- Thân như ý thông, Phạn (sa) ṛiddhi viṣaga-jñānaṃ, còn gọi là Thần túc thông: biến hiện tuỳ theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, chui vào trong núi… tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề chướng ngại.
- Thiên nhãn thông, sa. divyaṃ-cakṣuḥ-jñānaṃ: nhìn thấy tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian, nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
- Thiên nhĩ thông, sa. divyaṃ-śrotraṃ-jñānaṃ: nghe và hiểu hết mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
- Tha tâm thông, sa. paracitta-jñānaṃ: biết hết tất cả mọi ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo.
- Túc mệnh thông, sa. purvanivasānusmṛiti-jñānaṃ, còn gọi là Túc mệnh minh: biết được kiếp trước của chính bản thân mình và của chúng sinh trong lục đạo, từ một đời, hai đời cho đến trăm ngàn vạn đời trước đều biết rõ, nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm gì…
- Lậu tận thông , sa. āsravakṣaya-jñānaṃ: lậu tức là kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi. Lậu tận thông là dứt trừ toàn bộ kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, không còn sinh tử luân hồi trong ba cõi, được giải thoát hoàn toàn.
Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017
Ai là nhà Khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại ?
19:52
Hoàng Phong Nhã
No comments
Nhiều người không ngần ngại bầu
chọn nhà khoa học Đức gốc Do Thái, Albert Einstein là nhà khoa học vĩ
đại nhất thế kỷ 20, đồng thời là nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại,
vì ông đã nêu ra thuyết tương đối đặc biệt (the special theory of
relativity) vào năm 1905 và thuyết tương đối tổng quát (the general
theory of relativity) vào năm 1916, làm đảo lộn nhận thức của loài người
về khoa học, về những cái tưởng chừng như cố định vĩnh cửu không bao
giờ thay đổi như không gian và thời gian, khối lượng vật chất v.v…
Riêng tôi, có thể bầu chọn Einstein là
nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ 20, nhưng không vội bầu chọn ông là nhà
khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại, vì có một nhân vật lịch sử xứng đáng
hơn cho danh hiệu đó, người đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Siddhārtha Gautama) người sáng lập ra Phật giáo, sinh ra tại Ca Tì La Vệ (zh. 迦毘羅衛, sa. Kapilavastu thuộc nước Nepal ngày nay.
Nhiều người sẽ ngạc nhiên, vì Đức Phật
đâu có phải là nhà khoa học, ngoài ra Phật giáo cũng không có kiến lập
chân lý, vậy thì lấy gì để so sánh, đối chiếu với các lý thuyết của
Einstein ? Thật vậy, trước lúc nhập diệt, Phật đã phủ nhận toàn bộ lời
giảng dạy của mình, nói rằng : “Trong suốt 49 năm qua, ta chưa hề nói
một chữ nào” . Như vậy đem Đức Phật so sánh với Einstein thì thật là lố
bịch. Tuy nhiên trong thế giới vô minh, tương đối, Phật đã giảng rất
nhiều bộ kinh, nay tôi lấy những kinh điển có ý nghĩa như chiếc bè tạm
bợ đó, để thử đối chiếu một lần cho minh bạch về mặt khoa học của hai
nhân vật lịch sử vĩ đại đó của nhân loại, tôi nghĩ rằng bạn đọc có thể
rút ra được nhiều điều thú vị, bổ ích cho sự hiểu biết của mình về thế
giới.
1. Hiểu thế nào về thế giới ?
Với Thuyết tương đối đặc biệt, Einstein
nêu ra rằng không gian, thời gian, khối lượng vật chất không bất biến
như trong lý thuyết của Newton. Ông khám phá rằng thời gian là chiều
kích thứ tư không thể tách rời của không gian, do đó không gian và thời
gian nên được gọi chung là thời- không (Space-time) là một thực thể liên
tục (continuum) không gián đoạn. Ông còn khám phá rằng ánh sáng là vận
tốc cao nhất của vật chất trong chân không và vận dụng nó trong công
thức giản dị nhưng nổi tiếng nhất thế giới, nêu ra tính chất tương đương
giữa vật chất và năng lượng :
E=MC2 (E là năng lượng, M là khối lượng vật chất, C là vận tốc ánh sáng)
Thuyết tương đối được cho là một lý
thuyết cao siêu có rất ít người hiểu được, nhưng với thuyết tương đối
Einstein vẫn chưa thực sự hiểu rõ bản chất của thời-không, của khối
lượng vật chất. Vì vậy khi gặp phải hiện tượng rối lượng tử (quantum
entanglement) ông không hiểu được. Einstein sinh thời đã không hiểu
được, không biết tại sao một hạt photon có thể xuất hiện đồng thời ở hai
hoặc nhiều vị trí khác nhau, và khi hạt ở vị trí này bị tác động thì
lập tức hạt ở các vị trí kia cũng bị tác động y hệt, tức thời, bất kể
khoảng cách là bao xa, ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (spooky
action at a distance). Nếu cho rằng tín hiệu được truyền đi, thì vận tốc
phải gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng, điều đó trái với định đề của
chính Einstein nêu ra rằng ánh sáng là tốc độ cao nhất của thế giới vật
chất, không có vật gì truyền đi nhanh hơn ánh sáng, ánh sáng truyền
trong chân không là một hằng số bằng (qui tròn) 300.000km/giây, không có
vận tốc đầu, bởi vì ánh sáng không có khối lượng nên cũng không có quán
tính (nói nôm na là nó không có trớn). Gần đây, có người khám phá ra
rằng hạt neutrino có vận tốc nhanh hơn ánh sáng (306.000 km/giây) Khám
phá này nếu được công nhận, thì chỉ ra rằng Einstein có chút sai sót,
nhưng cũng chưa đi đủ xa để làm thay đổi nhận thức, chỉ gợi mở ý tưởng
rằng con người có thể đi ngược thời gian để thấy lại quá khứ (nếu đi với
vận tốc của hạt neutrino 306.000km/giây, trong khi ánh sáng đi với vận
tốc 299.792,5 km/giây, như vậy có thể bắt kịp ánh sáng và thấy lại quá
khứ)
Vậy Thích Ca có hiểu hiện tượng rối
lượng tử không ? Thời Đức Phật chưa ai biết có hiện tượng này, nhưng qua
những lời giảng của kinh điển, chúng ta có thể khẳng định Thích Ca biết
và có đáp án rõ ràng cho hiện tượng này. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Phật nhiều lần phóng hào quang hiển thị cho tứ chúng (tăng, ni, nam nữ
cư sĩ) tham dự, thấy vô lượng vô biên thế giới (biểu thị không gian) từ
quá khứ cho tới vị lai (biểu thị thời gian) và hằng hà sa chúng sinh
không thể đếm hết của mười phương thế giới (biểu thị số lượng). Phật có
đầy đủ thần thông (lục thông). A-tì-đạt-ma-câu-xá luận zh. 阿毗達磨俱舍論, sa. abhidharmakośa-śāstra, thường được gọi tắt là Câu-xá luận) có kể rõ lục thông là :
Lục thông, 六通 , tiếng Phạn ṣaḍ abhijñāḥ: Sáu phép thần thông, biểu hiện năng lực tâm thức bát nhã của chư Phật và Bồ tát.
Nhờ có thần thông, nên mặc dù không có
máy móc thiết bị gì cả, Phật nhìn thấu suốt cả Tam giới từ những vi trần
cực kỳ nhỏ như photon, neutrino, các hạt cơ bản hạ nguyên tử (subatomic
particles) như quark, electron đến các thiên thể vũ trụ thuộc tam thiên
đại thiên thế giới, Phật biết chúng chỉ là hạt ảo không có thật và gọi
chung là “hoa đốm trong hư không”. Kinh Pháp Hoa có nói rõ trong mười
phương thế giới có vô số Phật Thích Ca đang đồng thời thuyết pháp. Điều
đó chứng tỏ Phật biết hiện tượng rối lượng tử, tức hiện tượng một hạt
photon có thể xuất hiện đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau. Phật còn
biết chính vì không gian, thời gian, số lượng là không có thật, các đại
lượng đó chỉ hiện hũu trong tâm thức, nên một photon tại vị trí này bị
tác động thì lập tức photon ở vị trí kia bị tác động y hệt, không mất
chút thời gian nào vì không có việc truyền tín hiệu qua không gian.
Einstein nói “tác động ma quái từ xa” vì chưa hiểu thời-không và số
lượng là không có thật. Có điều gì chứng tỏ Phật biết thời-không và số
lượng không có thật ? Số lượng là số đếm của vạn vật, của hình tướng vật
chất. Không một hình tướng nào là có thật, vật chất là không có thực
thể, điều này Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh nói rất rõ :
(Này Xá Lợi Phất, các pháp đều là không
có thật, không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không
giảm. Vì trong cái không, không có vật chất; không có thọ, tưởng, hành,
thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc
pháp; không có cảnh giới của cái thấy, cho đến không có cảnh giới của ý
thức. Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già
chết, cũng không có hết già chết. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không
có Trí, cũng không có Đắc. Vì không có Sở Đắc, Bồ Tát dựa vào Trí Bát
Nhã, Tâm không dính mắc, vì không dính mắc, không có sợ hãi, xa rời điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn).
2. Lý thuyết Trường Thống Nhất
Einstein dành 30 năm cuối của cuộc đời
mình để nghiên cứu về một lý thuyết có thể giải thích được tất cả
(Theory Of Everything- TOE) mà ông gọi tên là Lý thuyết Trường Thống
Nhất (Theory of Unified Field), ông muốn thống nhất thuyết tương đối và
cơ học lượng tử nhưng cuối cùng thất bại, ông qua đời năm 1955 mà không
giải quyết được vấn đề. Thích Ca mặc dù sống trước thời đại của Einstein
đến hơn 2500 năm, nhưng đã tiên đoán thất bại của Einstein và những
người cùng chí hướng với ông, rằng không thể có TOE. Đức Phật đã cho một
ví dụ bằng câu chuyện người mù sờ voi, ghi trong Niết Bàn Kinh 涅 槃 经
“有王告大臣,汝牵一象来示盲者时,众盲各以手触。大王唤众盲问之:“汝见象类何物?触其牙者言:象形如萝菔根;触其耳者言如
萁;触其脚者言如臼;触其脊者言如床;触其腹者言如瓮;触其尾者言如绳。……王喻如来正偏知,臣喻方等涅槃经,又象喻佛性,盲者喻一切众生无明也。”
(Có một vị vua nói với đại thần, ngươi
hãy dẫn một con voi đến cho bọn mù xem. Những người mù dùng tay để sờ.
Vị đại vương kêu bọn mù lại hỏi : “Các ngươi thấy voi giống như vật gì ?
Người sờ cái ngà nói : voi giống như cái củ cải. Người sờ lỗ tai nói
giống nhánh lá ki. Người sờ chân voi nói giống như cái cối. Người sờ
lưng voi nói giống như cái giường. Người sờ bụng voi nói giống như cái
lu. Người sờ đuôi voi nói giống như sợi dây thừng… Vua tượng trưng cái
biết toàn thể của Như Lai (chánh biến tri 正偏知 ) Đại thần tượng trưng
Kinh Phương Đẳng Niết Bàn. Con voi tượng trưng cho Phật tính. Những
người mù tượng trưng cho tất cả chúng sinh vô minh.)
La bạc căn 萝菔根 (củ cải) Ki 萁 (lá ki) Cữu 臼 (cái cối)
Người mù không thể biết được cái toàn
thể, mà chỉ biết được phần mớ nào đó thôi. Người mù là ai ? Là nhà chính
trị, nhà triết học, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, văn nghệ sĩ và cả
bàn dân thiên hạ. Nói chung là tất cả chúng sinh, với cái biết của bộ
não, họ không bao giờ có thể đạt tới cái biết toàn thể.
Đức Phật kể câu chuyện người mù sờ voi
để biểu thị ý tưởng rằng trí óc duy lý của con người là hữu hạn, nó
không thể biết được cái toàn thể vì cái hiểu biết của nó dựa trên cơ sở
vô minh. Triết học và khoa học của loài người xây dựng trên nền tảng vô
minh, không biết rằng bản chất của thế giới là không, không có nghĩa lý
gì cả, nếu đi đến hiểu biết tận cùng thì sẽ gặp phải mâu thuẫn, phi
logic, lý thuyết trở nên phi lý không thể hiểu được, không thể chấp nhận
được. Điều này đã được nhà toán học Kurt Gödel phát biểu và chứng minh thành “Định lý bất toàn” công bố năm 1931. Định lý này được phát biểu thành 2 phần :
Định lý 1 :
Nếu một lý thuyết dựa trên một hệ tiên đề phi mâu thuẫn thì trong lý
thuyết ấy luôn luôn tồn tại những mệnh đề không thể chứng minh cũng
không thể bác bỏ.
Định lý 2 : Không tồn tại bất cứ một quy trình suy diễn nào cho phép chứng minh tính phi mâu thuẫn của một hệ tiên đề.
Ý nghĩa triết học của Định lý Bất Toàn
(Theorem of Incompleteness) là luôn luôn có mâu thuẫn trong bất cứ hệ
thống lý thuyết duy lý nào, Vật chất thì không có thực thể; cái Không
không có gì cả, không có nghĩa lý gì, thì lại có thể tạo ra vũ trụ vạn
vật; quark, electron chỉ là những hạt ảo không có thật, nhưng lại có thể
tạo ra thế giới thiên hình vạn trạng, trong đó có con người thông minh,
biết tư duy trừu tượng, biết sáng tạo ra đủ thứ vật dụng máy móc thiết
bị, nhưng không thể biết được cái toàn thể. Các cặp phạm trù mâu thuẫn
đều chỉ là một nhưng lại không phải là một.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh cũng nói rõ “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”
Lý trí của chúng ta biết nhà cửa, xe cộ,
thân ngũ uẩn của mình chỉ là huyễn ảo không có thật, nhưng hàng ngày ta
vẫn phải ăn uống, mặc, ở, vẫn phải cần tới nhà cửa, xe cộ. Không thể có
lý thuyết nào thống nhất được các mâu thuẫn đó cả, trí óc là bất lực.
Einstein bó tay. Nhưng Thích Ca thì không, bộ não không thể giải quyết
được vấn đề, nhưng không dùng bộ não thì lại giải quyết được, kết quả
không thể tưởng tượng nổi. Sinh Tử là qui luật tự nhiên, ai cũng nghĩ
thế, không ai thoát được, nhưng Thích Ca thân chứng được là không có
Sinh Tử và thoát khỏi Luân Hồi. Thích Ca không đi tìm TOE vì biết TOE
cũng ảo tưởng như hư không vô sở hữu, nhưng vì muốn cứu khổ cho chúng
sinh nên Thích Ca bày ra phương tiện gọi là Tứ Đế trong đó nói Khổ, Tập,
Diệt, Đạo để từ từ dẫn dắt chúng sinh mê muội đi dần tới giác ngộ. Một
phương tiện khác là Thập Nhị Nhân Duyên để giải rõ nguồn gốc của vạn
pháp, của chúng sinh. Các thuyết lý đó và rất nhiều kinh điển khác đều
chỉ là phương tiện tạm thời. Đến Bát Nhã Tâm Kinh thì Thích Ca nói rõ,
thật ra không có gì cả, tất cả chỉ là tâm thức biến hiện, giống như toàn
bộ hình ảnh, âm thanh, chữ viết, video trên màn hình đều là ảo, nhưng
chúng ta thấy là rất thật, dù sao cũng còn biết đó là ảo. Đến cuộc sống
đời thường thì tính chất ảo hóa cao cấp hơn gấp bội, vì ngoài thấy,
nghe, chúng ta còn sờ mó được, ngửi nếm được, có sự tiêu hóa, tăng
trưởng, chuyển đổi hình thái, khiến cho chúng sinh không còn biết đó là
ảo nữa, chỉ có bậc giác ngộ, kiến tánh thành Phật mới ngộ ra tất cả chỉ
là ảo hóa, là nằm mơ giữa ban ngày. Không gian, thời gian, số lượng,
người, vật đều không có thật. Chính vì vậy trong câu chuyện người mù sờ
voi, Phật nói thẳng thừng bọn người mù là thí dụ cho tất cả chúng sinh
vô minh (không loại trừ các nhà khoa học chuyên dùng trí óc để phân
tích, tổng hợp, nhưng không bao giờ biết được hết cái toàn thể).
Các nhà khoa học mơ tưởng đi tới Sao
Hỏa, là việc hết sức khó khăn. Nhưng Thích Ca chỉ một niệm là có thể đến
bất cứ đâu trong Tam giới (Tam giới còn rộng lớn hơn vũ trụ vì bao gồm
cả Sắc giới và Vô Sắc giới, trong khi vũ trụ chỉ là một phần nhỏ của
Dục giới, phần thấy được của Dục giới mà thôi). Vì vậy Thích Ca còn có
biệt danh là Như Lai. Ý nghĩa của Như Lai là “Tùng vô sở khứ, diệc vô sở lai cố danh Như Lai” (chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu gọi là Như Lai - Kinh Kim Cang ) Đó là chánh biến tri (hiện hữu khắp không gian thời gian, biết chính xác khắp mọi nơi)
Đi mà không đi vì pháp thân của Thích Ca
có mặt khắp không gian thời gian, hay nói cách khác Tam giới không có
thật nên đi với không đi cũng chẳng khác nhau. Đây không phải là nói
suông mà hiện nay chúng ta có thể thực hiện một phần, Chẳng hạn khi đưa
một bài viết lên mạng thì nó vốn là một vật ảo, có mặt ở khắp thế giới,
bất cứ chỗ nào, bất cứ giờ nào, nếu hội đủ nhân duyên thì có thể thấy
nó. Bây giờ việc gặp gỡ với bạn bè, người thân, dù họ ở bất cứ phương
trời nào trên thế giới là rất dễ dàng, vì tiếng nói, hình ảnh của ta là
những vật ảo, có thể xuất hiện đồng thời bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu
nhờ những công cụ như Skype hoặc Yahoo Messenger hay Windows Live. Thân
ngũ uẩn của ta cũng là một vật ảo nhưng ở một trình độ cao cấp hơn, chỉ
có những người có thần thông hay công năng đặc dị mới thực hiện được
thân như ý thông.
3. Làm sao xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho thế giới ?
Hầu hết chúng ta đều mong mỏi thế giới
hòa bình, ấm no và hạnh phúc nhưng không có cách nào thực hiện được. Thế
giới luôn luôn bất ổn, thiên tai dồn dập, bạo lực khắp nơi. Các cường
quốc luôn luôn ỷ mạnh hiếp yếu, muốn tạo lập trật tự thế giới theo ý
riêng của mình. Áp bức, bất công, tham nhũng, cưỡng bức luôn luôn xuất
hiện, chỉ khác là có nơi nhiều nơi ít mà thôi. Tại sao có tình hình như
thế ?
Trước hết nói về thiên tai. Khoa học với
khả năng có hạn không thể nào khắc phục được thiên tai. Động đất, sóng
thần, cuồng phong, mưa bão, núi lửa. Tất cả các thiên tai đó đều vượt
quá khả năng của khoa học. Phật pháp nói : “Tam giới duy tâm, vạn pháp
duy thức”. Liệu con người có thể rút ra một vài nhận thức và hành xử tốt
hơn trong cuộc đời dựa vào Phật giáo ? Thế giới là do tâm tạo, tâm thức
con người với những tập quán xấu như hung bạo, hiếu chiến, giết chóc
tất nhiên là có ảnh hưởng tới hòa bình thế giới, ai cũng thấy. Nhưng ít
ai hiểu rằng thiên tai cũng là do tâm tạo. Không có cái gì tự nhiên có.
Thế giới vật chất, thái dương hệ, mặt trời, hành tinh đều là cấu trúc
ảo, vì vậy mới xảy ra khủng hoảng Vật lý học mà các nhà khoa học hàng
đầu thế giới đã cảm thấy, khi môn cơ học lượng tử phát triển, rằng vật
chất không có thực thể, như Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan
Mạch, giải Nobel Vật lý 1922), Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người
Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy
tính), Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary,
giải Nobel vật lý năm 1963), Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết
người Đức, người phát minh ra nguyên lý bất định), Stephen Hawking (nhà
vật lý người Anh, mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học
của Đại học Cambridge), Thomas Samuel Kuhn (1922-1996, nhà vật lý Mỹ,
tác giả sách Cấu Trúc Các Cuộc Cách mạng Khoa học- Structure of
Scientific Revolutions)…, Phật giáo gọi cấu trúc ảo của vật chất là vô
thủy vô minh, Thiền gọi là thoại đầu. Tâm là lực tổng hợp của 4 lực cơ
bản của thế giới vật chất : Lực hấp dẫn (force de gravité, gravitation)
là lực hút giữa vật chất với nhau, có tác dụng ở mặt vĩ mô. Lực điện từ
(force électromagnétique, electromagnetism) tạo ra từ trường, trong đó
điện tích cùng dấu thì đẩy nhau, khác dấu thì hút nhau. Lực tương tác
mạnh (force interactive forte, the strong interaction) là lực liên kết
các hạt quark tạo ra hạt proton và hạt neutron, tạo ra sự vững bền của
hạt nhân nguyên tử và giữ cho electron chuyển động theo quỹ đạo nhất
định. Lực tương tác yếu (force interactive faible, the weak interaction)
tạo ra hiện tượng phóng xạ của các nguyên tố nặng (như uranium) tức là
giải phóng một số proton và neutron khiến nguyên tử dần dần bị phân rã.
Lực điện từ và lực tương tác yếu, từ năm 1983 khi khám phá hạt tương tác
boson W và boson Z thì có thể gom thành một lực chung gọi là lực tương
tác điện yếu (interaction of weak electromagnetic fields). Vì vật chất
là cấu trúc ảo nên Tâm lực có thể tác động để làm thay đổi. Các bậc giác
ngộ có thần thông, có thể làm được điều đó. Chẳng hạn Huệ Năng, Hám
Sơn, Đơn Điền đã làm thay đổi cấu trúc cơ thể của mình khiến nó trở nên
bất hoại mà không cần có sự can thiệp từ bên ngoài, không cần ướp xác gì
cả. Ngay cả những người chưa giác ngộ nhưng tâm lực đủ mạnh như Trương
Bảo Thắng, Hầu Hi Quý cũng làm được những việc thần kỳ như đi xuyên qua
tường, di chuyển cố thể vật chất như viên thuốc đi xuyên qua vỏ chai,
tiền giấy đi xuyên qua vách bê tông kho bạc của ngân hàng…Khi Phật giáo
nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” chúng ta phải hiểu rằng Tâm
chính là lực tổng hợp của 4 lực cơ bản của vật chất, Tâm là nguồn năng
lượng vô hạn. Thích Ca đã phát biểu điều đó từ rất lâu mà Einstein và
nhiều nhà khoa học hiện nay vẫn chưa hiểu.
Vũ trụ cũng chỉ là cấu trúc ảo, là nằm
mơ giữa ban ngày, vũ trụ là một trường thông tin mà tâm thức có thể tác
động, với dữ liệu khổng lồ vô hạn lấy từ a-lại-da thức. Loài người có
cùng một cộng nghiệp nên họ cùng thấy một vũ trụ giống nhau. Các loài
khác với cộng nghiệp khác, chúng thấy vũ trụ không giống như loài người
thấy. Khi tâm lực đủ mạnh thì có khả năng vận dụng, tức có lục thông, có
thể dời núi lấp biển hay tạo ra cả một thế giới khác, chẳng hạn Đức
Phật A Di Đà đã tạo ra thế giới tây phương cực lạc để tiếp dẫn những
người tha thiết muốn đến đó, nơi đó đất đai bằng phẳng, không có núi cao
vực sâu, cư dân hóa sanh chứ không phải thai sanh, cũng không phải cực
nhọc suốt ngày lo kiếm ăn như ở trần gian. Chúng ta có thể cho rằng đó
là một thế giới ảo tưởng không có thật. Đúng thế, nhưng nên biết rằng nó
cũng bình đẳng như trần gian, nghĩa là cõi thế gian cũng là ảo tưởng
tương tự như vậy và có nhiều ác trược hơn như thiên tai, bệnh tật, chiến
tranh mà thế giới kia không có. Thiên tai là sự báo động rằng nghiệp
xấu, nghiệp ác đang hiện hành, là quả báo của bất thiện nghiệp trong quá
khứ. Tại sao có luật nhân quả ? Luật nhân quả trong nghiệp chướng cũng
giống như lực quán tính trong vật lý học, điều đó là hoàn toàn tương
đồng. Khi ta tạo một lực thì xuất hiện một phản lực có cường độ tương
đương nhưng có chiều nghịch lại. Đó chính là nguyên lý của động cơ phản
lực. Trong thế giới vô hình, nghiệp lực cũng tác động theo đúng nguyên
lý của lực quán tính trong thế giới hữu hình. Khi ta tạo một nghiệp ác
hoặc nghiệp thiện lên người khác hoặc vật khác thì xuất hiện một phản
nghiệp tác động lại chính mình mà ta gọi là luật nhân quả. Có một nguyên
lý bao trùm vũ trụ vạn vật, đó là nguyên lý đối xứng. Khi có hạt
electron thì cũng có hạt positron đối xứng với nó, khi có vật chất thấy
được thì cũng có vật chất tối không thấy được. Nguyên lý đối xứng tạo ra
cặp phạm trù mâu thuẫn trong bất cứ lĩnh vực nào của thế giới dù là hữu
hình hay vô hình.
Thiên tai có nguồn gốc rất sâu xa, không
phải thô thiển như các nhà khoa học giải thích. Nên khi thấy hai ông
tăng cãi nhau về lá phướn bị gió động hay tự lay động, Huệ Năng bảo :
“Không phải gió động, cũng không phải phướn động, mà do tâm các ông
động” Lời nói đó có ý nghĩa rất sâu xa.
Một cá nhân khó có thể đủ sức làm thay
đổi cộng nghiệp của cả một cộng đồng hàng trăm triệu người, nhưng hiểu
rõ thì không còn than trời trách đất hay than thân trách phận mà có thể
bình tâm an nhiên thọ nghiệp, biết nghiệp cũng chỉ là giả tạm, lòng
không còn sợ hãi, như vậy cũng đủ bình an.
Giải quyết được thiên tai thì cũng sẽ
giải quyết được tất cả mọi họa hoạn theo cùng một cách thế như vậy.
Thích Ca dạy rằng hòa bình và hạnh phúc là do ở mình, là tâm trạng, tâm
thái chứ không phải do người khác hay vật khác quyết định, do đó Phật
giáo dạy nhẫn nhục và thường không tán thành các biện pháp bạo lực. Ta
thấy trong lịch sử khi Phật giáo bị người Hồi giáo tàn phá, giết hại,
càn quét khỏi quê hương Ấn Độ, người Phật giáo cũng không trả thù, không
cần trả thù, bởi vì gieo gió sẽ gặt bão, luật nhân quả sẽ biểu hiện,
chỉ sợ người Hồi giáo không tránh khỏi quả báo.
Giáo lý của Phật giáo tự nó đã có sức
đóng góp cho hòa bình và hạnh phúc của nhân loại, trong khi khoa học tuy
đem lại nhiều ích lợi, tiện nghi vật chất, cơm ăn, áo mặc, cái đó không
thể phủ nhận, nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều đau thương chết chóc
như chất độc hóa học, chất độc màu da cam, các loại vũ khí hủy diệt như
bom nguyên tử, hay vũ khí thông thường như mìn, bom đạn, hàng ngày giết
hại không ít người. Einstein ân hận không nguôi vì ông đã lỡ kí tên
trong bức thư gởi Tổng thống Mỹ Roosvelt đề nghị chế tạo bom nguyên tử
để chống phát xít, mặc dù sau đó ông không có tham gia chương trình, và
khi biết quả bom đã được chế tạo, ông đã gởi bức thư thứ hai cho Tổng
thống Truman, mới lên thay Roosvelt vì ông này qua đời, đề nghị không sử
dụng bom nguyên tử, nhưng đã quá muộn, hai quả bom nguyên tử đã rơi
xuống Hiroshima và Nagasaki gây thảm họa cho dân Nhật.
Tóm lại, chỉ xét riêng về phương diện
thuần túy khoa học, chưa cần xét tới sự nghiệp đối với nhân loại,
Einstein cũng không sánh kịp Thích Ca. Einstein chỉ hiểu thế giới trên
nền tảng vô minh cục bộ, còn Thích Ca ngộ Tâm bất nhị chính là vũ trụ
vạn vật. Thích Ca thoát khỏi sinh tử luân hồi, xứng danh Như Lai, vô
lượng quang, vô lượng thọ (khắp không gian thời gian) vô thủy vô chung.
Trong khi Einstein loay hoay không giải quyết được lý thuyết trường
thống nhất. Vì vậy nên tôi chọn Thích Ca là nhà khoa học vĩ đại nhất mọi
thời đại.
Truyền Bình
0 nhận xét:
Đăng nhận xét