Bạn
đọc ắt hẳn sẽ khó chịu với câu hỏi kỳ lạ của tôi vì tin rằng Việt Nam
vẫn là một đất nước độc lập, có chủ quyền, chắc chắn không phải là một
khu tự trị thuộc Trung Quốc. Tuy nhiên, hãy bình tĩnh cùng tôi điểm qua
vài sự việc, rồi mỗi người tự trả lời câu hỏi đó một cách thành thật,
thẳng thắn và nghiêm túc nhứt.
Biểu tình chống lệ thuộc Trung Quốc - Ảnh minh họa
Đảng cộng sản Việt Nam muốn là nô lệ của đảng cộng sản Trung Quốc
Kể
từ năm 1950 cho đến nay, quan hệ Việt – Trung trải qua nhiều thăng trầm
khác nhau : ngọt ngào, cay đắng, thù ghét, xung đột, và cuối cùng là
"16 chữ vàng và 4 tốt".
Có
nhiều dữ liệu về mối quan hệ Việt – Trung được xem là "bí mật quốc gia"
và được các chóp bu hai phía giấu nhẹm. Tuy nhiên, dựa trên những sự
kiện lịch sử, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy sự thần phục gần như là
tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam trước Trung Quốc.
Sự
kiện đánh dấu sự thay đổi từ "đối đầu" sang "quỳ gối cúi đầu" của chóp
bu Việt Nam trước Trung Quốc là cuộc xâm chiếm đảo Gạc Ma – Trường Sa
vào tháng 2/1988 của Trung Quốc.
Ngày
14/3/1988, Trung Quốc bắt đầu xây dựng căn cứ tại Đảo Gạc Ma (Fiery
Cross Reef) và 3 tàu của Hải quân Việt Nam đã đến đây nhằm ngăn cản kế
hoạch của Trung Quốc. Khi phía Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rời khỏi Đảo
Gạc Ma, lực lượng hải quân Trung Quốc đã nổ súng khai chiến. Cuộc chiến
chỉ kéo dài 28 phút, nhưng khiến ít nhất 70 chiến sĩ Việt Nam thiệt mạng
và 3 chiếc tàu bị cháy và hư hỏng nặng.
Ngày
23/3/1988, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đề nghị đàm phán với Trung
Quốc về tranh chấp ở Trường Sa, nhưng Trung Quốc đã từ chối. Ngay sau
đó, chóp bu cộng sản Việt Nam lại tiếp tục đề nghị đàm phán với Trung
Quốc, nhưng lại bị từ chối.
Năm
1989, chóp bu cộng sản Việt Nam quyết định trao trả lại quyền kiểm soát
Cambodia, đổi lấy "bình thường hóa quan hệ quốc tế và xây dựng kinh tế"
với Trung Quốc.
Tháng
9/1990, chóp bu cộng sản Việt Nam có cuộc họp bí mật tại Thành Đô,
Trung Quốc để thảo luận về việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Có
nhiều chi tiết về cuộc hội quan trọng này vẫn chưa được công khai. Tuy
nhiên, nhìn chung, phía Việt Nam đồng ý hợp tác với Trung Quốc và điều
phối các vấn đề ngoại giao của Việt Nam trong tương lai thông qua Bắc
Kinh. Trung Quốc cam kết hỗ trợ kinh tế cho Hà Nội và hai bên nhất trí
thiết lập giao dịch thương mại qua biên giới (1).
Dấu
hiệu sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô từ đầu năm 1990 đã đẩy
Việt Nam sát lại gần Trung Quốc. Tháng 11/1991, Việt – Trung tái thiết
lập quan hệ ngoại giao sau gần một thập kỉ xung đột. Đảng cộng sản cần
sự trợ giúp về kinh tế và chính trị của Trung Quốc để duy trì quyền lực
cai trị tại Việt Nam.
Chúng
ta dễ dàng thấy rằng kể từ sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 bình thường
hóa quan hệ ngoại giao Việt – Trung, thì sự thần phục của nhà nước cộng
sản Việt Nam với Trung Quốc ngày càng rõ rệt và gần như là tuyệt đối.
Các văn kiện bán nước "Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc"
Đọc
và ngẫm các bản tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc năm 2015 và năm
2017 sẽ thấy được kế hoạch "nhượng địa" của bộ chính trị Đảng cộng sản
Việt Nam với Trung Quốc.
Điểm
đáng chú ý trong các Tuyên bố chung này là việc mở cửa biên giới cho
phép người Trung Quốc dễ dàng qua Việt Nam cũng như Việt Nam sẽ tăng
cường sử dụng đồng nhân dân tệ của Trung Quốc trong các giao dịch thương
mại. Hiểu một cách giản dị đó là Trung Quốc được tự do thực hiện những
kế hoạch chiến lược trên toàn lãnh thổ Việt Nam mà không gặp bất kỳ khó
khăn, trở ngại nào.
Trong
cả hai bản tuyên bố chung năm 2015 và năm 2017, Việt – Trung "nhất trí
tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất… giữ gìn hòa bình, ổn
định ở Biển Đông". Trong thực tế, những cam kết này chỉ được áp dụng
đơn phương bởi chính quyền Việt Nam vì cho đến nay Trung Quốc vẫn không
công nhận phán quyết của Tòa án quốc tế về tranh chấp Biển Đông và đơn
phương cấm Việt Nam khai thác dầu mỏ tại vùng biển tranh chấp vốn thuộc
chủ quyền của Việt Nam.
Phẫn
nộ hơn là trong những năm gần đây, hải quân Trung Quốc đã liên tiếp bắn
hoặc đâm chìm tàu cá Việt Nam, khiến nhiều ngư dân phải thiệt mạng
trong sự im lặng đớn hèn của cả quân đội lẫn chính quyền. Nhục nhã nhứt
là khi cả Bộ ngoại giao lẫn Đảng cộng sản ra lệnh cho báo chí đồng thanh
gọi những chiếc tàu mang quốc kỳ Trung Quốc, đâm chìm tàu cá Việt Nam,
là "tàu lạ". Đảng cộng sản tự nhận là chính quyền đại diện dân tộc Việt
Nam, nhưng lại sợ hãi, hèn nhát, chớ dám hé môi phản đối bọn đánh, giết
dân Việt. Cường quyền khốn nạn như thế chắc chắn không xứng đáng để tồn
tại.
Tuyên
bố chung năm 2017 nhấn mạnh việc tăng cường hợp tác và trao đổi Việt –
Trung ở mọi lĩnh vực : kinh tế, nông nghiệp, ngân hàng, cơ sở hạ tầng
giao thông, quốc phòng, giáo dục và văn hóa. Vô số hàng
giả, sản phẩm độc hại cũng như máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm
nghiêm trọng của Trung Quốc được nhập khẩu vào Việt Nam một cách dễ
dàng.
Nguy
hiểm hơn, Việt Nam vẫn tiếp tục gửi các sĩ quan quân đội và cán bộ đảng
viên sang Trung Quốc học tập và huấn luyện chuyên môn. Đội ngũ an ninh
quốc gia của một đảng cầm quyền mà phải qua một đất nước khác để học tập
và nâng cao kỹ năng, thì có lạ lùng và nguy hiểm hay không ? An ninh
quốc gia có thực sự là trách nhiệm của Đảng cộng sản Việt Nam hay đích
thực của Trung Quốc ?
Cuối
tháng 5/2018, Bộ chính trị còn ra lệnh cho Quốc hội bù nhìn – lập pháp
với hơn 95% là đảng viên, phải thông qua dự luật đặc khu, cho thuê 3 vị
trí quan trọng là Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) – Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh
Hòa) – Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) với thời hạn là 99 năm. Vấn đề cần
nhấn mạnh không phải là thời hạn đặc khu bao nhiêu năm, mà là sự bất tín
và bản chất dối trá của đảng cầm quyền. Dự luật là "cho thuê" nhưng nếu
có chuyển sang "nhượng địa" thì làm sao người dân biết được ? Với phụ
thuộc quá rõ ràng của nhà nước Việt Nam vào Trung Quốc, thì chủ tương
lai của cả 3 đặc khu chắc chắn sẽ là những người có gốc rễ Trung Quốc.
Luật đặc khu chắc chắn sẽ thông qua. Rồi Vân Đồn và Bắc Vân Phong sẽ về
tay Trung Quốc bởi vì Tập Cận Bình cần hai địa thế đó để giúp Trung Quốc
đạt được mục tiêu của chiến lược Vành đai & Con đường.
Chiến lược Vành Đai và Con Đường
Chưa hết, quốc hội bù nhìn Việt Nam cũng sắp thông qua dự luật An ninh mạng, với nhiều quy định tương tự Luật An ninh mạng Trung Quốc. Trọng
tâm của Luật An ninh mạng Trung Quốc là kiểm duyệt, bóp nghẹt và kiểm
soát tiếng nói bất đồng chính kiến và trọng tâm đó cũng được nhà nước
Việt Nam "sao y bản chính" cho dự luật An ninh mạng Việt Nam.
Việc
đàn áp và bắt giam liên tục những nhà hoạt động có tiếng nói mạnh mẽ
chống sự bành trướng của Trung Quốc như Mẹ Nấm, Hội Anh Em Dân Chủ... từ
đầu năm 2017 cho đến nay, chứng tỏ được sự thần phục vô điều kiện của
chính quyền Việt Nam trước Trung Quốc.
Có
đất nước nào trên thế giới mà người dân bị chính quyền đàn áp và tống
giam vì dám chống đối và tỏ thái độ không ưa thích Trung Quốc, như người
dân Việt Nam hay không ?
Có
đất nước nào như Việt Nam, mà chính quyền ra lệnh bắt bớ, đánh đập, bịt
miệng người dân vì biểu tình phản đối lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình
hay không ?
Có
đất nước nào trên thế giới mà người dân đi đến đâu cũng thấy "rõ như
ban ngày" sự lệ thuộc quá đáng của chính quyền vào Trung Quốc ?
Có
đất nước nào như Việt Nam, mà chính quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp Trung Quốc, trong khi chẳng mấy quan tâm doanh nghiệp
tư nhân nước nhà ?
Có
đất nước nào như Việt Nam, mà chính quyền tìm cách phá hoại những cuộc
tưởng niệm ngày Trung Quốc cướp Hoàng Sa – Trường Sa và giết hại dã man
quân lính Việt Nam hay không ?
Tôi tin chắc những ai quan tâm đến thực trạng đất nước đã có câu trả lời cho mình. Hãy dành cho mình một phút thinh lặng. Ngẫm. Để thấy Việt Nam làm gì có Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc nữa.
Mao
Trạch Đông với câu nói nổi tiếng : "Every Communist must grasp the
truth : Political power grows out of the barrel of a gun". (Tạm dịch :
"Mỗi một người cộng sản phải nắm vững được chân lý : Quyền lực chính trị
lớn mạnh từ một khẩu súng").
Đảng
cộng sản Việt Nam không dám bóp còi khẩu súng quyền lực của mình, bởi
nỗi khiếp sợ kinh hoàng trước Trung Quốc. Nỗi sợ Trung Quốc đã ăn sâu
vào não bộ và xương máu của các tầng lớp chóp bu đảng cộng sản, làm tê
liệt mọi giác quan và khiến họ chỉ biết phục tùng Trung Quốc. Khi mà
quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam bị điều khiển và chi phối
toàn diện bởi chóp bu Trung Quốc, thì vai trò của đảng cộng sản không
phải là đảng cầm quyền, lãnh đạo Việt Nam, mà là một phân bộ của đảng
cộng sản Trung Quốc và là một chư hầu phương Bắc.
Chúng ta phải làm gì ? Thoát đảng để thoát Trung !
Mỗi
một năm có hơn ít nhứt là 10 ngàn người rời bỏ quê hương để tha phương
cầu thực tại các nước khác. Từ tháng 2/2017 đến nay, gần 100 ngàn người
Việt đã sang các tỉnh gần khu vực biên giới Việt – Trung để làm việc vì
nhà nước Việt Nam thất bại trong việc tạo ra việc làm (2).
Tại
sao Việt Nam ngày càng lụn bại, nhưng đảng cộng sản vẫn ngang nhiên tồn
tại để "quỳ gối, cúi đầu" trước Trung Quốc mà không gặp phải bất kỳ
phản kháng đáng kể nào ?
Đảng
cầm quyền chấp nhận sự điều khiển và chi phối gần như là tuyệt đối của
Trung Quốc. Như vậy, Việt Nam hiện có phải là một đất nước thực sự độc
lập hay không ? Tự do – Hạnh phúc ở đâu khi dân không được quyền phản
đối chính quyền lẫn sự bành trướng của Trung Quốc ?
Chán chường. Mệt mỏi. Thất vọng. Và rất bất lực. Đó là những cảm xúc hiện tại của đại đa số người dân, nhắc nhở chúng ta tổ quốc Việt Nam đang tan rã.
Rất nhiều người muốn thay thế chế độ cộng sản bằng thể chế dân chủ đa
nguyên, nhưng họ vẫn đang chờ đợi sự dẫn dắt của một tổ chức đáng tin
cậy.
Đất
nước hơn 90 triệu người nhưng là 90 triệu người cô đơn và lẻ loi trong
khi đảng cộng sản lại chấp nhận liêt kết lại với nhau để tồn tại. Vì
thế, 90 triệu người Việt vẫn đang rất bất lực trước đảng cộng sản, chỉ
vỏn vẹn vài triệu người. Câu hỏi quan trọng là tại sao những người yêu
chuộng dân chủvẫn không hình thành được một lực lượng chính trị lớn
mạnh, tạo áp lực buộc đảng cộng sản phải chấp nhận bầu cử tự do và công
bằng ?
Âm
mưu thôn tính và đồng hóa Việt Nam của Trung Quốc vốn đã có từ ngàn năm
nay. Có lẽ chúng ta chỉ tập trung vào hiểm họa Trung Quốc mà quên vấn
đề quan trọng hơn : vai trò tích cực của Đảng cộng sản Việt Nam trợ giúp
Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam, mà không cần tốn một viên đạn.
Vấn
đề nguy ngập là nguy cơ tan rã quốc gia. Hãy thinh lặng để quan sát kỹ
và lắng nghe nỗi thất vọng và chán chường của quốc dân trên khắp mọi
miền, để thấy Việt Nam hiện đang rất nguy ngập và chia rẽ sâu sắc. Hậu
quả kinh khủng này không phải do Trung Quốc trực tiếp gây ra, nhưng là
hệ quả từ ách cai trị độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam. Chế độ cộng
sản "không cần dân chúng tin yêu mình, mà chỉ cần người dân đừng gắn bó
với nhau để không có sức đề kháng. Không gì thỏa mãn các tập đoàn độc
tài hơn là sự thờ ơ và vô cảm của một quần chúng bất lực vì chia rẽ".
Một đất nước mà không xây
dựng được dù chỉ là một lực lượng dân tộc có tầm vóc, có tổ chức, thì
tầng lớp trí thức phải chịu trách nhiệm nhiều nhứt. Sẽ có bạn nói với
tôi : Trách nhiệm phải của toàn dân, chứ không chỉ riêng trí thức. Tôi
chia sẻ quan điểm đó, nhưng không hoàn toàn đồng ý.
Theo học thuyết Thang bậc nhu cầu (Maslow’s Hierarachy of Needs), con người phải thỏa mãn được các nhu
cầu cơ bản, thì họ mới nghĩ đến các nhu cầu cao cấp hơn : nhu cầu về an
toàn (safety needs) và nhu cầu về xã hội (belonging and love needs).
Nhu cầu cơ bản là các nhu cầu tối thiểu và mạnh mẽ nhứt của con người,
như không khí để thở, thức ăn, nhà cửa, ngủ nghỉ, các nhu cầu làm cho
con người thoải mái. Rất nhiều dữ liệu chứng minh phần lớn dân số Việt
Nam vẫn còn nghèo. Nghĩa là, nhiều nông dân, công nhân, ngư dân phải lao
động vất vả để chăm lo các nhu cầu tối thiểu cho bản thân và gia đình.
Miếng ăn lo chưa xong, còn bị nhồi nhét bởi chính sách ngu dân quanh năm
suốt tháng, thì làm sao có thể trách họ không quan tâm đến đất nước ?
Trong
khi đó, rất nhiều người Việt Nam được coi hoặc tự nhận mình là "trí
thức" đã đạt được các nhu cầu cơ bản "đủ ăn, đủ mặc" vì điều kiện kinh
tế tương đối khá. Những "trí thức" này hiểu và biết được đảng cộng sản
là gốc rễ của mọi lụn bại và kém cỏi của đất nước, nhưng thay vì phản
kháng, họ chọn im lặng và thậm chí thỏa hiệp với cường quyền cộng sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh trí thức là kiến trúc sư và lực lượng nòng cốt của các cuộc tranh đấu thay đổi thể chế. Napoleon
từng nhấn mạnh : "Quần chúng chỉ là con số không dài vô tận, giá trị
chỉ là con số đầu". Những con số đầu là vai trò lãnh đạo vô cùng quan
trọng của tầng lớp trí thức hoặc các tổ chức với đường lối, cương lĩnh
rõ ràng.Bằng cấp cao hoặc kiến thức chuyên môn không làm nên trí
thức, nhưng phải là thái độ. Trí thức đúng nghĩa bày tỏ thái độ chính
trị, sẵn sàng phản kháng bất công, suy nghĩ độc lập và luôn thao thức
tìm ra giải pháp cho những vấn đề chung của đất nước.
Với
khá nhiều người, Việt Nam hiện tại chỉ là ngôi nhà tạm, không phải là
một quốc gia đúng nghĩa. Nhiệm vụ quan trọng của tầng lớp trí thức là
tập trung xây dựng lại ý niệm quốc gia, gầy dựng lại lòng yêu nước để có
thể hình thành được ít nhất một lực lượng dấn thân chính trị, bằng
những tư tưởng đúng đắn. Lực lượng này sẽ dẫn dắt và lãnh đạo quần
chúng, kết hợp thành một khối sức mạnh chính nghĩa, yêu sách Đảng cộng
sản Việt Nam phải tổ chức bầu cử tự do, công bằng.
Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là một tổ chức chính trị, đã và đang nỗ lực xây
dựng một kết hợp dân tộc lớn mạnh, bằng vũ khí của lẽ phải và tư tưởng
dân chủ đa nguyên, bất bạo động, và hòa giải & hòa hợp dân tộc.
Dân
tộc Việt Nam cần một kết hợp dân chủ lương thiện, có khả năng, và đủ
quyết tâm, dựa trên nền tảng lòng yêu nước và bao dung, để thay thế đảng
cộng sản vốn đang trực tiếptàn phá và tiếp tay cho giặc hủy hoại tổ
quốc.Tôi tin chắc vẫn có một bộ phận nhỏ các đảng viên muốn đưa đất nước
thoát khỏi sự lệ thuộc quá đáng vào Trung Quốc. Hãy vượt qua nỗi sợ,
liên kết với các tổ chức chính trị đối lập, tạo áp lực buộc đảng cộng
sản phải chấp nhận bầu cử tự do và công bằng.
Việt
Nam có đủ điều kiện để vươn mình trở thành một quốc gia độc lập và tự
cường đúng nghĩa. Việt Nam dân chủ đa nguyên với nền kinh tế vững mạnh
và phát triển, sẽ nhanh chóng loại bỏ sự phụ thuộc vào Trung Quốcvà có
được sự kính sợ tự nguyện của Trung Quốc.
"Chúng
ta là người Việt Nam, và tương lai của chúng ta gắn liền với tương lai
của đất nước Việt Nam. Chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là xây
dựng một tương lai Việt Nam chung" (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai).
Mai V. Phạm
(07/06/2018)
THDCĐN - "Chung Một Giấc Mơ Việt Nam"
Tham khảo :
(1) David Wurfel, Between China and ASEAN : The Dialectics of Recent Vietnamese Foreign Policy, NY, 1999.