Tháng 2 27, 2014
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
PHẦN II
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: TÁC ĐỘNG CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
Đấu tranh vì lương tâm là một phương pháp hành động. Cốt lõi của nó là kiên trì bênh vực một sự thật [lẽ phải, điều chính đáng] được công bố, bằng những hành xử bất bạo động, và sẵn sàng chấp nhận tự khổ.
Phương pháp này nhằm mang lại những thay
đổi khi có xung đột. Như mọi phương pháp hành động khác để xoay chuyển
tình thế, nó dùng đến sức mạnh. Nhưng, so với những phương pháp quy ước
dùng vũ lực để giải quyết xung đột, sức mạnh do đấu tranh vì lương tâm
mang lại có những đặc tính và kết quả hoàn toàn khác.
Đấu tranh vì lương tâm có nhiều hình thức khác nhau. Thường xuyên nhất trong phong trào đòi độc lập Ấn Độ là hình thức bất hợp tác, và bất tuân dân sự. Trong khi đó, chương trình hỗ trợ là khía cạnh tích cực của đấu tranh vì lương tâm, diễn ra cùng lúc với các hình thức đấu tranh khác.
Bất hợp tác có thể bao gồm đình công, bãi công, hartal [bãi thị]* từ nhiệm, từ chức, bỏ việc và từ chối tước hiệu. Về nguyên tắc, bất hợp tác
đơn giản là từ chối làm những gì vi phạm đến “sự thật” cốt lõi, hoặc từ
chối hợp tác với những người chịu trách nhiệm về những vi phạm này.
Bất tuân dân sự là trực tiếp vi phạm những luật lệ cụ thể, có thể gồm cả không đóng thuế. Tự nguyện vào tù cũng là một cách bất phản kháng** đặc
biệt được áp dụng trong bất tuân dân sự. Tính dân sự của đấu tranh vì
lương tâm được thực hiện bằng cách kêu gọi và tự nguyện chấp nhận bị
luật pháp trừng phạt, vì đã cố tình hành động trái với luật pháp.
***
Cũng cần nói một điều quan trọng liên
quan đến tuyệt thực và vị trí của nó trong phương pháp đấu tranh đấu
tranh vì lương tâm của Gandhi.
Gandhi thường xuyên viết về những nguy
hiểm khi tuyệt thực được dùng như một cách đấu tranh. Ông cho rằng hầu
hết các cuộc tuyệt thực diễn ra chỉ đơn thuần là những “cuộc tuyệt thực
không chuẩn bị trước và không suy nghĩ cẩn thận.”
Ông lên tiếng rất nhiều lần để phản đối
việc tuyệt thực tùy tiện và biết rõ rằng thường “có bạo động đằng sau
những cuộc tuyệt thực như thế.” [i] Mặc dù Gandhi hoàn toàn tin tuyệt thực có thể là “vũ khí hiệu quả” bậc nhất trong “kho vũ khí” của đấu tranh vì lương tâm, [ii] ông nhận ra rằng phải suy nghĩ rất thận trọng khi chọn tuyệt thực.
“Tuyệt thực là một vũ khí nóng. Nó
có khoa học của riêng nó. Theo kinh nghiệm của tôi, không ai hiểu biết
hoàn toàn về tuyệt thực.
“Những thử nghiệm phi khoa học với
tuyệt thực sẽ chỉ làm hại chính người tuyệt thực, và có thể làm hại cả
chính nghĩa họ theo đuổi. Vì vậy, những ai chưa có đủ thẩm quyền để
tuyệt thực thì không nên sử dụng vũ khí này.
“Một người chỉ nên tuyệt thực khi
người ấy có liên quan đến đối tượng mà anh ta tuyệt thực để chống lại.
Người bị chống lại cũng phải liên quan trực tiếp đến mục đích của cuộc
tuyệt thực.” [iii]
Nói chung, tuyệt thực có thể dùng để hỗ
trợ cho những hoạt động khác của đấu tranh vì lương tâm. Không nên xem
đó là một hình thức đấu tranh dành cho đại chúng. Tuy nhiên, với sự phát
triển của “đấu tranh vì lương tâm theo hình thức đại diện”, một số cá
nhân được chọn lọc để đại diện cho tập thể tiến hành đấu tranh vì lương
tâm, thì họ có thể dùng đến tuyệt thực.
***
I. CỐT LÕI KHI THỰC HÀNH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM
Nếu muốn làm một cẩm nang cho các chiến
dịch đấu tranh vì lương tâm nói chung, dựa trên kinh nghiệm tại Ấn Độ,
ba chương đầu sẽ viết về: (1) Những nguyên tắc nền tảng, (2) Những quy
tắc ứng xử, và (3) Những bước thực hành. Và những điểm dưới đây cần được
ghi vào cẩm nang này:
1. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG [iv]
(1) Tự lập trong mọi lúc. Có
thể chấp nhận sự trợ giúp từ bên ngoài trong những hoàn cảnh đặc biệt,
nhưng không bao giờ nên trông chờ hay lệ thuộc vào trợ giúp từ bên
ngoài.
(2) Luôn có sáng kiến. Người thực hành đấu tranh vì lương tâm cần thúc đẩy phong trào đi tới không ngừng, bằng cách liên tục đánh giá tình hình xung đột, tham gia những hoạt động hỗ trợ khi có thể, tích cực phản kháng khi cần thiết, hoặc bằng kỹ thuật thuyết thục và điều chỉnh khi phù hợp.
(3) Quảng bá mục tiêu, chiến lược và chiến thuật của cuộc đấu tranh. Quảng
bá phải là một phần không thể thiếu của cuộc đấu tranh. Việc quảng bá,
hướng dẫn công chúng, hướng dẫn người tham gia và cả đối thủ, phải được
tiến hành liên tục và nhanh chóng.
(4) Giảm các yêu sách đến mức tối thiểu, phù hợp với sự thật mình theo đuổi. Liên tục đánh giá lại tình hình và mục tiêu muốn đạt với sự sẵn sàng điều chỉnh các yêu sách là điều rất cần thiết.
(5) Từng bước thúc đẩy phong trào lớn mạnh,
thực hiện các bước và giai đoạn phù hợp với tình hình cụ thể. Quyết
định khi nào bước vào giai đoạn kế tiếp của đấu tranh vì lương tâm cần
được cân nhắc thận trọng cho phù hợp với tình hình luôn thay đổi, nhưng
phải tránh bằng được tình trạng trì trệ, giậm chân tại chỗ. Tuy nhiên,
biện pháp mạnh chỉ được tung ra sau khi mọi nỗ lực để đạt được thỏa
thuận trong danh dự đều đã được dùng đến mà không mang lại kết quả.
(6) Đánh giá điểm yếu trong nội bộ của
tập thể thực hiện đấu tranh vì lương tâm. Tinh thần và kỷ luật của
những người tham gia đấu tranh vì lương tâm phải được duy trì thông qua
việc chủ động nắm bắt bất cứ những biểu hiện nào của mất kiên nhẫn, manh
động, của xuống tinh thần hoặc thái độ bỏ cuộc, buông tay với bất bạo
động trong hàng ngũ thành viên cũng như người lãnh đạo.
(7) Tích cực tìm kiếm những thỏa thuận trong danh dự với đối thủ. Mọi
nỗ lực phải được thực hiện để thu phục đối thủ bằng cách giúp đỡ đối
thủ (khi việc này phù hợp mới mục tiêu thật của đấu tranh vì lương tâm)
qua đó, chứng tỏ sự chân thành muốn đạt một thỏa thuận chung với đối
thủ, thay vì “ta thắng, địch bại”.
(8) Khi thương lượng, không được bỏ đi những nguyên lý cốt lõi. Đấu
tranh vì lương tâm không chấp nhận những thỏa hiệp làm ảnh hưởng đến
những nguyên lý nền tảng hoặc thành tố quan trọng của những mục tiêu
đúng đắn. Cần thận trọng để không thương lượng, mua bán hay đổi chác.
(9) Phải có được thỏa thuận hoàn toàn về những điểm then chốt trước khi chấp nhận một dàn xếp nào đó.
***
2. NỘI QUY
Những điểm sau đây được Gandhi đưa ra như một quy định cho những người tình nguyện tham gia phong trào năm 1930: [v]
(1) Không giận dữ nhưng chấp nhận đau khổ khi đối phương giận dữ. Từ chối đáp trả khi đối phương tấn công.
(2) Không tuân phục bất cứ lệnh nào được đưa ra trong lúc giận dữ, dù có thể bị trừng phạt nặng vì không tuân phục.
(3) Không sỉ nhục và chửi rủa người khác.
(4) Bảo vệ đối phương khỏi bị sỉ nhục và tấn công, dù có thể rủi ro đến tính mạng.
(5) Không chống cự lại nếu bị bắt hay
bị tịch thu tài sản, trừ khi đang bảo vệ tài sản với tư cách là người
được ủy thác trông coi tài sản.
(6) Không cho tịch thu bất cứ tài sản gì mình được ủy thác trông coi, dù có thể rủi ro đến tính mạng.
(7) Nếu trở thành tù nhân, hãy hành xử với phong cách đường hoàng, mẫu mực.
(8) Là thành viên của một đơn vị đấu
tranh vì lương tâm, cần tuân lệnh người điều hành đấu tranh vì lương
tâm, và từ chức rời khỏi đơn vị nếu có bất đồng nghiêm trọng.
(9) Không đòi hỏi những khoản bảo đảm trong việc cấp dưỡng cho người thân.
***
3. NHỮNG BƯỚC TIẾN HÀNH MỘT CHIẾN DỊCH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM [vi]
Dưới đây là những bước áp dụng trong một
phong trào xuất phát từ những xung đột quyền lợi, nhằm chống lại một
trật tự chính trị nhất định. Những bước này cũng có thể áp dụng trong
những tình huống xung đột khác.
(1) Thương lượng và hòa giải.
Mọi nỗ lực nhằm giải quyết xung đột và mâu thuẫn thông qua những kênh
tiếp xúc hiện có phải được tận dụng, trước khi tiến hành những bước kế
tiếp.
(2) Chuẩn bị tập thể trước khi đấu tranh trực tiếp.
Ngay sau khi nhận ra một tình huống xung đột có thể dẫn tới đấu tranh
trực tiếp, cần phải xem xét cẩn thận mọi mục tiêu đề ra, tiến hành luyện
tập để mọi người biết giữ kỷ luật bản thân, và phải tiến hành thảo luận
thấu đáo trong nội bộ về những vấn đề cần bàn, những đường lối cần thực
hiện, tình hình của đối phương, những biến động trong dư luận, v.v.
Bước này thường bao gồm, như ở Ấn Độ, các cuộc nhịn ăn để thanh tịnh
tinh thần.
(3) Quảng bá. Bước này bao gồm một chiến dịch quảng bá tích cực, cùng lúc với những họat động rầm rộ như mít-tinh, diễu hành, hô khẩu hiệu.
(4) Công bố tối hậu thư. Cần
gửi một kiến nghị cuối cùng mạnh mẽ đến đối phương để giải thích những
bước kế tiếp sẽ thực hiện nếu không đạt được thỏa thuận. Ngôn ngữ và
cách trình bày tối hậu thư cần đưa ra một khả năng thỏa thuận lớn nhất
có thể, tạo điều kiện cho đối phương giữ sĩ diện, không mất mặt, và đưa
ra được một giải pháp có tính xây dựng.
(5) Tấy chay kinh tế và những hình thức đình công.
Đình công, bãi công có thể được áp dụng rộng rãi, cùng với những cuộc
biểu tình và hướng dẫn quần chúng liên tục. Có thể biểu tình ngồi
(dharna), cũng như các hình thức đình công bất bạo động khác, và vận
động tổ chức một cuộc tổng đình công rộng khắp.
(6) Bất hợp tác. Tùy vào bản
chất của vấn đề đang được đặt ra, những hành động như không nộp thuế,
nghỉ học, bãi khóa hay nghỉ làm, tẩy chay những thiết chế công cộng, tự
loại mình ra khỏi tổ chức công quyền, ngay cả tự lưu đày, đều là những
hình thức có thể thực hiện.
(7) Bất tuân dân sự. Cần chọn
lựa rất thận trọng điều luật mà mọi người sẽ bất tuân. Điều luật đó nên
là điều luật cốt lõi tạo ra xung đột, hay có giá trị biểu tượng cao.
(8) Thay mặt nhà nước thực hiện chức năng chính quyền. Shridharani gọi điều này là “đấu tranh vì lương tâm tấn công”. Cần chuẩn bị thật đầy đủ để bước này đạt hiệu quả.
(9) Chính quyền song song.
Việc thiết lập những chức năng song song xuất phát từ bước (8) vừa kể,
và những chức năng này cần được củng cố để thu hút quần chúng hợp tác
nhiều nhất có thể.
Hành động cụ thể sẽ thực hiện trong một
chiến dịch đấu tranh vì lương tâm tiêu biểu, dĩ nhiên, sẽ do tình hình
thực tế quy định. Cũng giống như việc chuẩn bị kỹ lưỡng và sâu rộng cho
các trận đánh vũ trang, tất cả đều lệ thuộc vào kỷ luật, lãnh đạo, chuẩn
bị, mục tiêu kiên định, và khả năng điều chỉnh sao cho lý thuyết và
hành động phù hợp với tình hình thực tế.
Việc phân tích những chiến dịch đấu
tranh vì lương tâm đã diễn ra trong lịch sử sẽ cho thấy người tham dự đã
được chuẩn bị theo hướng nào để củng cố những chiến dịch này và để
tránh những yếu điểm tiềm ẩn.
Gandhi và những lãnh tụ Ấn Độ khác đón
nhận tất cả mọi người đến tham gia các chiến dịch của họ. Họ đưa ra
những luật lệ và chiến thuật đang khi tiến hành đấu tranh trong những
tình huống xung đột rất kinh điển.
Nếu được quyền chọn lọc và có thể huấn
luyện người tham gia đảm đương nhiều vai trò trong các chiến dịch đấu
tranh vì lương tâm thì có lẽ cuộc đấu tranh của Gandhi và các lãnh tụ đã
vang dội hơn nhiều. Tuy vậy, họ đã thành công rất lớn, nhất là nếu hiểu
rằng họ hành động trên nền tảng hoàn toàn tự phát, và đã vận
động được đại đa số quần chúng vốn trước đó chưa hiểu biết gì về kỹ
thuật đấu tranh cần có, và cũng rất ít người trong đám đông kia có khả
năng giữ gìn kỷ luật liên tục đang khi thực hành các kỹ thuật đấu tranh.
***
II. SATYAGRAHA (ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM) HAY DURAGRAHA (BẤT BẠO ĐỘNG QUYẾT LIỆT)?
Trước khi giới thiệu tổng quát về một số
cuộc đấu tranh tiêu biểu diễn ra tại Ấn Độ vào thời Gandhi còn sống,
cũng nên biết rằng có những phong trào, tuy một số mặt được tiến hành
giống như đấu tranh vì lương tâm nhưng lại không hội đủ các điều kiện để
trở thành một cuộc đấu tranh vì lương tâm theo đúng tinh thần Gandhi.
Vậy, làm thế nào để biết đâu là đấu tranh vì lương tâm đích thực?
Trước hết cũng cần nói rằng không thể
đòi các phong trào đấu tranh phải được tiến hành và đạt hiệu quả hoàn
hảo. Ngay các cuộc chiến vũ trang, như thường được biết, cũng chỉ đạt
hiệu quả thấp đến đáng ngạc nhiên.
Điều khác biệt là các chương trình hỗ
trợ đã mang lại cho đấu tranh vì lương tâm những lợi thế ban đầu. Tuy
vậy, không có bất cứ một cách đấu tranh nào, dù vũ trang hay bất bạo
động, có thể đạt được hiệu quả hoàn toàn, cả trong việc giữ gìn kỷ luật
nội bộ lẫn tiến hành chiến lược và chiến thuật.
Những chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
kiên định đã đạt mức thành công cao, và nhiều chiến dịch đã loại bỏ được
bạo động vật lý, nhưng có lẽ không chiến dịch nào đã có thể bất bạo
động đến mức hoàn hảo về mọi mặt.
Khi đặt vấn đề làm sao để biết đâu là đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, chúng ta không nói đến mức độ thành công – trong chủ trương, mục đích, hay hiệu quả so với dự đoán – của chiến dịch. Vấn đề không phải là mức độ, mà là loại hình (dĩ nhiên sự khác nhau về mức độ quá lớn có thể dẫn đến khác nhau về loại hình).
Khác biệt giữa satyagraha (đấu tranh vì
lương tâm) và điều người Ấn gọi là duragraha (bất bạo động quyết liệt)
nằm ở một số điểm then chốt sau đây:
- Điểm rõ nhất của một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa nằm ở chương trình hành động
của nó. Câu hỏi đầu tiên cần đặt ra để phân biệt thật giả là xem chiến
dịch có tuân theo các bước đi, từ việc tận dụng các điều kiện có sẵn từ
đầu để giải quyết xung đột, rồi đến các bước khác, nhất là những bước
cho thấy nỗ lực tìm kiếm thỏa thuận mà không làm nhục đối thủ.
- Một cuộc vận động bằng đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa sẽ có dấu
hiệu cho thấy nó được tiến hành với các bước như vừa kể. Việc quảng bá
đầy đủ ý định của người thực hiện đấu tranh vì lương tâm cũng phải được
tiến hành. Cũng phải có chứng cớ cho thấy những nỗ lực nhằm giảm tối đa
khó khăn cho đối thủ.
- Một chương trình hỗ trợ đi kèm cũng là dấu hiệu của một chiến dịch
đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa. Chiến dịch có thực hiện các bước tích
cực nhằm phục vụ cho thành viên của mình, cho quần chúng, và trong một
số trường hợp, cho cả đối thủ hay không?
- Việc sẵn lòng chấp nhận những hình phạt của luật pháp cũng là một
nét đặc thù của đấu tranh vì lương tâm, trong khi việc dựa vào luật pháp
để tự vệ lại là điều ít thấy xảy ra.
- Một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa luôn năng động và đầy tính xây dựng, vừa tấn công, vừa hòa giải.
- Nhất quyết tìm cho được cái đúng trong hoàn cảnh cụ thể, kiên trì
tìm ra những hình thức đấu tranh mới và sáng tạo cũng là một đặc điểm
khác.
Có thể thấy ngay rằng những cuộc tuyệt
thực đơn giản, hoặc biểu tình, đình công đơn thuần không phải là những
cuộc đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, vì không hội đủ các yếu tố cần
thiết.
Tuyệt thực, biểu tình hay đình công có
thể được sử dụng trong một giai đoạn của một chiến dịch đấu tranh vì
lương tâm, nhưng bản thân chúng đơn thuần chỉ là những hành động như tên
gọi đã gợi ra và không nên xem đó như một chiến dịch đấu tranh vì lương
tâm đầy đủ.
***
Xem xét các phong trào diễn ra trong
thời gian qua [đầu thập niên 1950, trước khi sách này xuất bản - ND] ở
Ấn Độ dưới danh nghĩa đấu tranh vì lương tâm, có thể thấy rất nhiều
những hình thức đấu tranh chỉ nên được gọi là những cuộc tuyệt thực,
đình công ngồi, tẩy chay hoặc duragraha mà thôi.
Nhiều cuộc đấu tranh của giáo viên tại
Ấn Độ trong vài năm qua cũng không đủ yếu tố để được gọi là đấu tranh vì
lương tâm theo đường lối Gandhi; hành động của các nhóm Ấn Độ giáo
chính thống trong việc chiếm đóng Kashmir cũng không thể được xem như
đấu tranh vì lương tâm của Gandhi; các cuộc biểu tình diễn ra trước năm
1953 tại vùng Nam Ấn nói tiếng Tegulu đấu tranh cho tiểu bang Andhra tự
trị cũng không cấu thành một cuộc đấu tranh vì lương tâm theo tinh thần
Gandhi đúng nghĩa.
Dĩ nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
những người tham gia các cuộc đấu tranh này không có được những tố chất
như Gandhi, cũng không phải người viết xem nhẹ sự dấn thân của họ, hoặc
phán xét chính nghĩa mà các cuộc đấu tranh kia nhắm tới.
Một số những cuộc đấu tranh vừa kể đạt thành công, với tính cách là duragraha,
cũng như đấu tranh vũ trang cũng thành công và đạt được những mục tiêu
giới hạn. Nhưng tôi tin mọi người rất cần hiểu rằng không phải cuộc đấu
tranh nào cũng là đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa chỉ vì nó không dùng
đến bạo lực.
Lịch sử các diễn biến chính trị đương đại tại Ấn Độ cho thấy duragraha
và biểu tình, đình công, tuyệt thực – dưới danh nghĩa đấu tranh vì
lương tâm – chính là những chiến thuật thông dụng thời kỳ này. Chắc chắn
những cách đấu tranh này dễ tổ chức hơn, không quá khó để lãnh đạo hay
kiểm soát nếu so sánh với đấu tranh vì lương tâm theo cách của Gandhi.
Trong nhiều trường hợp, đây là những cuộc đấu tranh tự phát, và thường
được gán ngay cho tên gọi đấu tranh vì lương tâm. Nhưng chỉ cần xem xét
chúng dựa trên các tiêu chuẩn nêu ra ở đây cũng có thể thấy chúng không
là những cuộc đấu tranh vì lương tâm thực thụ.
Tuy vậy, cũng có một số chiến dịch đấu
tranh vì lương tâm đúng nghĩa, rất đáng chú ý và có nhiều ý nghĩa trong
thời kỳ hậu-Gandhi tại Ấn Độ. Trong số này có hai cuộc đấu tranh đáng kể
nhất, diễn ra ở hai đầu cách biệt của Ấn độ: một ở huyện Manbhum,
Bihar, và một ở huyện Surat, Bombay.
Trong giai đoạn đầu cuộc đấu tranh ở
Manbhum, đấu tranh vì lương tâm đã được áp dụng triệt để, dù gặp phải
rất nhiều trở ngại, cho thấy cuộc đấu tranh đã giữ được những nguyên lý
cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm, và được tiến hành từng bước một, tới
cả bước thành lập một hệ thống chính quyền địa phương (thông qua việc
thành lập các hội đồng địa phương, đại diện cho quần chúng) vốn đối đầu
trực tiếp với chính quyền tiểu bang.
Trong khi đó, đấu tranh vì lương tâm ở
Pardi, tiểu bang Bombay, là cuộc đấu tranh được quảng bá nhiều hơn, được
tổ chức và lãnh đạo bởi những người theo cánh Xã hội chống lại Chính
quyền Tiểu bang Bombay. [vii]
Cuộc đấu tranh này tiến hành được một số bước tiêu biểu theo đúng cách
của đấu tranh vì lương tâm, và cuối cùng thành công, buộc chính quyền
Bombay thực hiện mục tiêu đấu tranh là trả lại vùng đồng cỏ cho dân canh
tác.
Nghiên cứu những cuộc đấu tranh này và
những chiến dịch tương tự tại Ấn Độ đương đại sẽ làm rõ những quy cách
được áp dụng trong các chiến dịch đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Trong những trang sau, tôi sẽ thử phân
tích ngắn gọn năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm diễn ra trong thời
kỳ của Gandhi, nói về cách thức và lý do chúng được gọi là đấu tranh vì
lương tâm, thay vì duragraha, mặc dù không cuộc đấu tranh nào
tránh được bạo động hay thành công 100%, cũng có chiến dịch thất bại
trong một lĩnh vực rất quan trọng nữa.
***
III. PHÂN TÍCH NĂM CHIẾN DỊCH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM
Năm ví dụ đấu tranh vì lương tâm điển hình dưới đây được chọn để cho thấy phương pháp đấu tranh này được dùng cho nhiều mục tiêu khác nhau, trong những hoàn cảnh xã hội và chính trị khác nhau, được nhiều nhóm xã hội khác nhau sử dụng, và nhắm vào nhiều đối thủ khác nhau.
Việc chọn lựa quả là khó khăn, vì gần
đây trong lịch sử Ấn Độ có đến hàng trăm chiến dịch đấu tranh vì lương
tâm với nhiều bối cảnh khác biệt. Tôi chọn vài ví dụ điển hình vì có đầy
đủ dữ liệu về chiến dịch, nhưng tôi cũng đã bỏ qua một số chiến dịch
quan trọng được ghi chép đầy đủ để chỉ giữ lại chiến dịch nào thực sự
tiêu biểu và cho thấy phương pháp dấu tranh đã được thực hiện ra sao
trong một bối cảnh đặc thù. Hai trong số năm chiến dịch này không do
Gandhi lãnh đạo, chúng được chọn vì mục tiêu của tôi là mô tả phương
pháp đấu tranh của Gandhi, chứ không phải mô tả vai trò lãnh đạo của
Gandhi.
Trong năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm này, một chiến dịch đấu tranh của đẳng cấp cùng đinh chống lại một nhóm quý tộc xa rời quần chúng; một chiến dịch là phong trào nông dân chống lại chính quyền địa phương và tiểu bang; chiến dịch thứ ba là của công nhân chống lại giới chủ nhân nhà máy. Hai chiến dịch còn lại là hai chiến dịch diễn ra trên toàn cõi Ấn Độ, chống lại chính quyền trung ương.
Để có sự thống nhất khi phân tích các
chiến dịch đấu tranh vì lương tâm, và cũng để xét xem chúng có là đấu
tranh vì lương tâm đúng nghĩa hay không, tôi sẽ trình bày mỗi chiến dịch
theo 10 điểm sau đây:
- Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm
- Mục tiêu
- Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm
- Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương
- Tổ chức và chương trình hỗ trợ
- Cách chuẩn bị trước khi hành động
- Hành động mở đầu
- Hành động
- Phản ứng của đối phương
- Kết quả
Sau những điểm tóm tắt sẽ là phân tích
ngắn gọn về các chiến dịch này xem chúng gần gũi hay khác xa với phương
pháp nguyên bản, và xem chúng có đúng là đấu tranh vì lương tâm như tên
gọi hay không.
***
1.
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM ĐÒI LẠI ĐƯỜNG QUA ĐỀN VYKOM [viii]
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm:
(1) Từ mùa xuân 1924 đến mùa thu 1925
(2) Kéo dài trên 16 tháng
(3) Làng Vykom, Tiểu bang Travancore, cực nam Ấn Độ
Mục tiêu:
(1) Mục tiêu trước mắt: Tháo
gỡ lệnh cấm người cùng đinh sử dụng con đường đi ngang qua đền Vykom.
Điều này khiến người cùng đinh gặp nhiều khó khăn vì phải đi một con
đường vòng vèo rất dài tránh xa ngôi đền để về nhà họ.
(2) Mục tiêu dài hạn: Một bước tiến đến việc xóa bỏ vết nhơ “đẳng cấp cùng đinh” trong Ấn Độ giáo.
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm:
(1) Đặc điểm của nhóm lãnh đạo:
Một trong những người khởi xướng chiến dịch là một người Syria theo
Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, dư luận muốn có những lãnh đạo là tín đồ Ấn
Độ giáo cho phù hợp hơn với mục tiêu đấu tranh. Sau đó, những người Ấn
Độ giáo địa phương đã nắm vai trò lãnh đạo chủ chốt. Gandhi, tuy giữ
liên hệ với chiến dịch ngay từ đầu, không lãnh đạo chiến dịch, ông cũng
không có mặt ở Travancore cho tới giai đoạn sau của chiến dịch, là lúc
ông góp phần đòi được chính quyền Tiểu bang nhượng bộ.
(2) Đặc điểm người tham gia:
Người theo Ấn Độ giáo, gồm cả đẳng cấp cùng đinh lẫn đẳng cấp có đặc
quyền, họ tạo nên đại đa số người tham gia. Những người theo đạo Sikh ở
Tiểu bang Punjab cũng giúp đỡ trực tiếp bằng cách mở một bếp ăn phục vụ
người tham gia đấu tranh, nhưng theo đề nghị của Gandhi, sau đó họ được
thay thế bằng những tín đồ Ấn Độ giáo địa phương, để những người Ấn Độ
giáo chính thống – không muốn nhận giúp đỡ từ người ngoài – không cảm
thấy bị xúc phạm.
(3) Số người tham gia:
Những người đấu tranh tích cực, sống trực tiếp trong trại được thành
lập cho tình nguyện viên, là khoảng 50 người. Rất nhiều người khác hợp
tác, tổng số người tham gia ước tính trong khoảng từ 600 đến “hàng ngàn”
người.
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương:
(1) Tín đồ Ấn Độ giáo Chính thống: Hàng
ngũ đối phương thỉnh thoảng cũng có người cùng đinh, nhưng đa số là
những tín đồ Ấn Độ giáo đẳng cấp cao, nhất là các Giáo sĩ Bà la môn.
Ngoài ra còn có Hội Tín đồ Ấn Độ giáo Chính thống và Hội Savarna
Mahajana Sabha ủng hộ lập trường của giới Giáo sĩ trong suốt cuộc tranh
chấp.
(2) Cảnh sát của Tiểu bang Tranvancore.
(3) Thành viên của Hội đồng Lập pháp Tiểu bang Tranvancore: Đại đa số Hội đồng ủng hộ lập trường của phe chính thống.
Tổ chức và chương trình hỗ trợ :
(1) Tổng doanh trại: Một cộng đoàn đấu tranh vì lương tâm được thành lập ngay khi bắt đầu chiến dịch.
(2) Chương trình hỗ trợ: Công
việc điều hành cộng đoàn hàng ngày được xem như một phần tất yếu của
chiến dịch, qua đó, người tham gia chiến dịch được giao những nhiệm vụ,
hoặc làm việc công ích cho cộng đoàn hoặc tham gia những hành vi đấu
tranh trực tiếp. Cộng đoàn đạt được một mức độ tự lập cao. Việc quay tơ
dệt vải bằng tay, xây trường học cùng những việc hỗ trợ và công ích khác
được duy trì xuất chiến dịch.
Chuẩn bị hành động:
(1) Cầu nguyện: Phong trào mang ít nhiều màu sắc tôn giáo, những buổi họp mặt cầu nguyện trở thành một phần quan trọng của đời sống cộng đoàn.
(2) Hướng dẫn tiến hành đấu tranh vì lương tâm:
Người tham gia chiến dịch cùng thảo luận về những nguyên lý cốt lõi của
đấu tranh vì lương tâm. Họ nhấn mạnh đến việc hiểu cho thấu đáo quan
điểm của phe chính thống đối phương, và làm sao để thắng được đối phương
bằng cách thuyết phục.
Hành động khởi đầu:
(1) Thương lượng: Một trong những nỗ lực thương lượng để tìm ra giải pháp là họ gửi một phái đoàn đến thương lượng với chính quyền Tiểu bang.
(2) Vận động quần chúng: Nhiều
nỗ lực được tiến hành để thu hút sự chú ý của công chúng vào những
thiệt thòi mà người cùng đinh ở Vykom đang phải chịu đựng.
Hành động:
Giai đoạn thứ nhất:
(1) Tín đồ Ấn Độ giáo – gồm người cùng
đinh và đẳng cấp cao – cùng diễu hành ngay trên con đường bị cấm. Họ đã
không trả đũa khi bị người của đẳng cấp Giáo sĩ đánh đập.
(2) Chấp nhận bị bắt. Cuộc diễu hành thứ hai trên con đường cấm dẫn đến việc một số lãnh đạo của chiến dịch bị bắt.
(3) Thay thế lãnh đạo. Khi các lãnh đạo bị bắt, liền có những người khác đứng ra thay thế.
(4) Lứa lãnh đạo thứ hai cũng chấp nhận bị bắt mà không chống cự.
Giai đoạn thứ hai:
(1) Đối đầu với hàng rào cảnh sát. Khi
cảnh sát dựng hàng rào trên đường, tín đồ Ấn Độ giáo, người cùng đinh và
người đẳng cấp cao cùng nhau tụ tập đứng đối diện với hàng rào cảnh sát
và giữ vị trí hết ngày này qua ngày khác.
(2) Hành động trong vụ gió mùa. Khi gió
mùa đổ mưa làm ngập lụt đường đi và cảnh sát phải ngồi trên thuyền để
giữ vị trí, những người đấu tranh vẫn tiếp tục đứng đó, chia thành những
ca kéo dài 3-giờ thay phiên nhau, có lúc họ đứng khi nước ngập lên đến
vai.
Giai đoạn thứ ba:
(1) Thuyết phục chính quyền Tiểu bang.
Gandhi, đến Tranvancore vào tháng 4/1925, lần đầu tiên từ khi chiến dịch
bắt đầu, và thuyết phục chính quyền dỡ bỏ hàng rào chắn.
(2) Loan báo dự định không lợi dụng
tình hình lúc dỡ bỏ hàng rào. Người đấu tranh giữ mình không đi vào con
đường mặc dù hàng rào và cảnh sát đều đã được dời đi. Họ loan báo sẽ
không bước vào con đường cấm cho tới khi nào giới Giáo sĩ hoàn toàn bị
thuyết phục, và chính quyền công bố chấp nhận cho người cùng đinh sử
dụng con đường.
(3) Thuyết phục những Giáo sĩ chống
đối. Bằng cách thuyết phục không ngừng với lý lẽ hợp lý, được những lời
cầu nguyện hỗ trợ, cuối cùng phe chống đối đã đổi ý.
Phản ứng của đối phương:
(1) Bạo động chống lại những người đấu tranh bằng cách đánh đập lên thân thể từng người.
(2) Bỏ tù những người đấu tranh sau khi bắt giữ họ.
(3) Chấm dứt bắt giữ sau khi các nhà tù đã không còn chỗ chứa người bị bắt.
(4) Dựng rào chắn. Cảnh sát dựng hàng rào và dàn người đứng cạnh khi được chỉ đạo phải ngăn người đấu tranh đi vào đường cấm.
(5) Hội đồng Lập pháp Tiểu bang ủng hộ. Đa số Hội đồng Lập pháp Tiểu bang ủng hộ hành động của cảnh sát.
(6) Cô lập xã hội dành cho
những người tổ chức đấu tranh. Cô lập, theo sau những đe dọa tịch biên
tài sản gia đình của người đấu tranh, và không cho họ hưởng những chế độ
an sinh gia đình khác. Sự cô lập đã diễn ra rất khắc nghiệt.
(7) Tháo dỡ rào chắn. Theo sau
cuộc nói chuyện của Gandhi (tháng 4/1925) với chính quyền Tiểu bang,
cảnh sát được lệnh tháo dỡ hàng rào mà họ đã dựng lên và đứng canh mỗi
ngày.
(8) Hoang mang vì phản ứng của người đấu tranh.
Các Giáo sĩ, ban đầu dự tính người đấu tranh thế nào cũng đi vào con
đường cấm ngay khi cảnh sát rút lui và tháo dỡ hàng rào, nhưng họ đã
nhầm và hụt hẫng khi thấy người đấu tranh tự kiềm chế không đi vào đường
cấm.
(9) Thua cuộc. Đến mùa thu
1925, giới Giáo sĩ tuyên bố rằng: “Chúng tôi không thể tiếp tục chống
lại lời khẩn nguyện họ đưa ra cho chúng tôi, và chúng tôi cũng sẵn sàng
đón nhận người cùng đinh.”
Kết quả:
(1) Đường mở ra cho mọi người. Mục tiêu trước mắt của chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đã đạt được trọn vẹn.
(2) Khu vực dành riêng cho Giáo sĩ các địa phương khác cũng mở toang. Trong
những địa phương khác của Ấn Độ, phong trào đấu tranh này cũng có ảnh
hưởng trực tiếp, với sự mở cửa đón nhận người cùng đinh vào mọi cơ sở và
đền đài mà trước đây họ bị cấm lui tới.
(3) Điều kiện sinh sống của người cùng đinh được cải thiện. Bằng cách mở rộng các hoạt động hỗ trợ, điều kiện chung của đẳng cấp cùng đinh đã được cải thiện.
(4) Mục tiêu dài hạn. Chiến dịch là một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc chấm dứt sự kỳ thị dành cho đẳng cấp cùng đinh.
***
TÓM LƯỢC CUỘC ĐẤU TRANH ĐÒI LẠI ĐƯỜNG QUA ĐỀN VYKOM
Cuộc đấu tranh Vykom đáp ứng hầu hết các chuẩn mực đấu tranh vì lương tâm. Sự thật mà người đấu tranh nêu cao là quyền riêng của mỗi cá nhân được đi qua con đường chung[ix] mà không bị kỳ thị vì lý do đẳng cấp. Cách đấu tranh được dùng để khẳng định sự thật
này là biểu tình bất bạo động và chống lại một tập quán mà họ tin là
bất công. Người đấu tranh cũng hết sức thận trọng để giữ được tính bất
bạo động, mặc dù cũng có lúc có vài manh động, như có người kích động
quần chúng leo qua hàng rào cảnh sát.
Tự khổ cũng rất rõ nét trong
thái độ của những người đấu tranh vì lương tâm. Họ kiên trì đấu tranh
một cách dũng cảm suốt 16 tháng, chấp nhận đau đớn trên thân thể do bị
kẻ thù đánh đập cũng như do thời tiết khắc nghiệt, khiến số đông phải
đứng ngâm mình dưới nước đến tận thắt lưng vào đợt gió mùa. Sau khi cảnh
sát gỡ bỏ rào chắn, họ tiếp tục cuộc đấu tranh một cách hòa bình góp
phần thuyết phục đối phương đồng thuận trước khi bước chân trên con
đường gây tranh chấp.
Tính chất xây dựng, thay vì quấy phá, và
hành xử mẫu mực của người đấu tranh được thể hiện rõ ràng trong mọi
lúc. Thành viên của cộng đoàn đấu tranh vì lương tâm không chỉ thực hiện
những công việc thường ngày, mà còn quay thêm tơ, dệt thêm vải đóng góp
vào quỹ khadi của Đảng Quốc đại và Quỹ Tưởng niệm Deshabandhu Toàn Ấn Độ. [x]
Bằng cách này, họ xem phong trào đấu tranh tại Vykom là một phần của
đấu tranh giành độc lập. Họ ứng biến trong công tác lãnh đạo và điều
chỉnh hành động khi có ý kiến phê phán việc nhận hỗ trợ từ người ngoài
Ấn Độ giáo, điều này cho thấy họ tuân theo ý chí chung để giữ được tính
cách của phong trào là luôn “cải thiện từ bên trong”.
Họ rất chú trọng đến việc tìm cách
thuyết phục đối phương trong đấu tranh. Họ đã cân nhắc cẩn thận để không
xúc phạm đến sự nhạy cảm tôn giáo của đối phương. Điều này được Gandhi
diễn tả trên tờ Young India số ra ngày 1/5/1924 như sau:
“Đấu tranh vì lương tâm là một quá
trình chuyển hóa. Nhà cải cách, tôi tin chắc vậy, không tìm cách áp đặt ý
chí của mình lên cộng đồng, mà tìm cách đánh động trái tim cộng đồng.
“Nếu được nói về phương pháp đấu
tranh vì lương tâm, tôi xin nói rằng sự giúp đỡ vật chất từ bên ngoài
hẳn sẽ gây nhiễu cho sự gắn kết của những người bên trong. Nhìn như vậy
thì có thể thấy việc các tín đồ đạo Sikh dự định mở bếp ăn miễn phí có
thể xem là một mối đe dọa, gây khiếp sợ cho những người theo Ấn Độ giáo ở
Vykom.
“Tôi cũng không mảy may hoài nghi
rằng các tín đồ Ấn Độ giáo phái chính thống bảo thủ sẽ phải phát sốt ở
mức báo động vì những gì đang diễn ra ở Vykom, vì họ luôn nghĩ rằng thờ
Thượng đế nghĩa là không được va chạm vào người đồng đạo nghèo khó của
chính họ, và tin rằng theo đạo tóm lại là phải tắm rửa cho sạch và tránh
xa mọi ô uế thể chất. Họ tin rằng tôn giáo của mình đang lâm nguy. Vì
vậy, người tổ chức đấu tranh phải làm cho cả những người chính thống lẫn
những người cực đoan nhất yên tâm và đảm bảo với họ rằng chúng ta không
cải cách bằng ép buộc …”
Việc quảng bá cho cuộc đấu tranh có lẽ
chưa đạt chuẩn mong muốn trong một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
tiêu biểu. Công tác quảng bá chỉ may mắn có được nhờ những bài Gandhi
viết trên tờ Young India và nhờ báo chí quốc gia thường đưa tin
về những đề tài sốt dẻo. Những người đấu tranh trực tiếp đã không công
bố văn bản nào về cuộc đấu tranh.
Việc bất tuân tôn giáo (có thể sánh với
bất tuân dân sự trong đấu tranh với chính quyền) đã diễn ra cùng lúc với
những cuộc thương lượng và đối thoại với quan chức nhà nước và với phái
chính thống đối lập.
Tính chủ động của hàng ngũ đấu tranh chỉ
mất đi trong vài trường hợp. Có lẽ, lúc khó nhất là khi cảnh sát tháo
dỡ rào chắn. Nhưng, người đấu tranh vì lương tâm đã không manh động làm
mất thế chủ động, họ tiếp tục đứng ngoài đường cấm để thuyết phục giới
Giáo sĩ.
Những người đấu tranh vì lương tâm cũng
không đưa ra yêu sách nào quá đáng. Mục tiêu đấu tranh rất đơn giản và
họ đã không hề thỏa hiệp mục tiêu tiên quyết là mở đường cấm cho mọi
người đi. Tuy vậy, họ cho thấy một thái độ hiểu biết dành cho đối thủ.
Họ nhắm tới, và đã đạt được, một thỏa thuận mà hai bên hoàn toàn đồng
thuận trước khi cuộc đấu tranh kết thúc.
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
* [hartal:] Tự nguyện đóng cửa hàng và ngưng kinh doanh, thường trong vòng 24 giờ.
** Rất nên lưu ý rằng bất-phản-kháng (non-resistance) không
phải là đấu tranh vì lương tâm. Nhiều người hiểu lầm phương pháp của
Gandhi vì không thấy được sự khác biệt giữa phản kháng tích cực, vốn
thường xuyên diễn ra trong một cuộc đấu tranh vì lương tâm, với hệ quả
của nó, tức hành vi bất-phản-kháng thỉnh thoảng được áp dụng, chẳng hạn
như hành vi không phản kháng để tình nguyện vào tù. Chương này sẽ làm rõ
giới hạn của những cụm từ như “phản kháng thụ động” khi chúng được dùng
để chỉ đấu tranh vì lương tâm. Cũng cần nhấn mạnh là “bất-phản-kháng”
không thể là thuộc tính của đấu tranh vì lương tâm, và chỉ mô tả một
bước trong nỗ lực bất tuân dân sự mà thôi.
[i] Báo Harijan, số ra ngày 11/3/1930, như trích trong cuốn Studies in Gandhism của N. K. Bose (bản thứ hai, Calcutta: NXB Indian Associated Pubishing Co., 1947), tr. 159.
[iii] Harijan, 13/10/1940, như trích trong Bose, sđd, tr. 157.
[iv] Những nguyên tắc này được áp dụng và diễn giải trong Bose, sđd, tr. 175.
[v] Những điều này được diễn giải trong tác phẩm
Mahatma, Vol. III của D. G. Tendulkar (Bombay: Jhaveri and Tendulkar, 1952), tr. 17.
[vi] Những bước tiến hành tương tự cũng được liệt kê trong tác phẩm kinh điển
War Without Violence của Krishnalal Shridharani (New York: Harcourt, Brace, 1939), tr. 5-42.
[vii]Để biết thêm về phong trào này, có thể xem tuyển tập
Indian Press Digest,
Vol.
II, No. 7, Magaret W. Fisher và Joan Bondurant hiệu đính (Berkeley:
Institute of East Asiatic Studies of the University of California,
1955), tr. 64-80.
[viii] Dữ liệu dùng ở đây được lấy từ các nguồn sau: C. F. Andrews ,
Mahatma Gandhi’s Ideas (New York: Macmillan, 1930). Andrews có mặt tại chỗ trong cuộc đấu tranh nên đã viết như một nhân chứng. R. R. Diwakar
, Satyagraha: Its Technique and History (Bombay: Hind Kitabs, 1946), tr. 115; Richard B. Gregg,
The Power of Non-Violence (re. ed., London: George Routledge and Sons, Ltd., 1938); Các bài báo
Young India
đăng vào thời kỳ diễn ra đấu tranh; Các cuộc trao đổi giữa tác giả và
các nhân vật: Ngài R. R. Diwadar, Richchard R. Keithahn, và Pyarelal
(Nayyar).
[ix] Xem Gandhi,
Young India 1924-1926 (New York: The Viking Press, 1927) về con đường được cho là của chung.
Posted in: Triết Học
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét