Bí mật thế kỷ - Secrets Of The World - HD Thuyết minh
Trần Đức Thảo - Những lời trăng trối
Lưu Ý
Chút Nội Quy Về Bình Luận: 1. Không viết quảng cáo trong comment . 2. Xin đọc kỹ tên tác giả trên mỗi bài viết trước khi comment. 3. Xin phản biện về những đúng sai của tác giả và các bình luận viên khác dựa trên sự kiện, tài liệu, lý luận.... 4. Mọi thóa mạ cá nhân sẽ bị “deleted” và vi phạm sẽ bị ghi tên vào danh sách spammers. Thành thực cám ơn.
Âm
nhạc của Trịnh Công Sơn không chú trọng đến phần hợp âm đi kèm làm nền
hòa âm cho giai điệu. Hơn nữa, ca khúc của Trịnh Công Sơn không có một
tác phẩm nào viết cho nhạc khí hay cho nhiều giọng hát nên điều này
không cần phải đánh giá.
Viết cho MT và bạn bè của thời nhí nhố
Lời Ngỏ Trong
những lần chuyện trò cùng bạn bè, tôi thường bị phê bình là thiếu hiểu
biết, không thấy cái hay trong nhạc Trịnh Công Sơn mà nhiều người thích.
Điều này không làm tôi khó chịu vì mỗi người đều có những ý thích khác
nhau và âm nhạc chỉ là một khía cạnh nhỏ trong đời sống cá nhân của tôi,
nếu không có cũng không hề gì.
Tôi
viết bài này không nhằm mục đích đụng chạm “thần tượng” của bất kỳ ai
vì đó là điều không cần thiết nhưng để trình bày rõ ràng cho bạn bè
những suy nghĩ trung thực và hiểu biết của tôi về ca khúc của Trịnh Công
Sơn mà tôi chưa bao giờ giải thích. Người viết không đánh giá nhân phẩm
Trịnh Công Sơn mà chỉ nhìn vào nhạc phẩm, bối cảnh sáng tác và đưa ra
những sự kiện lịch sử để giải thích cho hiện tượng Trịnh Công Sơn như
cũng như một nhạc sĩ XYZ nào đó.
Bài
viết có thể có những lời khó nghe, có thể là sự xúc phạm đối với những
người thích nhạc Trịnh Công Sơn mà không cần biết nhạc hay như thế nào
nhưng nó cũng có thể đem đến cho nhiều người khác một cách nhìn khách
quan hơn khi đánh giá tác phẩm của bất cứ nhạc sĩ nào.
Người
viết bài này không phải là nhạc sĩ, thi sĩ hay văn sĩ mà chỉ một người
bình thường với khả năng tiếng Việt của một học sinh trung học miền Nam
và biết chút ít âm nhạc qua sách vở nên rất hoan nghênh những lời phê
bình đứng đắn để cho người viết cùng các bạn đọc khác học hỏi.
Từ ngàn xưa, âm nhạc đã hiện hữu cùng
với con người trên thế giới. Âm nhạc góp mặt trong đời sống cá nhân và
sinh hoạt xã hội trong mọi tầng lớp của mọi dân tộc.
Âm nhạc Việt Nam cũng như thế. Khi vui
có nhạc, khi buồn có nhạc. Những buổi hội ngộ, trùng phùng có tiếng nhạc
reo vui, những khi tiễn biệt, chia lìa có tiếng nhạc u sầu. Tiếng
trống, tiếng kèn hùng hồn thúc quân ra trận mạc hay ca khúc khải hoàn,
tiếng chuông chùa ngân nga thoát tục, tiếng sáo diều vi vu trong gió hay
tiếng hò đối đáp giữa trai gái… đã gắn bó với đời sống dân Việt qua
nhiều thế kỷ.
Âm nhạc cũng như thi ca, thay đổi theo
thời gian và phản ánh hoàn cảnh xã hội. Khi đất nước thanh bình, no ấm
âm nhạc đầy nét hiền hòa, tình tự, khi chiến tranh, lửa khói âm nhạc
toát ra sự phẫn nộ, sát phạt.
Dù hiền hòa hay phẫn nộ, nếu không bị
điều kiện hóa vì mục đích chính trị, những tác phẩm hay và có giá trị
vĩnh cửu vẫn tồn tại và những tác phẩm tầm thường dùng để phục vụ cho
một mục đích cần thiết, trong một giai đoạn nào đó sẽ bị quên đi nhường
chỗ cho những tác phẩm mới theo luật đào thải tự nhiên. Với âm nhạc Việt
Nam, chúng ta thấy nhiều nhạc phẩm một thời được xem là những tác phẩm
hay cũng lần đi vào quên lãng.
Tuy nhiên, những ca khúc của Trịnh Công
Sơn thì khác. Nhiều bản nhạc vẫn được khen ngợi cả trước và sau
30/04/1975. Những bản nhạc của Trịnh Công Sơn nổi lên như là những ca
khúc hay nhất của người Việt Nam. Điều này đúng hay không tùy theo ý
kiến của mỗi người. Hãy cùng phân tích để có một nhận định khách quan
hơn là dựa vào lời khen chê của người khác.
Nhìn lại sự phát triển và khả năng thẩm âm của người Việt Nam
Để có một nhận định sáng suốt, chúng ta
cùng nhìn lại cách nghe nhạc của người Việt Nam. Trước khi văn hóa Tây
phương du nhập vào đất Việt, ông bà ta ngày xưa không coi trọng âm nhạc
mà chỉ xem như là một trong bốn thú ăn chơi “cầm, kỳ, thi, tửu”. Trong bảng phân loại cho những nghề nghiệp khi một cô gái đi lấy chồng, rơi vào một trong “mười hai bến nước” (1) thì nhạc sĩ, ca sĩ không thuộc vào loại nào cả. Với quan niệm “xướng ca vô loại” (2), âm nhạc không được nâng đỡ. Một nhạc sĩ tài hoa hay một ca sĩ lừng danh cũng chỉ để “xa nghe đồn nức tiếng nàng tìm chơi”
(3) mà thôi. Vì âm nhạc không được xem trọng và không được hệ thống hóa
theo ký âm pháp có một tiêu chuẩn rõ ràng nên việc truyền đạt và học
hỏi rất khó khăn. Vì thế, âm nhạc Việt Nam không tiến xa được.
Âm nhạc phục vụ cho các tầng lớp trong
xã hội cũng khác nhau. Ngày xưa, vua chúa có giàn nhạc cung đình dành
cho những cuộc hội hè, đình đám, tiêu khiển… Lớp “sĩ” thì có hát ả đào
mà các đào nương ngày xưa ngâm nga những bài thơ của các ông thi sĩ và
dùng tiếng đàn hòa với tiếng ngâm các bài thơ này. Dân gian bình thường
thì có hát chèo, hát bộ, bài chòi… mà âm nhạc là cái bình phong sau
lưng, có thì tốt mà không có cũng không sao. Dù có trống đánh xuôi, kèn
thổi ngược cũng không hề gì.
Nói chung, dù ở tầng lớp nào, người nghe
nhạc nghe lời ca hoặc xem những điệu bộ trong các vũ khúc có âm nhạc đi
kèm. Qua nhiều thế hệ, thói quen không xem trọng âm nhạc, không có điều
kiện học hỏi hay nghe nhiều, nghe nhạc nhưng không chú trọng vào nhạc mà vào lời ca đã dẫn đến việc sai lầm khi đánh giá âm nhạc trở thành đánh giá lời ca.
Âm nhạc miền Nam trong chiến tranh Quốc Cộng
Từ khi âm nhạc Tây phương được các nhạc
sĩ Việt Nam tiền phong như Đặng Thế Phong, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước,
Hoàng Giác, Đoàn Chuẩn, … học hỏi và sáng tác, âm nhạc Việt Nam hiện nay
đã tiến một bước dài. Trước 30/04/1975 ở miền Nam nói riêng, bên cạnh
những nhạc sĩ đã nổi tiếng như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Lê Thương,
Phạm Duy, Hoàng Trọng … những nhạc sĩ trẻ hơn như Nguyễn Văn Đông, Trúc
Phương, Cung Tiến … đều có những tác phẩm hay và những thể loại khác
nhau.
Âm nhạc Việt Nam thật sự nở rộ trong
giai đoạn cuối cuộc chiến tự vệ chống Cộng sản. Những tên tuổi như Đan
Thọ, Nhật Bằng, Y Vân, Lam Phương, Phạm Mạnh Cương, Trầm Tử Thiêng, Ngô
Thụy Miên, Nguyễn Đức Quang, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Trường Sa, Lê
Uyên Phương, Lê Hựu Hà, Trịnh Công Sơn… được giới trẻ thời đó biết đến.
Sau khi Cộng sản thắng được miền Nam,
nhiều nhạc sĩ đã bỏ nước lìa xứ. Những nhạc sĩ còn lại nếu không bị nhốt
vào nhà tù khổ sai (có người phải bỏ xác trong tù như trường hợp Lê Hựu
Hà với tội danh “thành phần nguy hiểm cho chế độ”) thì phải đối diện với “thiên đường xã hội chủ nghĩa”,
không mấy người còn cảm hứng và được chính quyền Cộng sản cho phép sáng
tác âm nhạc nữa. Các nhạc phẩm dù hay hay dở của các nhạc sĩ không
thuộc về “thành phần cách mạng”, không xu nịnh “Bác, Đảng” bị “nhà nước” Cộng sản xem là “văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy” và cấm lưu hành.
Với Trịnh Công Sơn thì hơi khác. Sau
30/04/1975, Trịnh Công Sơn về Huế, ở cùng nhà với Hoàng Phủ Ngọc Tường
(4) và Bửu Ý, tham gia Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên (5) của chính quyền
Cộng sản và tiếp tục sáng tác. Nhiều bản nhạc của Trịnh Công Sơn được
chế độ mới cho lưu hành sau một thời gian bị cấm. Nhạc phẩm của Trịnh
Công Sơn từ từ nổi lên và được các ông “nhà văn”, “nhà báo”, “nhà phê bình” thi nhau tán tụng mà các “nhà” này cũng không phân tích được cái hay trong nhạc Trịnh Công Sơn mà thi nhau tán hươu tán vượn về “lời ca đầy chất thơ” hơn là nhận định cái hay trong âm nhạc.
Để đánh giá nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn chúng ta cùng nhìn vào cách đánh giá âm nhạc theo tiêu chuẩn quốc tế.
Khi phê bình một văn sĩ những sáng tác
văn chương được đem ra nghiên cứu, so sánh với các nhà văn khác. Khi
nhận định một thi sĩ, những bài thơ, thi phẩm được đem ra bình luận. Khi
đánh giá một nhạc sĩ, những nhạc phẩm của nhạc sĩ ấy được đem ra trình
tấu, biêu diễn và phân tích những cái hay, nét đẹp và các kỹ thuật về
hòa âm, sáng tác được xử dụng trong nhạc phẩm ấy.
Dù theo tiêu chuẩn Tây phương hay không,
những tác phẩm dành cho khí nhạc được đem ra đánh giá trước hết. Muốn
viết nhạc cho khí nhạc (instrumental music) nhạc sĩ không những phải
biết xử dụng thành thạo nhạc khí mà còn phải biết âm sắc (timbre) (6)
của nhạc khí ấy có thể dùng hay nhất trong việc diễn tả cảm xúc nào.
Một nhạc sĩ hạng trung cũng phải có khả
năng về hòa âm (harmony) và phối khí (orchestration) cho nhiều loại nhạc
khí. Các dạng thức (form) và cấu trúc (structure) được đem ra thảo luận
qua những bản giao hưởng (symphony), công-xét- tô (concerto), sô nát
(sonata) …có nhiều giai điệu (melody) kết hợp với nhau tạo nên một bức
tranh đẹp, hoàn chỉnh bằng âm thanh.
Viết giai điệu cho giọng hát (voice
leading music) là những tác phẩm nhỏ hơn dù những tác phẩm này cũng đòi
hỏi khả năng hòa âm và đối điểm (counterpoint) khi viết cho nhiều giọng
hát và có nhữn phần hát bè, hát đuổi như trong những bản trường ca
(epic).
Viết ca khúc (songwriting) là việc dễ
nhất, không đòi hỏi nhạc sĩ phải có kiến thức âm nhạc sâu rộng hay xử
dụng nhạc khí tài tình nhưng phải biết cấu trúc trong dạng ca khúc (song
form) và luật cân phương (bar structure). Trong một ca khúc, phần âm nhạc hay giai điệu là phần quan trọng hơn là lời ca.
Những điều nói trên nhằm để chúng ta cùng nhìn vào khả năng thật sự của một nhạc sĩ.
Đánh giá về giai điệu
Thật khó mà cho rằng giai điệu này hay,
giai điệu kia tầm thường vì mỗi người có ý thích và khả năng thẩm âm
khác nhau. Tuy nhiên, với một cách nhìn khách quan, dù là nhạc cổ điển
hay nhạc hiện đại, trong những nhạc phẩm hay, được dùng làm khuôn mẫu để
giảng dạy, biểu diễn và được nhiều người biết đến đều có những yếu tố
sau đây:
Giai điệu có nét nhạc rõ ràng và các kỹ
thuật lặp lại và biến tấu nét nhạc tài tình tạo ra những nhạc ý có ý
nghĩa góp phần làm cho giai điệu hay, lôi cuốn và dễ nhớ.
Cách chuyển âm vững vàng và chuyển cung phong phú.
Cấu trúc giai điệu cân phương và có cảm xúc đúng nghĩa qua các giai kết.
Hòa âm hay và đẹp cho giai điệu.
1. Âm nhạc trong ca khúc của Trịnh Công Sơn
Người viết bài này chưa có may mắn đọc
được những bài phê bình âm nhạc Trịnh Công Sơn của các nhạc sĩ nổi tiếng
và có khả năng phê bình âm nhạc mà chỉ đọc được những nhận địng chung
chung như “nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản, nghèo nàn” nên mạo muội dựa vào
kiến thức eo hẹp của mình để đánh giá nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn căn
cứ vào những điểm nêu trên. Người viết mong là các nhạc sĩ sáng tác có
khả năng phê bình âm nhạc góp phần nhận định để bạn đọc có cái nhìn
trung thực, rõ ràng hơn về cả giai điệu và lời ca trong những ca khúc
của Trịnh Công Sơn.
Phần nhận định về âm nhạc sơ sài này đối
với những nhạc sĩ chuyên nghiệp không là gì cả nhưng người viết đặt đối
tượng của bài viết là những bạn đọc có học chút ít nhạc lý cơ bản và có
khái niệm về hòa âm, sáng tác. Phần Anh ngữ kèm theo dành cho các bạn
trẻ muốn tìm hiểu thêm vì danh từ âm nhạc trong tiếng Việt được gọi khác
nhau tùy theo từng nhạc sĩ.
a. Giai điệu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn
Nếu căn cứ vào việc
phát triển giai điệu bằng nét nhạc (motif), nhiều giai điệu trong nhạc
tình hay nói về thân phận con người trong chiến tranh của Trịnh Công Sơn
ít có những nét nhạc rõ ràng và nếu có cũng không được xây dựng để tạo
ra những nhạc ý (theme) hài hòa. Phần lớn những giai điệu này có tiết
tấu (rythhm) đều đều, chầm chậm, rời rạc và thiếu sự hấp dẫn nên đại đa
số những bản nhạc có âm hưởng na ná như nhau.
Những câu nhạc được lập lại hoặc được tiếp nối nhưng những kỹ thuật lập lại
(7) để tái tạo nét nhạc như đổi tiết tấu, phân mảnh, nới rộng… không
được xử dụng để phát triền nhạc ý. Trong một giai điệu, cái hay không
phải chỉ là sự lập lại và tiếp nối mà còn thay đổi bằng biến tấu
(8). Phần lớn trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn, ít có những kỹ thuật
biến tấu tài tình như đảo mảnh, giảm, tăng, thêm phần hoa mỹ… để làm
tăng âm điệu réo rắt, mời gọi của giai điệu.
Một vài ví dụ qua những giai điệu trong các ca khúc như Diễm Xưa, Như Cánh Vạc Bay, Biển Nhớ, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tuổi Đá Buồn, Chiều Một Mình Qua Phố…cho chúng ta thấy sự đơn điệu, kém cỏi trong cách phát triển nét nhạc cho giai điệu.
Diễm Xưa
Còn Tuổi Nào Cho Em
Như Cánh Vạc Bay
Điều này có thể nhận ra rõ ràng hơn khi chúng ta nghe những ca khúc như Thu
Quyến Rũ, Vết Thù Trên Lưng Ngưa Hoang, Đường Xưa Lối Cũ, Các Anh Đi,
Dừng Bước Giang Hồ, Chiều Mưa Biên Giới, Bóng Chiều Tà, Chiều Tím, Thu
Vàng, v.v.. Trong những nhạc phẩm này, chúng ta nghe vài ba lần là
có thể nhận ra nét nhạc chính với âm hưởng quyến rũ và dễ nhập tâm do sự
lập lại và biến tấu nét nhạc.
Thu Quyến Rũ, Đoàn Chuẩn – Từ Linh
Dừng Bước Giang Hồ, Hoàng Trọng
Chiều Mưa Biên Giới, Nguyễn Văn Đông
Đường Xưa Lối Cũ, Hoàng Thi Thơ
Thu Vàng, Cung Tiến
So với các nhạc sĩ cùng thời với Trịnh Công Sơn qua những giai điệu trong các bản Chiều
Hoang Vắng, Mười Năm Yêu Em, Bài Không Tên Số 7, Thu Ca, Paris Có Gì Lạ
Không Em, Chiều Qua Tuy Hòa, Giọt Lệ Cho Ngàn Sau, Dạ Khúc Cho Tình
Nhân, Mặt Trời Đen, v.v… thì những giai điệu trong nhạc Trịnh Công Sơn thiếu sự lôi cuốn và không gây ấn tượng sâu sắc làm ta dễ nhớ.
Mười Năm Yêu Em, Trầm Tử Thiêng
Thu Ca, Phạm Mạnh Cương
b. Cách chuyển âm và chuyển cung trong nhạc Trịnh Công Sơn
Trong một giai điệu, sự chuyể âm (melodic
progression) từ chủ âm (tonic) đến át âm (dominant) và quay về chủ âm
qua những nốt nhạc khác trong âm giai (scale) là sự kết hợp giữa những
bước đi (quãng hai) và bước nhảy (quãng ba hoặc lớn hơn) vững vàng, xoay
quanh trục chủ âm – át âm. Những giai điệu hay còn tạo ra cảm giác căng
thẳng, chơi vơi, hân hoan, áo não… qua các cực điểm (climax) trước khi
quay về chủ âm với cảm xúa trọn vẹn.
Phần lớn những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, việc chuyển âm rất đơn giản và sự kết hợp giữa những bước đi và bước nhảy không uyển chuyển vì thiếu sự tái cân bằng (counterbalance). Đa số những giai điệu của Trịnh Công Sơn không tạo ra những cảm xúc mạnh, căng thẳng có ý nghĩa ở cực điểm trước khi quay về chủ âm với cảm xúc hoàn tất nhạc ý.
Nhìn những Mùa Thu Đi
Đóa Hoa Vô Thường
Chiều Một Mình Qua Phố
Tiến hành hợp âm
(chord progression) trong giai điệu là điều mà nhiều nhạc sĩ Việt Nam
không chú trọng. Ngay cả những nhạc sĩ có khả năng hòa âm, phối khí vững
vàng như Hoàng Trọng, Nguyễn Văn Đông,… cũng không viết thêm phần hợp
âm đi kèm để làm nền hòa âm cho giai điệu (harmonize a melody) (9).
Người chơi đàn guitar hoặc piano trung bình không có khả năng hòa âm
phải đoán mò là ở trường canh (measure/bar) ấy là hợp âm gì.
Những bản nhạc của
Trịnh Công Sơn cũng không có phần hợp âm đi kèm. Do sự đơn giản trong
cách chuyển âm, tiến hành hợp âm chỉ quanh quẩn ở những hợp âm chính
(primary chords: bậc I, IV và V) và hợp âm tương ứng của nhạc thức
(mode) cùng khóa nhạc.
Về chuyển cung (modulation), những tác phẩm như Gởi
Gió Cho Mây Ngàn Bay, Tà Áo Xanh, Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Mười Hai
Tháng Anh Đi, Hương Xưa, Thu Vàng, Xuân Họp Mặt, Nửa Hồn Thương Đau,
v.v.. mà sự chuyển âm vững vàng và sự chuyển cung giàu có tạo nên âm
thanh réo rắt, cung bậc hài hòa mang lại những cảm xúc quyện vào nhau
làm tăng cái hay, cái đẹp của giai điệu.
Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay, Đoàn Chuẩn – Từ Linh
Xuân Họp Mặt, Văn Phụng
Nửa Hồn Thương Đau, Phạm Đình Chương
Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, thơ Hữu Loan, Phạm Duy phổ hạc
Đem so sánh những bản nhạc như Ướt Mi, Biển Nhớ, Diễm Xưa, Lời Buồn Thánh, Như Cánh Vạc Bay,… với các nhạc phẩm khác nổi tiếng trước hay sau chút ít như Mùa Thu Không Trở Lại, Bài Không Tên số 7, Tưởng Niệm, Giáng Ngọc, Chiều Qua Tuy Hòa, Người Anh Vĩnh Bình,
… thì cách chuyển âm không có gì đặc sắc và cách chuyển cung trong nhạc
của Trịnh Công Sơn nghèo nàn hơn nhiều nên không tạo được sự quyến rũ,
hài hòa trong giai điệu.
Mùa Thu Không Trở Lại, Phạm Trong Cầu
Giáng Ngọc, Ngô Thụy Miên
Chiều Qua Tuy Hòa, Nguyễn Đức Quang
c. Cấu trúc giai điệu và sự ngưng nghỉ qua các giai kết
Về cấu trúc bên
trong, giai điệu trong ca khúc của Trịnh Công Sơn thiếu kỹ thuật xây
dựng và phát triển nét nhạc như đã trình bày. Về cấu trúc bên ngoài,
nhiều ca khúc có những câu nhạc dài ngắn bất thường làm cho chúng ta cảm
thấy tác giả không cần theo luật cân phương và sự cân đối trong những câu nhạc là điều mà tác giả không chú trọng.
Những ví dụ trong các ca khúc nêu trên cho thấy điểm này:
Như Cánh Vạc Bay – hai câu 4 trường canh và 5 trường canh.
Nhìn Những Mùa Thu Đi – hai câu cuối có 6 trường canh và 7 trường canh.
Còn Tuổi Nào Cho Em – hai câu cuối 4 trường canh và 6 trường canh.
Sự ngưng nghỉ trong
âm nhạc cũng tương tự như viết lách với các dấu phảy, chấm phảy hoặc dấu
chấm trong câu văn. Sự ngưng nghỉ tạm thời để lấy hơi với giai kết
thiếu (inperfect cadence) khác với sự ngưng nghỉ để chấm dứt một câu qua
giai kết nửa (half cadence) rồi tiếp tục câu còn lại và chấm dứt bằng
giai kết trọn (perfect cadence) trong những đoạn nhạc có hai câu gần như
nhau.
Với ca khúc của Trịnh Công Sơn, việc ngưng nghỉ qua các giai kết giai điệu (melodic cadence) (10) nhiều khi không mang lại cho người nghe là sự ngưng nghỉ với ý nghĩa nào rõ ràng.
Đặc biệt hơn cả là trong một ca khúc mới khởi đầu, ý nhạc còn đang tiếp
diễn thì đã đưa về giai kết trọn để chấm dứt câu nhạc làm người nghe có
cảm giác hụt hẫng là điều hiếm có trong âm nhạc.
Một vài ví dụ về
cách xử dụng giai kết qua một số nhạc phẩm nêu trên, dù không sai, người
học nhạc cảm thấy có cái gì đó vướng víu trong ý nhạc qua cách ngưng
nghỉ.
Diễm Xưa –
giai kết thiếu ở chữ “thêm sâu” thay vì giai kết nửa mà những nhạc sĩ
khác xử dụng vì hai chi câu gần như nhau trường canh cuối.
Biển Nhớ – giai kết trọn ở chữ “lênh đênh” khi ý nhạc vừa bắt đầu và đang tiếp diễn lại đưa về chủ âm để kết thúc.
Còn Tuổi Nào Cho Em
– giai kết nửa ở chữ “tháng …năm” thay vì thay đổi trường độ chữ tháng
ngắn hơn để lời ca có ý nghĩa và tiếp tục đưa ý nhạc về giai kết trọn .
Với những người học
sáng tác âm nhạc, cách viết không chịu ràng buộc theo luật cân phương,
không chú trọng đến sự cân đối nhạc ý sẽ không đạt tới đỉnh cao trong âm
nhạc vì chính cách viết theo những quy luật mới rèn luyện nên sự tài
hoa. Bước đầu của âm nhạc là nghệ thuật nhưng đi xa hơn nữa là những kỹ
thuật được nghiên cứu, học hỏi và xử dụng qua nhiều thế kỷ mà bất cứ kỹ
thuật nào cũng có những quy luật riêng phải theo mới có thể tiến xa và
có thể phá luật khi đã đạt tới một mức độ sâu xa nào đó.
Cách viết nhạc với
những câu dài ngắn khác nhau thế này đi kèm với việc xử dụng giai kết
không đúng ý nghĩa cũng tương tự như cách làm thơ mới mà câu cán dài
ngắn khác nhau, muốn xuống hàng lúc nào cũng được như ông Bút Tre (11)
sẽ dễ dàng trở thành Nhạc Mõ.
d. Hòa âm hay và đẹp cho giai điệu
Âm nhạc của Trịnh Công Sơn không chú
trọng đến phần hợp âm đi kèm làm nền hòa âm cho giai điệu. Hơn nữa, ca
khúc của Trịnh Công Sơn không có một tác phẩm nào viết cho nhạc khí hay
cho nhiều giọng hát nên điều này không cần phải đánh giá.
Kết luận về âm nhạc trong ca khúc của Trịnh Công Sơn
Qua những điều nói
trên, âm nhạc của Trịnh Công Sơn nhạt nhẽo, đơn điệu so với các nhạc sĩ
cùng thời đừng nói đến những nhạc sĩ tài ba trong dòng nhạc Việt Nam.
Điều mà ông Văn Cao nói là “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây.”(12) Theo tôi, có nghĩa là không thể dùng làm khuôn mẫu để cho người khác học hỏi.
Dù là nhạc cổ điển
hay nhạc hiện đại, viết ca khúc phải dựa vào nét nhạc, phát triển nét
nhạc thành câu để tạo nên những nhạc ý cân đối và có ý nghĩa. Việc
chuyển âm, chuyển cung, ngưng nghỉ qua các giai kết và hòa âm cho giai
điệu (nếu có khả năng) là những điều cơ bản mà âm nhạc cổ điển Tây
phương đã đặt nền móng cho âm nhạc hiện đại mà những người viết ca khúc
đều phai biết. Tôi không hiểu rõ ý ông Văn Cao muốn nói cấu trúc bác học
nào. Đây là lời nói không được giải thích rõ ràng nhưng lại được các
“nhà” đem ra biện minh cho cách viết lấy nốt nhạc gắn vào lời là đủ hay
rồi.
Điều mà ông Nguyễn Xuân Khoát nói là “Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra”
(13) là lời nói chơi trong những lúc trà dư, tửu hậu mà theo tôi hiểu
là lấy nốt nhạc gắn vào lời ca không theo quy luật nào nên giá trị âm
nhạc chẳng có gì đáng nói. Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó câu nói của nhạc sĩ
tài hoa Johannes Brahms, “Không có sáng tạo đích thực nào mà không phải trải qua khó nhọc.” Muốn viết được một giai điệu hay và đúng kỹ thuật không phải dễ như lấy chữ từ trong túi.
Nhìn một cách khoa
học thì những nốt nhạc với cao độ và trường độ trong một đồ thị thì kết
quả những điểm trên đồ thị chẳng tạo ra một đường nét nào rõ ràng để
diễn tả một cảm xúc thích hợp. Vậy thì cái hay, cái đẹp trong nhạc của
Trịnh Công Sơn tùy theo ý kiến mỗi người. Đối với cá nhân tôi, âm nhạc
của Trịnh Công Sơn là loại nhạc dùng để ngủ gà ngủ gật vì âm điệu nghèo
nàn ấy không tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn để tôi chú ý.
12. Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc và vai trò của họ tại Việt Nam CH, 1954-1959 Bài của Nghiên Cứu Quốc Tế - Bản dịch của Đỗ Hải Yến. Nguồn: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959 - Peter Hansen (2009)
5.Mở rộng truyền giáo ở thuộc địa Thượng Du Bắc Kỳ (Jean Michaud) - Journal of Southeast Áian Studies, 35 (2), pp 287-310 June 2004. Printed in the United Kingdom @ 2004 The National University ò Singapore DOI:10.1017/S0022463404000153
0 nhận xét:
Đăng nhận xét