Bí mật thế kỷ - Secrets Of The World - HD Thuyết minh
Trần Đức Thảo - Những lời trăng trối
Lưu Ý
Chút Nội Quy Về Bình Luận: 1. Không viết quảng cáo trong comment . 2. Xin đọc kỹ tên tác giả trên mỗi bài viết trước khi comment. 3. Xin phản biện về những đúng sai của tác giả và các bình luận viên khác dựa trên sự kiện, tài liệu, lý luận.... 4. Mọi thóa mạ cá nhân sẽ bị “deleted” và vi phạm sẽ bị ghi tên vào danh sách spammers. Thành thực cám ơn.
“Nam
quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, và được
coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền của người
Việt trên lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, với ít nhất là 35 dị bản sách và
8 dị bản thần tích, nguồn gốc của “Nam quốc sơn hà” vẫn còn là một dấu
hỏi…
“Nam quốc sơn hà”
là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, chưa rõ nguồn gốc tác
giả, nhưng được một số tài liệu cho là tác phẩm của Lý Thường Kiệt. Theo
đó, trong cuộc chiến chống lại quân Tống lần thứ hai (1075-1077), Lý
Thường Kiệt đã sai người tâm phúc đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương
Hống, Trương Hát thuộc địa phận sông Như Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh, để
khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt.
Nam quốc sơn hà
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” vốn không có tên. Tựa đề của nó xuất hiện trong “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam”
tập 2 (NXB Văn học, 1976), lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ đầu tiên
của bài thơ. Bài thơ này có nhiều dị bản khác nhau, bản chữ Hán trong
Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
南國山河南帝居,
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên âm Hán Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên phận định tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Trước đây, sách giáo khoa từng sử dụng bản dịch của học giả Trần Trọng Kim, có âm điệu hào hùng và dễ nhớ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành định phận tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Sau
này, sách giáo khoa không sử dụng bản dịch trên nữa, mà sử dụng bản
dịch của Lê Thước và Nam Trân (Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1,
2015):
Núi sông Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách trời chia xứ sở. Giặc dữ cớ sao phạm đến đây, Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Tuy nhiên sách giáo khoa lại không dùng nguyên văn bản dịch này, mà sửa đoạn đầu “Núi sông Nam Việt vua Nam ở” thành “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Bản dịch mới này đã từng gây ra rất nhiều tranh luận vì không truyền tải được âm hưởng và khí phách của “Nam quốc sơn hà”.
“Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?
Trong Lĩnh Nam chích quái, phần “Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” có ghi chép rằng:
Năm
Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ sai Hầu
Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân sang đánh Đại Cồ Việt. Hai bên đối lũy
cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành nằm ngủ thấy hai vị
Thần hiện về báo mộng. Hai vị Thần nói với vua, đại ý như sau: “Anh em
thần tên là Trương Hống, Trương Hát, là tướng của Triệu Việt Vương
(Triệu Quang Phục). Anh em thần vì nghĩa mà chết nên được phong làm
tướng trong các thần linh, thống lĩnh quỷ binh. Nay quân Tống xâm phạm
nước ta, anh em thần đến yết kiến, cùng giúp vua đánh giặc để cứu dân
chúng.”
Vua Lê Đại
Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người
dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía
Bắc sông Như Nguyệt mà lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân
Tống kinh hoàng, lúc này bỗng có tiếng thơ ngâm lớn rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư. Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược, Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Dịch là:
Sông núi nước nam, vua nam ở, Sách Trời định phận rõ non sông. Cớ sao giặc bắc sang xâm phạm, Bây hãy chờ gươm chém bại vong.
Quân
Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại
Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị Thần nhân, một là Tinh Mẫn
Đại Vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn; hai là Khước Mẫn Đại
vương, lập miếu ở ngã ba sông Nguyệt.
Vậy Trương Hống, Trương Hát là ai? Theo “Việt điện u linh”
ghi chép lại thì anh em Trương Hống, Trương Hát là tướng của Triệu Việt
Vương tức Triệu Quang Phục. Khi Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử cướp
ngôi, dù được mời nhưng hai anh em không muốn làm quan cho Lý Phật Tử,
mà về ở ẩn ở núi Phù Long. Lý Phật Tử cho người lùng bắt, hai anh uống
thuộc độc, thà chết vẫn trung thành với Triệu Việt Vương.
Hai bộ sử khác nữa từ thế kỷ 16, 17 là “Việt sử diễn âm” và “Thiên nam ngữ lục” cũng cho rằng bài thơ trên có từ cuộc chiến chống quân Tống năm 981.
“Việt sử diễn âm” có ghi chép rằng:
Tháng bảy có Tống binh sang Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn Đến thành Phù Lỗ đóng vây Quân ta quân nó đôi bên ngất trời Chưa phân thắng phụ về ai Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao Thấy đôi thần nhân bãi nào Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa Chúng tôi thần đế lòng xưa Phụng thờ nhà chúa bấy chừ chẳng sai Tiên Hoàng có sắc chỉ bày Đòi về phong chức cho tôi tước quyền Trung thần bất sự nhị quân Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay Thượng đế thấy bộ thương thay Phong chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân Đại Hành thức dậy mừng thay Giết trâu liền có minh tài tế khao Đêm sau vua lại chiêm bao Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn Có một người đứng án tiền Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh Lấy ra chưng đất Nam Bình Đại Hành sực thức gẫm tình mới hay Nửa đêm thấy một cơn mây Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng Tống binh mất vía trở dường Chúng quỷ đánh gãy đao thương liền cờ Bỗng nghe mảng tiếng không hư Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng
Thi vân:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm Hội kiến phong trần tận tảo trừ
Còn trong “Thiên nam ngữ lục” thì ghi chép rằng:
Bấy giờ binh mã sửa sang Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô Mười buôn binh mạnh thẳng đua Qua miền Giang Bắc, đây là Phù Lan Đêm thấy hai ngài đến màn Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng Giúp đời Triệu Việt có công Thuở chẳng như lòng, ẩn nội Phù Lan… Ơn trên Thượng đế xét thương Quyền cho chúa tể giữ phương yên này. Bây chừ bệ hạ đến đây Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô Phán rằng: Tướng quan y như Công nên thời lập miêú thờ trả ơn Ngày sau Nhân Bảo ra quân Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm Hội kiến phong trần tận khử trừ
Vậy việc cho rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ là xuất phát từ đâu? Trong bài viết “Lịch sử, sự thật và sử học” được đăng trong báo Tổ Quốc, số 401 tháng 1/1988, Giáo sư Hà Văn Tấn có viết:
“Không có một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam
quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào
cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng
sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền
thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho
người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả
bài thơ. Nhưng đó chỉ là ‘đoán’ thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó
là của Lý Thường Kiệt.”
Trong cuốn sách “Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”, Hội sử học Hà Nội đã cho rằng, “Nam quốc sơn hà” ra đời vào thời Tiền Lê và được Lê Hoàn sử dụng trong cuộc chiến chống lại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Tống năm 981.
Trong Tạp chí Hán Nôm, số 1-2002, bài viết “Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà” cũng đã khẳng định về thời gian, địa điểm ra đời của bài “Nam quốc sơn hà” thông qua việc phân tích 28 nguồn tư liệu khác nhau. Theo đó, “Nam quốc sơn hà” ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 và nhân vật lịch sử Lê Đại Hành (Lê Hoàn).
Bên cạnh đó, bài viết “Nam Quốc Sơn Hà và Quốc Tộ – Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn” đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5 năm 2005, Phó Giáo sư Bùi Duy Tân cũng đã khẳng định rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” có từ thời Tiền Lê.
Tác giả của bài thơ
Dù các dẫn chứng lịch sử cho thấy “Nam quốc sơn hà” được ra đời vào thới kỳ đánh Tống lần thứ nhất năm 981, nhưng lại không hề có bằng chứng nào nói về tác giả của bài thơ trên.
Một
số người cho rằng tác giả có thể là thiền sư Đỗ Pháp Thuận bởi lẽ thời
đó vua Lê Đại Hành rất tin tưởng các thiền sư như Pháp Thuận, Định
Không, Vạn Hạnh, La Quý, Khuông Việt, Đa Bảo. Rất nhiều chinh sách đối
nội, cũng như kế hoạch đánh Tống, Chiêm Thành, vua Lê Đại Hành đều hỏi
qua các thiền sư trước rồi mới tiến hành làm. Kết quả đều rất tốt. Vua
Lê cũng muốn dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, giúp dân chúng thăng
hoa đạo đức, ổn định xã hội, giang sơn bền vững và cường thịnh.
Trong đó thiền sư Pháp Thuận là người “vận trù kế sách”
ngay từ lúc vua Lê Đại Hành sáng nghiệp. Hơn nữa nhiều văn thư quan
trọng thời ấy đều do thiền sư Pháp Thuận soạn thảo. Ông cũng là người
sáng tác ra nhiều thơ ca. Chính vì thế mà một số người cho rằng có thể
chính thiền sư Pháp Thuận là tác giả bài thơ này. Tuy nhiên đây cũng mới
chỉ là suy đoán.
12. Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc và vai trò của họ tại Việt Nam CH, 1954-1959 Bài của Nghiên Cứu Quốc Tế - Bản dịch của Đỗ Hải Yến. Nguồn: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959 - Peter Hansen (2009)
5.Mở rộng truyền giáo ở thuộc địa Thượng Du Bắc Kỳ (Jean Michaud) - Journal of Southeast Áian Studies, 35 (2), pp 287-310 June 2004. Printed in the United Kingdom @ 2004 The National University ò Singapore DOI:10.1017/S0022463404000153
0 nhận xét:
Đăng nhận xét