoặc là họ không sống nổi, hoặc phải dùng tiền ngân sách để chi mà
không gọi đó là lương (cho nên các khoản chi này không thể minh bạch phản ánh
đúng bản chất sự vật mà được kế toán phù phép), hoặc tham gia vào cái mà bài này
gọi là “tham nhũng tập thể.” Đấy là chỉ nói đến những hành động được phép.
Hiện nay ở Việt Nam, thuế (coi bảng
9) chỉ chiếm 54% thu ngân sách, 46% còn lại chủ yếu là thu hồi vốn (như từ dầu
lửa, thu hồi lãi cổ phần từ số vốn rất lớn nhà nước bỏ ra cho doanh nghiệp, cho
thuê đất và thu các loại phí như phí qua cầu). Ở Mỹ thì thuế là nguồn thu chính
của ngân sách. Trong hệ thống thuế, thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ lên tới 35.9%
trong khi Việt Nam chỉ đạt 3.2%. Thuế xuất nhập khẩu ở Mỹ không đáng kể nhưng ở
Việt Nam, dù đã giảm nhiều và
thay vào đó là thuế tiêu thụ đặc biệt, vẫn bằng 14% tổng số thuế. Việc gia nhập
WTO sẽ đòi hỏi Việt Nam giảm hẳn nguồn thuế nhập khẩu này và đòi hỏi đi tìm
nguồn thu khác thay thế. Rõ ràng nguồn thay thế là thuế thu nhập cá nhân vì thuế
doanh nghiệp hiện nay đã quá cao. Muốn thu thuế cá nhân đúng mức thì việc xoá bỏ
việc tự thu, tự chi là rất quan trọng.
Bảng 9. So
sánh hệ thống thuế ở Việt Nam và Mỹ năm 2004
|
Việt Nam 2004
|
Chính phủ Liên bang Mỹ
|
Chính phủ tiểu bang và
địa phương Mỹ
|
Toàn bộ hệ thống chính
phủ Mỹ
|
|
Ngàn tỷ đồng
|
%
|
Tỷ US
|
%
|
Tỷ US
|
%
|
Tỷ US
|
%
|
Tổng
|
115.0
|
100
|
1801.7
|
100
|
1138.9
|
100
|
2940.6
|
100
|
Thuế thu nhập cá nhân
|
3.7
|
3.2
|
809
|
44.9
|
248
|
21.8
|
1057
|
35.9
|
Thuế thu nhập doanh nghiệp
|
37.3
|
32.4
|
189.4
|
10.5
|
40.2
|
3.5
|
229.6
|
7.8
|
Thuế tiêu thụ đặc biệt kể cả thuế nhập khẩu
|
32.9
|
28.6
|
69.9
|
3.9
|
|
|
69.9
|
2.4
|
Thuế hàng hoá /VAT
|
41.1
|
35.7
|
|
|
429.4
|
37.7
|
429.4
|
14.6
|
Đóng góp bảo hiểm xã hội
|
|
|
733.4
|
40.7
|
16.5
|
1.4
|
749.9
|
25.5
|
Thuế địa ốc
|
1.0
|
0.9
|
|
|
321.6
|
28.2
|
321.6
|
10.9
|
Thuế tiền lãi ngân hàng và cố phần
|
|
|
|
|
83.2
|
7.3
|
83.2
|
2.8
|
Nguồn:
Số liệu về Mỹ , U. S. Census Bureau, Statistical Abstract of the United
States, 2006. Số liệu về Việt Nam, IMF, Vietnam Statistical Appendix, Feb.
2006
Một nguồn thuế khác nhằm bổ túc thuế
thu nhập cá nhân nhất là khi thu nhập hiện nay hầu hết nằm ngoài sổ sách là thuế
địa ốc. Tất cả mọi nguồn thu nhập không khai báo phần lớn nằm ở giá trị địa ốc.
Nguồn này ở Việt Nam coi như không đáng kể, trong khi đó ở Mỹ thuế địa ốc chiếm
3.2% GDP. Theo điều tra sơ khởi của tác giả, những người có địa ốc đóng thuế
hàng năm không hơn 70,000 đồng. Bảng 9 cũng cho thấy thuế địa ốc chưa bằng 1%
tổng số thuế thu được. Nếu chỉ đánh thuế 1/1000 giá trị tài sản thì một tài sản
100 triệu đồng (khoảng 6300 USD), một tài sản khá lớn với nhiều người Việt Nam,
chủ sở hữu phải đóng hàng năm là 100 ngàn đồng.
Ở Việt Nam, việc đánh thuế tài sản
địa ốc cũng là điều cần thiết, vừa để tăng thu ngân sách, vừa để làm giảm đầu cơ
nhà đất. Với tình trạng gần như không bị đánh thuế hiện nay, người đầu cơ không
phải trả giá nào cả khi nắm giữ địa ốc.
KẾT LUẬN
Bài viết phân tích sự chuyển động
của cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội trong quá trình dân chủ hoá từ 1975 đến
nay. Cuộc chuyển động này mang những đặc tính sau:
-
Sự hình thành khá thành công ở Việt Nam một
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với hai đặc điểm quan trọng nhất là
giá cả cơ bản được điều hành bởi qui luật cung cầu và quyền tư hữu phương
tiện sản xuất được công nhận. Tự do cơ bản của con người do đó ngày càng
được tôn trọng hơn trước.
-
Sự hình thành ở dạng phôi thai quyền lực của
quốc hội mang tính đối trọng với chính quyền và Đảng.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam về cả nguyên tắc và
thực chất không còn là một Đảng cách mạng, với những đảng viên cách mạng, áp
dụng chuyên chính vô sản, trấn áp giai cấp tư sản với mục đích xây dựng một
xã hội phi giai cấp và những con người “mới”.
Mục đích thực của Đảng
(không phải trên Điều lệ) đã thay đổi, trọng tâm đặt vào mục tiêu: “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong đó tư hữu được
tôn trọng và mọi thành phần kinh tế kể cả tư bản tư nhân trong và ngoài nước
được bảo vệ. Đảng viên cũng được quyền “bóc lột thặng dư” (theo ngôn ngữ của
Mác) như bất cứ một nhà tư sản nào, do đó, Đại hội Đảng vừa qua đã cho phép
xem xét, bổ sung, sửa đổi một số điểm cần thiết, [khi] chín muồi của
chủ nghĩa Mác-Lê, là một quyết định logic, một bước tiến đáng kể trong lý
luận, có thể đưa tới sự mở rộng hơn cho tự do tư tưởng. Có thể nói, ở một
mức độ nhất định, Đảng Cộng sản hiện nay có mục đích không khác gì một đảng
tư sản; cái khác là phương thức tổ chức và ý chí độc quyền nắm chính quyền.
-
Sự suy giảm quyền lực trung
ương (kể cả Đảng và nhà nước) và tăng cường quyền lực của địa phương.
-
Tất cả những chuyển động trên gần như đều mang
tính tự phát, bắt nguồn từ địa phương hoặc cơ sở do đó đưa đến sự mất cân
đối nghiêm trọng trong xã hội đặc biệt là vấn đề lương bổng. Tình trạng
lương thấp ở mức vô lý bị kéo dài quá lâu trong quá khứ và còn tiếp diễn
trong hiện tại đã mở cơ hội cho việc sử dụng tài sản của nhà nước để làm lợi
riêng (và đã được hợp pháp hoá), và do đó mở đường cho tình trạng tham nhũng
tập thể và rồi tham nhũng cá nhân, từ đó đưa đến việc mua quan bán chức, mua
bằng bán điểm.
Những thay đổi trên dù đầy rẫy tiêu
cực nhưng cũng mở ra những hướng đưa tới triển vọng phát triển tốt đẹp nếu biết
nắm thời cơ.
Có thể nói, việc địa phương hoá
trong lãnh đạo Đảng và Nhà nước mặc dù làm suy giảm quyền lực của lãnh đạo ở mức
cao nhất nhưng về cơ bản là những chuyển biến tốt, làm tăng cường quyền tự chủ,
tinh thần trách nhiệm và tính sáng tạo của địa phương. Sự giảm sút và rồi biến
mất vai trò lãnh đạo có tính quyết định của công thần cũng mở ra cơ hội
cho hoạt động lãnh đạo mang tính tập thể và việc xác lập quyền tối thượng của
luật pháp và Quốc hội và rồi thực quyền bầu cử quốc hội của dân chúng. Tính tự
phát đòi hỏi sự chủ động của Chính phủ trung ương nhằm thống nhất lại bằng chính
sách quốc gia, đồng thời sửa sai những méo mó mà tính tự phát tạo ra, và do đó
cần người lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược cho cả nước. Do tính tự phát mà ngân
sách quốc gia bị chia mảnh, đưa đến tình trạng thiếu tính thống nhất về trả công
lao động, phản ánh qua thu nhập kiếm thêm cao hơn lương chính thức, và mở đường
cho tham nhũng tập thể, rồi tham nhũng cá nhân. Tuy nhiên việc này đều có thể
giải quyết nếu như thu chi ngân sách được hợp lý hoá và minh bạch hoá, trong đó
một điều quan trọng cần cải cách chính sách thuế và giảm đầu tư của nhà nước.
Việt Nam có thể chưa hoàn toàn dân chủ về tư tưởng nhưng có thể giải quyết được
tham nhũng.
Vì trước mắt là Đảng Cộng sản vẫn là đảng duy nhất
ở Việt Nam lãnh đạo nhà nước, và do đó có quyền cử người, chủ yếu là đảng viên,
vào tất cả các chức vụ của nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cũng như chức
vụ lãnh đạo các doanh nghiệp quốc doanh, tạo ra khả năng gắn kết giữa tiền và
quyền lực. Chính vì thế mà việc kiểm tra sự trong sạch của đảng viên và việc cải
bộ máy nhà nước để kiểm tra Đảng cần thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi của khách
quan là một thể chế kiểm soát và cân bằng quyền lực ở trong Đảng và trong hệ
thống nhà nước chứ không phải là phê bình tự phê bình. Như vậy, kết
qủa của tình trạng tự phát và những biến chuyển hợp lý hoá chúng một phần nào từ
trước đến nay phải được mang lên tầm quốc gia nhằm thiết lập một nhà nước pháp
quyền, và sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện cụ thể qua liên hệ với nhà nước phải
được luật pháp hoá.
11 tháng Mười năm 2006
Chú thích
[2] Võ Văn Kiệt, “Đóng
góp ý kiến vào Báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi
mới.” Không ghi ngày.
[4] Coi Los Angeles
Times, David Lamb, November 1, 1999 và New York Times, Joseph Kahn, July
13, 2000.
[5] Theo Ngô Vĩnh Long,
“Vài
câu hỏi về quan hệ giữa ngoại giao và công việc cải tạo xã hội chủ nghĩa
trong thập kỷ sau miền Nam được giải phóng”,
Thời Đại Mới số 6, tháng 11 năm 2005 (http://www.thoidai.org/ThoiDai6/200506_NVLong.htm),
lý do sâu xa tại sao Việt Nam và Mỹ không thiết lập ngoại giao vẫn là
một câu hỏi, nhưng một số sự kiện cho thấy là phần lỗi không lớn thuộc
về lãnh đạo Việt Nam. Tờ New York Times ngày 4/6/1975 đưa tin là một
ngày trước đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một báo cáo trước Quốc Hội
Việt Nam cho rằng Việt Nam muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ với điều
kiện là Mỹ phải thi hành nghiêm chỉnh điều khoản 21 của Hiệp Định Paris
thỏa thuận viện trợ kinh tế cho Việt Nam để hàn gắn vết thương chiến
tranh. Sau đó, ngày 11/7/1975, ông Nguyễn Duy Trinh lại đặt vấn đề tương
tự trong báo cáo trước Quốc Hội, và báo Nhân Dân nối kết việc bồi thường
chiến tranh và kiếm người mất tích. Nhưng thông tin quan trọng hơn cả là
Hồi ký của Trần Quang Cơ, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, cho thấy sau
khi đắc cử, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter nới lỏng cấm vận và gửi Leonard
Woodcock, đặc phái viên của Tổng thống Mỹ sang Việt Nam gặp Thủ tướng
Phạm Văn Đồng ngày 17/3/1977 tỏ ý muốn thiết lập lại ngoại giao không
điều kiện; sau đó Mỹ và Việt Nam tiến hành thương thảo ngoại giao vào
tháng 5, 6 và 12 năm 1977 tại Paris. Trần Quang Cơ viết trong hồi ký, mà
Ngô Vĩnh Long cũng trích trong bài viết: “Theo chỉ thị đã nhận trước khi
đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói” 3 vấn đề: ta và Mỹ bình
thường hóa quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao
đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la
cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây.” (Có thể xem Hồi ký Trần Quang
Cơ, chương Việt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20,
http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC.html.)
[6] Thư của cựu Thủ
tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ngày 16
tháng 3 năm 2006.
[7] Thông tin này dựa
vào trao đổi cá nhân giữa tác giả và một số người giúp việc Nguyễn Văn
Linh và cần kiểm chứng. Nguyễn Văn Linh là uỷ viên Bộ Chính trị từ
1976-1981, nhưng vì phản bác quyết định cải tạo tư sản mà hoặc từ chức hoặc mất chức ủy viên Bộ Chính trị năm 1981.
[8] Zachary Abuza, “The
lessons of Le Kha Phieu: Changing rules in Vietnamese politics”,
Contemporary Southeast Asia, Vol. 2, No. 1, 2002.
[9] Con số tỉnh dựa vào
Niên giám các năm của Tổng cục Thống kê.
[10] Tác giả đã gặp bà
hai lần và đã dự đoán được tương lai của các quyết định mà bà quả quyết
theo đuổi, không cần tính toán kinh tế chỉ vì có quyền trong tay. Thông
tin về bà Ba Thi là dựa vào trí nhớ.
[11] Số liệu thuế năm
1989-1990 lấy từ Kinh tế và Tài chính Việt Nam 1986-1990 (Tổng
cục Thống kê, 1991), GDP từ Động thái và Thực trạng Kinh tế-Xã hội
Việt Nam 10 năm Đổi Mới 1986-1995 (Tổng cục Thống kê, 1996). Số
liệu năm 2005 từ Vietnam: Statistical Appendix, IMF (Feb.2006).
http://www.imf.org/external/pubs/cat/longres.cfm?sk=18894.0.
[12] Nghị quyết 8 ra đời
năm 1985 đã đưa nền kinh tế Việt Nam đến khủng hoảng trầm trọng. Nghị
quyết này nhằm cải cách giá, lương, tiền, tăng lương 10 lần đồng thời
xoá bỏ bao cấp, đổi tiền nhằm thu hút lại tiền vào ngân hàng và kiếm
cách không cho rút ra, với hy vọng làm giảm sức mua và giảm lạm phát.
Nghị quyết này tất nhiên vẫn không chấp nhận thị trường với giá cả tự
do, và tiếp tục quan điểm cho rằng nhà nước phải quyết định toàn diện
nền kinh tế, nhất là lương và giá. Vì không có nguồn thu từ thuế, nhà
nước vẫn phải in tiền trả lương và thu mua hàng hoá, chính sách giá
lương tiền này đã đưa đến siêu lạm phát và hoàn toàn làm mất lòng tin
của dân chúng. Nhưng chính khủng hoảng kinh tế và mất niềm tin trầm
trọng đã dọn đường cho cải cách có thực chất hơn vào cuối năm 1988. Cũng
cần để ý là chính sách cải cách khá triệt để thành công ở Việt Nam năm
1989 không mang tính phổ quát vì Việt Nam là một nước với 80% số lao động
làm việc trong khu vực nông nghiệp, có tính tự cung tự cấp. Sự thất bại
ở Liên Xô và Nga sau này là điển hình cho việc cải tổ kiểu "nổ lớn và
lập tức" vì khu vực công nghiệp lớn cho nên việc chúng bị đóng cửa do
mất khả năng cạnh tranh đã tạo ra hàng loạt người thất nghiệp, đưa nền
kinh đến suy thoái trầm trọng. Lý do tạo nên sự thành công ở Việt Nam là
khu vực doanh nghiệp còn quá nhỏ bé, toàn bộ lao động chỉ có 2.6 triệu,
bằng 10% tổng số lao động năm 1985. Mất việc ở doanh nghiệp sau cải cách
khoảng 400 ngàn đã dễ dàng được bù lại bởi hơn 1 triệu người có việc
trong khu vực tư doanh đã được mở ra. Việc trả lương một năm cho người
mất việc cũng không tốn kém đáng kể vì lương nhà nước chỉ khoảng 3 USD
vào lúc đó. Coi Vũ Quang
Việt, "Le Dévelopment de l’économie
vietnamienne de 1989 à 1995: une approche institutionnelle”,
L’économie vietnamienne en transition: les facteurs de la reusssite,
Cuong Le Van et Jacques Mazier, éd., L’Harmattan, Paris, 1998.
[13] Bảng sau
đây cho thấy vấn đề thiếu lương thực trước cải cách cuối năm 1988 và
tình trạng tốt đẹp hơn sau đó. Thóc
trên đầu người từ 1977-1981 thấp hơn năm 1976. Chính sách khoán sản phẩm
từ năm 1981 có làm tăng thêm sau đó, tức là thóc bình quân đầu người cao
hơn năm 1976 khoảng 8% nhưng gần như không thay đổi cho đến năm 1989 và
sau đó khi thóc bình quân đầu người cao hơn năm 1976 là 32% năm 1994.
Đặc biệt quan trọng là ngay từ 1989, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu
gạo quan trọng trên thế giới, phần lớn có lẽ là do thị trường hoá với
giá cả hợp lý, gạo đã vào thị trường.
|
Thóc sản
xuất
(1000
tấn)
|
Dân số
(1000
người)
|
Thóc sản
xuất trên đầu người (tấn)
|
Chỉ số
thóc trên đầu người (1976=1.0)
|
Gạo nhập
(1000
tấn)
|
Gạo xuất
gạo (1000 tấn)
|
1976
|
11827
|
48030
|
0.24624
|
1.00
|
|
|
1977
|
10597
|
49158
|
0.21557
|
0.88
|
|
|
1978
|
9790
|
50295
|
0.19465
|
0.79
|
|
|
1979
|
11363
|
51436
|
0.22092
|
0.90
|
|
|
1980
|
11647
|
52574
|
0.22154
|
0.90
|
|
|
1981
|
12415
|
53700
|
0.23119
|
0.94
|
|
|
1982
|
14390
|
54722
|
0.26297
|
1.07
|
|
|
1983
|
14743
|
55687
|
0.26475
|
1.08
|
|
|
1984
|
15506
|
56655
|
0.27369
|
1.11
|
|
|
1985
|
15875
|
59872
|
0.26515
|
1.08
|
447
|
56
|
1986
|
16003
|
61109
|
0.26188
|
1.06
|
537
|
132
|
1987
|
15103
|
62452
|
0.24183
|
0.98
|
485
|
120
|
1988
|
17000
|
63727
|
0.26676
|
1.08
|
395
|
91
|
1989
|
18996
|
64774
|
0.29327
|
1.19
|
20
|
1405
|
1990
|
19225
|
66233
|
0.29026
|
1.18
|
170
|
1624
|
1991
|
19622
|
67774
|
0.28952
|
1.18
|
|
1033
|
1992
|
21590
|
69405
|
0.31107
|
1.26
|
|
1946
|
1993
|
22837
|
71026
|
0.32153
|
1.31
|
|
1722
|
1994
|
23528
|
72509
|
0.32448
|
1.32
|
|
1983
|
Nguồn:
Từ các nguồn khác nhau: 1) Kinh tế - Xã hội Việt Nam 10 Năm Đổi mới
(1986-1995), NXB Thống kê, Hà NộiNội, 1996; 2) Nông nghiệp Việt Nam
1945-1995, NXB Tổng cục Thống kê, 1995; Nguyễn Tiến Thỏa, Lúa gạo Việt
Nam nguyên nhân của kỳ tích NXB Nong nghiep 1996. Chỗ bỏ trống là chỗ
không có số liệu.
[14] Coi nguồn Kinh
tế và Tài chính Việt Nam 1986-1990 (Tổng cục Thống kê, 1991).
[15] Dựa vào thông tin
cá nhân qua trao đổi với những người giúp việc ông Linh và ông Mười. Ông
Linh lo sợ có lý do. Vào thời gian thảo luận cải cách khá triệt để về
giá cả ở Việt Nam thì vào tháng 12 năm 1988 Đảng Cộng sản Ba Lan phải
chấp nhận nói chuyện với Công đoàn Đoàn kết. Tất nhiên lúc đó tình hình
các nước xã hội chủ nghĩa đã khá lộn xộn, nhưng chưa đến mức làm cản
trở ông Mười (lúc đó là Thủ tướng) và các lãnh đạo khác ủng hộ cải
cách. Tình hình có thể sẽ khác hẳn nếu việc bàn về cải cách này chậm
khoảng 1 năm. Vào năm 1989 một số sự kiện quan trọng xảy ra: 1) Vào
tháng tư năm 1989, Đảng Cộng Sản Ba Lan đồng ý với Công Đoàn Ba Lan tổ
chức bầu cử tự do cho 1/3 số ghế đại biểu quốc hội; kết quả là Công đoàn
Đoàn kết thắng 100% ghế; 2) Bức tường Bá Linh bị phá đổ vào tháng 11
năm 1989, và (3) ngay sau đó là cuộc lật đổ và sát hại vợ chồng lãnh tụ
Ceauşescu ở Romania vào
tháng 12 cùng năm. Sau đó là sự sụp đổ toàn diện của Liên Xô vào năm
1991. Nhưng không phải đợi đến lúc Liên Xô sụp đổ, tình hình chính trị
vào cuối năm 1989 cũng thay đổi lớn, đặc biệt là việc xoá bỏ chính sách
cởi trói cho văn nghệ sĩ, phản ánh rõ nhất qua việc cách chức Nguyên
Ngọc khỏi ghế Tổng biên tập báo Văn Nghệ, vân vân và vân vân.
[16] Vũ Quang Việt, Thử
tìm hiểu về việc phản kháng của nông dân Thái Bình, Diễn Đàn,
Tháng 10, 1997.
[17] Carlyle A. Thayer,
“Political developments in Vietnam, the rise and fall of Le Kha Phieu,
1997-2001”, trong Consuming Urban Culture in Contemporary Vietnam,
edited by Lisa B. W. Drummond and Mandy Thomas, RoutledgeCurzon, 2003.
[18] Coi phỏng vấn
nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Tiền phong online, 21/05/2005.
[19] Zachary Abuza, “The
lessons of Le Kha Phieu: changing rules in Vietnamese politics”,
Contemporary Southeast Asia, Vol. 2, No. 1, 2002.
[20]
Cũng nên nói qua về nguyên tắc tập thể lãnh
đạo cá nhân phụ trách. Nguyên tắc này là nhằm phát huy dân chủ, hạn chế
các quyết định độc đoán cá nhân trong một Đảng, và không có giá trị vận
hành trong hệ thống nhà nước, khi quyết định của đa số trong Quốc hội là
luật, và các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ thi hành với người đứng đầu
từng cơ quan có trách nhiệm cá nhân. Quyết định của tập thể ở các cơ
quan, nếu có, chỉ còn giá trị tự vấn; nếu không thế, nền hành chính quốc
gia sẽ không có hiệu quả. Nhưng ngay trong Đảng, nguyên tắc tập thể cá
nhân phụ trách thực ra cũng ít được thực hiện trong thực tế. Lịch sử các
đảng cộng sản cho thấy là thường chỉ một người có quyền quyết định tối
hậu chính vì thế mà độc tài của đảng thường đồng nghĩa với độc tài cá
nhân. Tập thể lãnh đạo ở cấp cao nhất cũng cần được hiểu là theo nghĩa
lãnh đạo đường lối, chính sách. Quyết định thực hiện chính sách trên cơ
sở biện pháp, hành động là thuộc trách nhiệm cá nhân. Ngay cả hoạt động
của cấp cao nhất trong Bộ Chính trị thì sự minh bạch về quyết định về
chính sách cũng là cần thiết. Những người nào đó chủ
trương để Bộ
Chính trị thông qua một chính sách sai thì những người đó cũng phải chịu
trách nhiệm cá nhân về lá phiếu của mình; tức là không thể tiếp tục ngồi
ở vai trò lãnh đạo. Vấn đề phân biệt điều gì cần quyết định tập thể,
điều gì thuộc phạm vi quyết định của cá nhân phụ trách, nhất là ở cấp
dưới, không đơn giản và là đề tài cần nghiên cứu cụ thể, tuy nhiên nó
vượt quá giới hạn của bài này.
[21] Phần này tác giả
viết lại so với những bản nháp trước vì lúc đó Điều lệ mới chưa được đưa
lên mạng.
[25] Hiện
nay, người được đưa vào Đảng ủy là do Ban Tổ chức Đảng lựa chọn giới
thiệu. Ở tỉnh thì do Ban Tổ chức Tỉnh ủy chọn lựa giới thiệu. Ở trung
ương là Ban Tổ chức Trung ương. Ngoài ra ở các cơ quan hành chính nhà
nước ở trung ương còn có Ban cán sự Đảng trực thuộc Ban Tổ chức Trung
ương sắp đặt người. Ban Cán sự Đảng này do trung ương cử xuống bao gồm
các chức Bộ trưởng và Thứ trưởng. Nếu không bị công an bắt tại trận về
tham nhũng thì Ban Cán sự Đảng ở Bộ Giao thông vận tải vẫn tiếp tục tự
“làm luật”. Đảng ủy do Đảng viên trong bộ ngành bầu ra không có giá trị
gì. Chức Bộ trưởng và tương đương theo Hiến pháp năm 1992 do Thủ tướng
bổ nhiệm và cách chức. Nhưng thực chất Thủ tưởng chỉ có quyền với chức
Thứ trưởng và Vụ trưởng; các chức vụ khác đều do Ban Tổ chức Đảng quyết
định. Vai trò của người cầm đầu Ban Tổ chức như Lê Đức Thọ có thể làm lu
mờ toàn bộ nguyên tắc dân chủ trong Đảng. Không hiểu với quyền lợi kinh
tế dầy đặc (ít nhất là cử người vào các chức vụ béo bở) Đảng làm sao có
thể phát huy dân chủ và kiểm tra đảng viên.
[26] Thư
của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam,
đề ngày 16 thág 3 năm 2006.
[28]
Vấn đề quan hệ giữa Đảng,
pháp luật và chính quyền cũng đã được nêu ra trong các bài: (1) Nguyễn
Ngọc Điện, "Luật hoá cơ chế Đảng lãnh đạo", (2) Nguyễn Sĩ Phương "Đừng lôi
Đảng vào" trên Thời báo Kinh tế SàiGòn (số 27, 29/6/2006).
[30]
Trong một bài viết trước đây,
tác giả cho rằng cần tư hữu hoá ruộng đất, và để tránh việc tập trung tư
bản ruộng đất, và bảo vệ nông dân có đất làm ăn thì có thể dùng chính
sách hạn điền. Coi Vũ Quang Việt, "Kinh tế thị trường và xã hội công
dân: trường hợp Việt Nam", trong Đánh Thức Con Rồng Ngủ Quên do
Phạm Đỗ Chí và Trần Nam Bình chủ biên, NXB TP Hồ Chí Minh, 2001.
[31]
Giáo sư Hoàng Tuỵ cũng
đặt vấn đề này trong bài báo đăng trên Tạp chí
Lập pháp
- số chủ đề ‘Hiến kế lập pháp’, tháng 9.2005, sau đó được đăng lại trên
Website của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
[32]
Dựa vào phỏng vấn cá nhân ở
Bắc Kinh vào tháng 8 năm 2006.
[33]
Cách tính của tác giả khá đơn
giản như sau: Áp dụng tỷ lệ tham nhũng, mất mát thường được nói tới ở
Việt Nam, khoảng 20-30% giá trị công trình, vào tổng vốn đầu tư cuả nhà
nước. Theo Tổng cục Thống kê (www.gso.gov.Việt Nam), vốn đầu tư của nhà
nước năm 2005 là 175 ngàn tỷ (tương đương với 11 tỷ USD), bằng 52% tổng
vốn đầu tư trong nền kinh tế. Như vậy tiền mất về tham nhũng có thể lên
tới 2-3 tỷ USD.
[34] Nguồn
tài chính nào để thực hiện cải cách tiền lương? Nhân Dân,
3/12/2003.
[36] Vấn đề
“vẽ voi vẽ chuột” là khá rõ ràng. Vào tháng 4 năm 2006, website của Bộ
Tài chính cho con số dự toán chi (không kể trả nợ gốc) năm 2005 là
169,246 tỷ. Vào 4 tháng 6 con số này được đổi lại, tăng lên tới 201,800
tỷ (phù hợp với con số của IMF). Vào thời điểm trước đây (và hiện nay)
dự toán chi năm 2004 là 187,670 tỷ, cao hơn con số chi trong dự toán
cho năm 2005 là 169,246 tỷ. Tác giả may mắn giữ lại số liệu dự toán này
do đó mới thấy sự biến hoá khôn lường này. Chính vì lý do này, tác giả
dùng số liệu của IMF về Việt Nam để phân tích vì ít ra là họ cũng vừa
thu thập từ Bộ Tài chính vừa tra hỏi để điều chỉnh những bất hợp lý.
[37] Pháp
lệnh về Công chức ở Việt Nam do Thường vụ Quốc hội, số
11/2003/PL-UBTVQH11, công bố
ngày 20/4/2003 coi tất cả mọi chức vụ dân cử kể cả đại biểu Quốc hội là
công chức, không phân biệt người được tuyển chọn qua các kỳ thi công
chức và người được Thủ tướng bổ nhiệm, như bộ trưởng, thứ trưởng, cố
vấn, mặc dù làm cho nhà nước nhưng không thể gọi là công chức. Họ chỉ là
cán bộ chính trị, được cử ra nhằm phục vụ ý đồ của Thủ tướng và có thể
bị cách chức khi không thực hiện tốt nhiệm vụ hoặc chỉ thị của Thủ
tướng. Hệ thống công chức cần có sự phân biệt rạch ròi để nếu như một
công chức trong ngạch trật được cử làm vào chức “chính trị” họ có thể
lui về chức vụ công chức chuyên nghiệp. Về tuyển công chức, Trần Văn Thọ
đã có bài “Hãy tổ chức thi tuyển quan chức nhà nước”, Kinh tế Sàigòn
số 19 (4/5/2006) về kinh nghiệm ở Nhật. Thi tuyển công chức cấp cao ở
Nhật có hai chặng: chặng thi chung cho mọi người và chặng thi vào các bộ
chuyên môn. Người ở chặng hai phải đỗ chặng 1. Ở Liên Hợp quốc, cũng có
hai chặng. Chặng 1 bao gồm thi viết tổng quát, thi viết chuyên ngành
(chẳng hạn ngành thống kê) và thi vấn đáp. Sau khi được tuyển chọn, ứng
viên phải qua chặng 2, bị phỏng vấn trực tiếp của các ngành chuyên môn.
Nếu không được chuyên ngành nhận, ứng viên tiếp tục nằm trong danh sách
ứng viên và có thể được nơi khác trong hệ thống phỏng vấn. Họ chỉ được
nhận vào Liên Hợp Quốc khi có một bộ phận trong Liên Hợp Quốc chấp nhận họ. Tất nhiên, vẫn
có thể vào Liên Hợp Quốc mà không qua kỳ thi nào, nhưng đó phải là những người vào
chức chuyên viên cao cấp, hoặc được bổ nhiệm vì kinh nghiệm hay áp lực
chính trị hoặc được tuyển qua phỏng vấn. Những người này về nguyên tắc
không được vào biên chế vĩnh viễn. Điều trình bày trên phản ánh một
loại hệ thống công chức. Ở Mỹ và Anh, họ chỉ tuyển công chức khi cần và
có thể vào ngang ở bất cứ vị trí nào. Tuy nhiên cả hai cách có một điểm
giống nhau là sự phân biệt giữa công chức chuyên nghiệp và chức vụ chính
trị được đảng cầm quyền. Những người nằm trong chức vụ chính trị phải từ
chức khi đảng cầm quyền bị thay thế.
[39] Tính dựa vào số
thống kê về tăng cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã 2003 so với 2002.
Việc “tăng” này thật ra chỉ là hợp pháp hoá các cán bộ xã, phường đã có
sẵn, ghi cho có lệ chi tiêu mà thật ra ngân sách không chi ra. Quyết
định này của chính phủ về nguyên tắc cho phép cán bộ xã, phường được
hưởng chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cũng như cho
cán bộ không chuyên trách ở cấp xã và tổ dân phố hưởng chế dộ phụ cấp
hàng tháng theo Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 và Nghị đinh
số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn, số cán bộ cấp xã của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (coi Website của Tổng cục Thống kê và Nhân Dân ngày
3/12/2003.
© Thời Đại Mới
Posted in: Chính Trị,Vũ Quang Việt
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét