Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014
ÍT NHIỀU NHẬN ĐỊNH VỀ THIÊN CHÚA GIÁO - Phần Giáo Lý 5
12:30
Hoàng Phong Nhã
No comments
Mục V (Chương 13)
Chương 13 - Không tin con người có Thiên Tính
Đạo Công giáo không hiểu biết về con người, nên cho rằng con người chỉ có xác và hồn, không biết rằng con người còn có Thần bên trong nữa.
Hồn là cái gì biến thiên mà Công giáo không biết, cứ lo cứu hồn. Mặc dầu Chúa Giêsu phán: "Ai cứu hồn mình sẽ mất nó. Và ai mất hồn mình vì ta sẽ được nó" [Qui invenit animam suam, perdet illam, et qui perdiderit animam suam propter me, inveniet eam. Mt 10:39.]. Các bản dịch sau này dịch Anima là sự sống, thật hết sức vô nghĩa.
Hồn theo Á Đông chỉ là vọng tâm, cần rũ bỏ. Thần mới là Chân tâm, mới là cái gì vĩnh cửu, cần ôm ấp, chắt chiu. Đạo Lão nói: Tâm tử, thần hoạt. [Hồn chết đi, cho thần hoạt động]. Á Đông cho rằng Thần mình và Thần trời đất là một, cho nên quả quyết là Trời ở trong ta.
Đạo Công giáo không nhận con người có Thần, nên chỉ lo cứu hồn. Công giáo không biết Hồn là cái gì biến thiên, nên chuyên lo cứu Hồn. Mà không biết rằng chỉ có thần là bất biến, cần ôm ấp nó.
Bà La Môn dạy TAT TVAM ASI [Con là Cái đó]. Mà cái đó là Brahman, là Tối thượng thần.
Toàn bộ UpanIsahads dạy con người trở thành Brahman. Manduka UpanIsahad 3. 2. 9 viết: "Ai biết Brahman sẽ trở thành Brahman." Và Anquetil Duperron cho rằng câu này toát lược toàn bộ UpanIsahads :Ai mà hiểu Brahman, sẽ trở thành Brahman. [69]
Chúa phán : I am who I am, Ta là bản thể [Ex. 3:13-15]. Xưa nay không ai hiểu là Chúa nói gì, nay tôi hiểu là Chúa muốn nói Ta là Bản Thể. Mà đâu có bản thể, thì đấy có hiện tượng. Mà bản thể thì bất biến, còn hiện tượng thì biến thiên. Cái gì biến thiên nơi ta, thì là hiện tượng. Cái gì bất biến nơi ta, thì đó là bản thể, là Thượng đế. Suy rõ như vậy, ta sẽ thấy trong ta có Thượng đế, và ta có thể tìm thấy Ngài trong ta.
John of the Cross nói: Trung điểm tâm hồn ta là Thượng đế.[70] Sau khi Adong ăn trái cấm, Chúa Elohim phán: Này người đã nên như một vị trong chúng ta để biết được tốt xấu. [Gen. 3, 22]. Chính Chúa Elohim đã nói con người đã nên bằng Thiên Chúa. Thì sau này ta nói ta có thể nên bằng Thiên Chúa, có gì là phạm thượng đâu. Công giáo cho rằng ai dám xưng mình bằng Thượng đế là phạm thượng đáng sa hỏa ngục đời đời, và đó cũng là tội của Lucifer.
Định nghĩa Chúa là Bản Thể con người cũng chứng minh được rằng Chúa ở khắp mọi nơi, và nếu Ngài là Bản thể chúng ta thì chúng ta cũng có cơ tiến hóa tới Ngài. Học thuyết này Âu châu gọi là PantheIsam. Bà Blavatsky cho rằng Thượng đế tiềm ẩn trong lòng vạn hữu, trong lòng mỗi nguyên tử của thế giới vô hình và hữu tướng. [71].
Giám mục John Robinson, tác giả quyển Honest to God, cho rằng không thể định nghĩa là Chúa ở trên Trời, mà phải nói như Tillich rằng Chúa ở trong tầng sâu con người. [ 72]
Bảy Cái Nhìn Về Thượng đế Khảo sách vở, ta thấy xưa nay nhân loại nhận định về Thượng đế bằng bảy cách như sau:
1- Thần Luận [Théisme].
Phái này tin Thượng đế hữu ngã, can thiệp vào chuyện đời.
2- Độc Thần [Monothéisme].
Do Thái, Hồi giáo hoàn toàn Độc Thần. Công giáo thì là Độc thần nhưng là Tam Vị Nhất Thể [Trinity]. Độc Thần tin rằng Chúa đã dựng nên muôn loài, hoàn toàn ở bên ngoài vạn hữu, Ngài ở trên trời, nhưng luôn can thiệp vào truyện hồng trần. [73] Trên đây đã cho thấy quan niệm Chúa là một thực thể riêng biệt đã bị nhiều người như Giám Mục John Robinson, hay nhà thần học Tillich cho là những quan niệm lỗi thời, cần phái định nghĩa lại.
3- Đa Thần [Polythéisme] như Ấn Giáo.
Tuy nhiên Ấn giáo cho rằng thần nào cũng chỉ là một khía cạnh, một phương diện của vị Tối Thượng Thần.
4- Hữu Thần [Déisme].
Môn phái này thuộc thế kỷ 18. Tin có Thượng đế, nhưng từ khi Thượng đế tạo nên vũ trụ thì không còn dây vào truyện đời. Lord Herbert Cherbury [1383-1648] là cha đẻ ra môn phái này. Nhiều danh nhân thế kỷ XVIII như Voltaire, hay Benjamin Flanklin, Georges Washington, v.v... cũng theo môn phái này.
5- Phiếm Thần [Panthéisme],
coi Thượng đế này là chính vũ trụ, hay nói đúng hơn, Thượng đế là đại ngã, là chân tâm vũ trụ. [74] Tillich đã gọi Thượng đế là căn cơ, gốc gác muôn loài [The ground of all beings, A depth at the Center of Life]. Phiếm Thần không bao giờ coi Thượng đế là vũ trụ hình danh, sắc tướng bên ngoài [Natura Naturata] mà chỉ coi Ngài là chân tâm vũ trụ [Natura Naturans]. Tại sao? Vì vũ trụ hình danh sắc tướng bên ngoài là cái gì biến thiên, còn chân tâm mới là cái gì vĩnh cửu, bất biến.
Phiếm thần dạy chúng ta muốn tìm Thượng đế phải tìm Ngài trong thâm tâm ta, vì Ngài chính là bản thể ta. Chúng ta là hình hiện của Ngài.[75] Các môn phái triết gia danh tiếng như phái Khắc Kỷ [Stoic] gồm các triết gia như Zenon, Senèque, Marc-Aurèle, Epictète, như Platon và môn phái Néo-platoniciens, như Spinoza, như Giordino Bruno, như Eckhart, như các tôn giáo Á châu: Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Cao Đài đều theo.
Phiếm Thần, hay nói cách khác, bất kỳ ai theo học thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể đều theo thuyết Phiếm Thần. [76] Vì Phật giáo chủ trương Bản Thể là Vũ Trụ, vũ trụ là bản thể nên Phật giáo cũng đứng trong hàng ngũ phiếm thần.[77] Các thánh hiền Đông Tây, các nhà huyền học [Mystics] đông tây như môn phái Kaballah Do Thái Giáo, như SufIsam Hồi giáo, như Tam Điểm [Free-masonry], như mật tông HermetIsam, như Alchemy, như các nhà huyền học Công giáo, như Ấn giáo, Khống, Lão, Phật, Cao Đài v. v... tất cả đều phiếm thần.
Tôi cũng long trọng tuyên xưng tôi chủ trương phiếm thần 30, 40 năm nay rồi.
- Vì tin Thượng đế là bản thể tôi, nên tôi mới có thể ngửng đầu lên nhìn được mọi người, nên tôi mới thấy con người tôi rất là giá trị.
- Vì tin Thượng đế là bản thể tôi, nên tôi mới mong có thể tu luyện thành thánh, hiền, tiên, phật..
- Vì tin Thượng đế là bản thể tôi, nên tôi và chúng sinh là một. Tôi và chúng sinh khác nhau, là vì những lớp áo vỏ bên ngoài, là vì trình độ hiểu biết khác nhau, vì tâm tư khác nhau mà thôi.
- Vì tin Thượng đế là bản thể muôn loài, nên tôi thấu hiểu Ngài thông minh ra sao, quyền phép ra sao, và ở khắp nơi ra sao.
- Vì tin Thượng đế là bản thể muôn loài, nên tôi thấy muôn loài đều phải nỗ lực tiến về Ngài. Nhưng muốn tiến được về với Ngài, không thể nào thực hiện được trong một đời, một kiếp, nên tôi tin có luân hồi.
- Vì tin Thượng đế là bản thể muôn loài, nên tôi rất trọng ngọn đèn lương tâm mà Trời đặt trong tôi và mỗi người chúng ta. Lương tâm chính là Bản Thể chúng ta, chính là Phật tính của chúng ta. Tôi rất sung sướng là đã tìm ra được định nghĩa chân chính về Thượng đế, và đã biết Ngài là bản thể con người tôi và chúng sinh, chứ không phải là một nhân vật sống ngoời vũ trụ như Công giáo thường định nghĩa, và coi Ngài như là một đấng ở trên Trời.
Carl Jung nói quan điểm Thượng đế hữu Ngã là quan điểm của Á châu. Quan điểm Thượng đế vô ngã mới là quan điểm phổ quát [Universal archetype] Lão tử viết: Phù vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết tĩnh, phục mệnh viết trường [Đạo Đức Kinh, ch. XVI].
Mà tôi dịch là:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh.
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
Vì thế mà các Đạo Giáo Á Đông dạy ta phải "qui căn phản bản", hay "qui nguyên, phục thủy."
Bà La Môn dạy ta tiến:
Từ Hư Vọng tới Chân Thực,
Từ Tối Tăm đến Ánh Sáng.
Từ Tử Vong đến Bất Tử. [Brih. 1.3. 28] [78].
Đạo Phật dạy bốn chữ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Tiến tới Thường Hằng, Hạnh Phúc, Đại Ngã, Thanh Tịnh. Đạo Nho dạy Khử Nhân Dục [vọng tâm], tồn Thiên Lý [chân tâm], và hễ Nhân dục thắng, thì Thiên Lý vong. Và phải giữ sao cho lòng được Quang, Minh, Chính, Đại. Thật là hết sức đẹp đẽ. Như vậy, Giác ngộ chính là tìm ra được chân tâm, chân ngã, khuất lấp sau các bức màn vô minh và hiện tượng.
Xưa tôi cứ tưởng là mỗi người giác ngộ một cách, và khi đọc các Thiền Sư, thấy nói ông này giác ngộ, ông kia giác ngộ, mà không mấy khi nói giác ngộ thấy gì. Nhưng càng ngày càng thấy Giác Ngộ chỉ là Kiến Tính thành Phật mà thôi. Giác Ngộ là ấn chứng của Trời đất, cho biết mình đã được tuyển lựa để đi vào con đường hiền thánh. Tuy nhiên không phải là đi ngay được đến chổ tuyệt luân tuyệt đích.
Dịch Kinh cho thấy từ Giác Ngộ đến lúc thành đạo, có 7 giai đoạn:
- PHỤC [Địa Lôi Phục], thấy được rằng trong mình có tính trời.
- LÂM [Địa Trạch Lâm], đem được con người về với Trời, đến với Trời.
- THÁI [Địa Thiên Thái], biết rằng trời lồng trong tâm khảm mình, thấy mình được Thân Tâm an lạc, tìm ra được thế quân bình giữa tinh thần và vật chất.
- Đại TRÁNG [Lôi Thiên Đại Tráng], thấy mình tinh thần hết sức mạnh mẽ, vì luôn hoạt động theo đúng đường Trời.
- QUẢI [Trạch Thiên Quải] rũ sạch mọi tàn tích vật chất còn vương vấn nơi thân.
- KIỀN trở thành thuần dương, nên như ảnh tượng Trời.
- THÁI CỰC, thoát vòng Luân Hồi, vào được trung điểm con người, trung điểm vũ trụ và vòng Dịch.
Nói thế nghĩa là lúc nào cũng phải lo thanh tẩy tâm hồn, đi đến chỗ thanh hư, trong sáng.
Tóm lại, vũ trụ hữu hình này đã do một chân tâm, một trung tâm vô hình sinh xuất ra. Tâm điểm là nguồn sinh hóa, vĩnh cửu, trường tồn. Các vòng bên ngoài là hiện tượng biến thiên. Tâm điểm là tinh hoa, cốt tủy, các vòng tròn bên ngoài có nhiệm vụ làm bao bì, làm xác, làm vỏ che chở bên ngoài. Nói theo triết học, bản thể vô biên tế ấy đã phóng phát tán phân thành vũ trụ. Thế tức là vũ trụ này đã hình hiện lên từ một Bản Thể, từ một Tâm Điểm có một nguồn năng lực vô cùng. Tất cả đều như một cây pháo bông muôn màu, tung tỏa miên trường, vĩnh cửu.
Tôi thấy rằng giữa Bản Thể vô biên và quần sinh vũ trụ, có một cái gì liên tục, cũng như giữa sinh linh với sinh linh, có một cái gì gắn bó, tất cả đều liên lạc với nhau, tất cả đều hỗ tương ảnh hưởng đến nhau, tất cả đều cùng hội, cùng thuyền, y thức như người xưa đã nói: Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức Nhất: Một là tất cả, tất cả là Một, để tạo nên một Đại Thể huy hoàng, toàn bích.
6- Vô Thần [Athéisme].
Vô Thần là không tin rằng vũ trụ này được cai trị bằng một vị thượng thần có cá tính riêng biệt, theo kiểu Công giáo. Thời xưa có người vô thần như Lucrèce, nay có những người như Holbach, La Mettrie, Charles Bradlaught, Karl Marx v.v... 47 Nhiều người cho rằng Phiếm Thần cũng là vô thần, vì không tin vào một Thượng đế hữu ngã. Nhưng như trên đã nói Phiếm Thần không phải là vô thần. Như vậy xưa nay, có ba cách chính để nhận định Thượng đế:
a. Độc Thần cho rằng có một Thượng đế, hữu ngã, ngoại tại, ở trên các tầng trời, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, quyền uy vô hạn.
b. Vô Thần cho rằng không có vị Thượng Thần hữu ngã như vậy trong trời đất này. Vô Thần thật ra không phải xấu như ta tưởng. Họ yêu mến tha nhân, họ tin rằng thiên đàng chính là do mình tạo ra, họ không tin vào kinh nguyện mà tin vào chính mình, và sức mạnh của mình để đương đầu với cuộc sống. Họ cho rằng phải biết mình, biết người, mới có thể sống một cuộc đời viên mãn. Họ tìm học về các đạo giáo, nhưng đề cao lý trí. Ngày nay những người vô thần có những đoàn thể, và đã sọan ra nhiều sách vở. Họ đọc Kinh Thánh rất kỹ và đã bới ra không biết là bao nhiêu điều sai lầm như họ đã trình bày trong quyển The Bible Handbook. [revised edition của W. P. Ball, G.F. Foote, John Bowden, Richard Smith and others, American Atheist Press, Austin Texas, 1986. [79] Tiếc là Vô thần lại là Duy Vật.
c. Phiếm Thần cho rằng không làm gì có vị thượng thần hữu ngã như vậy, trong Trời đất này. Mà vị thượng thần mà ta mường tưởng ra đó, chính là bản thể muôn loài. Bản thể đó đã tiềm ẩn sẵn trong lòng chúng ta. Chúng ta khỏi phải tìm Ngài đâu xa, vì từ muôn thủơ, Ngài đã ở sẵn trong ta. Ta rờ vào đâu cũng thấy Ngài [Xúc loại thị đạo], có như vậy ta mới tìm về với Ngài được.
Như vậy, Độc Thần chẳng qua cũng là một thứ Vô Thần mà thôi, vì đưa ra một cái gì không có, thì cũng như là không vậy, và đã làm cản bước tiến của nhân loại mà thôi.
7- Bất khả tri [Agnosticisme].
Nhóm triết gia này chủ trương không sao biết được tuyệt đối, biết được vô cùng. Và khoa Thần học không có cứ điểm vững chắc. T. H. Huxley đã lập ra danh từ này. Huxley cho rằng ngoài hiện tượng, con người không biết được gì hơn. [80]
So sánh Độc Thần và Phiếm Thần Như Giám Mục Robinson đã viết, định nghĩa về Thượng đế của Công giáo ngày nay đã lỗi thời. Cho rằng Thượng đế ở trên Trời, Chúa lên trời, hay xuống đất [Joh 3:13, Joh 6:61, Eph 4:9f], là những danh từ nay đã lỗi thời. Hơn thế nữa, coi Thượng đế như là một nhân vật siêu việt và riêng biệt cũng không đúng. [81]
Giáo Hoàng John Paul II cũng vẫn coi Thượng đế là vị thần sống ngoài vũ trụ. Ngài viết : "Tuy nhiên, tiến trình quay lưng lại với Thiên Chúa của các Giáo Phụ...không hàm chứa 1 cuộc đoạn giao với một Thiên Chúa, Đấng hiện hữu bên ngoài thế giới...Thiên Chúa này. tuy nhiên, vẫn là một Thiên Chúa bên ngoài thế giới." [82]
Nhà thần học Tillich nói nay phải gọi Thượng đế là cái gì sâu xa nhất, là bản thể chúng ta. [83] Ông viết: Tên gọi Căn cơ sâu thẳm của muôn loài được gọi là Thượng đế. Danh từ Thượng đế chính là để chỉ chiều kích sâu thẳm đó. Nếu danh từ ấy chưa có Ý nghĩa gì đối với bạn, bạn hãy chuyển dịch danh từ đó thành chiều kích sâu thẳm của cuộc đời bạn, thành nguồn gốc Bản Thể bạn, điều quan thiết tối hậu của bạn, và là điều mà bạn chú trọng nhất. Có lẽ để làm được như vậy, bạn phải quên đi những gì mà truyền thống đã dạy bạn về Thượng đế, phải quên đi ngay cả danh từ Thượng đế. Vì nếu bạn hiểu được rằng Thượng đế là chiều kích sâu xa của cuộc đời bạn, bạn đã hiểu được rất nhiều về Thượng đế. Hiểu Thượng đế như vậy, không thể rằng là bạn vô thần hay vô tín ngưỡng. Vì bạn không thể nghĩ hay nói được rằng: Sự sống không có chiều sâu, sự sống chỉ là nông cạn, hời hợt, bản thể chỉ là phiến diện. Nếu bạn thực tình đã thốt ra những câu như trên, thì bạn là kẻ vô thần, bằng không thì bạn đâu phải vô thần. Ai hiểu biết được chiều sâu, tức là hiểu biết Thiên Chúa.[84]
Tôi cảm ơn Giám Mục Robinson và Tillich vì đã cho biết ngày nay chúng ta không thể còn tin được rằng Thượng đế là một đấng sống riêng rẽ và tách biệt mọi vật.
Như vậy theo tôi, từ ngót 2000 năm nay, Công giáo đã coi Thượng đế như là một nhân vật sống tách rời vũ trụ là một điều hết sức sai lạc. Cần sửa lại là Thượng đế là Bản Thể chúng ta, là Chiều sâu con người chúng ta. Hơn nữa, Công giáo luôn tuyên xưng Thượng đế là Tình yêu, nhưng đọc kỹ Thánh Kinh nhất là các sách Tiên Tri, tôi thấy Chúa quả là không có tình yêu. Ngài là đấng luôn nổi cơn thịnh nộ, lôi đình. Đọc Thánh Kinh cũ ta thấy Ngài đã ra tay huỷ diệt không biết cơ man nào là người, như trong trận Hồng Thủy. Và Ngài chỉ coi dân Do Thái là dân riêng, còn các dân khác như Ai Cập, như Ba tư, như Babylon, như Assyrie đều là những dân ngoại, cần hành hạ, giết lát thẳng thừng. Không bao giờ thấy Ngài nhìn xa ra tới các nước phương Đông, hay châu Phi, châu Mỹ.
Thánh Kinh mô tả Chúa rất tường tận: Ngài có chân để đi [Ge 3:8], tay [Ex 33:23], mặt mũi [Ex 33:23], có tim [Ge 6:6], Ngài biết buồn giận, hờn ghen [De 5:9], biết phàn nàn, hối hận [Ge 6:7], nhất là hay nổi trận lôi đình [De 29:28]. Ngài thích ngửi mùi thịt nướng, nó làm cho lòng Ngài dịu lại [Nu 18:17, Ge 8:21, Ex 29:18, 25, Le 1:9, 13, Nu 28:1 v.v...]. Hơn thế nữa, Ngài còn xuống vật lộn với Jacob và đã điểm huyệt Jacob vào thần kinh tọa [Ge 32:25-33]. Tóm lại Ngài còn đầy thất tình lục dục, còn phàm tâm, phàm ngã chứ không siêu thoát như thánh hiền Đông Á. Không thể nói đây chỉ là những kiểu nói phàm trần, chứ Chúa không phải vậy. Á Đông có câu: Quân vô hí ngôn là vua không nói chơi. Chính vì vậy mà tôi chủ trương Kinh Thánh không phải là chính lời Chúa, vì Chúa không thể tầm thường như vậy. Nói vậy, thì niềm tin vào một Thượng đế hữu ngã, ngoại tại, như đã mô tả trong Thánh Kinh là hoàn toàn sai hay sao? Tôi dám nghĩ vậy. Ta nghĩ xem nếu mà Thượng đế đầy sân hận như vậy thì làm sao xứng đáng với danh hiệu Ngài.
Ngoài ra, Ngài phàn nàn vì đã sinh ra con người [Ge 6:7]. Như vậy thì Ngài vẫn còn ở trong vòng biến thiên, chưa vào được hằng cửu, bất biến. Mô tả Ngài thích mùi thịt nướng, thì thực quá đáng. Nhiều khi Ngài xưng mình chỉ là một thần giữa chúng thần [De 15:11, 10:17], chứ không xưng mình là độc tôn như trong Isaiah... Từ khi Chúa Giêsu ra đời, thì Đức Chúa Cha y như là đã hồi hưu, vì bao quyền lực của Ngài dần dần sang tay Chúa Giêsu hết, và Ngài được mô tả như đấng từ nhân hơn, tuy nhiên Đạo Công giáo đã thay thế Chúa mà giết lát, đọa đày, trước hết là những người Do Thái trong gần suốt 20 49 thế kỷ qua, sau đó là đánh phá các giáo phái như Albigenes và Waldenses miền Nam nưởc Pháp vào thế kỷ 12, hoặc Tin Lành [1562-1594], hoặc Hồi giáo từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, sau cùng là ngay chính con chiên mình như trong suốt sáu thế kỷ mà các toà Hình án đã hoành hành [1248-1834], và Chúa Giêsu cũng được mô tả như là một Chúa chuyên oán phạt.[85] Tôi sợ nhất câu: Trông quả biết cây của St. Matthew [Mt 12:33]. Tại sao Công giáo luôn vỗ ngực xưng mình là thánh thiện, mà lại có thể thiêu sinh được nhiều bổn đạo mình như vậy? Nguyên Torquemada đã cho lên giàn hỏa 20.000 ngàn người, trong vòng 15 năm [1483-1498] ông chấp chưởng tòa Hình án Tây ban Nha.
Tôi còn liên tưởng đến vụ ám sát tập thể người Tin Lành vào đêm lễ thánh Bartholomew, ngày 24/08/1572, xảy ra tại Pháp và kéo dài hai tháng. Tất cả những người Tin lành bị giết trong kỳ đó là 30,000 người. Nam, phụ, lão, ấu đếu bị giết, không tha một ai. Tin này được tòa thánh La Mã đón tiếp một cách hân hoan. Giáo hội đã hát kinh Te Deum để ngượi khen Thiên Chúa. Lại cho bắn súng thần công, đốt pháo bông và cho đúc tiền kỷ niệm. Tại Vatican bây giờ còn hai bức họa của Vasari kỷ niệm vụ này.[86]
Đi lùi về dĩ vãng vào khoảng năm 1200, ta còn có vụ tận diệt những người theo giáo phái Albigenes hay Cathares thuộc vùng Languedoc [miền Nam Pháp]. Năm 1209, có khoảng 30,000 quân từ Bắc âu làm một cuộc thánh chiến xuống vùng Languedoc, theo lệnh Giáo Hoàng Innocent III. Họ tàn phá mùa màng, tàn phá mọi sự, giết sạch nam, phụ, lão, ấu người dân Albigenes. Khi hỏi biết ai là kẻ rối đạo để mà giết, thì đại diện Giáo Hoàng trả lời: Cứ giết sạch tuốt, Chúa sẽ phân biệt lành dữ [Kill them all, God will recognize his own]. Đại diện trên còn tâu về Giáo Hoàng:" Không tha ai, bất phân tuổi tác, nam nữ, nghề nghiệp." ["Neither age nor sex nor status was spared."] Các thành phố Beziers, Perpignan, Carcassone, Toulouse, Montségur lần lượt thất thủ. Montségur thất thủ ngày 01/03/1244 sau nhiều tháng bị vây.
Thánh chiến này kéo dài gần 40 năm. Những người dự thành chiến được Tòa Thánh tha tội, tha vạ, hứa cho lên thiên đàng, và được chia cho những của cải mà họ chiếm được.
Năm 1229, tòa Hình Án được lập ra ở Languedoc để tiễu trừ các người rối đạo. Nay vùng Languedoc cũng còn có người theo giáo phái Neo-Cathare, và hằng năm họ tổ chức hành hương Montségur, thành phố bị thất thủ sau cùng cúa người Albigenes.
Chúa Giêsu không bao giờ chủ trương giết người để truyền đạo. Trong Lu 9:56, Chúa có nói: Con người đến không phải để hủy diệt mạng người ta, mà là để cứu chúng [Kinh Thánh, Nguyễn thế Thuấn, tr. 149]. Nhưng Giáo hội không nghĩ vậy. Hãy xem họ đã mừng rỡ thế nào khi nghe thấy Tin Lành bị tàn sát như trên.
Rồi dần dần Giáo hội cũng làm cho Chúa Giêsu trở nên tàn ác . Ngài lúc nào cũng chờ đón mọi người với Hỏa Ngục vô cùng của Ngài. Thật là khủng khiếp. Như vậy Đức Chúa Cha, và Chúa Giêsu với Giáo hội đều tàn ác như nhau. Giáo hội cho rằng có như vậy, Chúa mới công bằng vô cùng. Nhưng khi Công giáo kêu gọi mọi người thì luôn nói Chúa là Tình Yêu.
Và tôi mới thấy Phiếm Thần thật là cao siêu. Trước hết định nghĩa ngay rằng Thượng đế là Bản Thể muôn loài, và là một Thượng đế vô ngã, không ngôi vị. Vũ trụ và Thượng đế 50 như trên đã nói, không hề rời xa nhau. Một bên là Hiện Tượng, một bên là Bản thể. Và dẫu một người dù tội lỗi đến đâu, thì Bản Thể của hắn cũng vẫn tinh ròng băng tuyết như ai, không hề có bợn nhơ tì vết.
Tôi ước mơ, khi chết, được trở về với Bản Thể đó, như muôn sông nghìn suối khi ra tới bể khơi, thì cũng trở thành bể khơi...Tôi nhìn thấy mọi sự đời biến thiên, luân chuyển cốt là cho mọi người chúng ta nhìn thấy được cái căn cơ bất biến và toàn hảo bên trong đó của chúng ta mà thôi.
Tôi thấy Phiếm Thần không dọa dẫm ai, chỉ cho thấy mọi người chung qui cũng trở về cùng nguồn mạch cũ. Không thấy địa ngục luôn luôn mở ra để chờ đón con người. Không thấy tội lệ ngăn cản bước đường tiến hóa con người, mà chỉ thấy lời mời gọi "ung dung tiến bước." Tôi chưa thấy Phiếm thần thiêu đốt ai... Chính vì vậy mà tôi theo Phiếm Thần, sau khi đã nhìn thấy những lỗi lầm, những sai trái của thuyết Độc Thần.
Tillich mô tả Thượng đế là chiều sâu con người, là mô tả Thượng đế theo từ ngữ phiếm thần. Công giáo không có tư tưởng này, tuy tư tưởng rất đúng và hợp thời.
Tập san Le Lotus Bleu viết: Thượng đế ngoại tại phải biến đi, để Thượng đế nội tại trò chuyện với tâm hồn con người. [87] Báo này còn viết: Học thuyết của Thông Thiên là con người, hay nhân loại là Thượng đế đang biến hóa...Thượng đế đó vô tri cho đến khi con người thức tỉnh. Con người lúc đó là Thượng đế thức tỉnh. [88]
Phiếm Thần chung qui giúp con người thực hiện Thiên Tính của mình. Cái đạo mà nhiều người đã tìm ra, theo thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể là đạo Huyền đồng [Mysticism]
Thế nào là Đạo Huyền Đồng? Thưa là đạo của những người tin rằng trong lòng mình có Trời, và cố gắng tu luyện để sống cuộc đời phối kết với Trời. Đạo này có từ vạn thủa, và các thánh hiền mọi nơi, mọi đời dù theo tôn giáo nào cũng đi theo một đường lối như nhau: Đó là sống một cuộc đời tinh khiết, định thần phát huệ, đi vào cảnh giới Hư Vô, sống cuộc sống Phối Thiên. Bất kể họ theo Bà la môn hay phái Tân Platon [Neo- Platonism], Kaballah, hay Sufism, hay Thiền Tông Phật giáo, hay Khổng, Lão, hay các nhà huyền học Công giáo, tất cả đều tỏa ra một sự ấm áp tâm linh, một nguồn vui rạt rào, và thấy mình hợp nhất với lẽ Một [Một là Tất cả, Tất cả là Một].
Các đạo giáo Âu châu, Á châu không thiếu gì người đã đi và con đường này như Denys l'Aréopagite, như Scot Erigen, như St. Bernard, như Thomas à Kempis, như Ste. Thérèse, St. Jean de la Croix, Francois de Sales, Maitre Eckhart, Suso de Constance, Tauler de Strasbourg, Van Ruysbroeck, Swedenborg và những đoàn thể như Les Fraticelles, les Beghards, les Frères du Libre Esprit, les Anabaptistes, les Quakers v. v...Có người cho rắng Đạo Huyền Đồng sẽ là đạo giáo tương lai. Và tôi cũng nghĩ vậy.[89] -Denys l'Areopagite là nhà huyền học sống vào khoảng thế kỷ V. Tư tưởng như môn phái Tân Platon [Neo-platonicien].
-Scot Erigène [v. 815-877?] chủ trương Thượng đế và vũ trụ là một. Vũ trụ này là sự hình hiện của Thượng đế, là sự hiện thân của Thượng đế. Vạn vật sinh xuất từ Thượng đế rồi lại trở về với Ngài. Đó cũng chính là tư tưởng của môn phái Tân Platon và Á Đông.[89b]
-Fraticelles là nhóm dòng Franciscain tách khỏi dòng chính vào thế kỷ XIII, vì chủ trương khó nghèo và tin Chúa tái lâm v.v...Nhóm Beghards là những nhóm Công giáo vùng Nam Đức và Pháp cũng chủ trương nghèo khó và không theo các Lề luật.
- Nhóm Frères du Libre Esprit là nhóm huyền học chủ trương phiếm thần thế kỷ XIII. Thành viên của nhóm này còn gọi là Amauriciens vì theo lý thuyết của Amaury de Bène. Nhiều người trong nhóm này đã bị lên giàn hỏa. Họ không tin là các phép bí tích có giá trị, và phải thờ Chúa một cách tự do phóng khoáng. Eckhart cũng thuộc nhóm này, và may là ông chết trước, nếu không cũng bị lên giàn hỏa.
Cao Đài nay cũng chủ trương:
- Thượng đế là cha chung nhân loại.
- Chân linh Thượng đế có trong tất cả chúng sinh.
- Tất cả chúng sinh bị chi phối bởi định luật nhân quả.
- Chúng sinh phải lo tu hành để trở về cõi tâm hư, tìm thấy Thượng đế trong lòng mình và sau này trở về nguồn cội của mình hội hợp cùng Thượng đế. Thế tức là Cao Đài cũng chủ trương thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Nhất thể tán vạn thù, và vạn thù qui nhất thể. [90]
Thật đúng là Tiên Thánh hậu thánh kỹ quĩ nhất dã. Thánh trước thánh sau đều cũng một đường lối.[90a]
GHI CHÚ
69- In the title to his Latin translation, 'Oupnekhat' Anquetil Duperron set this sentence evidently as the summary of the contents of the Upanishads: 'Quisquis Deum intelligit, Deus fit,' 'Whoever knows God, becomes God.' Robert Ernest Hume - The thirteen principal Upanishads, Delhi Oxford University Press, Bombay, Calcutta, Madras, 1887, p. 337.
70- The center of the soul is God. F.C. Happold - Mysticism, Penguin Books, 1963, p. 362.
71- Notre Divinité, dit-elle, est partout en chaque atome du visible et invisible Cosmos...car il est le mystérieux pouvoir d'évolution et d'involution, omniprésent, omnipotent toujours en potentialité créatrice. Clé de la théosophie, Section V, pp. 61-81.- Le Lotus Bleu 12/1967, p. 316.
72- John A. T. Robinson - Honest to God, The Westmninster press, Philadelphia, 1963, Up there or out there? pp. 11-28. But we think of him nevertheless as defined and marked off fRom. other beings as if he did. And this is what is decisive. He is thought of as a Being whose separate existence over and above the sum of things has to be demonstrated and established...Ib. p. 31. Those who, in the famous words of Laplace to Napoleon, 'find no need of this hypothesis' attack it in the name of what they call the 'naturalist' position. The most influential exponent of this position in England today, Professor Julian Huxley, expressly contrasts 'dualistic supernaturalism' with 'unitary naturalism'. The existence of God as a separate entity can, he says, be dismissed as superfluous, for the world may be explained just as adequately without position such a Being. Ib. p. 31. For, to the ordinary way of thinking, to believe in God means to be convinced of the existence of such a supreme and separate Being, 'Theists' are those who believes that such a Being exists, 'atheists' those who deny that he does. Ib. p.17. And Julian Huxley cannot be blamed for seeing 'humanity in general, and religious humanity in particular', as habituated to thinking of God 'mainly in terms of an external, personal, supernatural, spiritual being. Ib. p. 40.
73- The traditional formulation of Christianity, Tillich says, has been in term of what he calls 'Supernaturalism'. According to this way of thinking, which is what we have been brought up to, God is posited as 'the highest Being' - out there, above and beyond this world, existing in his own right alongside and over against his creation.
74- The 'naturalistic' view of the world identifies God, not indeed with the totality of things, the universe, per se, but with what gives the meaning and direction to nature. In Tillich's words, the phrase Deus sive Natura, used by people like Scotus Erigena and Spinoza, does not say that God is identical with nature but that he is identical with the 98 natura naturans, the creative nature, the creative ground of all objects. John A. T. Robinson - Honest to God, p. 31. Ib. p. 40. Tillich was saying, is not a projection 'out there', an Other beyond the skies, of whose existence we have to convinced ourselves, but the Ground of our very being. The name of this infinite and inexaustible depth and ground of all being is God. This depth is what the word God means...He who know about depth knows about God. Ib. p. 22.
75. Le Panthéisme identifie Dieu avec la Totalité de l'Univers. Le mot vient du Grec "pan" qui veut dire "Tout", c'est donc la Divinité en toutre chose. Selon les paroles de Mme Blavatsky, "le Panthéisme était connu de toute l'antiquité. Il se manifeste dans la vaste étendue des cieux étoilés, dans le souffle des océans et dans le frisson de la vie qui anime le plus petit brin d'herbe. La philosophie ne saurait imaginer un univers en dehors de la Divinité, ou l'absence de cette Divinité dans le plus mince fragment de substance animée ou inanimée." La doctrine de Panthéisme qui s'appuie sur l'idée de l'immanence du Principe Divin dans la Nature, était enseignée dans les temples initiatiques de l'antiquité, en Egypte et en Grèce et on la trouve exprimée dans la littérature sacrée de l'Inde, les Upanishads et la Bhagavad Gita. Les Stoiciens proclamaient un enseignement panthéiste, considérant la Nature comme une manifestation du mental divin. Une Divinité mythologique, Pan, qui fut originairement de Dieu des bergers, des paturages, des bois, donc un génie de la nature, devint pour ces philosophes le Dieu même du Panthéisme. Le système stoicien, fondé par Zénon, a trouvé sa pleine expression avec les philosophes Romains Sénèque, épictète et Marc-Aurèle. Les Néo-Platoniciens se rapprochaient également des idées panthéistes. Mais cette philosophie ne tarda pas à trouver en désaccord avec l'église et son Dieu extra-cosmique. Dans l'histoire de la pensée panthéiste, une place particulière revient à la grande figure de Giordino Bruno, ce disciple de Pythagore qui, au cours de son existence mouvementée, n'a cessé de proclamer que Dieu doit être cherché dans la Nature et non en dehors d'elle... L'enseignement théosophique est essentiellement panthéiste. Il s'expime notamment dans une lettres des Maitre [Mahatma letters to A. P. Sinnett], la dixième qui contient une répudiation énergique du Dieu des religions exotériques et la pleine adhésion au système panthéiste. L'adepte y approuve la pensée de Spinoza, qui enseignait qu'il n'y a qu'une substance laquelle est divine, car c'est la Vie-Une qui pénètre toute forme animée ou inanimée, c'est la vie divine qui est l'essence de chaque atome qui est la nature, le movement et la qualité particulière de chaque être vivant, de chaque objet matériel. Hermine Sabety - Athéisme, monothéisme, panthéisme, Le Lotus Bleu, 02/1967, pp. 235- 236. Le Dieu extérieur doit disaparaitre afin que le Dieu intérieur puisse parler à l'âme. Ib. p. 237.
76- Robert Ernest Hume - The thirteen principal Upanishads, pp. 300-301: 399, 403:423.
77- Tưởng duy Kiều - Đại cương triết học Phật giáo, tr. 36.
78- From the unreal lead me to the real. From darkness lead me to light. From death lead me to immortality. Robert Ernest Hume - The thirteen principal Upanishads, p. 80. 99
79- An Atheist loves his fellow man instead of a God. An Atheist believes that heaven is something for which we should work now, here on earth,of all men together to enjoy. An Atheist believes that he can get no help through prayer, but that he must find in himself the inner conviction and the strength to meet life, to grapple with it, to subdue it, and to enjoy it. An Atheist believes that only in a knowledge of himself and his fellow man can find the understanding that will helf him in a life of fulfillment. He seeks to know himself and his fellow man rather than to know God. William J. Murray - My life without God, 1992, p. 83, 84. American Atheists are organized: 1- To stimulate and promote freedom of thought and inquiry concerning religious beliefs, creeds, dogmas, tenet, ritual and practices, 2- To collect and disseminate information, data, and literature on all religions, and promote a more understanding of them, their origins and their histories... ...American Atheism may be defined as the mental attitude that unreservedly accepts the supremacy of reason and aims at establishing a life-style and ethical outlook verifiable by experience and the scientific method, independent of all arbitrary assumptions of authority of creeds. Materialism declares that the cosmos is devoid of immanent conscious purpose, that it is governed by its own inherent, immutable and impersonal laws, that there is ne supernatural interference in human life, that man -finding his own ressources within himself- can and must create his own destiny. Materialism restores to man his dignity and his intellectual integrity. It teaches that we must prize our life on earth and strive always to improve it. It holds that man is capable of creating a social system based on reason and justice. Materialism's "faith" is in man and man's ability to transform the world culture by his own efforts... W. P. Ball, G. W. Foote, John Bowden, Richard M. Smith and others - The Bible handbook, p. 375.
80- Le mot a été inventé par T.H. Huxley en 1869: Selon ses propres termes, "l'agnosticisme dit simplement que nous ne connaissons rien de ce qui peut exister derrière les phénomènes". E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, p. 7.
81- Xem John A. T. Robinson – Honest to God, chương Reluctant Revolution. Up there or Out There? pp. 11-28. ...We continue to picture God as a Person, who looks down at this world which he has made and loves from 'out there'. We know, of course, that he does not exist in space. But we think of Him as defined and marked off from other beings as if he did, and this is what is decisive. He is thought of as a Being whose separate existence over and above the sum of things has to be demonstrated and established. Ib. p. 30-31.
82- John Paul II - Crossing the threshold of hope, pp 52-53. Nevertheless, the process of turning away from the God of The Fathers...did not bring about the rupture with a God who exist outside of the world... This God however is decidedly a God outside of the world. 100
83- God, Tillich was saying, is not a projection 'out there', an Other beyond the skies, of whose existence we have to convince ourselves, but the Ground of our very being. John A. T. Robinson - Honest to God, p. 22.
84- The name of this infinite and inexhaustible depth and ground of all being is God. That depth is what the word God means. And if that word has not much meaning for you, translate it, and speak of the depth of our life, of the source of our being, of your ultimate concern, of what you have taken seriously without any reservation. Perhaps in order to do so, you must forget everything traditional that you have learned about God, perhaps even that word itself. For you cannot think or say: Life has no depth! Life is shallow. Being itself is surface only. If you could say this in complete seriousness, you would be an atheist, but otherwise you are not. He who knows about depth, knows about God. John A. T. Robinson - Honest to God, pp. 21-22.
85- Throughout history, God and Christ have often been represented as pitiless and inflexible judges. So it is not surprising, as theologian René Laurentin acknowledges, that some Catholics "have contrasted the vindictive justice of Christ with the mercy of his Mother: Jesus wants to condemn, Mary want to save. Awake, 08/11/1988, p. 8.
86- The king of France, urged on by Romish priests and prelates, lent his sanction to the dreaful work. A bell, tolling at dead of night, was the signal for the slaughter. Protestants by thousands, sleeping quietly in their homes, trusting to the plighted honor of their king, were dragged forth without a warning and murdered in cold blood... ...Neither age nor sex was respected. Neither the innocent babe nor the man of gray hairs was spared. Noble and peasant, old and young, mother and child, were cut down together. Throughout France the butchery continued for two months. Seventy thousand of the very flower of the nation perished. When the news of the massacre reached Rome, the exultation among the clergy knew no bounds. The Cardinal of Lorraine rewarded the messenger with a thousand crowns, the cannon of St Angelo thundered forth a joyous salut, and bells rang out from every steeple, bonfires turned night into day, and Gregory XIII, attended by the Cardinals and other ecclesiastical dignitaries, went on in long procession to the church of St Louis where the Cardinal of Lorraine chanted a Te Deum...A medal was struck to commemorate the massacre, and in the Vatican may still be seen three frescoes of Vasari describing the attack upon the admiral, the king in council plotting the massacre, and the massacre itself... Ellen G. White - The Great Controversy between Christ and Satan, p. 311-312.
87- Le Dieu extérieur doit disaparaitre afin que le Dieu intérieur puisse parler à l'âme. Le Lotus Bleu, 02/1967, p. 237.
88- La thèse théosophique est que l'homme, l'humanité est "Dieu en devenir"...Dieu est inconscient jusqu'à ce que l'homme ne s'éveille. L'homme est alors Dieu en éveil. Le Lotus Bleu, 12/1967, p. 316.
89- E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, PUF, 108 Boulevard St Germain, Paris, 1954, nơi chữ Mysticism, pp. 223-224. 101 89b- E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, p. 122.
90- Bùi đắc Hùm - Thử tìm một giải pháp, Đại Đạo, số 2, tháng 07/1991, tr. 68. Hội tín hữu Cao Đài Nam California thực hiện.
90a - Mạnh tử - Ly lâu chương cú hạ, tiết 1.
Chương 13 - Không tin con người có Thiên Tính
Đạo Công giáo không hiểu biết về con người, nên cho rằng con người chỉ có xác và hồn, không biết rằng con người còn có Thần bên trong nữa.
Hồn là cái gì biến thiên mà Công giáo không biết, cứ lo cứu hồn. Mặc dầu Chúa Giêsu phán: "Ai cứu hồn mình sẽ mất nó. Và ai mất hồn mình vì ta sẽ được nó" [Qui invenit animam suam, perdet illam, et qui perdiderit animam suam propter me, inveniet eam. Mt 10:39.]. Các bản dịch sau này dịch Anima là sự sống, thật hết sức vô nghĩa.
Hồn theo Á Đông chỉ là vọng tâm, cần rũ bỏ. Thần mới là Chân tâm, mới là cái gì vĩnh cửu, cần ôm ấp, chắt chiu. Đạo Lão nói: Tâm tử, thần hoạt. [Hồn chết đi, cho thần hoạt động]. Á Đông cho rằng Thần mình và Thần trời đất là một, cho nên quả quyết là Trời ở trong ta.
Đạo Công giáo không nhận con người có Thần, nên chỉ lo cứu hồn. Công giáo không biết Hồn là cái gì biến thiên, nên chuyên lo cứu Hồn. Mà không biết rằng chỉ có thần là bất biến, cần ôm ấp nó.
Bà La Môn dạy TAT TVAM ASI [Con là Cái đó]. Mà cái đó là Brahman, là Tối thượng thần.
Toàn bộ UpanIsahads dạy con người trở thành Brahman. Manduka UpanIsahad 3. 2. 9 viết: "Ai biết Brahman sẽ trở thành Brahman." Và Anquetil Duperron cho rằng câu này toát lược toàn bộ UpanIsahads :Ai mà hiểu Brahman, sẽ trở thành Brahman. [69]
Chúa phán : I am who I am, Ta là bản thể [Ex. 3:13-15]. Xưa nay không ai hiểu là Chúa nói gì, nay tôi hiểu là Chúa muốn nói Ta là Bản Thể. Mà đâu có bản thể, thì đấy có hiện tượng. Mà bản thể thì bất biến, còn hiện tượng thì biến thiên. Cái gì biến thiên nơi ta, thì là hiện tượng. Cái gì bất biến nơi ta, thì đó là bản thể, là Thượng đế. Suy rõ như vậy, ta sẽ thấy trong ta có Thượng đế, và ta có thể tìm thấy Ngài trong ta.
John of the Cross nói: Trung điểm tâm hồn ta là Thượng đế.[70] Sau khi Adong ăn trái cấm, Chúa Elohim phán: Này người đã nên như một vị trong chúng ta để biết được tốt xấu. [Gen. 3, 22]. Chính Chúa Elohim đã nói con người đã nên bằng Thiên Chúa. Thì sau này ta nói ta có thể nên bằng Thiên Chúa, có gì là phạm thượng đâu. Công giáo cho rằng ai dám xưng mình bằng Thượng đế là phạm thượng đáng sa hỏa ngục đời đời, và đó cũng là tội của Lucifer.
Định nghĩa Chúa là Bản Thể con người cũng chứng minh được rằng Chúa ở khắp mọi nơi, và nếu Ngài là Bản thể chúng ta thì chúng ta cũng có cơ tiến hóa tới Ngài. Học thuyết này Âu châu gọi là PantheIsam. Bà Blavatsky cho rằng Thượng đế tiềm ẩn trong lòng vạn hữu, trong lòng mỗi nguyên tử của thế giới vô hình và hữu tướng. [71].
Giám mục John Robinson, tác giả quyển Honest to God, cho rằng không thể định nghĩa là Chúa ở trên Trời, mà phải nói như Tillich rằng Chúa ở trong tầng sâu con người. [ 72]
Bảy Cái Nhìn Về Thượng đế Khảo sách vở, ta thấy xưa nay nhân loại nhận định về Thượng đế bằng bảy cách như sau:
1- Thần Luận [Théisme].
Phái này tin Thượng đế hữu ngã, can thiệp vào chuyện đời.
2- Độc Thần [Monothéisme].
Do Thái, Hồi giáo hoàn toàn Độc Thần. Công giáo thì là Độc thần nhưng là Tam Vị Nhất Thể [Trinity]. Độc Thần tin rằng Chúa đã dựng nên muôn loài, hoàn toàn ở bên ngoài vạn hữu, Ngài ở trên trời, nhưng luôn can thiệp vào truyện hồng trần. [73] Trên đây đã cho thấy quan niệm Chúa là một thực thể riêng biệt đã bị nhiều người như Giám Mục John Robinson, hay nhà thần học Tillich cho là những quan niệm lỗi thời, cần phái định nghĩa lại.
3- Đa Thần [Polythéisme] như Ấn Giáo.
Tuy nhiên Ấn giáo cho rằng thần nào cũng chỉ là một khía cạnh, một phương diện của vị Tối Thượng Thần.
4- Hữu Thần [Déisme].
Môn phái này thuộc thế kỷ 18. Tin có Thượng đế, nhưng từ khi Thượng đế tạo nên vũ trụ thì không còn dây vào truyện đời. Lord Herbert Cherbury [1383-1648] là cha đẻ ra môn phái này. Nhiều danh nhân thế kỷ XVIII như Voltaire, hay Benjamin Flanklin, Georges Washington, v.v... cũng theo môn phái này.
5- Phiếm Thần [Panthéisme],
coi Thượng đế này là chính vũ trụ, hay nói đúng hơn, Thượng đế là đại ngã, là chân tâm vũ trụ. [74] Tillich đã gọi Thượng đế là căn cơ, gốc gác muôn loài [The ground of all beings, A depth at the Center of Life]. Phiếm Thần không bao giờ coi Thượng đế là vũ trụ hình danh, sắc tướng bên ngoài [Natura Naturata] mà chỉ coi Ngài là chân tâm vũ trụ [Natura Naturans]. Tại sao? Vì vũ trụ hình danh sắc tướng bên ngoài là cái gì biến thiên, còn chân tâm mới là cái gì vĩnh cửu, bất biến.
Phiếm thần dạy chúng ta muốn tìm Thượng đế phải tìm Ngài trong thâm tâm ta, vì Ngài chính là bản thể ta. Chúng ta là hình hiện của Ngài.[75] Các môn phái triết gia danh tiếng như phái Khắc Kỷ [Stoic] gồm các triết gia như Zenon, Senèque, Marc-Aurèle, Epictète, như Platon và môn phái Néo-platoniciens, như Spinoza, như Giordino Bruno, như Eckhart, như các tôn giáo Á châu: Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Cao Đài đều theo.
Phiếm Thần, hay nói cách khác, bất kỳ ai theo học thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể đều theo thuyết Phiếm Thần. [76] Vì Phật giáo chủ trương Bản Thể là Vũ Trụ, vũ trụ là bản thể nên Phật giáo cũng đứng trong hàng ngũ phiếm thần.[77] Các thánh hiền Đông Tây, các nhà huyền học [Mystics] đông tây như môn phái Kaballah Do Thái Giáo, như SufIsam Hồi giáo, như Tam Điểm [Free-masonry], như mật tông HermetIsam, như Alchemy, như các nhà huyền học Công giáo, như Ấn giáo, Khống, Lão, Phật, Cao Đài v. v... tất cả đều phiếm thần.
Tôi cũng long trọng tuyên xưng tôi chủ trương phiếm thần 30, 40 năm nay rồi.
- Vì tin Thượng đế là bản thể tôi, nên tôi mới có thể ngửng đầu lên nhìn được mọi người, nên tôi mới thấy con người tôi rất là giá trị.
- Vì tin Thượng đế là bản thể tôi, nên tôi mới mong có thể tu luyện thành thánh, hiền, tiên, phật..
- Vì tin Thượng đế là bản thể tôi, nên tôi và chúng sinh là một. Tôi và chúng sinh khác nhau, là vì những lớp áo vỏ bên ngoài, là vì trình độ hiểu biết khác nhau, vì tâm tư khác nhau mà thôi.
- Vì tin Thượng đế là bản thể muôn loài, nên tôi thấu hiểu Ngài thông minh ra sao, quyền phép ra sao, và ở khắp nơi ra sao.
- Vì tin Thượng đế là bản thể muôn loài, nên tôi thấy muôn loài đều phải nỗ lực tiến về Ngài. Nhưng muốn tiến được về với Ngài, không thể nào thực hiện được trong một đời, một kiếp, nên tôi tin có luân hồi.
- Vì tin Thượng đế là bản thể muôn loài, nên tôi rất trọng ngọn đèn lương tâm mà Trời đặt trong tôi và mỗi người chúng ta. Lương tâm chính là Bản Thể chúng ta, chính là Phật tính của chúng ta. Tôi rất sung sướng là đã tìm ra được định nghĩa chân chính về Thượng đế, và đã biết Ngài là bản thể con người tôi và chúng sinh, chứ không phải là một nhân vật sống ngoời vũ trụ như Công giáo thường định nghĩa, và coi Ngài như là một đấng ở trên Trời.
Carl Jung nói quan điểm Thượng đế hữu Ngã là quan điểm của Á châu. Quan điểm Thượng đế vô ngã mới là quan điểm phổ quát [Universal archetype] Lão tử viết: Phù vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết tĩnh, phục mệnh viết trường [Đạo Đức Kinh, ch. XVI].
Mà tôi dịch là:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh.
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
Vì thế mà các Đạo Giáo Á Đông dạy ta phải "qui căn phản bản", hay "qui nguyên, phục thủy."
Bà La Môn dạy ta tiến:
Từ Hư Vọng tới Chân Thực,
Từ Tối Tăm đến Ánh Sáng.
Từ Tử Vong đến Bất Tử. [Brih. 1.3. 28] [78].
Đạo Phật dạy bốn chữ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Tiến tới Thường Hằng, Hạnh Phúc, Đại Ngã, Thanh Tịnh. Đạo Nho dạy Khử Nhân Dục [vọng tâm], tồn Thiên Lý [chân tâm], và hễ Nhân dục thắng, thì Thiên Lý vong. Và phải giữ sao cho lòng được Quang, Minh, Chính, Đại. Thật là hết sức đẹp đẽ. Như vậy, Giác ngộ chính là tìm ra được chân tâm, chân ngã, khuất lấp sau các bức màn vô minh và hiện tượng.
Xưa tôi cứ tưởng là mỗi người giác ngộ một cách, và khi đọc các Thiền Sư, thấy nói ông này giác ngộ, ông kia giác ngộ, mà không mấy khi nói giác ngộ thấy gì. Nhưng càng ngày càng thấy Giác Ngộ chỉ là Kiến Tính thành Phật mà thôi. Giác Ngộ là ấn chứng của Trời đất, cho biết mình đã được tuyển lựa để đi vào con đường hiền thánh. Tuy nhiên không phải là đi ngay được đến chổ tuyệt luân tuyệt đích.
Dịch Kinh cho thấy từ Giác Ngộ đến lúc thành đạo, có 7 giai đoạn:
- PHỤC [Địa Lôi Phục], thấy được rằng trong mình có tính trời.
- LÂM [Địa Trạch Lâm], đem được con người về với Trời, đến với Trời.
- THÁI [Địa Thiên Thái], biết rằng trời lồng trong tâm khảm mình, thấy mình được Thân Tâm an lạc, tìm ra được thế quân bình giữa tinh thần và vật chất.
- Đại TRÁNG [Lôi Thiên Đại Tráng], thấy mình tinh thần hết sức mạnh mẽ, vì luôn hoạt động theo đúng đường Trời.
- QUẢI [Trạch Thiên Quải] rũ sạch mọi tàn tích vật chất còn vương vấn nơi thân.
- KIỀN trở thành thuần dương, nên như ảnh tượng Trời.
- THÁI CỰC, thoát vòng Luân Hồi, vào được trung điểm con người, trung điểm vũ trụ và vòng Dịch.
Nói thế nghĩa là lúc nào cũng phải lo thanh tẩy tâm hồn, đi đến chỗ thanh hư, trong sáng.
Tóm lại, vũ trụ hữu hình này đã do một chân tâm, một trung tâm vô hình sinh xuất ra. Tâm điểm là nguồn sinh hóa, vĩnh cửu, trường tồn. Các vòng bên ngoài là hiện tượng biến thiên. Tâm điểm là tinh hoa, cốt tủy, các vòng tròn bên ngoài có nhiệm vụ làm bao bì, làm xác, làm vỏ che chở bên ngoài. Nói theo triết học, bản thể vô biên tế ấy đã phóng phát tán phân thành vũ trụ. Thế tức là vũ trụ này đã hình hiện lên từ một Bản Thể, từ một Tâm Điểm có một nguồn năng lực vô cùng. Tất cả đều như một cây pháo bông muôn màu, tung tỏa miên trường, vĩnh cửu.
Tôi thấy rằng giữa Bản Thể vô biên và quần sinh vũ trụ, có một cái gì liên tục, cũng như giữa sinh linh với sinh linh, có một cái gì gắn bó, tất cả đều liên lạc với nhau, tất cả đều hỗ tương ảnh hưởng đến nhau, tất cả đều cùng hội, cùng thuyền, y thức như người xưa đã nói: Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức Nhất: Một là tất cả, tất cả là Một, để tạo nên một Đại Thể huy hoàng, toàn bích.
6- Vô Thần [Athéisme].
Vô Thần là không tin rằng vũ trụ này được cai trị bằng một vị thượng thần có cá tính riêng biệt, theo kiểu Công giáo. Thời xưa có người vô thần như Lucrèce, nay có những người như Holbach, La Mettrie, Charles Bradlaught, Karl Marx v.v... 47 Nhiều người cho rằng Phiếm Thần cũng là vô thần, vì không tin vào một Thượng đế hữu ngã. Nhưng như trên đã nói Phiếm Thần không phải là vô thần. Như vậy xưa nay, có ba cách chính để nhận định Thượng đế:
a. Độc Thần cho rằng có một Thượng đế, hữu ngã, ngoại tại, ở trên các tầng trời, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, quyền uy vô hạn.
b. Vô Thần cho rằng không có vị Thượng Thần hữu ngã như vậy trong trời đất này. Vô Thần thật ra không phải xấu như ta tưởng. Họ yêu mến tha nhân, họ tin rằng thiên đàng chính là do mình tạo ra, họ không tin vào kinh nguyện mà tin vào chính mình, và sức mạnh của mình để đương đầu với cuộc sống. Họ cho rằng phải biết mình, biết người, mới có thể sống một cuộc đời viên mãn. Họ tìm học về các đạo giáo, nhưng đề cao lý trí. Ngày nay những người vô thần có những đoàn thể, và đã sọan ra nhiều sách vở. Họ đọc Kinh Thánh rất kỹ và đã bới ra không biết là bao nhiêu điều sai lầm như họ đã trình bày trong quyển The Bible Handbook. [revised edition của W. P. Ball, G.F. Foote, John Bowden, Richard Smith and others, American Atheist Press, Austin Texas, 1986. [79] Tiếc là Vô thần lại là Duy Vật.
c. Phiếm Thần cho rằng không làm gì có vị thượng thần hữu ngã như vậy, trong Trời đất này. Mà vị thượng thần mà ta mường tưởng ra đó, chính là bản thể muôn loài. Bản thể đó đã tiềm ẩn sẵn trong lòng chúng ta. Chúng ta khỏi phải tìm Ngài đâu xa, vì từ muôn thủơ, Ngài đã ở sẵn trong ta. Ta rờ vào đâu cũng thấy Ngài [Xúc loại thị đạo], có như vậy ta mới tìm về với Ngài được.
Như vậy, Độc Thần chẳng qua cũng là một thứ Vô Thần mà thôi, vì đưa ra một cái gì không có, thì cũng như là không vậy, và đã làm cản bước tiến của nhân loại mà thôi.
7- Bất khả tri [Agnosticisme].
Nhóm triết gia này chủ trương không sao biết được tuyệt đối, biết được vô cùng. Và khoa Thần học không có cứ điểm vững chắc. T. H. Huxley đã lập ra danh từ này. Huxley cho rằng ngoài hiện tượng, con người không biết được gì hơn. [80]
So sánh Độc Thần và Phiếm Thần Như Giám Mục Robinson đã viết, định nghĩa về Thượng đế của Công giáo ngày nay đã lỗi thời. Cho rằng Thượng đế ở trên Trời, Chúa lên trời, hay xuống đất [Joh 3:13, Joh 6:61, Eph 4:9f], là những danh từ nay đã lỗi thời. Hơn thế nữa, coi Thượng đế như là một nhân vật siêu việt và riêng biệt cũng không đúng. [81]
Giáo Hoàng John Paul II cũng vẫn coi Thượng đế là vị thần sống ngoài vũ trụ. Ngài viết : "Tuy nhiên, tiến trình quay lưng lại với Thiên Chúa của các Giáo Phụ...không hàm chứa 1 cuộc đoạn giao với một Thiên Chúa, Đấng hiện hữu bên ngoài thế giới...Thiên Chúa này. tuy nhiên, vẫn là một Thiên Chúa bên ngoài thế giới." [82]
Nhà thần học Tillich nói nay phải gọi Thượng đế là cái gì sâu xa nhất, là bản thể chúng ta. [83] Ông viết: Tên gọi Căn cơ sâu thẳm của muôn loài được gọi là Thượng đế. Danh từ Thượng đế chính là để chỉ chiều kích sâu thẳm đó. Nếu danh từ ấy chưa có Ý nghĩa gì đối với bạn, bạn hãy chuyển dịch danh từ đó thành chiều kích sâu thẳm của cuộc đời bạn, thành nguồn gốc Bản Thể bạn, điều quan thiết tối hậu của bạn, và là điều mà bạn chú trọng nhất. Có lẽ để làm được như vậy, bạn phải quên đi những gì mà truyền thống đã dạy bạn về Thượng đế, phải quên đi ngay cả danh từ Thượng đế. Vì nếu bạn hiểu được rằng Thượng đế là chiều kích sâu xa của cuộc đời bạn, bạn đã hiểu được rất nhiều về Thượng đế. Hiểu Thượng đế như vậy, không thể rằng là bạn vô thần hay vô tín ngưỡng. Vì bạn không thể nghĩ hay nói được rằng: Sự sống không có chiều sâu, sự sống chỉ là nông cạn, hời hợt, bản thể chỉ là phiến diện. Nếu bạn thực tình đã thốt ra những câu như trên, thì bạn là kẻ vô thần, bằng không thì bạn đâu phải vô thần. Ai hiểu biết được chiều sâu, tức là hiểu biết Thiên Chúa.[84]
Tôi cảm ơn Giám Mục Robinson và Tillich vì đã cho biết ngày nay chúng ta không thể còn tin được rằng Thượng đế là một đấng sống riêng rẽ và tách biệt mọi vật.
Như vậy theo tôi, từ ngót 2000 năm nay, Công giáo đã coi Thượng đế như là một nhân vật sống tách rời vũ trụ là một điều hết sức sai lạc. Cần sửa lại là Thượng đế là Bản Thể chúng ta, là Chiều sâu con người chúng ta. Hơn nữa, Công giáo luôn tuyên xưng Thượng đế là Tình yêu, nhưng đọc kỹ Thánh Kinh nhất là các sách Tiên Tri, tôi thấy Chúa quả là không có tình yêu. Ngài là đấng luôn nổi cơn thịnh nộ, lôi đình. Đọc Thánh Kinh cũ ta thấy Ngài đã ra tay huỷ diệt không biết cơ man nào là người, như trong trận Hồng Thủy. Và Ngài chỉ coi dân Do Thái là dân riêng, còn các dân khác như Ai Cập, như Ba tư, như Babylon, như Assyrie đều là những dân ngoại, cần hành hạ, giết lát thẳng thừng. Không bao giờ thấy Ngài nhìn xa ra tới các nước phương Đông, hay châu Phi, châu Mỹ.
Thánh Kinh mô tả Chúa rất tường tận: Ngài có chân để đi [Ge 3:8], tay [Ex 33:23], mặt mũi [Ex 33:23], có tim [Ge 6:6], Ngài biết buồn giận, hờn ghen [De 5:9], biết phàn nàn, hối hận [Ge 6:7], nhất là hay nổi trận lôi đình [De 29:28]. Ngài thích ngửi mùi thịt nướng, nó làm cho lòng Ngài dịu lại [Nu 18:17, Ge 8:21, Ex 29:18, 25, Le 1:9, 13, Nu 28:1 v.v...]. Hơn thế nữa, Ngài còn xuống vật lộn với Jacob và đã điểm huyệt Jacob vào thần kinh tọa [Ge 32:25-33]. Tóm lại Ngài còn đầy thất tình lục dục, còn phàm tâm, phàm ngã chứ không siêu thoát như thánh hiền Đông Á. Không thể nói đây chỉ là những kiểu nói phàm trần, chứ Chúa không phải vậy. Á Đông có câu: Quân vô hí ngôn là vua không nói chơi. Chính vì vậy mà tôi chủ trương Kinh Thánh không phải là chính lời Chúa, vì Chúa không thể tầm thường như vậy. Nói vậy, thì niềm tin vào một Thượng đế hữu ngã, ngoại tại, như đã mô tả trong Thánh Kinh là hoàn toàn sai hay sao? Tôi dám nghĩ vậy. Ta nghĩ xem nếu mà Thượng đế đầy sân hận như vậy thì làm sao xứng đáng với danh hiệu Ngài.
Ngoài ra, Ngài phàn nàn vì đã sinh ra con người [Ge 6:7]. Như vậy thì Ngài vẫn còn ở trong vòng biến thiên, chưa vào được hằng cửu, bất biến. Mô tả Ngài thích mùi thịt nướng, thì thực quá đáng. Nhiều khi Ngài xưng mình chỉ là một thần giữa chúng thần [De 15:11, 10:17], chứ không xưng mình là độc tôn như trong Isaiah... Từ khi Chúa Giêsu ra đời, thì Đức Chúa Cha y như là đã hồi hưu, vì bao quyền lực của Ngài dần dần sang tay Chúa Giêsu hết, và Ngài được mô tả như đấng từ nhân hơn, tuy nhiên Đạo Công giáo đã thay thế Chúa mà giết lát, đọa đày, trước hết là những người Do Thái trong gần suốt 20 49 thế kỷ qua, sau đó là đánh phá các giáo phái như Albigenes và Waldenses miền Nam nưởc Pháp vào thế kỷ 12, hoặc Tin Lành [1562-1594], hoặc Hồi giáo từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, sau cùng là ngay chính con chiên mình như trong suốt sáu thế kỷ mà các toà Hình án đã hoành hành [1248-1834], và Chúa Giêsu cũng được mô tả như là một Chúa chuyên oán phạt.[85] Tôi sợ nhất câu: Trông quả biết cây của St. Matthew [Mt 12:33]. Tại sao Công giáo luôn vỗ ngực xưng mình là thánh thiện, mà lại có thể thiêu sinh được nhiều bổn đạo mình như vậy? Nguyên Torquemada đã cho lên giàn hỏa 20.000 ngàn người, trong vòng 15 năm [1483-1498] ông chấp chưởng tòa Hình án Tây ban Nha.
Tôi còn liên tưởng đến vụ ám sát tập thể người Tin Lành vào đêm lễ thánh Bartholomew, ngày 24/08/1572, xảy ra tại Pháp và kéo dài hai tháng. Tất cả những người Tin lành bị giết trong kỳ đó là 30,000 người. Nam, phụ, lão, ấu đếu bị giết, không tha một ai. Tin này được tòa thánh La Mã đón tiếp một cách hân hoan. Giáo hội đã hát kinh Te Deum để ngượi khen Thiên Chúa. Lại cho bắn súng thần công, đốt pháo bông và cho đúc tiền kỷ niệm. Tại Vatican bây giờ còn hai bức họa của Vasari kỷ niệm vụ này.[86]
Đi lùi về dĩ vãng vào khoảng năm 1200, ta còn có vụ tận diệt những người theo giáo phái Albigenes hay Cathares thuộc vùng Languedoc [miền Nam Pháp]. Năm 1209, có khoảng 30,000 quân từ Bắc âu làm một cuộc thánh chiến xuống vùng Languedoc, theo lệnh Giáo Hoàng Innocent III. Họ tàn phá mùa màng, tàn phá mọi sự, giết sạch nam, phụ, lão, ấu người dân Albigenes. Khi hỏi biết ai là kẻ rối đạo để mà giết, thì đại diện Giáo Hoàng trả lời: Cứ giết sạch tuốt, Chúa sẽ phân biệt lành dữ [Kill them all, God will recognize his own]. Đại diện trên còn tâu về Giáo Hoàng:" Không tha ai, bất phân tuổi tác, nam nữ, nghề nghiệp." ["Neither age nor sex nor status was spared."] Các thành phố Beziers, Perpignan, Carcassone, Toulouse, Montségur lần lượt thất thủ. Montségur thất thủ ngày 01/03/1244 sau nhiều tháng bị vây.
Thánh chiến này kéo dài gần 40 năm. Những người dự thành chiến được Tòa Thánh tha tội, tha vạ, hứa cho lên thiên đàng, và được chia cho những của cải mà họ chiếm được.
Năm 1229, tòa Hình Án được lập ra ở Languedoc để tiễu trừ các người rối đạo. Nay vùng Languedoc cũng còn có người theo giáo phái Neo-Cathare, và hằng năm họ tổ chức hành hương Montségur, thành phố bị thất thủ sau cùng cúa người Albigenes.
Chúa Giêsu không bao giờ chủ trương giết người để truyền đạo. Trong Lu 9:56, Chúa có nói: Con người đến không phải để hủy diệt mạng người ta, mà là để cứu chúng [Kinh Thánh, Nguyễn thế Thuấn, tr. 149]. Nhưng Giáo hội không nghĩ vậy. Hãy xem họ đã mừng rỡ thế nào khi nghe thấy Tin Lành bị tàn sát như trên.
Rồi dần dần Giáo hội cũng làm cho Chúa Giêsu trở nên tàn ác . Ngài lúc nào cũng chờ đón mọi người với Hỏa Ngục vô cùng của Ngài. Thật là khủng khiếp. Như vậy Đức Chúa Cha, và Chúa Giêsu với Giáo hội đều tàn ác như nhau. Giáo hội cho rằng có như vậy, Chúa mới công bằng vô cùng. Nhưng khi Công giáo kêu gọi mọi người thì luôn nói Chúa là Tình Yêu.
Và tôi mới thấy Phiếm Thần thật là cao siêu. Trước hết định nghĩa ngay rằng Thượng đế là Bản Thể muôn loài, và là một Thượng đế vô ngã, không ngôi vị. Vũ trụ và Thượng đế 50 như trên đã nói, không hề rời xa nhau. Một bên là Hiện Tượng, một bên là Bản thể. Và dẫu một người dù tội lỗi đến đâu, thì Bản Thể của hắn cũng vẫn tinh ròng băng tuyết như ai, không hề có bợn nhơ tì vết.
Tôi ước mơ, khi chết, được trở về với Bản Thể đó, như muôn sông nghìn suối khi ra tới bể khơi, thì cũng trở thành bể khơi...Tôi nhìn thấy mọi sự đời biến thiên, luân chuyển cốt là cho mọi người chúng ta nhìn thấy được cái căn cơ bất biến và toàn hảo bên trong đó của chúng ta mà thôi.
Tôi thấy Phiếm Thần không dọa dẫm ai, chỉ cho thấy mọi người chung qui cũng trở về cùng nguồn mạch cũ. Không thấy địa ngục luôn luôn mở ra để chờ đón con người. Không thấy tội lệ ngăn cản bước đường tiến hóa con người, mà chỉ thấy lời mời gọi "ung dung tiến bước." Tôi chưa thấy Phiếm thần thiêu đốt ai... Chính vì vậy mà tôi theo Phiếm Thần, sau khi đã nhìn thấy những lỗi lầm, những sai trái của thuyết Độc Thần.
Tillich mô tả Thượng đế là chiều sâu con người, là mô tả Thượng đế theo từ ngữ phiếm thần. Công giáo không có tư tưởng này, tuy tư tưởng rất đúng và hợp thời.
Tập san Le Lotus Bleu viết: Thượng đế ngoại tại phải biến đi, để Thượng đế nội tại trò chuyện với tâm hồn con người. [87] Báo này còn viết: Học thuyết của Thông Thiên là con người, hay nhân loại là Thượng đế đang biến hóa...Thượng đế đó vô tri cho đến khi con người thức tỉnh. Con người lúc đó là Thượng đế thức tỉnh. [88]
Phiếm Thần chung qui giúp con người thực hiện Thiên Tính của mình. Cái đạo mà nhiều người đã tìm ra, theo thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể là đạo Huyền đồng [Mysticism]
Thế nào là Đạo Huyền Đồng? Thưa là đạo của những người tin rằng trong lòng mình có Trời, và cố gắng tu luyện để sống cuộc đời phối kết với Trời. Đạo này có từ vạn thủa, và các thánh hiền mọi nơi, mọi đời dù theo tôn giáo nào cũng đi theo một đường lối như nhau: Đó là sống một cuộc đời tinh khiết, định thần phát huệ, đi vào cảnh giới Hư Vô, sống cuộc sống Phối Thiên. Bất kể họ theo Bà la môn hay phái Tân Platon [Neo- Platonism], Kaballah, hay Sufism, hay Thiền Tông Phật giáo, hay Khổng, Lão, hay các nhà huyền học Công giáo, tất cả đều tỏa ra một sự ấm áp tâm linh, một nguồn vui rạt rào, và thấy mình hợp nhất với lẽ Một [Một là Tất cả, Tất cả là Một].
Các đạo giáo Âu châu, Á châu không thiếu gì người đã đi và con đường này như Denys l'Aréopagite, như Scot Erigen, như St. Bernard, như Thomas à Kempis, như Ste. Thérèse, St. Jean de la Croix, Francois de Sales, Maitre Eckhart, Suso de Constance, Tauler de Strasbourg, Van Ruysbroeck, Swedenborg và những đoàn thể như Les Fraticelles, les Beghards, les Frères du Libre Esprit, les Anabaptistes, les Quakers v. v...Có người cho rắng Đạo Huyền Đồng sẽ là đạo giáo tương lai. Và tôi cũng nghĩ vậy.[89] -Denys l'Areopagite là nhà huyền học sống vào khoảng thế kỷ V. Tư tưởng như môn phái Tân Platon [Neo-platonicien].
-Scot Erigène [v. 815-877?] chủ trương Thượng đế và vũ trụ là một. Vũ trụ này là sự hình hiện của Thượng đế, là sự hiện thân của Thượng đế. Vạn vật sinh xuất từ Thượng đế rồi lại trở về với Ngài. Đó cũng chính là tư tưởng của môn phái Tân Platon và Á Đông.[89b]
-Fraticelles là nhóm dòng Franciscain tách khỏi dòng chính vào thế kỷ XIII, vì chủ trương khó nghèo và tin Chúa tái lâm v.v...Nhóm Beghards là những nhóm Công giáo vùng Nam Đức và Pháp cũng chủ trương nghèo khó và không theo các Lề luật.
- Nhóm Frères du Libre Esprit là nhóm huyền học chủ trương phiếm thần thế kỷ XIII. Thành viên của nhóm này còn gọi là Amauriciens vì theo lý thuyết của Amaury de Bène. Nhiều người trong nhóm này đã bị lên giàn hỏa. Họ không tin là các phép bí tích có giá trị, và phải thờ Chúa một cách tự do phóng khoáng. Eckhart cũng thuộc nhóm này, và may là ông chết trước, nếu không cũng bị lên giàn hỏa.
Cao Đài nay cũng chủ trương:
- Thượng đế là cha chung nhân loại.
- Chân linh Thượng đế có trong tất cả chúng sinh.
- Tất cả chúng sinh bị chi phối bởi định luật nhân quả.
- Chúng sinh phải lo tu hành để trở về cõi tâm hư, tìm thấy Thượng đế trong lòng mình và sau này trở về nguồn cội của mình hội hợp cùng Thượng đế. Thế tức là Cao Đài cũng chủ trương thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Nhất thể tán vạn thù, và vạn thù qui nhất thể. [90]
Thật đúng là Tiên Thánh hậu thánh kỹ quĩ nhất dã. Thánh trước thánh sau đều cũng một đường lối.[90a]
GHI CHÚ
69- In the title to his Latin translation, 'Oupnekhat' Anquetil Duperron set this sentence evidently as the summary of the contents of the Upanishads: 'Quisquis Deum intelligit, Deus fit,' 'Whoever knows God, becomes God.' Robert Ernest Hume - The thirteen principal Upanishads, Delhi Oxford University Press, Bombay, Calcutta, Madras, 1887, p. 337.
70- The center of the soul is God. F.C. Happold - Mysticism, Penguin Books, 1963, p. 362.
71- Notre Divinité, dit-elle, est partout en chaque atome du visible et invisible Cosmos...car il est le mystérieux pouvoir d'évolution et d'involution, omniprésent, omnipotent toujours en potentialité créatrice. Clé de la théosophie, Section V, pp. 61-81.- Le Lotus Bleu 12/1967, p. 316.
72- John A. T. Robinson - Honest to God, The Westmninster press, Philadelphia, 1963, Up there or out there? pp. 11-28. But we think of him nevertheless as defined and marked off fRom. other beings as if he did. And this is what is decisive. He is thought of as a Being whose separate existence over and above the sum of things has to be demonstrated and established...Ib. p. 31. Those who, in the famous words of Laplace to Napoleon, 'find no need of this hypothesis' attack it in the name of what they call the 'naturalist' position. The most influential exponent of this position in England today, Professor Julian Huxley, expressly contrasts 'dualistic supernaturalism' with 'unitary naturalism'. The existence of God as a separate entity can, he says, be dismissed as superfluous, for the world may be explained just as adequately without position such a Being. Ib. p. 31. For, to the ordinary way of thinking, to believe in God means to be convinced of the existence of such a supreme and separate Being, 'Theists' are those who believes that such a Being exists, 'atheists' those who deny that he does. Ib. p.17. And Julian Huxley cannot be blamed for seeing 'humanity in general, and religious humanity in particular', as habituated to thinking of God 'mainly in terms of an external, personal, supernatural, spiritual being. Ib. p. 40.
73- The traditional formulation of Christianity, Tillich says, has been in term of what he calls 'Supernaturalism'. According to this way of thinking, which is what we have been brought up to, God is posited as 'the highest Being' - out there, above and beyond this world, existing in his own right alongside and over against his creation.
74- The 'naturalistic' view of the world identifies God, not indeed with the totality of things, the universe, per se, but with what gives the meaning and direction to nature. In Tillich's words, the phrase Deus sive Natura, used by people like Scotus Erigena and Spinoza, does not say that God is identical with nature but that he is identical with the 98 natura naturans, the creative nature, the creative ground of all objects. John A. T. Robinson - Honest to God, p. 31. Ib. p. 40. Tillich was saying, is not a projection 'out there', an Other beyond the skies, of whose existence we have to convinced ourselves, but the Ground of our very being. The name of this infinite and inexaustible depth and ground of all being is God. This depth is what the word God means...He who know about depth knows about God. Ib. p. 22.
75. Le Panthéisme identifie Dieu avec la Totalité de l'Univers. Le mot vient du Grec "pan" qui veut dire "Tout", c'est donc la Divinité en toutre chose. Selon les paroles de Mme Blavatsky, "le Panthéisme était connu de toute l'antiquité. Il se manifeste dans la vaste étendue des cieux étoilés, dans le souffle des océans et dans le frisson de la vie qui anime le plus petit brin d'herbe. La philosophie ne saurait imaginer un univers en dehors de la Divinité, ou l'absence de cette Divinité dans le plus mince fragment de substance animée ou inanimée." La doctrine de Panthéisme qui s'appuie sur l'idée de l'immanence du Principe Divin dans la Nature, était enseignée dans les temples initiatiques de l'antiquité, en Egypte et en Grèce et on la trouve exprimée dans la littérature sacrée de l'Inde, les Upanishads et la Bhagavad Gita. Les Stoiciens proclamaient un enseignement panthéiste, considérant la Nature comme une manifestation du mental divin. Une Divinité mythologique, Pan, qui fut originairement de Dieu des bergers, des paturages, des bois, donc un génie de la nature, devint pour ces philosophes le Dieu même du Panthéisme. Le système stoicien, fondé par Zénon, a trouvé sa pleine expression avec les philosophes Romains Sénèque, épictète et Marc-Aurèle. Les Néo-Platoniciens se rapprochaient également des idées panthéistes. Mais cette philosophie ne tarda pas à trouver en désaccord avec l'église et son Dieu extra-cosmique. Dans l'histoire de la pensée panthéiste, une place particulière revient à la grande figure de Giordino Bruno, ce disciple de Pythagore qui, au cours de son existence mouvementée, n'a cessé de proclamer que Dieu doit être cherché dans la Nature et non en dehors d'elle... L'enseignement théosophique est essentiellement panthéiste. Il s'expime notamment dans une lettres des Maitre [Mahatma letters to A. P. Sinnett], la dixième qui contient une répudiation énergique du Dieu des religions exotériques et la pleine adhésion au système panthéiste. L'adepte y approuve la pensée de Spinoza, qui enseignait qu'il n'y a qu'une substance laquelle est divine, car c'est la Vie-Une qui pénètre toute forme animée ou inanimée, c'est la vie divine qui est l'essence de chaque atome qui est la nature, le movement et la qualité particulière de chaque être vivant, de chaque objet matériel. Hermine Sabety - Athéisme, monothéisme, panthéisme, Le Lotus Bleu, 02/1967, pp. 235- 236. Le Dieu extérieur doit disaparaitre afin que le Dieu intérieur puisse parler à l'âme. Ib. p. 237.
76- Robert Ernest Hume - The thirteen principal Upanishads, pp. 300-301: 399, 403:423.
77- Tưởng duy Kiều - Đại cương triết học Phật giáo, tr. 36.
78- From the unreal lead me to the real. From darkness lead me to light. From death lead me to immortality. Robert Ernest Hume - The thirteen principal Upanishads, p. 80. 99
79- An Atheist loves his fellow man instead of a God. An Atheist believes that heaven is something for which we should work now, here on earth,of all men together to enjoy. An Atheist believes that he can get no help through prayer, but that he must find in himself the inner conviction and the strength to meet life, to grapple with it, to subdue it, and to enjoy it. An Atheist believes that only in a knowledge of himself and his fellow man can find the understanding that will helf him in a life of fulfillment. He seeks to know himself and his fellow man rather than to know God. William J. Murray - My life without God, 1992, p. 83, 84. American Atheists are organized: 1- To stimulate and promote freedom of thought and inquiry concerning religious beliefs, creeds, dogmas, tenet, ritual and practices, 2- To collect and disseminate information, data, and literature on all religions, and promote a more understanding of them, their origins and their histories... ...American Atheism may be defined as the mental attitude that unreservedly accepts the supremacy of reason and aims at establishing a life-style and ethical outlook verifiable by experience and the scientific method, independent of all arbitrary assumptions of authority of creeds. Materialism declares that the cosmos is devoid of immanent conscious purpose, that it is governed by its own inherent, immutable and impersonal laws, that there is ne supernatural interference in human life, that man -finding his own ressources within himself- can and must create his own destiny. Materialism restores to man his dignity and his intellectual integrity. It teaches that we must prize our life on earth and strive always to improve it. It holds that man is capable of creating a social system based on reason and justice. Materialism's "faith" is in man and man's ability to transform the world culture by his own efforts... W. P. Ball, G. W. Foote, John Bowden, Richard M. Smith and others - The Bible handbook, p. 375.
80- Le mot a été inventé par T.H. Huxley en 1869: Selon ses propres termes, "l'agnosticisme dit simplement que nous ne connaissons rien de ce qui peut exister derrière les phénomènes". E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, p. 7.
81- Xem John A. T. Robinson – Honest to God, chương Reluctant Revolution. Up there or Out There? pp. 11-28. ...We continue to picture God as a Person, who looks down at this world which he has made and loves from 'out there'. We know, of course, that he does not exist in space. But we think of Him as defined and marked off from other beings as if he did, and this is what is decisive. He is thought of as a Being whose separate existence over and above the sum of things has to be demonstrated and established. Ib. p. 30-31.
82- John Paul II - Crossing the threshold of hope, pp 52-53. Nevertheless, the process of turning away from the God of The Fathers...did not bring about the rupture with a God who exist outside of the world... This God however is decidedly a God outside of the world. 100
83- God, Tillich was saying, is not a projection 'out there', an Other beyond the skies, of whose existence we have to convince ourselves, but the Ground of our very being. John A. T. Robinson - Honest to God, p. 22.
84- The name of this infinite and inexhaustible depth and ground of all being is God. That depth is what the word God means. And if that word has not much meaning for you, translate it, and speak of the depth of our life, of the source of our being, of your ultimate concern, of what you have taken seriously without any reservation. Perhaps in order to do so, you must forget everything traditional that you have learned about God, perhaps even that word itself. For you cannot think or say: Life has no depth! Life is shallow. Being itself is surface only. If you could say this in complete seriousness, you would be an atheist, but otherwise you are not. He who knows about depth, knows about God. John A. T. Robinson - Honest to God, pp. 21-22.
85- Throughout history, God and Christ have often been represented as pitiless and inflexible judges. So it is not surprising, as theologian René Laurentin acknowledges, that some Catholics "have contrasted the vindictive justice of Christ with the mercy of his Mother: Jesus wants to condemn, Mary want to save. Awake, 08/11/1988, p. 8.
86- The king of France, urged on by Romish priests and prelates, lent his sanction to the dreaful work. A bell, tolling at dead of night, was the signal for the slaughter. Protestants by thousands, sleeping quietly in their homes, trusting to the plighted honor of their king, were dragged forth without a warning and murdered in cold blood... ...Neither age nor sex was respected. Neither the innocent babe nor the man of gray hairs was spared. Noble and peasant, old and young, mother and child, were cut down together. Throughout France the butchery continued for two months. Seventy thousand of the very flower of the nation perished. When the news of the massacre reached Rome, the exultation among the clergy knew no bounds. The Cardinal of Lorraine rewarded the messenger with a thousand crowns, the cannon of St Angelo thundered forth a joyous salut, and bells rang out from every steeple, bonfires turned night into day, and Gregory XIII, attended by the Cardinals and other ecclesiastical dignitaries, went on in long procession to the church of St Louis where the Cardinal of Lorraine chanted a Te Deum...A medal was struck to commemorate the massacre, and in the Vatican may still be seen three frescoes of Vasari describing the attack upon the admiral, the king in council plotting the massacre, and the massacre itself... Ellen G. White - The Great Controversy between Christ and Satan, p. 311-312.
87- Le Dieu extérieur doit disaparaitre afin que le Dieu intérieur puisse parler à l'âme. Le Lotus Bleu, 02/1967, p. 237.
88- La thèse théosophique est que l'homme, l'humanité est "Dieu en devenir"...Dieu est inconscient jusqu'à ce que l'homme ne s'éveille. L'homme est alors Dieu en éveil. Le Lotus Bleu, 12/1967, p. 316.
89- E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, PUF, 108 Boulevard St Germain, Paris, 1954, nơi chữ Mysticism, pp. 223-224. 101 89b- E. Royston Pike - Dictionnaire des religions, p. 122.
90- Bùi đắc Hùm - Thử tìm một giải pháp, Đại Đạo, số 2, tháng 07/1991, tr. 68. Hội tín hữu Cao Đài Nam California thực hiện.
90a - Mạnh tử - Ly lâu chương cú hạ, tiết 1.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét