14- Phán xét riêng và phán xét chung trong ngày thế mạt.
15- Hỏa ngục đời đời.
16- Ma quỉ là vua thế gian.
17- Chúa ngự trong phép bí tích Mình Thánh.
18- Bảy phép Bí Tích.
19- Ân xá và ân toàn xá.
20- Tám điều răn thay vì 10 điều răn.
21- Ngăn chận không cho giáo dân đọc Kinh Thánh thời Trung Cổ, nhất là bằng tiếng thổ âm, thổ ngữ.
Chương 14 - Phán xét riêng và phán xét chung trong ngày thế mạt.
Đửc Chúa Cha hoàn toàn không biết gì về chuyện thế mạt và phán xét chung. Đó là điều Chúa Giêsu giảng sau này trong Kinh Thánh. Để làm bằng cho chuyện tận thế, Công giáo viện dẫn ba câu Kinh Thánh cũ.
- Thứ nhất là sách Daniel 7:10. "Một con sông lửa cuộn chảy và xuất ra từ nhan thánh người. Ngàn ngàn hầu hạ người, vạn vạn đứng chầu trước nhan người. Pháp đình an tọa và sổ sách mở ra." [Nguyễn thế Thuấn, tr. 2162.]
- Thứ hai là sách Joel 3:4 " Mặt trời biến thành tối tăm, và mặt trăng hóa ra máu, trước khi đến ngày lớn lao và kinh hoàng của Yahve"
- Và thứ ba là sách Malachi 3:19." Vì này sẽ đến Ngày phầng phầng cháy như một hỏa lò. Và tất cả những phường kiêu mạn và mọi kẻ làm điều phi pháp sẽ là rơm rạ. Ngày đến sẽ thiêu đốt chúng - Yahve các cơ binh đã phán- mà không để lại cho chúng một rễ, hay một cành."
Còn Thánh Kinh mới thì có rất nhiều câu về thế mạt và chung thẩm [91]. Tôi cho rằng ngày phán xét chung là do Chúa Giêsu và Giáo hội lập ra sau này, mấy câu Thánh Kinh cũ mà Giáo hội viện dẫn lời lẽ rất là lơ mơ. Joel 4:1-3 mô tả ngày phán xét như là một ngày để Chúa oán phạt các dân ngoại đã dám làm hại dân Do Thái trước đây. Và sự việc sẽ xảy ra trong thung lũng Josaphat. Giáo hội đã không viện dẫn câu Kinh Thánh này có lẽ vì không phù hợp với đường lối Giáo hội. Tội nghiệp cho Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần đã bị hất ra ngoài không được phán xét thiên hạ nữa. Và chắc chắn là Chúa Yahve - là đấng hay ghen - không bao giờ chịu nhượng bộ như vậy. Cho nên tôi vẫn nói là từ khi Chúa Giêsu ra đời thì Chúa Yahve chỉ đóng một vai trò tượng trưng, y như Ngài đã hưu trí và rút vào hậu trường.
Chúa Giêsu nói: Đạo lý ta dạy không phải là của ta mà là của Đấng đã sai ta. Ai muốn làm theo ý người thì sẽ biết: Đạo lý ấy là do tự Thiên Chúa hay là tự mình ta, ta nói ra. Kẻ nào tự mình mà nói, ắt tìm vinh quang riêng của mình, còn kẻ tìm vinh quang cho Đấng sai mình, thì kẻ ấy là người chân thật, nơi kẻ ấy không có gì là ngang trái. [Joh 7:16-18]. Ngài nói vậy, nghĩa là Ngài không tự mình dạy cho chúng ta điều chi hết. Cái gì mà Kinh Thánh Cũ không đề cập đến, thì Ngài cũng không nói. Như vậy chỉ có Giáo hội Công giáo mới dám làm giảm quang huy của Chúa Yahve mà thôi, khi đưa ra những điều mới mà Kinh Thánh cũ không chép.
Chương 15 - Hỏa ngục đời đời.
Chúa Giêsu hay dùng chữ Gehenna, hay Hell để chỉ Hỏa Ngục. Đôi khi ta còn thấy dùng chữ Hades [Lu: 16:23] hay chữ Tartarus. Gehenna nhắc tới tên một vùng đất ở gần Jerusalem là Gehinnon hay thung lũng Hinnom, là nơi xả rác thành phố, và người ta thường đốt lửa thiêu các vật uế tạp ở đó. Trong hỏa ngục, kẻ dữ bị lửa thiêu đốt đời đời [Mt 5: 22, 29, 10:28, 13:42, 50, Mr 9:43-48]. Các thần dữ và kẻ xấu sẽ xuống đó [Mt 25:41]. Chúa dạy con người phải vào cửa hẹp, vì cửa rộng sẽ đưa tới tàn phá, còn cửa hẹp mới đưa tới sự sống.[Mt 7:13-14]
Tôi thấy quan niện Sheol của Kinh Thánh cũ nhân từ hơn quan niệm Gehenna ngàn vạn lần.
Giáo hội dạy rằng: Hình phạt chính của Hỏa Ngục là ở chỗ phải muôn đời xa lìa Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể ban sự sống và mang lại hạnh phúc mà con người đã được tạo thành để vui hưởng, và đó là niềm khát vọng của con người. [Xem Sách giáo lý của Giáo hội Công giáo, 1057, tr. 480].
Xuống hỏa ngục sẽ không bao giờ được gặp mặt Chúa, sẽ bị lửa thiêu đốt đời đời, và Satan là Chúa quỉ sẽ phải ở trong hỏa ngục đó. Ba điều trên hoàn toàn sai, vì Job cho biết Satan vẫn về họp với Thiên Chúa, và vẫn đi chu du thiên hạ [Job 2:1-2], có bị lửa đốt gì đâu!
Theo E. Royston Pike trong Dictionnaire des religions, tr. 119 thì người Do Thái rất mơ hồ về chuyện này. Và chữ Gehenna chỉ được dùng khi dân Do Thái đi đày về, và du nhập vào Công giáo. Khải Huyền mô tả hỏa ngục như một hồ lửa và diêm sinh, mà kẻ dữ bị bỏ xuống [Re 21:8].
Các Giáo Phụ Công giáo đã xây dựng học thuyết này. Justin Martyr cho rằng không có hỏa ngục, thì không có Chúa. Tertullien cho rằng mọi người sẽ sung sướng khi thấy vua chúa, quan quyền bị thiêu đốt trong hỏa ngục. Cyrille de Jerusalem quả quyết là kẻ dữ bị thiêu đốt không bao giờ ngừng. St. Basile nói đến ngọn lửa thiêu đốt không ngừng, và những con sâu không bao giờ chết. St. Augustine cho rằng trẻ con mà không được rửa tội cũng sẽ sa hỏa ngục. St. Ignace de Loyola dạy các người vào Dòng Tên phải cấm phòng 53 một tháng. Và tuần đầu, phải tưởng tượng ngửi thấy mùi khói và mùi diêm sinh của hỏa ngục, mùi tanh hôi của hỏa ngục v.v... [92]
Thời Trung Cổ người ta đã hết sức khai thác đề tài này để dọa nạt mọi người. Tin lành cũng tin như Công giáo, nhưng ở Âu châu từ hơn thế kỷ nay người ta đã dần dần chống lại quan niệm trên. Tuy nhiên Công giáo vẫn giữ nguyên lập truờng.
Tôi thấy quan niệm trên hết sức ác độc và vô lý. Tại sao con người bị lửa đốt đời đời như vậy, nào có ích lợi gì cho Thượng đế đâu? Vả lại, Thượng đế không hề biết có Hỏa Ngục. Hỏa Ngục là "Tin Mừng" mà Chúa Giêsu đem đến cho thế gian. Tôi không biết Chúa Giêsu đã dựa vào đâu mà lập ra hỏa ngục?
Nhân loại từ lâu đã coi lao tù là chỗ cải hóa. Mục đích của lao tù là giúp con người cải hóa, chứ không phải là chỗ để báo thù họ. Chẳng lẽ Chúa lại thua con người về điểm này hay sao?
Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể chủ trương lúc chung cuộc muôn loài sẽ trở lại gốc gác mình. Đó là thuyết Apocatastasis. Xưa kia Origen [185-285] đã chủ xướng thuyết này [hérésie origéniste], nhưng bị Giáo hội Công giáo phi bác vì cho đó là tà thuyết. Công giáo còn tin có Luyện ngục. Mà luyện ngục chỉ khác hỏa ngục là một bên thì hữu hạn một bên thì vô cùng.
Giáo hội dựa vào câu của St. Peter và St. Paul rất là mơ hồ, chẳng nói lên được cái gì là Luyện ngục hết. Xin đọc sách St. Paul [1Co 3:15] và sách St. Peter [1Pe 1:7], cũng vì vậy mà cả Chính Thống lẫn Tin Lành không ai công nhận Luyện Ngục hết. Ngoài ra Giáo hội cũng còn dựa vào sách Macchabée 2 [2M 12:46] [92b]. Nhưng ai cũng biết Tin Lành không công nhận Macchabée là Thánh Kinh, và trong các quyển Kinh Thánh Tin Lành không có hai quyển Macchabée. Ellen G. White - The Great Controversy between Christ and Satan, gọi Luyện ngục là chuyện bịa đặt của Giáo quyền để dọa nạt giáo dân vô tội.[93]
Tôi rất thương Công giáo vì bị lắm ngục ghê sợ như vậy bao quanh. Giáo Hoàng John Paul II công nhận là nhân loại ngày nay không còn tin vào địa ngục nữa. Tuy nhiên Ngài vẫn tin có hỏa ngục đời đời, và luyện ngục hữu hạn.[94]
Chương 16 - Ma Quỉ Là Vua Thế Gian.
Công giáo cho rằng ma quỉ xưa kia cũng là những thần tốt do Chúa tạo nên, nhưng sau đã nổi lên, chống lại Chúa. [94b] Đọc kỹ Thánh Kinh, không thấy chỗ nào mô tả thiên thần phạm tội ra sao, mà chỉ thấy Giáo hội quyết đoán như vậy. Làm sao ma quỉ chiếm được thế gian cũng là luận điệu của Giáo hội , và Chúa xuống thế cũng là để đánh nhau với Satan. Ngày thế mạt sẽ có trận chiến với Satan ở Armageddon [Harmagedon]. [94c]
Những chuyện trên đây là những chuyện nên kể cho con nít nghe, vì Chúa quyền phép như vậy, và thương nhân loại như vậy, lại để thế gian và con người lọt vào tay ma quỉ mãi cho đến tận thế. Như vậy Ngài đâu phải là một Thượng đế toàn năng? [95]
Chương 17 - Chúa ngự trong phép Thánh Thể.
Công giáo tuyệt đối tin đó là một sự kiện lịch sử. Có điều lạ là một phép bí tích cực kỳ quan trọng như vậy, mà St. John vốn là một đệ tử yêu quí của Chúa Giêsu, lại bỏ không ghi trong Tin Mừng của Ngài. Trong sách John chương 13, St. John chỉ nói chuyện Chúa rửa chân cho các đày tớ, và những lời chia tay [Joh 13:33-38, 14:1-31], còn tuyệt nhiên không đả động gì đến bữa tiệc ly. Mà chịu phép thánh thể là ăn thịt và uống máu Chúa. Và thịt và máu Chúa, chỉ là xác thịt của Chúa. Thế mà Chúa lại nói Thần mới làm sống động, xác không ích lợi gì. Lời ta nói là Thần và là sự sống [Joh 6:63].
Câu nói trên của Ngài làm mất giá trị của những gì Ngài nói khi lập phép thánh thể. Trái lại?, John nhắc tới vấn đề trong Joh 6:54-56. Công đồng Constance [1414-18] cho phép ăn bánh uốn rượu không. Công đồng Florence [1438-45] dạy phải thêm chút nước vào rượu nho.
Công đồng Trent [1545-63] bày thêm ra chữ Transubstantiation. Phải công nhận phép Thánh thể của Công giáo có một sức thu hút quần chúng hết sức lớn lao. Nhân loại đã tạo ra không biết bao là lời ca tiếng hát rất hay. Ví dụ trong tiếng Latinh có bài:
Adoro te, devote, latens Deitas,
Quae sub his figuris, very latitas.
Ambo tamens credens, atque confitens,
Peto quod petivit latro penitens.
Tôi thờ phụng Chúa ẩn mình, Trong hình bánh, hình rượu.
Tôi tin thật Ngài ngự trong đó,
Tôi chỉ xin những gì kẻ trộm lành xưa đã xin v.v...
Trong tiếng Việt có bài của LM Sảng Đình Nguyễn văn Thích?:
Trời cao, đất thấp gặp nhau,
Đấng tôi yêu mến, ngự vào lòng tôi.
Thánh tình ôi! Nhiệm mầu thôi!
Hồn tôi thờ lạy, khôn lời nói ra. v.v...
Tuy nhiên, suy ra, thì Chúa Giêsu vẫn chỉ là một vị Thần sống ngoài con người, có ngôi vị, siêu nhiên và thiêng liêng v.v...[96]
G. F. Woods cho rằng gọi Thượng đế là siêu việt, là đấng hữu ngã, tách rời con người, và ngự trong oai nghi, lời nói đó ngày nay đã trở thành vô nghĩa. [97] Nói vậy nghĩa là nhân loại cần định nghĩa lại Thượng đế như là không bao giờ lìa xa con người, là Bản Thể muôn loài, ngự trị ngay trong lòng muôn vật. Định nghĩa đó chính là định nghĩa Thượng đế theo Phiếm Thần [Chúa ở khắp mọi nơi. Ngài là mọi sự. Pan= mọi sự, Theism= Thượng đế.]
Ngày nay, muốn ngự vào trong ta, Chúa Giêsu cần phải:
1- Chờ Thày cả đọc lời truyền.
2- Cần có bánh và rượu.
3- Chúa cần phải lắng nghe xem phương trời nào đang gọi mình, để mà đến.
Và như vậy, Ngài sẽ vất vả ngày đêm, đến đến, đi đi. Còn nếu như Ngài đã là chính bản thể chính ta, thì Ngài chẳng cần phải đi mà đã đến [bất hành nhi chí]. Nhưng vì Ngài là 'Ngoại thân chi vật' đối với ta, thì khi bánh và rượu tan đi, thì Ngài cũng đi ra theo.
Công giáo đã đặt ra chữ Transubstantiation [Công đồng Trent diễn ra từ 13/12/1545 – 04/12/1563] tức là Biến thể, nghĩa là khi đọc lời truyền xong, thì bánh và rượu biến thành thịt và máu Chúa.
Theo thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể, thì muôn loài đều đồng thể, đồng tính như nhau, không làm gì có nhiều thể khác nhau, để cái này biến thành cái kia như vậy.
Nhân lọai ngày nay cấm ăn thịt người, và uống máu người, mà Công giáo lại cổ xúy, ăn thịt và uống máu giáo chủ mình. Tôi ngu muội nên không hiểu vấn đề này.
Công giáo dành cho Chúa Giêsu mọi vinh dự, nhưng chưa dành cho Ngài vinh dự là Bản Thể con người, không cho người được là Ánh Sáng của tâm hồn tôi, không cho Ngài ngự trị trong tôi, mà phải mượn bánh và rượu để Ngài được đến với tôi trong ít phút. Như vậy e rằng Công giáo chưa hiểu về con người, chưa biết rằng con người tuy khác biệt nhau bên ngoài, nhưng bên trong là một thể. Chính vì vậy mà tôi không tin chuyện Chúa ngự trong phép thánh thể, sau khi thày cả đọc lời truyền.
Tôi nghĩ rằng một con người đắc đạo sẽ trực tiếp phối kết với Thượng đế không qua trung gian nào. Còn qua trung gian, là còn ở những cấp rất thấp. Các Giáo Phái Tin lành sau này, coi đó như là một biểu tượng, một kỷ niệm mà thôi. Công giáo dùng bánh không men, và không cho giáo hữu chịu máu thánh, nghĩa là không uống rượu khi rước lễ. Chính Thống giáo dùng bánh có men, và cho chịu máu thánh. Giáo hội Luther không chấp nhận những danh từ như Consubstantiation, Transubstantiation v. v... Nhưng tin Chúa ngự trong mình thánh. [98]
Chương 18 - Bảy phép Bí Tích
Các Giáo hội Tin Lành nay chỉ tin có hai phép bí tích, trong bảy đó là phép rửa tội, và phép Mình thánh. Nhưng nội dung tất cả đều thay đổi.
Về phép rửa tội, các Giáo phái đều dìm con người xuống nước [Immersion], duy Công giáo đổ nước lên đầu [Imbibition]
Các Công đồng Florence [1438-45] và Trent [1545-63] qui định về cung cách rửa tội. Thường Công giáo bắt rửa tội tám ngày sau khi sinh. Còn Tin Lành chủ trương rửa tội khi con người đã lớn, nhất là Giáo Phái Anabaptistes, và Baptistes. Phái Anabaptistes cho rằng trẻ con được rửa tội khi còn bé, là vô giá trị. Trái lại, theo Catechismus of the catholic church, p. 312, Công giáo cho rằng rửa tội là biến con người thành con người mới, thành con người giác ngộ, thành con của ánh sáng, thành ánh sáng.
Nói vậy là dùng những danh từ hoa hoè, hoa sói để diễn tả một chuyện không tưởng. Ai cũng biết là dù rửa tội hay không rửa tội, thì thằng bé con vẫn là thằng bé con như vậy. Nếu giác ngộ mà dễ thế, thì Công giáo không để đâu hết thánh hiền. Thực tế có như vậy không? Mà giác ngộ là một sự chuyển hóa nội tâm chứ đâu phải là cái gì phù phiếm ngoài bì phu, mà vài giọt nước có thể đem lại. Giáo Hoàng John Paul II cho rằng: Người ta vẫn thường nói, như trước đây trong thời đại của các giáo phụ, "Christianus Alter Christus" [Người Ki Tô hữu là một Đức KiTô khác]. [99]
Những lời biện luận của Công giáo cho thấy quí vị đó hết sức là nông cạn. Thảo nào mà khi xưa sang giảng đạo bên Trung Hoa, người ta cố rửa tội cho những trẻ bị bỏ rơi ngoài đường. Năm 1694 có 3400 trẻ được rửa tội, năm 1965 có 2939 trẻ, năm 1696 có 3663 trẻ được rửa tội v.v...[99b]
Các giáo phái Tin lành cho rằng 5 phép bí tích khác như Thêm sức, Giải tội, Xức dầu, Truyền chức, Hôn phối không đủ chứng cớ là do Chúa lập ra.
Nhiều giáo phái cho rằng phép Thánh thể chỉ là kỷ niệm không hơn, không kém... Luther không phục quyền Giáo Hoàng hay Công đồng mà chỉ tin vào Kinh Thánh. Cái gì Kinh Thánh không dạy là ông không tin.[100]
Phép rửa tội dựa vào những lời của St. Paul như 2Cor 5:17, Ga 6:15, Ro 6:3-4, Col 2:12, Tit 3:5, và của St. John như Joh 3:5. [101]
Phép Thêm sức dựa vào câu Ac 8:14ff. Như vậy là do các tông đồ lập, không phải do Chúa. Chỉ Giám Mục mới được làm phép thêm sức.[102]
Phép Giải tội dựa vào câu Mt 16:19. [103].
Phép Mình thánh dựa và những câu như Lu 12:19, 1Co 11:24, Mt 26:26, Mr 14:22, 1Co 11:20, Re 19:9, Mt 14:19, 15:36, Mr 8:6-19, Mt 26:26, 1Co 11:24, Lu 24:13-35, Ac 2:42-46, 20:7, 11 v.v... [104].
Phép Hôn phối dựa vào câu Mt 19:16, Mr: 10:9. Phép Xức dầu dựa vào câu Jas 5:14f. Jehovah witness [Chứng nhân đấng Jehovah] dịch câu này đại khái là Ai đau thì lấy dầu mà bôi [như kiểu làm massage: Rubbing with oil]. [105].
Phép Truyền chức dựa vào các câu như Heb 7:12ff, Mt 16:19, Lu 22:19, Joh 20:22, Ac 6:5, 1Ti 3:8ff, Php 1:1.[106] Luther thấy các phép bí tích trên hoặc không chính thửc do Chúa đặt ra, hoặc là do Giáo hội đã suy diễn ra, nên không chấp nhận. Tôi không đi sâu hơn về vấn đề này vì nội bộ chia rẽ như vậy, thì người ngoài cuộc biết nói làm sao?
Chương 19 - Ân xá và ân toàn xá [Indulgence partial and Plenary].
Công giáo tin rằng có tội thì phải đền. Tội nặng thì khi chết sẽ xuống hỏa ngục, tội nhẹ thì vào luyện ngục lâu chóng tùy nghi. Nhưng nhờ vào công nghiệp Chúa Giêsu và các thánh, Giáo hội có toàn quyền ban ơn xá cho những linh hồn nơi Luyện Ngục. Đó gọi là Ân xá. Còn ân toàn xá là có thể cho một linh hồn trong luyện tội được lên thiên đàng ngay.
Ân xá được lập ra thời Luther, và chính vì Luther bất mãn với chuyện ân xá này nên đã lập ra Tin Lành.
Thời Luther Giáo hội cần tiền để xây đền thờ St. Peter nên đã sai Tetzel, Johann [1450- 1519] sang Đức bán ân xá. Mỗi khi Tetzel tới tỉnh nào, thì có sứ giả đi trước rao truyền rằng: Ơn Thượng đế và ơn đức Thánh Cha đã ở cửa ngõ chúng ta. Tetzel bán những giấy 57 tha tội, và không buộc phải ăn năn gì. Ông tuyên bố, cứ nghe tiếng đồng tiền rơi keng xuống đáy hòm là một linh hồn trong luyện tội được lên trời.
Luther viết ra 95 điều chống ân xá và dán ở nhà thờ Wittenberg, công khai chống Tetzel. Và từ đó Giáo hội Tin Lành phát sinh. [107]. Tuy nhiên Tetzel vẫn được đón tiếp nồng hậu, và Giáo hội đã kiếm được nhiều tiền. [108]
Chương 20- Tám điều răn thay vì 10 điều răn.
Mười điều răn Thiên Chúa như đã truyền dạy trong Ex 20:1-17 và De 5:22 là những điều tối quan trọng. Phải để riêng trong hòm bia thánh [108b]
Điều răn 3, Chúa dạy giữ ngày Sabbath rất ngặt: Ai không nghỉ việc ngày đó sẽ bị giết. [Ex 31:12-17, Ex 35:1-3].
Công giáo tuyên xưng giữ 10 điều răn Thiên Chúa, nhưng thực sự đã bỏ đi 2 điều. Điều thứ 2, Chúa cấm thờ ảnh tượng, Công giáo cho thờ ảnh tượng. Điều thứ 3, Chúa dạy giữ ngày thừ Bảy, Công giáo dạy giữ ngày Chủ Nhật. Bù lại Công giáo tách điều răn thứ 10 thành 9 và 10. [109]
Công giáo đi vào chuyện thờ ảnh tượng từ từ. Năm 725 vua Thượng Vị Leo III, ra lệnh cấm thờ ảnh tượng. Giáo hội Vatican và Giáo hội Chính Thống đều chống lại lệnh vua. Giáo Hoàng Gregory II cho rằng cấm thờ ảnh tượng là rối đạo, Giáo Chủ Constantinople là Germanus bị mất chức.
Ai chủ trương thờ ảnh tượng thì gọi là Iconodules. Ai chủ trương bỏ ảnh tượng thì gọi là Iconoclasts. Nhưng khi ông Irene lên làm nhiếp chính [776], thì lại cho thờ ảnh tượng. Và Công đồng Nicaea thứ II [787] lại cho phép thờ ảnh tượng. Đến đời vua Leo V [813-20] lại định cấm thờ ảnh tượng nhưng không thành công. Nhiếp chính vương Theodora nhóm họp Công đồng năm 843, cho phép kính ảnh tượng như cũ. [110]
Sau đây là Chiếu chỉ của Vua Constantine về ngày Chủ Nhật. "Mọi quan án, mọi người dân nơi thành phố, và mọi người buôn bán hãy nghỉ ngày Chủ Nhật khả kính. Nhưng những người nông dân thì có toàn quyền làm ruộng: vì Chủ Nhật thường là ngày thích hợp để gieo giống và trồng nho. Và ngày tốt như vậy không thể bỏ qua, nếu không mùa màng sẽ mất. [111]
Cũng nên biết Constantine thờ Thần Mặt Trời [Sol Invictus], và năm 321 ra chiếu chỉ giữ ngày Chủ Nhật, tức là ngày của mặt trời, và ra lệnh nghỉ ngày đó. Công giáo từ đấy giữ ngày Chủ Nhật thay ngày thứ Bảy.
Constantine đã triệu tập Công đồng Nicea, năm 325, và Công đồng này đã bỏ phiếu tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Năm 303 trước đó, vua Diocletian đã ra lệnh thiêu hủy các sách Công giáo. Năm 331, vua Constantine bỏ tiền ra cho chép lại Kinh Thánh. Và các vị hữu trách lúc ấy tha hồ mà sửa sang mọi sự lại theo ý mình.
Ngày Giáng sinh trước đây là mồng 6 tháng giêng Dương lịch, nay đổi thành 25 tháng 12 dương lịch, tức là ngày Đông Chí [đông chí nhất dương sinh], tức là ngày mặt trời hay ngày thần Mitra tái sinh. Giáo Hoàng Liberius, thế kỷ IV, đã chính thức đổi ngày lễ Sinh Nhật thành 25 tháng 12 dương lịch.
Và ta cũng nên biết ngày nay không có bản Kinh Thánh nào trước thế kỷ IV. [112] Vì Giáo Hoàng dám thay đổi điều răn vô tội vạ như vậy, thảo nào mà xưa Giáo Hoàng đã có lúc dám xưng mình là Thượng đế. [113] Nếu Giáo Hoàng dám xưng mình như vậy thì chuyện bất khả ngộ ex Cathedra [Vatican Council, 18/07/1870] nào có ăn thua gì.
Chương 21 - Ngăn chận không cho giáo dân đọc Kinh Thánh thời Trung Cổ, nhất là bằng tiếng thổ âm, thổ ngữ.
Gaussen cho biết " Hội nghị Toulouse năm 1229 lập ra tòa Hình Án cốt là ngăn cấm giáo dân không cho đọc Kinh Thánh bằng tiếng thổ âm ... đó là một quyết nghị sặc mùi máu lửa và tàn phá. Các chương 3, 4, 5, và 6 của nghị quyết ra lệnh phá hết các nhà, các nơi chứa chấp, các hầm bí mật của nhừng người bị cáo là có Thánh Kinh và dù họ chạy vào rừng trốn vào hang hốc cũng phải tìm bắt cho được. Ai chứa chấp sẽ bị phạt nặng."
Kết quả là Kinh Thánh bị cấm khắp vơi và đã biến mất, hay đã bị cho xuống mồ. Và trong vòng 500 năm sau con người đã chịu biết bao là hình phạt, và máu thánh nhân đã chảy ra như suối.
William Tyndale [1495-1536] là người đã dịch Kinh Thánh Mới [1526], Pentateuch [1530] và Jonas [1531] sang tiếng Anh. Ông thụ phong LM năm 1521, và đến năm 1523 sang Luân Đôn xin phép Giám Mục Cuthbert Tunstall cho dịch Kinh Thánh sang tiếng Anh. Điều này rất cần vì chiếu theo khoản 1408 Luật Oxford, không ai được dịch Kinh Thánh sang tiếng Anh, nếu không có phép của Giám Mục. Ai trái lệnh trên, sẽ bị coi là rối đạo và lên giàn hỏa. Giám Mục Tunstall từ chối, không cho phép.
Tyndale trốn sang Đức và năm 1526 đã in ở Cologne khoảng 3000 cuốn Kinh Thánh mới. Sách trên được gửi lậu về Anh và phần lớn đã bị Hồng Y Wolsey và 36 Giám Mục khác tập họp gần Giáo đường St. Paul để cho đốt hết. Năm 1535, Tyndale bị người bạn là Phillips tố cáo, nên đã bị bắt tại Vilvorde [Bỉ], và bị cầm tù tại đó 16 tháng. Ông bị cách chức LM, bị thắt cổ và bị hỏa thiêu tháng 10/1536. Lối dịch Kinh Thánh của ông nay đã đựơc dùng để dịch Revised Standard Version.
Thực ra thì từ thế kỷ 15 trở đi, Thánh Kinh đã được địch ra nhiều thứ tiếng Âu châu, như Đức [1466], Ý [1471], Pháp [1474], Tiệp Khắc [1475], Hòa Lan [1477], Cathalan [1478]. Luther dịch Kinh Thánh Mới sang tiếng Đức [1522].
Ở Tây Ban Nha người dịch Kinh Thánh sang tiếng Tây Ban Nha đầu tiên là thày dòng Casiodoro de Reina [c. 1520-1594], và Francisco de Enzinas [đầu thế kỷ XVI], sau đó là Giám Mục Felipe Scio de San Miguel [1790], Giám Mục Felix Torres Amat [1823]. Mãi đến năm 1945 mới có hai học giả là Nacar và Colunga chính thức dịch cho Giáo hội Tây Ban Nha một bản Kinh Thánh chính thống. [114]
Thấy thế, ta mới kính phục những người như Wiclif [Wycliffe] [1320-1384], như Luther [1483-1546] đã dám dịch Thánh Kinh sang tiếng Anh và tiếng Đức.
Sau đây là những bản Thánh Kinh quen thuộc. Năm bản Kinh Thánh cổ viết tay:
1- Codex Sinaiticus, bằng tiếng Hi Lạp, thế kỷ 4, hiện tàng trữ tại British Museum.
2- Codex Vaticanus, bằng tiếng Hi Lạp, thế kỷ 4, hiện tàng trữ tại Thư Viện Vatican.
3- Codex Alexandrinus, thế kỷ 5, tàng trữ tại British Museum.
4- Codes Bezae, thế kỷ 5 hoặc 6, bằng tiếng Hi lạp, và Latinh, tàng trữ tại University of Cambridge.
5- Codex Ephraemi, thế kỷ 5, bằng tiếng Hi Lạp, tàng trữ tại Bibliothèque Nationale de Paris.
Như vậy là không có bản Thánh Kinh nào trước thế kỷ 4. Các bản khác đáng chú ý:
- Septuagint 250-20 B.C., do 72 học giả dịch từ Hebrew sang Hi lạp.
- St Jerome Vulgate khoảng 400 A. D. bản tiếng Latinh.
- Wycliff's Bible 1382 A. D. bản dịch Anh văn đầu tiên.
- Tyndale 1525-30 Bản dịch Anh văn đã dựa trên nhiều chính bản. Như đã nói trên, ông bị lên giàn hỏa 1536 ở Vilvorde bên Bỉ, vì tội đã dịch Kinh Thánh ra Anh Văn. Bản dịch của ông đã được dùng làm nòng cốt cho bản dịch của King James.
- King James 1611, của Tin Lành do 47 học giả phiên dịch.
- Revised Standard Version 1952, bản dịch mới nhất của Tin Lành.
- Douay 1582-1610, bản dịch bằng Anh Ngữ do Công giáo phiên dịch.
- Bible de Jérusalem bằng Pháp văn, do Công giáo ấn hành v.v..
Từ 1804 đến nay hội British and Foreign Bible Society đã in được khoảng 40 triệu Thánh Kinh ra khoảng 40 thứ tiếng. 100 năm sau cũng hội này đã phát hành 186,680,101 Thánh Kinh. Đến năm 1910, đã phát hành 220 triệu cuốn bằng 400 thứ tiếng. [115]
Ngày nay Thánh Kinh đã được dịch ra trên 1100 thứ tiếng. Có những cơ quan chuyên dịch và phổ biến Thánh Kinh như Britsh and Foreign Bible Society, American Bible Society, National Bible Society of Scotland, và Netherlands Bible Society. Nhiều Giáo hội Tin Lành còn cho không Kinh Thánh.
Mới hay càng cấm, sách lại càng bành trướng. Ngày nay Công giáo cũng lo phiên dịch Kinh thành ra các tiếng thổ âm không còn dám cấm đoán nữa. Tôi thật không hiểu, sao Giáo hội trước kia, đã tàn sát những ai dịch Thánh Kinh ra các thứ tiếng, nay lại bắt chước Tin Lành, dịch Thánh Kinh ra các tiếng thổ âm, và khuyến khích mọi người đọc Thánh Kinh. Chẳng lẽ Chân lý là như vậy sao?
GHI CHÚ
91- Re 19:1-9, 13:8, 20:7-10, 21:2-4, 20:12, 2Pe 3:12-13. Mr 12:38-40, Lu 12:1-3, Joh 3:20-21, Ro 2:16, 1Co 4:5, Mt 3:7-12, 11:20-24, 12:41-42, 5:22, 7:1-5, 25:40, 25:31, Joh 3:17, 5:22, 5:26, 5:27, Ac 10:42, 17:31, 2Ti 4:1. Và Cathechismus of the catholic church, p. 178 viết: On Judgment day at the end of the world, Christ will come in glory to achieve the definitive triumph of good over evil which like the wheat and the tares have grown up together in the course of history.
92- E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, nơi chữ Enfer, p. 119. Và trong Awake, 8/11/1992, p. 12: In the first week, for example, the novice Isa told to 'smell the smoke, the brimstone, the foul stench and the corruption of Hell. 92b- Nguyễn thế Thuấn gọi là 1Macabê và 2Macabê, Thánh Kinh tr. 1133 và 1193.
93- Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, p. 65: Then the way was prepared for the introduction of still another invention of paganism, which Rome named purgatory, and employed to terrify the credulous and superstitious multitudes...
94- To a certain degree, eschatology has become irrelevant to contemporary man, especially in our civilization. John Paul II - Crossing the threshold of hope, p. 183. 94b- Ge 3b?:1-5, Wis?. 2:24?, Joh 8:44, 2Pe 2:4, 1Jo 3:8, Joh 8:44, Mt 4:1-11, 1Jo 3:8, Ro 8:28. 94c- Re 16:17, Re 19:11-21, 20:7-10
95- Catechismus of the Catholic Church, p. 98-99.
96- And Julian Huxley cannot be blamed for seeing 'humanity in general, and religious humanity in particular', as 'habituated to thinking of God, mainly in terms of an external, personal, supernatural, spiritual being... John A. T. Robinson - Honest to God, p. 40.
97- G. F. Woods... writes, "The language of "transcendence", the thought of God as a personal being, wholly other to man, dwelling in majesty - this talk may well collapse into meaninglessness, in the last analysis. John A. T. Robinson - Honest to God, p. 40. 102
98- The body and blood of Christ are believed to be present 'in, with, and under' the bread and wine of the Lord's Supper and are received sacramentally and supernaturally. Consubstantiation, transubstantiation and Impanation are rejected. Frank S. Mead - Handbook of denominations in the United States, Abingdon Press, Nashville, New york, 1975, nơi chữ Lutherans, p. 126-136.
99- John Paul II - Bước qua ngưỡng cửa hi vọng, tr. 37. 99b- Dom Columba Cary-Elwes O.S.B.- China and the cross, P.J. Kenedy & Sons, New York 8, 1957, p. 143.
100- His position was briefly, that the Roman Catholic Church and papacy, had no divine right in things spiritual, that the Scriptures and not the Roman Catholic priest or Church had final authority over conscience. Frank S. Mead - Handbook of denominations, p. 126-127.
101- Catechismus of the catholic church, p. 312.
102- Jesuit Fathers of St Mary's College - The Church teaches, St Mary's Kansas, the Books and Publishers Inc. Rockford, Illinois 61105, 1973, p. 274.
103- Jesuit Fathers of St Mary's College - The Church teaches, p. 304.
104- Catechismus of the Catholic church, p. 335.
105- Jesuit Fathers of St Mary's College - The Church teaches. Make sure of all things, p. 68. và p. 322.
106- Jesuit Fathers of St Mary's College - The Church teaches, pp. 329-330.
107- As Tetzel entered a town, a messenger went before him, annoucing: "The grace of God and of the holy Father is at your gates." Tetzel ascending the pulpit, extolled indulgences as the most precious gift of God. He declared that by virtue of his certificates of pardon, all the sins which the purchaser should afterwards desire to commit would be forgiven him, and that " not even repentance is necessary." ...He assured his hearers that the indulgences had the power to save not only the living but the dead, that the very moment the money should clink against the bottom of his chest, the soul in whose behalf it has been paid would escape from Purgatory and makes its way to heaven. Ellen G. White - The great controversy Christ and Satan, pp. 146-147.
108- And the people welcomed the blasphemous pretender as if he were God himself come down from heaven to them. Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, p. 146. 108b- Ex 37:1-9, Ex 25:10-22, Ex 25, 16, De 10:1-5. 103
109- Catechismus of the catholic church, tr. 498 và 499. Nơi tr. 497, ta thấy rõ điều răn thứ 10 được tách thành hai là 9 và 10.
110- Vergilius Ferm - An encyclopedia of religions, The Philosophical Library, New York, 1945, nơi chữ Images, p. 358-359. Ellen G. White - The Great controversy between Christ and Satan, pp. 763-764.
111- Edict of Constantine - The law issued by Constantine on the seventh of March, A.D. 321, regarding a day of rest, reads thus: "Let all judges, and all city people, and all tradesmen, rest upon the venerable day of the sun. But let those dwelling in the country freely and with full liberty attend to the culture of their field, since it frequently happens, that no other day is so fit for the sowing of grain, or the planting of vines, hence the favorable time should not be allowed to pass lest the provisions of heaven be lost." A. H. Lewis -History of the sabbath and the sunday, pp. 123-124 [2d ed. Revel., 1903]. Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, p.764.
112- By an edict promulgated in A. D. 321, for example, Constantine ordered the law courts closed on "the venerable day of the sun" and decreed that this day be a day of rest. Christianity had hitherto held the Jewish Sabbath - Saturday - as sacred. Now in accordance with Constantine's edict, it transferred its sacred day to Sunday. This not only brought it into harmony with the existing regime but it also permitted it to further dissociate itself from its Judaic origins. Until the fourth century, moreover, Jesus' birthday had been celebrated on January 6th. For the cult of Sol Invictus, however, the crucial day of the year was 25/12 - the festival of Nathalis Invictus, the birth [or rebirth] of the sun, when the day grew longer. In this respect, too, Christianity brought itself into alignment with the regime and the established state religion. In the interests of unity, Constantine deliberately chose to blur the distinctions among Christianity, Mithraism and Sol Invictus - deliberately chose not to see any contradictions among them. Thus he tolerated the deified Jesus as the earthly manifestation of Sol Invictus. Thus he would built a Christian church and at the same time, statues of the mother goddess Cybele and of Sol Invictus, the sun-god - the latter being an image of himself...In A.D. 325, he convened the Concile of Nicea... The Concile of Nicea decide, by vote, that Jesus was a God, not a mortal prophet...In A.D. 303, a quarter of a century earlier, the pagan emperor Diocletian has undertaken to destroy all Christian writings that could be found...Thus a year after the Council of Nicea, Constantine sanctioned the confiscation and destruction of all works that challenged orthodox teachings - works by pagan authors that referred to Jesus, as well as works by "heretical" Christian...In A.D. 331, he commissioned and financed new copies of the Bible... When Constantine commissioned new versions of these documents, it enabled the custodians of orthodoxy to revise, edit, and revised their material as they saw fit, in accordance with their tenets. It was at this point that most of the crucial alterations in the New Testament were made and Jesus assumed the unique status he has enjoyed ever since. The importance of Constantine's Commission must not be underestimated. Of the five thousand extant early manuscript versions of the New Testament, not one predates the fourth century... 104 Michael Baigent, Richard Leigh, and Henry Lincoln - Holy blood, holy grail, A Dell Book, 1982, p. 367-369. -The traditional date of 25/12 was fixed by Pope Liberius in the fourth century. Manfred Barthel - What the Bible really says, Wings Books, New York, 1980, p, 395.
113- In a passage which forms a part of the Roman canon law, Pope Innocent III declares that the Roman pontiff is "the vicegerent upon the earth, not of a mere man, but of very God, " and in a gloss of a passage it is explained that this is because he is the vicegerent of Christ, who is "very God and very man." [See Decretal. D. Gregor. Pap. IX. lib. 1. de translat. Episc. title, 7, c.3. Corp. Jur. Canon. ed. Pars, 1612, tom. II. Decretal. col. 205.] For the title, "Lord God the Pope," see a gloss on the Extravagantes of Pope John XXII, title 14, ch. 4, "Declaramus." In an Antwerp edition of the Extravagantes, dated 1584, the words "Dominum Deum Nostrum Papam" ["Our Lord God the Pope"] occur in column 153. In a Paris edition dated 1612, they occur in column 140. In several editions published since 1612, the word "Deum" ["God"] has been omitted. Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, p. 763.
114- "The decree of Toulouse, 1229," which established the "tribunal of the Inquisition against all the readers of the Bible in vulgar tongue,... was an edict of fire, bloodshed, and devastation. In its 3rd, 4th, 5th, and 6th chapters, it ordains the entire destruction of the houses, the humblest places of concealment, and even the subterranean retreats of men convicted of possessing the Scriptures, that they should be pursued to the forests and caves of the earth, and that even those who harbored them should be severely punished." As a result, the Bible "was everywhere prohibited, it vanished, as it were, underground, it descended into the tombs." Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, p. 768. - Xem William Tyndale - A man of vision, Awake, 15/11/1955, p. 26-30 và The Spanish Bible's Battle for Survival, Awake 15/06/1992, p. 8-11
115- Ellen G. White - The great controversy between Christ and Satan, p. 769.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét