Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả. [Edouard Herriot]
Văn hóa là tiếng khóc của con người khi đối mặt với số phận. [Albert Camus]
Tôi
không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những
khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do
thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió
nào.[Mahatma Gandhi]
I. DẪN NHẬP
Người
xưa thường đề cập tới VĂN KINH CHÍNH GIÁO một cách rất trang trọng .Vậy
VĂN KINH CHÍNH GIÁO là gì? Xin thưa đây là nói tắt của 4 bộ môn quan
trọng ảnh hưởng đến quyền lợi, họa phúc của người dân và sự hưng vong
của Quốc Gia Dân Tộc. Bốn bộ môn đó là VĂN HÓA, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ và
GIÁO DỤC. Mỗi bộ môn này đều có vai trò, chức năng và sứ mạng riêng
song đều hướng đến một cứu cánh chung là phục vụ người dân được sống
trong thanh bình, an lạc hạnh phúc,và đem lại sự giầu mạnh vinh quang
cho cho Đất Nước. Đứng về mặt “cứu cánh” mà xét, thì đây là “Nguyên
Tắc kinh điển”, là “Chính Nghĩa” hay “Đạo Thống Quốc Gia”.Nhưng chúng ta
không quên là cả bốn bộ môn chính yếu này đều do con người sáng tạo và
thiết dựng lên, nên trong tiến trình “hiện thực hóa” văn hóa chính trị,
kinh tế, giáo dục …. không phải lúc nào cũng theo một “chiều thuận”,
“tiến bộ” mà thường theo “chiều nghịch” “tha hóa” “suy đồi” ….Tại sao
lại có hiện tượng Văn Hóa tiến bộ và văn hóa suy đồi?Tại sao lại có
chính trị cấp tiến và chính trị bảo thủ dẫn đến suy vong?Tại sao lại có
nền kinh tế thịnh vượng và kinh tế lụn bại tụt hậu? Tại sao lại có nền
giáo dục “Nhân bản” “Dân tộc”, “Khai phóng” và nền giáo dục “phi nhân
bản”, “phi dân tộc”, “phản khoa học”, cổ hủ lỗi thời? Riêng bộ môn Văn
Hóa, -bộ môn quan trọng nhất có vai trò, chức năng và sứ mạng nào trước
các vấn nạn của thời đại? Nhất là trong thời đại toàn cầu hóa ? Nhằm làm
sáng tỏ các câu hỏi trên, trong bài tiểu luận này chúng tôi xin thảo
luận cùng quí bạn đọc các điểm sau:
– Tương quan Văn Hóa Chính Trị
– Họa
phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay xấu
và tùy thuộc cơ chế chính trị xưa và nay như thế nào?
– Văn hóa Quốc Gia trong thời đại Toàn cầu Hóa
– Vai trò và chức năng Văn Hóa.
– Sứ mệnh Văn Hóa trong thời Đại Toàn Cầu Hóa.
II. TƯƠNG QUAN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
Trong
bốn bộ môn VĂN KINH CHÍNH GIÁO, người xưa xếp Văn Hóa đứng hàng đầu là
rất đúng vì về phương diện chuyên môn, người ta phân tách ra thành các
bộ môn khác nhau, nhưng đích thực theo nghĩa rộng và tổng quát nhất thì
cả 3 bộ môn kia: kinh tế,chính trị, giáo dục hay nhiều bộ môn khác như
tôn giáo,xã hội, luật pháp, y tế , địa lý, lịch sử, dân tộc học, nhân
chủng học v..v… đều có liên quan ít hay nhiều, và đều thuộc về bộ môn
Văn Hóa cả .Có điều nổi bật nhất, đặc biệt nhất mà chúng ta cần chú ý là
Văn Hóa có tính chất lý thuyết, nặng về “phần TRI”, còn Chính trị
thiên về “phần HÀNH” (Thực tế, thực tiễn, thực dụng,thực quyền, thực
hành, điều hành….) Do đó mới đầu phát sinh ra 2 hiện tượng , rồi sau trở
thành 2 chiều hướng lớn trong lịch sử nhân loại:
• Khi
văn hóa (TRI) và chính trị (HÀNH) cùng “song hành”, “thuận chiều” với
nhau trong sứ mạng phục vụ người dân và phụng sự đất nước-vì nền văn
hóa nào xuất hiện, sẽ có một nền chính trị “ tương ứng” hay “đồng dạng”
–TRI HÀNH HỢP NHẤT theo lối nói của triết gia Vương Dương Minh thì đây
là điều ĐẠI PHÚC cho Quốc Gia Dân Tộc (sẽ đem lại kết quả “Dân giàu
nước mạnh”,quốc gia văn hiến, văn minh)
• Ngược
lại khi Chính trị “không song hành”, “không thuận chiều” theo văn hóa,
mà vì quyền lợi của cá nhân, phe nhóm, hay đảng phái lợi dụng khi nắm
được chính quyền lũng đoạn chính trị, biến chính trị thành vai trò THỐNG
SOÁI LÃNH ĐẠO tất cả, coi văn hóa, kinh tế giáo dục, pháp luật đều
chỉ là “công cụ” của Chính tri thì đây là ĐẠI THẢM HỌA của Quốc Gia Dân
Tộc.Nếu nền chính trị độc tôn, độc tài toàn trị này lại nhân danh một Ý
Thức Hệ (Như ý thức hệ Cộng sản), đề cao “cách mạng bạo lực”, “thượng
tôn giai cấp cầm quyền” theo chủ trương “vô sản chuyên chính”thì nền
chính trị này không còn là nền chính trị phục vụ con người, phụng sự Tổ
Quốc mà là nền chính trị phản dân hại nước, đầy đọa con người, giam hãm
con người trong địa ngục trần gian, gieo rắc đau thương đói khổ kinh
hoàng cho dân cho nước,tai họa không thể nào kể xiết đươc.
III.
HỌA PHÚC CỦA NGƯỜI DÂN TÙY THUỘC CÁ NHÂN HAY TẬP ĐOÀN CẦM QUYỀN TỐT HAY
XẤU VÀ TÙY THUỘC CƠ CHẾ CHÍNH TRỊ XƯA VÀ NAY NHƯ THẾ NÀO?
A.Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay xấu xưa và nay như thế nào?
A.1- Thời đại Quân chủ phong kiến xưa:
Dù
là tại Trung Hoa hay Việt Nam trong thời đại Quân Chủ Phong kiến, đều
có các đấng Minh Quân (Vua sáng suốt) điển hình như Vua Lý Thánh Tông
(1054-1072) của Việt Nam, Vua có lòng nhân từ, “biết thương dân như con
đỏ”..….và các quan lại “thanh liêm”, “chính trực” “có đức có tài “ hết
lòng chăm sóc đời sống của dân chúng, lo cho dân được an cư lạc
nghiệp, được cơm no, áo ấm ,đời sống sung túc, giầu có hạnh phúc…Nhưng
tiếp theo những vị CHÚA SÁNG, TÔI HIỀN kể trên, cũng thường xuất hiện
những Hôn quân (Vua u tối-chỉ biết sống xa hoa trụy lạc – không ngó
ngàng gì đến đời sống đói khổ của dân chúng ) và bọn quan lại vô tài
kém đức,chỉ biết hành hạ dân, bóc lột dân bằng nhiều hình thức sưu cao
thuế nặng, không bình trị được đất nước,khiến chiến tranh triền miên,
lại thêm tệ nạn tham nhũng, cường hào ác bá khiến người dân chịu khổ cực
trăm chiều… Nhà ái quốc Phan Bội Châu đã không tiếc lời lên án loại vua
quan hủ lậu đó bằng lời thơ vô cùng thấm thía:
“Một là Vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai”
(Trích trong “Hải Ngoại Huyết Thư)
Thực
ra khi vua thì u tối, quan lại tham ô nhũng lạm thì thân phận người dân
bị áp bức bóc lột đến tận cùng ….Người dân “thấp cổ bé miệng” nào biết
nương dựa vào ai, trông cậy vào ai, kêu cứu nơi đâu để giải oan cho bao
nỗi oan khuất, bất công phi lý mà mình phải chịu đựng…. Ca dao Việt Nam
cũng đã cực tả thân phận “thấp cổ bé miệng” của người dân dưới chế độ
chuyên chế thối nát thời quân chủ phong kiến
“Ếch kêu dưới vũng tre ngâm
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre” …
A-2: Thời Cộng sản Thống trị nay:
Thời
quân chủ phong kiến, nhà vua nắm toàn quyền cai trị đất nước, sang thời
đại Cộng sản, Đảng chính là “Vua Tập thể”cai trị dân bằng đường lối
chính sách vô cùng độc hại và tinh vi hơn nhiều. Sự sai lầm độc ác,
không còn trong phạm vi cá nhân mà trở thành sự sai lầm, độc ác có tính
hệ thống …gieo rắc đại họa cho dân, chưa từng thấy trong lịch sử loài
người! Ngoại trừ những đảng viên cộng sản gộc, nay nghiễm nhiên trở
thành “giai cấp thống trị mới”, còn toàn thể dân chúng, dù thuộc thành
phần “nông dân”, “công nhân” đến “trí thức” đều là nạn nhân của chế độ
CS.:
Thân phận giai cấp Nông Dân:
“Nông
dân là khối người đông đảo chiếm đến trên 70% dân số cả nước.Khi chưa
chiếm được chính quyền Đảng CS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, gọi nông
dân là «hậu bị quân», là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng”
để họ “sướng cái bụng” đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng
của mình hết lòng ủng hộ ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi
cách mạng thành công, ĐCS sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là
“người cày có ruộng”! Nhưng thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông
dân nước ta!
Quả
lừa tiếp theo là ĐCS “phát động cải cách ruộng đất” nói là để tiêu diệt
giai cấp địa chủ, tước đoạt ruộng đất của giai cấp này chia cho dân
cày, trước nhất là bần cố nông. “Thắng lợi vẻ vang” (!) của cuộc Cải
Cách Ruộng Đất hồi giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, báo chí đã nói
nhiều, giờ chỉ xin nhắc lại vài điều thôi. CCRĐ thực sự là một cuộc thảm
sát có tính diệt chủng đã làm cho 172 nghìn 008 người dân ở nông thôn,
chủ yếu là nông dân, trở thành nạn nhân, nghĩa là bị bắn giết, đọa đày
đến chết, trong số đó 123 nghìn 266 người (tức là 71,66%) về sau được
xác nhận là oan; riêng 26 nghìn 453 người bị quy là địa chủ cường hào
gian ác thì có đến 20 nghìn 493 người (tức là 74,4%) được xác nhận là
oan! Còn 62 nghìn người bị quy là phú nông thì có đến 51 nghìn 003 người
(tức là 82%) được xác nhận là oan! Trong số những người bị oan cũng có
hàng nghìn cán bộ, đảng viên cộng sản (tài liệu chính thức trích từ cuốn
Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 2).
Đó
là chưa nói đến những hậu quả nguy hại khác của cuộc tàn phá khủng
khiếp ở nông thôn mà ĐCS gọi là “cuộc cách mạng long trời lở đất” là:
bằng cuộc CCRĐ theo khuôn mẫu Mao-ít, ĐCS đã phá vỡ truyền thống tốt
đẹp,hòa hiếu, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn mà cha ông ta đã
tạo dựng hàng mấy nghìn năm trước; đã phá hoại đạo lý, luân thường của
dân tộc và tạo nên một lối sống giả dối, man trá, điêu ngoa, vu khống,
bất nhân mở đầu cho sự băng hoại đạo đức, nhân cách sau này; đã phá hủy
cuộc sống tâm linh vốn có lâu đời, vì chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ,
những nơi thờ tự… đều bị phá phách, triệt hạ… CCRĐ kết thúc, một số bần
cố nông hớn hở được nhận ruộng tưởng rằng “ước mơ ngàn đời” của họ đã
bắt đầu được thực hiện. Họ được chụp ảnh, quay phim để ĐCS tuyên truyền
khoe khoang “công ơn” của đảng đối với nông dân, thì… chưa đầy một năm
sau, ĐCS đã lùa những bần cố nông đó, cùng các nông dân khác bắt họ đem
ruộng đất tư vốn có của họ vào hợp tác xã, vô hình trung ĐCS tước đoạt
mất quyền tư hữu mà giao ruộng đất của họ cho các chủ nhiệm hợp tác xã
quản lý. Đấy, ĐCS đã thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” một cách
bịp bợm như vậy!
Đến
quả lừa “vĩ đại”, tồi tệ nhất của ĐCSVN đối với nông dân và nói chung
cả với toàn dân ta, là… khi soạn thảo và thông qua Hiến pháp nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, bằng điều 19 của Hiến pháp, ĐCS
đã nhẹ nhàng, gần như thầm lặng, không “long trời lở đất” tí nào, chuyển
quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là
ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở
hữu toàn dân”! Từ đây, thực tế ĐCS đã “quốc hữu hóa”, hay nói chính xác
hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư
hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ
thực tế nằm trong tay sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất
nước….” (1 *) Từ đây dẫn tới hiện tượng DÂN OAN….. lại càng bi thảm gấp
bội, gây bao đau thương cho nhân dân không bút nào tả xiết ….
Thân phận giai cấp Công Nhân:
Theo
ông Trần Quang Thành một đảng viên CS đã bỏ đảng trốn ra nước ngoài để
vận động Quốc tế yểm trợ cho việc thành lập Cộng Đoàn Độc Lập ở trong
nước, đã cho biết về số phận người công nhân dưới quyền thống trị của CS
hiện nay như sau:
“Năm
2006 thấy tình hình Việt nam có những cuộc đình công mà không có cuộc
hướng dẫn của ai cả thì một số anh em trong nước và ngoài nước thấy cần
thiết phải thành lập Công Đoàn độc lập. Ngày 20/10/2006 tại Hà Nội đã
tuyên bố thành lập Công Đoàn độc lập Việt Nam.Và cũng kêu gọi chính phủ
Việt nam cho phép Công Đoàn độc lập được hoạt động để giúp đỡ những
người công nhân Việt Nam.
Sau
đó 1 tuần tại Warsaw, thủ đô nước Cộng Hòa Ba Lan, chúng tôi đã tổ chức
hội nghị về quyền lao động quốc tế gồm trên 70 thành viên,gồm cộng đồng
người Việt và quan khách Quốc Tế trong nhà Quốc hội Ba Lan. Mục đích
của cuộc họp đó để yểm trợ Công Đoàn độc lập trong nước.Cuộc họp đó được
chính phủ Ba Lan hết sức ủng hộ, ngồi ghế chủ tọa là ông Phó chủ tịch
Cộng đoàn Đoàn kết và ông Chủ Tịch Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận.
Nhưng
một điều đáng tiếc là sau khi Việt Nam họ gia nhập tổ chức WTO và họ tổ
chức thành công hội nghị APEC tại Hà Nội thì họ nuốt lời hứa và quay ra
đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn của công nhân. Những
người sáng lập và cổ vũ cho nghiệp đoàn như là luật Sư lê Thị Công Nhân,
Luật Sư Nguyễn Văn Đài đều bị bắt. Anh Lê Trí Tuệ là Phó chủ Tịch Công
đoàn độc lập bị truy đuổi và sau đó phải trốn chạy sang Cam Pu Chia,
nhưng cũng bị nhà cầm quyền Việt nam bắt và đến nay không rõ tung tích.
Năm 2008 một nhóm các anh em hoạt động dưới cái tên là Phong trào lao
độngViệt tiếp tục hoạt động bán công khai, giúp đỡ những người công
nhân.
Khi
nhà máy Mỹ Phong ở Trà Vinh quịt lương của công nhân, quịt bảo hiểm xã
hội thì anh em đã hướng dẫn trên 10 ngàn công nhân đình công trong vòng
1 tuần. Giới chủ nhân đã đáp ứng phần lớn yêu cầu của công nhân. Nhưng
sau đó nhà cầm quyền bắt ba người hướng dẫn trực tiếp cho công nhân. Họ
tuyên án anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù, Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, cũng
như anh Đoàn Huy Chương 7 năm tù.
Ngoài
ra chúng tôi cũng nói rõ cho thế giới biết rằng hiện nay Việt Nam có
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, nhưng họ là cánh tay nối dài của Đảng
Cộng sản. Tổng liên Đoàn Lao Động Việt nam từ khi ra đời từ năm 1946 đến
giờ chỉ giữ vai trò thay mặt đảng kiềm tỏa người công nhân chứ không
tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân !!!
Cộng việc của chúng tôi rất là thầm lặng. Anh em ở trong nước hoạt động hầu như là bí mật”… (2*).
Thân phận người Trí Thức:
Tại
Việt Nam chỉ có các cá nhân các nhà trí thức, chứ không có tập thể trí
thức. Đa số giới trí thức đều sơ hãi cam tâm làm công cụ cho Đảng CS,
nói theo lệnh Đảng! Một thiểu số can đảm nói lên tiếng nói của Dân, đòi
hỏi Dân Chủ Tự Do và Nhân quyền cho mọi người công dân Việt Nam. .Họ là
những người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và thường bị gán ghép
chụp mũ là những phần tử phản động bị theo dõi, trù dập bắt bớ tù đầy,
hay bị ám hại thủ tiêu! Một số người bị tra tấn,đánh chết ngay trong
đồn công an rồi vu cho chết vì bệnh ác tính hay treo cổ tự tử !!!….
B. Họa phúc người dân còn tùy thuộc vào Cơ Chế Chính Trị Xưa và Nay như thế nào?
B1- Thời Quân Chủ Phong Kiến Xưa:
Tại
Đông phương,trong thời đại quân chủ phong kiến xưa,có 3 đường lối cai
trị dân nổi bật nhất, và được nhiều người bàn luận nhiều nhất, sôi nổi
nhất là ĐẾ ĐẠO, VƯƠNG ĐẠO và BÁ ĐẠO.
A. ĐẾ ĐẠO
Đây
là đường lối cai trị dân bằng Đạo Đức (còn có tên gọi khác là “Đạo
trị” hay “Đức Trị”) của các bậc Thánh Vương mang tính chất Hoàng kim
thời Đại -thời vua Nghiêu, vua Thuấn.Mục đích của Đế Đạo là xây dựng một
xã hội lý tưởng, đặt nền tảng trên tình thương lòng nhân ái. Thông qua
“lễ nghi và giáo dục” mọi người dân biết yêu thương tha thứ bao dung
nâng đỡ nhau, không hề có sự tranh giành chém. giết lẫn nhau….Nhà vua
và các quan lại đều là những nhà đạo đức, nêu gương sáng cho dân, noi
theo, giáo hóa dân xa lánh điều ác, thực hiện những điều thiện,tạo nên
thuần phong mỹ tục, đưa việc hành thiện trở thành thói quen thường ngày
của con người.Đưa xã-hội đi vào con đường Chân Thiện Mỹ một cách
tự-nguyện, tự-giác chính là mục-đích của Đế-Đạo. Kết.quả của xã hội“Đế
Đạo”: Nhà nhà đi ngủ mà không cần đóng cửa.Ngoài đường không có ai nhặt
lươm của rơi… Thật là lý tưởng, thật đáng mong ước!
Đế
Đạo lấy việc thuyết phục giáo hóa làm tôn chỉ hướng dẫn và uốn nắn xã
hội.Đế Đạo không dùng đến pháp luật, nên không cần xây dựng nhà tù hay
các biện pháp chế tài nào khác…
Nếu
bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện pháp chế tài! Mà khi đã dùng đến biện
pháp chế tài thì có nghĩa là đường lối, tôn chỉ Đế Đạo đã thất bại !!??
“Lý tưởng Đế Đạo đã bị sụp đổ !! Đế Đạo chưa bao giờ nếm mùi thất bại
và sụp đổ, lý do dễ hiểu vì Đế Đạo chưa bao giờ được thực hiện trên trái
đất- bất kỳ ở Đông hay Tây Phương! Đế Đạo thực chất chỉ có trong tưởng
tượng hay trong ước mơ của loài người! Dẫu sao Đế Đạo cũng đem lại cho
người đời một GIẤC MƠ ĐẸP không kém GIẤC MƠ THIÊN ĐƯỜNG…
Trong
lịch sử Trung Quốc có nhắc đến Đế Đạo thời Vua Nghiêu (2337-2258 TCN)
vua Thuấn ( ?- 2184 TCN)- được coi như khuôn vàng thước ngọc của Hoàng
Kim Thời Đại !Theo Trúc Thư Kỉ niên: Việc Vua Nghiêu truyền ngôi cho
Thuấn chứ không truyền ngôi cho con là Đan Chu thường được sử sách đời
sau xem là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì
lợi ích riêng tư của dòng họ.(3*)
Trong
thiên Thái Bá sách Luận ngữ, Khổng Tử ca ngợi Đế Nghiêu: “làm vua như
Nghiêu thật là vĩ đại! Thật là cao quí thay! Chỉ có trời là cao lớn
nhất, cũng chỉ có Nghiêu thật là người biết đựa vào đạo trời.Công đức
vua Nghiêu to lớn không cùng,dân chúng không thể ca ngợi cho xiết . Công
lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ lễ nhạc do Nghiêu đặt ra vô cùng
sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi”.
Các
thế hệ sau Khổng Tử thường nêu lên câu hỏi: Tam Hoàng Ngũ Đế thời sơ sử
của Trung Quốc có phải là những con người bằng xương bằng thịt hay đó
chỉ là “Huyền Thoại”? Liệu có một Thời hoàng kim thật sự thời Vua Nghiêu
vua Thuấn? Tại sao Đức Khổng Tử hết sức ca ngợi công lao của Vua Nghiêu
mà không nói rõ bí quyết hay đường lối trị nước theo Đế Đạo của Vua
.Nghiêu như thế nào? Nếu“Đế đạo chỉ là giấc mơ không có thật trong thực
tế thì lời khen công đức của Vua Nghiêu của Không Tử cũng chỉ là “huyền
thoại? hay “hư chiêu” mà thôi ư??
Theo
quan điểm của chúng tôi:: Sở dĩ Đức Khổng Tử hết lời klhen ngợi công
lao của Vua Nghiêu vì quả tình Vua Nghiêu là người Đạo Cao Đức trọng
thật sự… Hơn nữa Không Tử muốn lấy Tấm gương Vua Nghiêu làm khuôn vàng
thước ngọc cho các thế hệ Vua Chúa sau này, lấy đó để làm ĐIỂN MẪU cho
việc cai trị dân đúng theo Đạo Trời—nhằm giúp cho thế hệ các Vua sau này
nếu không theo được ĐỀ ĐẠO thì ít ra cũng là theo VƯƠNG ĐẠO,chứ đừng đi
theo BÁ ĐẠO.hay TÀ ĐẠO… Đây là “ Chiến thuật hay“Đạo thuật” của Không
Tử áp dụng phương pháp:“THÁC CỔ CẢI CHẾ” (Thác lời người Xưa để răn
dạy Người Thời Nay….Thiết nghĩ đây cũng chính là BẢN TÂM của Đức Khổng
Tử vậy..)
B. VƯƠNG ĐẠO
Nói
vắn tắt Vương Đạo là dùng Đức trị, hay Nhân Trị còn bá đạo dung lực
tri” Dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương (Mạnh Tử Công
Tôn Sửu) Dùng võ lực mà thu phục người là “Bá đạo”. Dùng đức mà thu
phục người là “Vương đạo”…Theo triết gia Linh Mục Kim Định, chúng ta
cần xác định lập trường hai chủ trương đó bằng đưa ra những điểm khác
nhau theo 5 nguyên tắc sau đây:
Nguyên Tắc Thứ Nhất: Cử Hiền
Trước câu hỏi quyền bính thuộc về ai ? Người có tài đức hay võ lực, hoặc dòng tộc?
Vương
đạo chủ trương thuộc người hiền đức, cắt đặt người hiền tài có năng lực
(cử hiền dữ năng) Khi Mặc Tử viết :” “Thượng hiền cử năng vi chính”
“tôn trọng người có đức, dùng người có tài năng làm chính sách (Chương
Thượng Hiền) là tỏ ra Mặc Tử còn trung thành với Khổng trong phương
diện này).Chủ trương đó chống với câu “Bất thượng hiền sử dân bất tranh”
của Lão Tử và cũng là đối lập với câu “kế thừa huyết thống Thượng Đế”
của quí tộc, xây trên thần thoại với chế độ kế tử “cha truyền con nối”kể
cả trong hàng quan lại. Đó là chủ trương“thiên hạ vi gia các thần kỳ
thân” “lấy thiên hạ làm của riêng gia đình ngược với câu Luận ngữ
“Phiếm ái chúng nhi thân nhân” “Rộng yêu mọi người nhưng thân hơn với
người nhân đức” (L.N.16) sẽ được giảng diễn ra thành thuyết “Đại đồng”
trình bầy trong Thiên Lễ vận“ Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công”
Nắm
chủ trương then chốt đó rồi ta dễ dàng hiểu những câu khác.Chẳng hạn
câu “Thiên mệnh mỹ thường”trong Kinh Thi, thiên Đại Nhã, thiên mênh
không phải trường tồn, có đức thì còn, mất đức thì hết, vì quyền bính
thuộc người Hiền Đức chứ không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc
nhở luôn dưới nhiều hình thức.Mạnh Tử nói:“Lập hiền vô phương”,(IV B.20)
cắt đặt người hiền thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại
Mạnh Tử viết: “Tam đại chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ
giả dĩ bất nhân” “Ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất
thiên hạ vì không có đức nhân:.Nhà Hạ lên với Vũ có nhân, mất với Kiệt
bất nhân. Nhà Thương được thiên hạ với Thành Thang có nhân, mất thiên hạ
với Văn Võ, Châu Công nhân đức, mất thiên hạ với U lệ bất nhân
(Mạnh,VII3) Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú trọng tài đức mà không kể
đến dòng họ.
Trọng
Cung có tài đức mà không được dắc dụng chỉ vì thuộc tầng lớp thường
dân. Khổng ví Cung với con bò tơ sắc đỏ sừng tốt (đủ đều kiện để tế)
người ta không dám dùng để tế vì mẹ nó lang, nhưng thần sông núi có từ
đâu? (L.N.VI.4) Theo chủ trương kế hiền thì Trọng Cung không những nên
cử làm quan mà cả đến làm Vua “Ung giả sử nam diện” Trò Ung (tức Trọng
Cung) có thể bầu làm Vua(L.N.VI.1).Ông thường khen Tử Lộ mặc dầu áo
thường cũng không ngại đứng vào hàng đại thần (L.N.IX.25) và hy vọng lớn
nhất của ông đặt vào một người bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ
tức Nhan Hồi.Cũng trong tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của
chức quan Đại Thần.Do đó ông đặt việc Vua Nghiêu sợ ông Thuấn không ra
giúp mình, Thuấn sợ ông Cao Dao bất hợp tác(Mạnh III.4) Trọng Cung vấn
chính viết “tiên hữu ty, xá tiểu quá, cử hiền tài” (XIII.2) Dưới con
mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là thời nhiếp chính của ông Chu
Công.
Trong
L.N.XIV.20 hỏi tại sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Được trả lời
là tại biết giao cho quan đại thần cai trị (Trọng Thú Ngữ giữ ngoại
giao, Chúc Đài giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ binh) vì thế mà nước
còn.Đó là chủ trương “quan cai tri vua kiểm soát”tức sự quan trọng đặt
nơi quan chứ không nơi vua, quan phải trung với đạo chứ không trung với
cá nhân vua “dĩ đạo sư quân, bất khả tắc chỉ” (L.N.XI.23) Chủ trương đó
sau này Mạnh Tử đặt nổi bằng câu “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh” hoặc câu của Tuân Tử “Trụ bạo quốc chi quân nhược tru độc
phu”(Tuân Tử chính luận) giết vua tàn bạo cũng như giết kẻ độc phu
(chẳng thần thánh gì)” Thật là sớm sủa khi ta so sánh với sự kinh hoàng
của bao người Tây Phương coi việc giết Louis XIV như một tội phạm sự
thánh.Chung qui đó là hậu quả của thuyết kế Hiền.
Nguyên Tắc Thứ Hai: Giáo Chi
Chủ
trương cử hiền tài như trên thật đúng là Tinh Thần dân chủ chỉ chưa có
phổ thông đầu phiếu.Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học cố
gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quí để mở rộng
ra trong quần chúng, không phân biệt quí tiện: “Hữu giáo vô
loại”(l.N.XV.38) trong việc giáo hóa không có phân biệt giai cấp quí
tiện sang hèn. Với chúng ta hiện nay, điều này quá tầm thường nhưng đời
Khổng thì đó là một cuộc cách mạng tận nền.Điều đó dễ hiểu khi ta nhận
xét bên các nước Âu Mỹ có tiếng là tiên tiến mà mãi tới năm 1850 mới mở
cửa giáo dục cho toàn dân, Còn trước kia dành riêng cho quí tộc (C.C
152) Như thế ta thấy việc của Khổng thật là táo bạo sớm sủa và là một cú
chí tử đánh vào thể chế “Quyền quý thế tập” dưới con mắt của họ việc
nhận người nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy cai trị là một
việc phá rối quốc gia. Đời ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng,
số người chống đối vì thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối chí Khổng
Tử là dạy đời không biết mỏi mệt (Hối nhân bất quyện) nên mới gây ra
nhiều phản đối pháp gia chủ trương giữ độc quyền giáo dục cho quyền quý
thế tộc.
Ở
đây nên ghi nhận câu trong Luận Ngữ “dân chỉ có thể theo chứ không thể
hiểu được” “dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi” (L.N.VII 10.) coi như
nghịch với chủ trương trên đây.Nhưng nên chú ý ,nếu câu đó thật là của
Khổng Tử thì chúng ta không biết được trong trường hợp nào ông đã nói
câu đó và nhân đấy giới hạn câu đó đến đâu (C.C.219) Do đấy có thể dịch
khác nhau, hoặc “dân chỉ cần sai khiến,không cần dạy bảo”như thường
thấy. Dịch thế là đi ngược với chủ trương “giáo chi” vừa nói trên..Hoặc
là “dân chỉ có thể theo mà không biết được” thì dẫu ngày nay cũng không
có gì đáng trách cả,bởi nói về đạo lý hay cả về chính trị, thì làm sao
cho toàn dân hiểu được. Ngay đời ta giáo dục phổ thông đã tràn ngập mà
đại chúng còn chưa hiểu nổi chính trị và đạo lý phương chi đời ấy.Nên
thánh hiền theo nguyên lý tùy năng lực, ai có khiếu học hiểu thì đi học
mà làm quan để làm chính trị, còn nếu không đủ năng lực thì nên làm
theo. Nếu không chịu hiểu như thế thì câu trên phải cho là xen vào sau,
nó giống với câu Lão trong Đạo Đức Kinh 65 “dân mà khó cai trị là tại nó
học biết” Câu đó đi ngược với câu “tiểu nhân học đạo tắc dị sử giã”
(L.N.17-24) người thường dân có học đạo thì dễ cai trị.
Nguyên tắc Thứ Ba: Phú Chi
Muốn
cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư dả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi
đi học, nếu như bụng đói thì hết có thể nói đến học với hành, có hô hào
cũng vô ích.Vì thế tất cả sách Mạnh Tử phản chiếu mối lo âu làm sao dân
giàu “dân khả sử phú dã” (Mạnh Tử VII.23) không có sách nào trong triết
học tha thiết về vấn đề làm giàu bằng, nên trước khi nói “giáo chi”
Khổng Tử đặt “phú chi” Điểm này cũng phản lại pháp gia chủ trương làm
giàu Chúa,yếu dân (phú quốc, cường binh) Khổng trái lại làm giàu dân:
“bá tánh bất túc, quân thục dữ túc” (L.N.XII.9) bá tánh không đủ ăn thì
vua đủ ăn với ai.Ông đã từ Nhiễm Hữu là người đi sái tinh thần “phú
chi”bằng câu “quân tử chu cấp bất kể phú”( L.N.VI 3) “người quân tử thì
cấp phát cho khắp hết,chứ không gia thêm cho người giàu” Kinh Dịch quẻ
Ích . “Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương” “ Lời Thoán nói rằng : quẻ
Ích là lấy bớt của người trên mà thêm cho người dưới thì dân ủng hộ vô
bờ bến”.
Chính Khổng Tử thường tuyên bố coi phú quí phi nghĩa như
phù vân (L.N.VII 15) Muốn hiểu câu này, nên chú trọng thời đó chưa có
kỹ nghệ, buôn bán chưa mở mang, người ta không có cách làm giàu nào mau
chóng hơn là làm quan để bóc lột dân chúng.Chính vì tình trạng đó có câu
“vi nhân bất phú, vi phú bất nhân (Mạnh Tử III3). Vì thế Khổng nói
“Nước vô đạo mà giàu có phú quí là điều đáng sỉ nhục, cũng như nước có
đạo mà mình nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ” (L.NVIII.14).Khi Quí
Khương Tử ngỏ ý sợ dân ăn trộm, Khổng Tử liền trả lời thẳng :Nếu ông
trút bỏ được lòng tham, thì có thưởng dân cũng không thèm ăn trộm (cẩu
tử bất dục, tuy thưởng chi bất thiết) (L.N.XIII.17)
Điều
lo âu của ông vẫn là “bất hoạn quả như hoạn bất quân (L.N. XVI.1).Không
lo không có của mà lo có của nhưng chia không đều, vì nó dễ chảy vô vào
tay mấy người có quyền thế.
Nguyên
tắc quân phân tài sản đó sau này được Mạnh Tử phát huy rộng trong chủ
trương “Minh quân chế dân chi sản” (I,6) bậc minh quân phải lo phân chia
tài sản đều cho dân (đọc thêm Mạnh 1,12,36, 38) và làm cho dân giàu thì
nước mạnh.Và nhân đấy ông đề cao phép tỉnh điền cũng như Nho giáo chống
đối việc bán đất mà sau này đời nhà Tần, Thương Ưởng đã cho phép
(Zanker 193. C.A Maspéro314) Cho bán đất tức coi đất là của riêng
(thiên hạ vi gia) và nếu coi là công thì phải để chung rồi cứ thời hạn
mà phân phát “Quân cấp”đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng không được
giữ quá 10 mẫu thời Trần bên ta là hậu quả của thuyết quân phân này.
Gọi là công điền hay là đất của Vua chỉ khác danh từ mà thôi.Nhiều người
tỏ ý mỉa mai những luật cấm không ai được tậu đất làm của tư kẻo mất
quân bình. Mà không thấy rằng từ khi bãi bỏ thể chế đó đã cho phép mua
bán đất (Đời Tần) thì sự chênh lệch trở thành quá đáng: đưa đại chúng
vào cảnh nông nô cơ cực làm cớ cho cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc
Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ
còn 5% (Xem chẳng hạn Histoire de la Chine de rené Grousset: 77,114,
208, và 353) Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi một thể chế được bảo
trợ là vì nó gây điều kiện thuận lợi cho chủ trương Vương đạo. Tuyên bố
mọi đất của Vua tức là một lối thi hành câu “Thiên hạ vi công” nhờ
đó“Người 50 tuổi có lụa mà mặc, 70 tuổi có thịt mà ăn (Mạnh Tử VII.22)
Những cải cách điền địa hiện nay, những khẩu hiệu “đất đai thuộc người
cày người cấy” tuy khác thể chế mà tinh thần đều là “Hoạn bất quân” của
người xưa vậy.Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.
Nguyên tắc Thứ Tư: Lễ Trị
Con
người hễ đã giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao lên.Bởi vậy tiếp
theo chương trình “giáo chi”, “phú chi”ông chủ trương lễ tri “Đạo chi dĩ
chính, tề chi dĩ hình, dân miễn vô sỉ.Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu
sỉ thá cách”Dùng chính trị hình luật mà cai tri thì dân mới chỉ biết
tránh phạm luật, dùng đạo đức và lễ nhạc dân mới trau dồi nhân cách”
Việc
Lễ trị tuy phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho phái
quyền quý còn thường dân thì trị bằng luật “lễ bất hạ thứ dân, hình bất
thượng đại phu” (Couvreure 153) Tuy câu này có trong Lễ ký, nhưng chắc
do Pháp gia đưa vào, vì nó trái với chủ trương không phân biệt quí tiện
của Khổng Tử “Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại” (L.N.XX.20) Người quân
tử không phân biệt ít hay đông, lớn hay nhỏ, như không phân biệt Kinh
Thượng ở đâu cũng phải cư xử cung kính,trung tín “Cư xử cung chấp sự
kính. Dữ nhân trung.,Tuy chí Di Địch, bất khả khí dã” ( L.N.XIII.19) “cư
xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người khác) phải kính tôn.Đối
với tha nhân phải trung tín.Dầu sang miền Di Địch (Mường rợ 785) cũng
không thể bỏ được những nguyên tắc đó (không được phân biệt Kinh với
Thượng trong lối đối xử. Ở đâu cũng là người cả).
Trước
kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này
mới mở rộng đến toàn dân. Đó là việc làm của Thưởng Ưởng nhưng người cổ
động đâu tiên là Khổng Tử (C.A. Maspéro P.95) Và lễ gia tiên,ban đầu
cũng dành cho quý tộc, về sau nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới
toàn dân không phân biệt sang hèn (R. Grousser, Histoire de la Chine
(P.15). Như thế không thể bảo Khổng Tử phân biệt qúy tiện, mà chính ông
là người muốn đại chúng hóa lối cai trị bằng Lễ.
Bởi
nó là lối cai trị trung dung giữa hai Thái Cực là hình pháp và thả
lỏng,và là lối xứng hợp quan niệm con người cao cả hơn hết như sẽ bàn
sau.
Nguyên Tắc Thứ Năm:Thành Tín
Lể
trị là một lối cai tri tôn trọng người dân; coi người dân như người
cộng tác với chính quyền. Đã nói đến cộng tác thì chữ Tín là cần “Thượng
báo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình (L.NXIII). Nếu người trên thành
tín thì không ai không hết tình..Đã tín thì phải coi ý dân làm trọng.Bên
phía pháp trị coi trọng thần lực và dùng quyền uy vũ lực, ít chú ý đến
lòng dân.Bên Lễ trị thì chủ trương lất tín làm đầu “Kính ư dân hưng,
kính ư thần vong” (Tả truyện) Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu quỉ
thần thì sẽ bị diệt vong và “đắc thiên hạ hữu đạo, đắc kỳ dân, tự đắc
thiên hạ hỹ (Mạnh Tử IV.9) ,có một đường lối để được thiên hạ, đó là
được lòng dân và “đắc hồ khâu dân nhi vi thiên tử (Mạnh Tử VIIb, 14)
được lòng dân ở đồng bái là làm được thiên tử (nên đọc cả câu trong
sách)
Trong
ba vấn đề “túc thực, túc binh, dân tín nhi dĩ hĩ”|thì ông cho Tín là
quan trọng hơn cả bởi vì “dân vô tín bất lập” (L.N.XII.7) “Dân không
tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi”. Do đó chủ trương “Hữu nhơn tắc hữu
địa” có dân tự nhiên có đất (ĐH.10) để trả lời vào mặt ông cai trị
chuyên lo mở rộng đất đại, tích chứa giầu sang mà không chú ý được lòng
dân.Ông ghét nói đến chiến tranh binh lực“Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ
đức dã” (L.N. XIV.35) con ngựa ký được xưng tụng không vì có sức mạnh mà
vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát huy chủ trương chống bạo lực rộng rãi
“người hiều chiến thì tội chém chưa đủ đền”(nhất tướng công thành vạn
cốt khô) và nhân đó gây ra trong văn hóa Viễn Đông một bầu khí “trọng
văn khinh võ” khác hẳn ở xã hội chẳng hạn cũa Phlaton “luôn luôn nói đến
chiến tranh binh lực”
Thân hữu có thể đọc đầy đủ trong KIM ĐỊNH Nho giáo nguyên Thủy ) (4*)
C. BÁ ĐẠO.
Bá
đạo là dùng vũ lực và luật pháp (Cũng gọi là Pháp trị) để cai trị dân.
Có điều danh từ Pháp trị ở đây chúng ta phải để ý có sự phân biệt rõ rệt
như sau:
– Thời quân chủ Bá đạo dùng luật pháp để cai trị dân và gọi đó là “Pháp trị” (Khác với “Đức Trị” “Nhân Trị”của Vương Đạo)
–
Thời Dân Chủ cũng dùng luật pháp để cai trị và gọi là thượng tôn luật
pháp. Nhưng có sự khác nhau giữa “Quân chủ Pháp trị” và “Dân chủ
Pháp Tri
+ Quân chủ Pháp trị= (luật Pháp do nhà Vua và quan lại triều đình tự lập ra- Tất nhiên không có ý kiến của dân chúng)
+
Còn Dân Chủ Pháp trị= (Luật pháp do những vị “Nghị sĩ hay dân biểu”là
những người đại diện cho dân soạn thảo ra- tức luật pháp do ý kiến của
dân chúng)Luật Pháp của nền “Dân Chủ Pháp trị ”do Hiến Pháp qui định.
Tại
Trung Hoa Bạo chúa Tần Thủy Hoàng là tiêu biểu cho đường lối Bá đạo
(5*… Bá Đạo là phương pháp dùng vũ lực.+ luật pháp của kẻ cầm quyền bắt
dân chúng phải răm rắp tuân theo. Để thi hành bá đạo Tần Thủy Hoàng chủ
trương đốt sách chôn học trò.( học trò là tiếng nói của kẻ sĩ- rất nguy
hiểm cho chế độ độc tài cần tiêu diệt từ trong trứng nước- Hai hành động
tàn ác này của Tần Thủy Hoàng nhằm “triệt tiêu”mầm chống đối tại trong
nước.. Không cho tiếng nói chống đối của người dân được cất lên hay thậm
chí lời bàn tán xầm xì trong dân chúng! Trên cả nước, chỉ có tiếng nói
hay pháp lênh duy nhất- là luật pháp của triều đình ban
ra bắt dân phải tuân theo)
B.2 Thời Đại Dân Chủ Nay
A- Cơ chế Tư Do Dân Chủ.
“Thế
chế hay chế độ chính trị là mô hình tổ chức nhân xã, nói một cách dễ
hiểu, là tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp của một cộng đồng
con người.
Người
ta thấy có chế độ độc tài,chế độ dân chủ. Trong chế độ độc tài có nghĩa
là chế độ mà quyền hành trong tay một người hay một nhóm người
(oligarchie) Trong chế độ dân chủ là chế độ mà quyền hành nằm trong tay
người dân, người dân có quyền quyết định số phận mình, người ta thấy có
dân chủ trực tiếp như ở Thụy Sĩ, những quyết định quan trọng đều do
trưng cầu dân ý quyết định và chế độ dân chủ gián tiếp người dân bầu ra
đại diện của mình trong nhiệm kỳ, những người được bầu này thay mặt dân
lấy những quyết định .Hiện nay phần lớn nhũng chế độ dân chủ là những
chế độ dân chủ gián tiếp.
Trong
chế độ dân chủ gián tiếp, người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa
Kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh, và phần lớn các quốc gia trên thế
giới.Người ta cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống chế, nửa đại nghị
chế như ở bên Pháp.
– Sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người.
Thề
chế chính trị giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển đời sống
con người. Vì vậy có người ví thể chế chính trị như mảnh đất và người
dân như hạt mầm.Con người dù là da vàng, da trắng hay da đen có thể ví
như hạt mầm, nếu hạt mầm này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống
dưới một chế độ tốt,chế độ tôn trọng con người, những quyền căn bản của
con người được bảo đảm, đồng thời được hướng dẫn , dìu dắt bởi một nền
giáo dục tốt, một hệ thống an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm này sẽ kết
bông nẩy trái… người dân sẽ sống trong an lạc hạnh phúc…Điển hình như
quốc gia Nam Hàn. Từ khi chế độ độc tài chuyển sang chế độ dân chủ đất
nước đã vô cùng phát triển:
“Nển
khoa học kỹ thuật tân tiến hiện nay được coi là ngành điện thoại cầm
tay, vì trong đó là cả một cái máy điện toán tối tân, thế mà Nam Hàn với
hãng Samsung đứng đầu trong việc sản xuất và bán trên thị trường đã
lâu, trên cả hãng Apple của Hoa Kỳ và hãng Nokia của Phần Lan. Ngành xe
hơi cũng vậy, hãng Kia của Nam Hàn mặc dầu mới xuất hiện nhưng số lượng
bán cũng không thua gì những hãng quốc tế nổi tiếng từ lâu đời khác như
hãng General Motor, Toyata, Wolkswagen, Renault.Nam Hàn từ mấy chục năm
nay đã nổi tiếng về giáo dục, người thợ Nam Hàn có một trình độ hiểu
biết tổng quát đứng đầu thế giới.Người chuyên viên Nam Hàn cần cù làm
việc, chịu khó học hỏi đi làm nơi nào cũng được trọng.Bằng cớ là hai tổ
chức quốc tế quan trọng nhất thế giới là Liên Hiệp Quốc và ngân hàng
quốc tế , đều được cầm đầu bởi người Nam Hàn.
Được
như vậy tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một trong những lý do chính
đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tư do, dân chủ, mặc dầu chế
độ này mới được thiết lập vào khoảng thập niên 80.
Không
nói đâu xa, chúng ta trở về Việt nam thời cận đại.Hai chế độ miền Nam
Việt Nam thời trước 1975 là hai chế độ cộng hòa, Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng
Hòa. Hai chế độ này, vào thời đó có thể so sánh với những nước dân chủ
tiên tiến, nhưng nó là một trong những nước dân chủ đầu tiên ở châu Á,
chỉ thua có Nhật. Chính vì vậy mà miền Nam cũng đã phát triển hơn cả Nam
Hàn và Đài Loan lúc bấy giờ.Nếu tính theo sản lượng đầu người hàng năm
thì vào cuối thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sản lượng của miền Nam Việt Nam là
118$ trong khi đó cũng của Nam Hàn và Đài Loan là trên dưới 80$.Sự phát
triển của miền Nam được ngay những người cộng sản công nhận, như ông Lê
Đăng Doanh, “nhà kinh tế Cộng sản , trong một bài phỏng vấn của đài BBC
cũng công nhận là sau 1975 ông vào miền thăm Miền Nam đầu tiên, ông đã
phải ngạc nhiên về trình độ phát triển,ông đi thăm những vùng quê, ông
thấy nơi nào cũng có điện, có máy cầy, đời sống người dân tương đối đầy
đủ. Nhà văn Dương Thu Hương cùng với “đoàn quân chiến thắng” vào miền
Nam, trước đới sống dân miền Nam, bà đã sững sờ bà tìm một góc phố, như
lời bà kể, để khóc, và sau đó tuyên bố “Tôi đã cùng một đoàn quân chiến
thắng nhưng mô hình tổ chức xã hội của kẻ chiến bại lại văn minh hơn mô
hình của kẻ chiến thắng.” Chính “Luật người cầy có ruộng” của thời Đệ
Nhị Cộng Hòa Việt Nam đã được chính phủ Đài Loan bắt chước và đem áp
dụng thành công ở nước này.Chỉ tiếc rằng những gì đã được xây dựng ở
miền Nam đã bị cộng sản đổ xuống sông xuống biển. Chính vì vậy mà dân
miền Nam đã có câu “Năm đồng đổi lấy một xu, người khôn đi học, thằng
ngu làm thày.(“6*)
B. Chế Dộ Độc Tài Toàn Trị Cộng Sản:
Ngược
lại với Nam Hàn,chế độ Bắc Hàn là một chế độ cộng sản độc tài, người
dân sống dưới chế độ này không những không thể phát triển được mà hàng
năm còn bị nạn đói hoành hành từ bao chục năm nay.Ngoài xã hội thì những
hãng xưởng thiếu điện để chạy nhà máy, trong khi những công thự chỗ tôn
thờ lãnh tụ thì điện chan hòa cả ngày lẫn đêm. Giáo dục là một nền giáo
dục nhồi sọ, từ trẻ em cho đến người lớn chỉ biết vâng lời, gọi dạ bảo
vâng, nhắc lại những khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch…Ngừơi ta nói “chế
độ độc tài là chế độ cái loa, cái còng và cây súng” là vậy.
Nhìn
vào lịch sử cận đại,2 chế độ cái loa, cái còng và cây súng là chế độ
độc tài phát xít Hitler và chế độ cộng sản. Cả hai đều dựa trên quan
niệm triết lý,tư tưởng bất bình thường: Hitler cho rằng chủng tộc Aryen
là chủng tộc tinh khiết, không pha trộn với những chủng tộc khác Đây là
một điều vô cùng phản khoa học.Theo Hitler dân tộc Đức tiêu biểu cho
chủng tộc này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới.
Chính
vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại phát động chiến tranh khắp nơi.
Marx thì cho rằng lịch sử con người là bạo động, là đấu tranh giai cấp,
không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn Thư Cộng Sản “Lịch sử nhân loại từ
xưa tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”Đây cũng là một cái nhìn quá
phiến diện và tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học, như những người
cộng sản bắt đầu bởi Marx thường rêu rao “Khoa học lịch sử, Khoa học
biện chứng” Không cần chứng minh dài dòng, chúng ta chỉ nhìn chính chúng
ta và những người chung quanh, xét cuộc đời thì chúng ta rõ:Bình thường
con người muốn sống hòa bình.
Con
người chỉ dùng bạo động trong những trường hợp bất bình thường.Điều này
đúng với cả lịch sử của những quốc gia. Marx và những người cộng sản đã
lấy cái bất bình thường làm cái bình thường, nên từ lý thuyết cho đến
chế độ đã trở nên bất bình thường,bệnh hoạn. Đấy lại chưa nói đến ngay
từ lúc đầu,chế độ cộng sản, bề ngoài thì mang nhãn hiệu “Thế giới đại
đồng, anh em cộng sản”nhưng bên trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan,
bành trướng. Bề ngoài mang nhãn hiêu “Liên Bang các cộng hòa xã hội sô
viết (URSS), nhưng bên trong, Lenine, qua tay em của mình là Staline, vì
lúc đó Staline đã đặc trách về vấn đề các dân tộc chung quanh, bắt họ
đi theo Liên Sô. Bằng chứng rõ ràng là khi đế quốc Liên Sô sụp đổ năm
1989, thì những dân tộc này nổi lên đòi độc lập.
Chính
vì mang đầu óc quốc gia cực đoan, bành trướng, nên đã có những vụ tranh
chấp Nga-Hoa ở biên giới vào những năm 60, tranh chấp giữa Việt Cộng và
Trung Cộng, rồi đi đến chiến tranh năm 1979, tranh chấp Việt Miên rồi
cũng đi đến chiến tranh trước đó năm 1978.
Sau
khi Liên Sô sụp đổ thì Việt Cộng chạy sang thần phục Trung Cộng, mở đầu
bằng Hội nghị Thành Đô tháng 3/1990, và không ngừng ký những hiệp ước
dâng đât nhượng biển cho Trung Cộng. Nhưng vì Trung Cộng từ xưa đã mang
mộng bành trướng đế quốc, nay lại được cấy vào vi trùng bất bình thường
Mác Lê, nên mộng bành trướng càng ngày càng mạnh. Mặc dầu cả 2 bên, lúc
nào cũng rêu rao “Bốn tốt và mưới sáu chữ vàng”nhưng đùng một cái, Trung
Cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam.
Nhiều
người vì tin tưởng ở những câu nói đầu môi chót lưỡi của cộng sản “Tình
huynh đệ tốt, Môi hở răng lạnh, Tình đồng chí cộng sản”đã ngỡ ngàng về
sự việc Trung cộng đặt giàn khoan dầu ở quần đảo Hoàng sa, thuộc về chủ
quyền Việt Nam.Thực ra nếu chúng ta xét lịch sử xa của cộng sản, thì
chúng ta không có gì ngạc nhiên.Trung cộng và Việt cộng đã nhiều lần
đánh nhau.
Bởi
lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa vẫn còn phải mang
cái ách chế độ cộng sản, lấy lý thuyết Marx làm nền tảng cho chế độ kêu
gọi đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi chiến tranh triền miên, không
những chiến tranh chính nội bộ, mà còn chiến tranh với nước ngoài, chừng
đó hai dân tộc không thể nào sống hòa bình với các nước chung quanh và
với cộng đồng thế giới.
Người
dân sống dưới chế độ độc tài phát xít hay độc tài cộng sản không những
chỉ như một hạt mầm gieo trên một mảnh đất khô cằn mà còn bị giới lãnh
đạo dùng như những bia đỡ đạn cho tham vọng bành trướng và đế quốc của
mình.
Vì
vậy,ngày hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát triển hay
phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại trào lưu tiến
hóa của con người là như vậy.
Quả
thực nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh, từ trẩy hái qua du mục, quân
chủ, tới dân chủ ngày hôm nay, mỗi một nền văn minh tương xứng với một
mô hình tổ chức nhân xã khác nhau hay nói một cách rõ hơn, hiện đại hơn
là cách tổ chức chính trị, kinh tế khác nhau, từ thể chế gia tộc, bộ
lạc, tới quân chủ và dân chủ.
Nước
Tàu và Việt nam hiện nay nói riêng và các nước phương Đông nói chung
trong đó có cả các nước Trung Đông, những nước này đã có một nền văn
minh rất sớm,hơn cả Tây phương.Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài
quá lâu.Ngày hôm nay chế độ cộng sản ở Tầu và Việt Nam cũng chỉ là một
chế độ quân chủ phong kiến trá hình.Chế độ cộng sản để rồi sẽ tắt luôn
như một nhóm lửa trước khi tàn.
Tây
phương mặc dầu văn minh đến chậm hơn Đông phương, nhưng đã biết từ bỏ
sớm chế độ quân chủ để bước sang chế độ dân chủ, và kinh tế thị trường
đã phát triển rất mạnh, vượt mặt Đông phương.
Đối
với những chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông cấm
đoán ngay cả những người phụ nữ làm đủ mọi nghề, ra đường phải bịt mặt,
tới chế độ cộng sản tước hết mọi quyền căn bản nhất của con người, người
xưa có câu “Trễ còn hơn không” Hãy từ bỏ thể chế chính trị quân chủ
phong kiến, độc tài cộng sản để bước sang chế độ dân chủ tôn trọng những
quyền căn bản của con người, trong đó có nam nữ bình quyền, tự do tư
tưởng và ngôn luận, thì mới hy vọng theo kịp những nước văn minh. Gương
Nam Hàn và Đài Loan cho ta thấy rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài
vào thập niên 80, để bước sang chề độ dân chủ, thế mà ngày hôm nay cả 2
nước đã có thể sánh cìng với những nước văn minh khác trên thế giới.
Đất
nước và dân tộc đang đứng trước hiểm họa diệt vong, trong thì đảng cộng
sản mặc tình cấu kết với ngoại bang bán đất dâng biển, hèn với giặc, ác
với dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người dân,
ngoài thì Tầu cộng lộng hành, ngang nhiên kéo dàn khoan đến vùng biển
Việt Nam. Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải
thay đổi thể chế chính trị từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do, vì có
như thế, giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được
các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự Do và Hòa bình trên thế giới cô
lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tầu cộng (7*)
IV. Văn Hóa Quốc Gia trong thời đại Toàn Cầu Hóa Văn Hóa
“Trong
hiện tình văn hóa thế giới hôm nay có thể khẳng định rằng bên cạnh quá
trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra như một xu thế tất yếu và đang
trở thành đề tài sôi nổi và nóng bỏng trên thế giới thì chúng ta còn
nhận ra một trào lưu toàn cầu hóa, thậm chí còn quyết liệt hơn, sâu sắc
hơn,đó là toàn cầu hóa về văn hóa.
Với
tình đặc thù và tính độc lập tương đối của mình, quá trình toàn cầu hóa
diễn ra rất gần song song với toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa
kinh tế nói riêng. Trên cơ sở sự tăng cường mạnh mẽ của toàn cầu hóa
kinh tế,sự tăng cường mạnh mẽ của các thành tựu khoa hoc,công nghệ, đặc
biệt là giao thông và viễn thông ; sự tăng cường giao lưu ảnh hưởng và
xích lại gần nhau giữa các dân tộc, các quốc gia , khiến văn hóa các dân
tộc có nhiều cơ hội giao lưu ảnh hưởng,cọ sát,học hỏi chia sẻ lẫn
nhau.Trong quá trình như vậy, một mặt văn hóa các dân tộc vừa phong phú
đa dạng hơn, mặt khác cũng không loại trừ sự mất mát, thui chột của các
nền văn hóa, các yếu tố văn hóa lỗi thời, không còn sức sống cạnh tranh.
Như vậy,cũng như toàn cầu hóa nói chung, mà cốt lõi của nó là toàn cầu
hóa kinh tế, thì toàn cầu hóa văn hóa cũng đương nhiên hiện hữu. Vấn đề
chỉ còn là toàn cầu hóa văn hóa như thế nào, theo tiêu chuẩn nào, mức độ
nào mà thôi.
“Toàn
cầu hoá văn hoá có thể được hiểu là quá trình văn hoá các dân tộc,
thông qua giao lưu, dung hợp, xâm nhập và bổ sung lẫn nhau, không ngừng
phá vỡ tính hạn chế về khu vực và về mô hình của văn hoá dân tộc mình và
trong sự bình phán và chọn lọc của loài người mà đạt được sự hoà đồng
văn hoá, không ngừng chuyển các nguồn khu vực của văn hoá dân tộc mình
thành các nguồn hưởng thụ chung, sở hữu chung của loài người. Tuy nhiên,
điều cần chú ý là toàn cầu hoá văn hoá là một quá trình bao gồm sự xung
đột, giao lưu, dung hợp giữa các nền văn hoá dân tộc, đồng thời bản
thân nó cũng là một kết quả, tức là các nguồn khu vực của văn hoá các
dân tộc có thể được loài người cùng hưởng cùng sở hữu. Nhưng nó tuyệt
nhiên không có nghĩa là sự mất đi của các nền văn hoá dân tộc để hình
thành nên một thứ văn hoá có tính toàn cầu thống nhất,liên thông, phổ
quát”.
Như
vậy, toàn cầu hoá văn hoá đã tạo ra những cơ hội, thách thức và rủi ro
đối với các nền văn hoá khác nhau trong việc quảng bá nền văn hoá của
mình ra bên ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá, các nền văn hoá đều
bình đẳng, giao lưu với nhau trong thế bình đẳng, đều có những chỗ
“mạnh”, những chỗ “yếu”, đều có “quyền” tự do nhìn nhận, lựa chọn, thử
nghiệm để tiếp nhận từ “kẻ khác” những gì mà họ muốn tiếp nhận.
Tuy
nhiên,không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
với những mức độ giống nhau và đều được bình đẳng như nhau. Khi tham
gia vào toàn cầu hóa, các nước phát triển có rất nhiều lợi thế.Phần còn
lại của thế giới thì chịu thiệt thòi về nhiều mặt và gặp nhiều thử
thách.Mặc dù vậy, trong thế giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy
chay hoàn toàn toàn cầu hóa hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa.Vấn
đề đối với tất cả các nước đang phát triển. đặc biệt là các nước kém
phát triển, là phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để vượt qua
thử thách và chớp lấy thời cơ; trong quá trình hội nhập thế giới, phải
có ý thức, giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phồn vinh” (8*)
V. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG VĂN HÓA
Càng
ngày người ta càng nhận thức rõ tầm quan trọng, quá quan trọng của văn
hóa.Có thể nói “Vai trò” và “Chức năng” Văn Hóa giữ vai trò quyết định
toàn bộ “Sinh Mênh” con người,xã hội, dân tộc, quốc gia và nhân loại.
Vấn đề là chúng ta có “quán chiếu sâu sắc” nhận thức rõ vai trò và chức
năng văn hóa để “hiện thực” và “diệu dụng” văn hóa trong thời đại của
chúng ta hay không?!
A. VAI TRÒ VĂN HÓA:
Văn Hóa có các vai trò chính yếu sau đây:
1-Văn
Hóa giữ vai trò khai sáng trí tuệ con người.Không những trên phương
diện Triết học, Văn học, Luật học, Khoa học mà còn trong Chính Trị học,
Văn Hóa học v.v…
2-Văn
hóa có vai trò chủ động đấu tranh,giúp con người làm chủ thiên nhiên,
làm chủ xã hội, vượt thoát, giải thoát chính con người mình…hòa đồng
cùng vũ trụ, vạn hữu.
3-Văn hóa giữ vai trò:Truyền sinh:SỐNG CÒN NỐI TIỀN HÓA
4- Văn hóa có vai trò: Chống cái ác, Phát huy cái thiện, dẫn đưa con người tới Chân Thiện Mỹ.
5-
Văn Hóa có vai trò :Tôn vinh Sự Sống, Bảo tồn Sự Sống, Phát Huy Sự
Sống,Thăng hoa Sự Sống và Thành toàn Sự Sống con người, Dân tộc, Quốc
gia và Nhân loại, Liên hành tinh.
Ngoài 5 vai trò chính yếu trên, Văn hóa còn có các chức năng có tính cách đa năng, đa hiệu như sau
B: CHỨC NĂNG VĂN HÓA
1-Văn hóa có chức năng tìm tòi,học hỏi thảo luận nghiên cứu.
2-Văn hóa có chức năng “Úng xử” với tha nhân, “Thích nghi” với mọi hoàn cảnh…
3- Văn hóa có chức năng “Sáng tạo”, “Phát huy sang kiến”, “Phát minh” Khoa Học Kỹ Thuật.
4 Văn hóa có chức năng “Giáo dưỡng” “Giáo hóa” con người.
5-
Văn hóa có chức năng tạo ra “Xung đột” “Đối kháng” “Mâu thuẫn” “Tán tụ”
“Bảo thủ” “Tiến bộ” theo qui luật “Âm Dương” “Sinh Khắc Chế Hóa”.
6- Văn hóa có chức năng “Điều hợp” “Hóa giải” mọi mâu thuẫn trong cuộc sống.
7- Văn hóa có chức năng “Chuyển hóa” thời cuộc. “Thăng hoa con người” và “Thăng hóa xã hội”
8- Văn hóa có chức năng “Thẩm thấu” sâu rễ bền gôc tạo nên Thuần Phong, Mỹ Tục của mỗi Dân Tộc…
9-Văn hóa có chức năng “Hội nhập” con người vào hoàn cảnh mới, cộng đồng mới…
10-Văn hóa có chức năng “Vượt thoát” và “Sáng Hóa”
11-
-Văn hóa có chức năng “Chọn lọc”, “Tiếp thu” tinh hoa văn hóa của các
dân tộc khác,đồng thời “Đào thải” những cổ hủ lỗi thời.
12-Văn hóa có chức năng “Hiện đại hóa” xã hội thời đại.
VI. SỨ MẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA.
Có
người quan niệm rằng “văn hóa thì “trường cửu”, còn chính trị là “nhất
thời” rồi đi đến quan niệm: Cần phải tách “chính trị” ra khỏi “Văn hóa”
…Nhận định trên văn hóa có giá trị trường cửu hơn chính trị thì đúng,
nhưng nhận định thứ hai “Tách chính trị ra khỏi văn hóa lại là sai! Văn
hóa và chính trị tuy là hai bộ môn có những điểm khác nhau, nhưng lại có
nhiều điểm giống nhau nhất là về mục đích và cứu cánh.Hơn thế nữa Văn
hóa còn là “nguyên lý” “nguyên tắc” hướng dẫn chính trị, phục sự con
người. Chỉ có nền chính trị vô nhân, vô đạo như chính trị độc tài “quân
phiệt” độc tài “giáo phiệt”kiểu độc tài Hồi giáo cực đoan” hay chính trị
“độc tài toàn trị cộng sản” mới lợi dụng văn hóa, dùng văn hóa là công
cụ phục vụ “chính trị” bá đạo thì không kể. Trong trường hợp nàyVăn hóa
bị “tha hóa” bởi chính trị và cả hai “văn hóa” cũng như “chính trị” đều
bị suy đồi…Không còn là văn hóa,chính trị tiến bộ hay văn hóa chân chính
nữa.Chúng ta không bàn đến loại “văn hóa suy đồi” ở đây.
Trở
về văn hóa chân chính tiến bộ, chúng ta đã nhận định văn hóa có chức
năng và vai trò vô cùng quan trọng như đã nói trên, nên văn hóa có “Sứ
mệnh” là điều hiển nhiên và tất yếu, không ai có thể phủ nhận được..
A. Sứ mệnh Văn Hóa theo kinh Dịch
Theo
học giả Nguyễn Đăng Thục, nguyên nghĩa danh từ Văn hóa của tây phương
có thể tìm thấy ý nghĩa tương đồng rút từ “Lời thoán” của Kinh Dịch:
“Quan thiên văn dĩ sát thời biến, quan nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ”
(Nhìn hiện tượng trên trời để xét sự biến đổi của thời tiết. Nhìn hiện
tượng của nhân quần xã hội để hóa nên thiên hạ, thay đổi thế giới) Theo
cái nhìn của Kinh Dịch: Văn hóa có chức năng và sứ mạng thay đổi nếp
sống con người và thay đổi cả vận mạng thế giới.Sứ mạng văn hóa chỉ tóm
gọn như vậy thôi. Lối nói của Kinh Dịch là lối nói “cô đọng” “hàm súc”
ít lời mà nhiều ý, đòi hỏi chúng ta phải trầm tư sâu sắc mới lĩnh hội
được hết ý tứ của người xưa! (Xin xem định nghĩa văn hóa thứ hai trong
bài “Bàn về 25 định nghĩa văn hóa của Chu Tấn cũng trong tuyển tập này)
B. Sứ mạng Văn Hóa theo Lý Thuyết Gia Lý Đông A:
Cụ
Nguyễn Hữu Thanh tức Lý Đông A (9 *) Tổng Thư Ký của Đảng Đại Việt Duy
Dân và cũng là nhà Văn Hóa lớn của Việt Nam, thế giới có đưa ra 5 lời
thề cho các chiến sĩ cách mạng của Đảng Đại Việt Duy Dân như sau:
1- Thề Giác Biện chứng Lớn
2- Thề Tu Tính Mệnh Ta
3- Thế Cứu Nòi Giống Việt
4- Thề Thương Loài Người Khó
5- Thề Cùng Vũ Trụ Hòa.
Qua
5 lời thề trên tuy Lý Thuyết gia Lý Đông A không nói đến danh từ “Sứ
mạng văn hóa” nhưng xét vào nội dung 5 lời thề nói trên,đích thực chúng
ta thấy đây là 5 sứ mệnh lớn của Văn Hóa Chính Trị Việt Nam.
Lời Thề 1: Thề Giác Biện Chứng Lớn:
“Biện chứng Lớn” ở đây không phải là “Biện chứng
pháp Duy Tâm” ( “Idealistic dialectic” của Hegel) hay
“Biện Chứng Pháp Duy Vật” (Materialistic dialectic”
của Karl Marx) mà là Duy Dân Tung Hợp Biện Chứng
của Lý Đông A).
Lời Thề 2: Thề Tu Tính Mệnh Ta.
Các cụ ta xưa có câu: “Từ Thiên tử (Vua) cho đến thứ
dân ai ai cũng phải lấy việc TU THÂN làm gốc ( Tu
thân vi bản)
Lời Thề 3: Thề Cứu Nòi Giống Việt:
Dân tộc Việt Nam bị “linh lạc” bị “điêu linh thống
khổ” dưới ách đo hộ Tầu, thực dân Pháp-Nhật, rồi C.S
nên rất cần phải cứu nguy.
Lời Thề 4:Thề Thương Loài Người Khó:
Chỉ đại đa số nhân loại bị nghèo khổ áp bức bóc lột trên toàn thế giới
Lời Thế 5:.Thề Cùng Vũ Trụ Hòa:
Chỉ khi nào người dân Việt chúng ta hoàn thành được 4
lời thề trên, tâm hồn mình mới được thảnh thơi,tự tại
hòa đồng cùng Vũ Trụ.
Năm
lời thề của Lý Thuyết Gia Lý Đông A lớn lao thay! Vĩ đại thay! Cao cả
vô cùng….Đây cũng chính là SỨ MẠNG CAO TỘT CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM.Lý thuyết gia Lý Đông A còn gián tiếp, bí nhiệm khuyên chúng ta: “
SINH MÊNH VIỆT NAM LUÔN GẮN BÓ VỚI SINH MÊNH NHÂN LOẠI KHÔNG THỂ TÁCH
RỜI.”.
C. Sứ Mạng Văn Hóa theo Học Giả Hồ Hữu Tường:
Trong
cuốn Tương lai Văn Hóa Việt Nam Học giả Hồ Hữu Tường đã định nghĩa “Văn
hóa là cái gì làm cho con người trở thành NGƯỜI (Chữ Người viết Hoa)
Theo định nghĩa này thì sứ mệnh văn hóa Việt Nam sẽ vô cùng cao quí và
lớn lao. Hiện nay dân số Việt Nam ở trong nước là 95 triệu người (Quốc
nội và Hải ngoại) xấp xỉ 100 triệu người.Nếu trong tương lai văn hóa VN
có thể đào luyện cho 100 triệu người dân thường đều trở thành 100 triệu
CON NGƯỜI (Viết Hoa) thì nền văn hóa chính trị Việt Nam sẽ hùng mạnh
vinh quang và rực rỡ đến như thế nào….(Đây là “dự phóng” hay “giấc mơ
văn hóa” của học giả Hồ Hữu Tường. Xin tất cả độc giả và toàn dân Việt
Nam đều nên lắng nghe, chia sẻ và góp phần vào sứ mệnh văn hóa cao cả
vĩ đại này. (Xin xem lại định nghĩa văn hóa thứ 6 của học giả Hồ Hữu
Tường trong bài “Bàn về 25 định nghĩa văn hóa của Chu Tấn).
D. Sứ Mạng Văn Hóa theo Văn Hào André Malraux:
Nhà văn hào Pháp André Mailraux (10*) có định nghĩa Văn hóa như sau:
“Văn
hóa là tất cả các hình thái của nghệ thuật, tình yêu và suy nghĩ, những
thứ mà trong sự tồi tệ cũng như trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến cho
con người trở nên ít nô dịch hơn”.
Trong
định nghĩa này nhà văn hào André Malraux tuy xác định văn hóa có sứ
mạng giải phóng con người, thoát khỏi các chế độ và tất cả các hình
thức “nô dịch” con người Nhưng tác giả tỏ ra rất bi quan là qua tác dụng
và hiệu năng văn hóa trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến con người trở
nên ít nô dịch hơn!” Có nghĩa là “Thân phận con người- “Condition
humaine” trong nhân loại cho đến thế kỷ 20- thời đại mà André Malaux đưa
ra định nghĩa văn hóa vừa nói- Con người vẫn còn bị các hình thức “nô
dịch” tồi tệ chưa hết được!Phải thế không?
Thấp
hơn hay đặc biệt hơn, Văn hào Albert Camus định nghĩa “Văn Hóa là tiếng
khóc của con người khi đối diện với số phận”. Văn hóa chỉ có tính cách
“phản ứng”lại bằng “Lời than” hay “tiếng khóc”thôi sao? Điều này chúng
ta không lấy làm lạ vì Albert Camus còn là triết gia theo triết thuyết
Hiện sinh- Ông cho “cuộc đời là phi lý”-nhưng không bnông xuôi theo số
phận mà chống lại số phận, phản kháng lại số phận bằng bất cứ biểu hiện
nào…dù là “Lời than hay tiếng khóc”…cũng là cách phản kháng ….(11*)
Cùng
quan tâm, suy tư về “Sứ mạng Văn Hóa” song Lý thuyết gia Lý Đông A và
học giả Hồ Hữu Tường thì hoàn toàn tin tưởng và “lạc quan”. Trái lại hai
văn hào André Malraux và Albert Camus thì quá “dè dặt và bi quan”….Vậy
người làm văn hóa trong thời đại chúng ta nên có thái độ nào?
Thiết nghĩ, từ cuối thế kỷ 20 và bước sang đầu thế kỷ 21 chúng ta đã kinh qua bốn biến cố lịch sử lớn sau đây:
Một
là: Cuối thế kỷ thứ 20 nhân loại đã bùng nổ cuộc cách mạng truyền
thông- Internet- có tác dụng thu hẹp không gian và rút ngắn thời
gian:Chỉ một biến cố nhỏ xẩy ra-tân Phi Châu hay châu Đại dương –mấy
phút sau đã trở thành tin tức lan truyền khắp thế giới,…
Hai
là: Năm 1989 chế độ CS tại các nước Đông Âu và đế quốc CS Liên Sô sụp
đổ, chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và đã đánh dấu thời điểm “cáo
chung chủ thuyết sai lầm không tưởng Mac –Xít”.
Ba là: Vào đầu thế kỷ 21 đánh dấu kỷ nguyên “Toàn
Cầu hóa” từ văn hóa, chính trị, kinh tế, thương mại…vv…
Bốn
là: Năm 2011 “Đợt sóng dân chủ thứ tư” đã chính thức bùng phát và trào
dâng trên toàn thế giới… Với bốn biến cố lịch sử này nên “Độ gia tốc
chính trị Văn hóa”đã tiến rất nhanh, không còn trì trệ như trước nữa
.Đây là 4 chứng cứ lịch sử hùng hồn nhất, cho phép chúng ta khẳng định
người làm văn hóa trong thời đại hiện tại, không chỉ có niềm tin lớn,mà
còn có thái độ lạc quan có tính cách viễn kiến, thống quan và được kiện
chứng bằng thực tiễn lịch sử.Chúng ta cần quan niệm “Sứ mạng Văn Hóa”
quan trọng và lớn lao này, nhịp theo đà tiến của Lịch Sử Văn Hóa Toàn
Cầu Hóa.
E. Văn Hóa Việt Nam Trong Thời Đại “Toàn Cầu Hóa”
Có các sứ mệnh sau đây:
1- Khai sang trí tuệ con người, hình thành Minh Triết nhân loại.
2- Giáo hóa con người.
3- Làm cho cuộc sống lên hương, làm cho cuộc đời thêm tươi thêm đẹp. Văn hóa đem lại nguồn vui sống cho con người.
4- Thăng tiến con người, phát triển, thăng hóa xã hội trên mọi phương diện.
5- Văn hóa có sứ mệnh Diệt cái Ác để mưu cầu Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền cho con người và Xã Hội.
6- Văn hóa có sứ mệnh khuyến khích con người làm việc THIỆN, phụng sự Con Người, Xã Hội,Tổ Quốc và Nhân Loại, Liên Hành Tinh.
7- Giải Phóng con người ra khỏi mọi chế độ độc tài và nhiều hình thức “nô dịch” “nô lệ hóa” con người.
8- Thiết
dựng chế độ dân chủ (Tam quyền phân lập) trên qui mô thế giới, làm nền
tảng căn bản tiến tới chế đô “Nhân Chủ Quốc Gia” và“ Nhân Chủ Toàn Cầu”
9- Văn hóa có sứ mệnh gin giữ hòa bình và xây dựng nền Thái Hòa Nhân Loại
10- Sau cùng Văn Hóa có sứ mệnh khó khăn nhất và cũng cao đẹp nhất là giúp con người TỰ VƯỢT MÌNH VÀ TỰ THẮNG CHÍNH MÌNH
VII- KÊT LUẬN:
Từ
thời cổ đại, nhân loại đã khám phá ra sức mạnh hay sứ mạng của Văn
Hóa.Tuy nhiên theo bản chất văn hóa nặng về phần TRI (Lý thuyết) còn
Chính trị nghiêng về phần HÀNH.(hành động, thực hiện) nên trong thời
quân chủ vẫn thường diễn ra tệ trạng: “Minh quân’(Vua sáng suốt) thì ít
còn “Hôn quân” (Vua u tối) thì nhiều, “Thanh quan” thì ít còn “tham
quan ô lại” thì nhiều! Ngay cả sang thời đại Dân Chủ vẫn có một số
nước theo chế độ tài kiểu độc tài “Quân phiệt” độc tài “Giáo phiệt” kiểu
Hồi giáo cực đoan” hay nền chính trị độc tài toàn trị Cộng Sản!!!
Chính vì chính trị lấn át Văn Hóa, bắt Văn hóa phải làm “công cụ” cho
chế độ độc tài nên “Sứ mạng văn hóa” vẫn chưa được phát huy đúng
mức….khiến nhà văn hào Pháp André Malraux đã phải than thở : “Thân phận
con người” (Condition humaine) trải qua bao nhiêu thế kỷ vẫn còn bị
tình trạng “Nô dịch” hay chính trị “Nô lệ hóa con người
Tuy nhiên tình trạng tồi tệ này không thể là mãi mãi! Lịch sử phải sang trang….
Bước
sang thế kỷ 21 nhân loại đã tiến sang thời đại “Toàn cầu hóa Kinh tế”
“Toàn cầu hóa Chính tri” và “Toàn cầu hóa Văn Hóa: nên vấn đề “SỨ MẠNG
VĂN HÓA” cần phải làm sáng tỏ và tiến hành một cách dũng mãnh hơn
..Chúng ta khẳng định “Văn hóa Việt Nam có sứ mênh “Diệt cái Ác để mưu
cầu Tư Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Con Người và Xã Hội…
Văn
hóa có sứ mệnh thiết dựng chế độ Dân chủ (Tam quyền phân lập) trên qui
mô toàn thế giới, làm nền tảng căn bản tiến tới chế độ “Nhân chủ Quốc
Gia” và “Nhân Chủ Toàn Cầu” không là lời lẽ “khoa trương” hay “cường
điệu” mà là thông điệp Văn Hóa “Minh Nhiên”, “ Tự nhiên” vậy…
Chu Tấn
Tài Liệu Tham Khảo
(1*).Vấn đề nông dân đầu thế kỷ 21- Nguyễn Minh Cần (Nguồn: Đài RFI ngày 7-09-2012)
(2*) Phỏng Vấn Ông Trần Quang Thành về “Công Đoàn Độc Lập” (Nguồn: Đài RFA)
(3*) Vua Nghiêu: (2337 TCN-2258 TCN )-Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia
(4*) Kim Dịnh (Nguồn: Newvietart.com)
(5*) Tần Thủy Hoàng (259-TCN -210 TCN) –Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(6*) Sự quan trọng của Thể chế chính trị trong đời sống con người- Chu Chi Nam-(Nguồn: Đối Thoại
08-6-2014)
(7*) Tại sao chúng ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống giặc ngoại xâm- Chu Chi Nam (Nguồn: Đối Thoại 08-6-2014 )
(8*)Hue.edu./vn/vi/id129 Nhìn nhận thế nào về Toàn Cầu Hóa Văn Hóa- Đặng Thị Minh Phương…
(9*)Tiểu Sử Lý Đông A (1921-1947) Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(10*) Tiểu Sử André Malraux (1901-1975) Bách khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.
(11*) Thuyết Hiện Sinh qua Tư Tưởng các Triết Gia-Võ Công Liêm- (Nguồn:NEWVIETAR.COM
Posted in: Van Hoá
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét