Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014
Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
07:13
Hoàng Phong Nhã
No comments
(A
Gospel of Shame)
Trên thế gian này không có tôn giáo nào xử dụng
tĩnh từ “thánh” (holy) một cách bừa bãi và vô trách
nhiệm cho bằng Công Giáo La Mã: Cây thập ác là một
dụng cụ giết người dã man vì nạn nhân
phải chịu đói khát và đau đớn rất lâu
mới chết. Mọi nạn nhân đều bị
lột trần truồng trước khi bị đóng
đinh vào thập ác. Đó là một sự bêu riếu
sỉ nhục cùng cực. Dù cho Jesus đã bị quân La Mã
xử tử trên thập ác chăng nữa thì cây thập ác
vẫn là cây thập ác chứ không thể trở thành “Thánh
Giá” (Holy Cross) được! Giả sử quân La Mã đã
không xử tử Jesus bằng thập ác mà xử tử
bằng cách treo cổ hay chém đầu thì Công Giáo sẽ có
“Thánh Thòng Lọng” hoặc “Thánh Mã Tấu” chăng?
Sào huyệt của Mafia đội lốt tôn giáo
trú đóng ở Rome được gọi là “Tòa Thánh La Mã”.
Lịch sử thế giới ghi nhận: Từ ngày
đế quốc La Mã lập ra đạo Công Giáo
(Katholicos) vào đầu thế kỷ 4 đến nay, nó
đã giết hại trên 200 triệu người.
Cái tội sát nhân vô địch này chỉ là
một trong 7 núi tội mà chính Vatican đã phải thú
nhận. Một tổ chức tội ác vô tiền khoáng
hậu như vậy có lẽ nào được gọi là
“Hội Thánh”? Sào huyệt Vatican phải được
gọi là sào huyệt của quân cướp quốc tế
cho chính danh. Tổ chức quốc tế này tại sao
được xưng tụng là “Đức Thánh Cha”,
“Đức Hồng Y”, “Đức Cha”, “Đức Ông”?
Bà Maria đẻ ra Jesus cũng chỉ
được gọi là “Đức Mẹ” chứ có
được gọi là “Đức Thánh Mẹ” bao giờ
đâu? Vậy “Đức Mẹ” cũng chỉ
được coi ngang hàng với các “Đức Cha” thôi.
Đức Mẹ sẽ phải gọi các “Đức Ông”
bằng bố xưng con và phải quỳ mọp
trước dung nhan của các giáo hoàng vì các giáo hoàng là các vị
thánh sống (Đức Thánh Cha)!
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 6 tháng 5 năm 2002,
có in trên trang bìa một câu hỏi lớn: “What would Jesus do?”)
Jesus nên làm gì đây?”). Bên trong là 10 trang báo viết về
tình trạng lạm dụng tình dục của các tu sĩ
Công Giáo. Nơi trang 28 có in hình một bức tranh sơn
dầu vẽ gia đình Giáo Hoàng Alexander Borgia vào cuối
thế kỷ 15. Giáo hoàng này có nhiều vợ nhiều con,
loạn luân với chị ruột và con gái ruột. Cô con
gái này có một đứa con với giáo hoàng. Vào giữa
thế kỷ 16, Giáo Hòang Julius III dụ dỗ một
thiếu niên 15 tuổi để làm tình theo kiểu sodomy
(anal copulation). Giáo hoàng được đứa nhỏ
chiều ý nên đã phong cho nó chức Hồng Y. Chẳng
những thế, Giáo Hoàng Julius III còn bổ nhiệm
thằng nhỏ giữ chức quốc vụ khanh tòa thánh!
(trang 28).
Nơi trang 29, tờ Newsweek còn cho biết: Trong
lịch sử Giáo Hội Công Giáo, ít nhất có 3
trường hợp giáo hoàng La Mã truyền ngôi cho con
ruột giống như kiểu thế tập của các
vua chúa thế gian.
Trong lịch sử Công Giáo không thiếu gì
những tên khốn nạn dùng thủ đoạn lưu
manh như giết người, lừa gạt, hối
lộ... để chiếm đoạt ngôi vị giáo hoàng.
Trong khi đó luận điệu của giáo hội luôn luôn
dạy giáo dân rằng: Các giáo hoàng đều đã
được Hội Đồng Hồng Y bầu
chọn theo ơn soi sáng của Đức Chúa Thánh
Thần. Nếu như vậy thì tại sao Giáo Hội Công
Giáo lại có quá nhiều những tên giáo hoàng khốn
nạn? Phải chăng cặp mắt của Đức
Chúa Thánh Thần là cặp mắt heo luộc nên đã không
thấy được điều đó?
Các sách Tân Ước cũng như Cựu
Ước đầy rẫy những chuyện nhảm nhí
bậy bạ, tại sao lại được gọi là
“Thánh Kinh” (Holy Bible)? Trọng tâm của những sách này là
để đề cao Jesus, từ một gã thợ
mộc tầm thường biến thành Thiên Chúa dựng
nên trời đất muôn vật, nghĩa là Jesus đã
đẻ ra cha mẹ tổ tiên ông bà của chính mình!
Sau đó người ta lộn lại gọi bà
Maria là “Mẹ Chúa” (Mother of God). Mẹ Thiên Chúa đẻ ra
Thiên Chúa. Trước đó Thiên Chúa đẻ ra Mẹ và
cả lò tổ tiên nhà Thiên Chúa. Đây chính là một thứ
Thiên Chúa quái vật trong truyện thần thoại dành cho
nhi đồng. Đến đây, xin tạm coi Jesus như
một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Do
Thái, chúng ta hãy đọc lại trong kinh thánh phần nói
về gia phả của Jesus để xem tổ tiên
của y thánh thiện đến cỡ nào.
Hàng năm cứ đến Noel, các nhà thờ
thường đọc Kinh Thánh về gia phả của
Jesus gồm có 42 đời kể từ tổ phụ
Abraham. Sách Sáng Thế Ký (Genesis, 11:27-28) kể rằng:
Thợ nặn tượng tên Terah sinh ra ba người con
là Abraham, Nabor và Haran tại thành phố UR, thành phố lớn
nhất và cổ nhất của xứ Babylon. Chính tại
thành phố UR, Abraham đã đập nát các tượng thần
của cha và chỉ giữ lại một tượng
thần duy nhất là tượng thần El (hình dạng
của một con bò đực với bộ râu dài)
để tôn thờ. Chính vì hành vi này mà Abraham đã
được tôn vinh là ông tổ của các Đạo
Độc Thần (Monotheism) tức các đạo chỉ
thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Tên của bò thần El
được chuyển sang tiếng Hebrew là Elohim. Tám
thế kỷ sau, nó được Moises đổi tên thành
Jehovah. Đạo Kitô gọi Jehovah (tức con bò Elohim) là
Đức Chúa Cha! Do đó, đối với Jesus, Abraham
chẳng những là tổ phụ về huyết thống
mà còn là tổ phụ về niềm tin tôn giáo của y
nữa.
Abraham lấy em gái (cùng cha khác mẹ) là Sarah làm
vợ. Năm Sarah 90 tuổi mới sinh con trai đầu
lòng là Isaac. Sarah chết vào năm 127 tuổi. Mấy năm
sau khi vợ chết, Abraham lấy một cô vợ trẻ
tên Keturah vào lúc y 137 tuổi. Cô này sinh cho y 6 người con.
Theo sách Sáng Thế Ký thì Abraham hưởng thọ 175
tuổi! Vào năm 1994, Giáo Hoàng John Paul II ngỏ ý rất
mong muốn đến thăm thành phố UR vì đó
mới đích thực là quê hương của các
đạo thờ Chúa. (Quả thật, Thiên Chúa đã không giáng
sinh ở đất Do Thái mà ngài đã phát sinh từ
tượng bò vàng – the golden calf – ở thành phố UR
thuộc Babylon). Jean Paul II đã nói rất chí lý là thánh kinh
không khởi đầu từ Israel mà đã khởi
đầu từ thành phố UR. Jean Paul II đã tuyên bố
với báo chí năm 1994: “Nếu không khởi hành từ UR
thì không thể nói là đã đi thăm vùng đất
của thánh kinh vì thánh kinh đã bắt đầu từ
đó.” (No visit to the lands of the Bible is possible without a start in UR
where it all began – Abraham, Journey of faith, by Tad Szule, National
Geographic, December 2001, p.46).
Về đức hạnh thì Abraham là kẻ
loạn luân với em gái. Về tôn giáo thì y là kẻ đã
lập ra đạo thờ bò El. (“tức Thiên Chúa Elohim”).
Ở Abraham tuyệt nhiên không có một đức hạnh
hay một công trạng hiển hách nào đáng cho chúng ta kính
phục. Tất cả chỉ vì Abraham là người
đầu tiên có ý kiến thờ một thần (thay vì
thờ đa thần) và vì y là ông tổ 42 đời
của Jesus nên người Công Giáo đã tôn vinh Abraham
một cách lố bịch và đồng thời mù quáng
nhục mạ tuyệt đại đa số dân tộc
Việt Nam. Sách Kinh Nhựt Khóa Công Giáo (trang 143-146) có bài
“Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt Nam Trở Lại
Đạo Thánh” có đoạn như sau: “Chúa đã phán
rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi phương
Đông, Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên
nước Thiên Đàng. Nay nước Việt Nam cũng
là một nước phương Đông đang còn
nhiều kẻ tin vơ thờ quấy chưa hề
biết đến Đấng Chí Tôn”.
Đấng Chí Tôn của Công Giáo cũng là
Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái. Người Công
Giáo và Do Thái được ông tổ đạo Hồi là
Mohammed gọi là “Những người của các sách Thánh
Kinh (The People of the Books).
Chúng ta hãy đọc Kinh Koran chương 4, câu 153
(Sutra 4, verse 153) sẽ được Mohammed giải đáp
cho chúng ta biết Đấng Chí Tôn của đạo Do
Thái và đạo Kitô là ai: “Những người của các
sách thánh kinh đã thờ CON BÒ thay vì thờ Thiên Chúa,
mặc dầu Thiên Chúa đã tỏ cho biết nhiều
dấu hiệu về ngài”. (The people of the Books took THE CALF for
God after clear signs had come to them). Mohammed đã giải đáp
dùm cho 92% dân tộc Việt Nam lý do tại sao họ đã
không theo đạo Công Giáo. Bởi lẽ giản dị
Công Giáo chỉ là một biến thể của đạo
thờ BÒ!
Thành phố UR hiện nay chỉ còn là một
phế tích trong sa mạc ở phía Nam nước Iraq,
gần giáp với Koweit. Diện tích của thành phố UR
khoảng 120 acres. Căn cứ vào di tích các ngôi cổ
mộ và các di vật khai quật được, các nhà
khảo cổ ước tính thành phố UR được
xây dựng cách đây 7500 năm. Dân số ước
lượng khoảng 12.000 dân vào năm 2000 TCN, tức vào
thời của Abraham. Lộ trình Abraham di cư từ UR
đến Canaan (tức vùng Tây ngạn sông Jodan hiện nay)
là 600 miles. Điều này cho thấy nguồn gốc
thật sự của đạo Công Giáo là kho chuyện
thần thoại của thành phố UR. Chính kho tàng thần
thoại này đã đẻ ra Kinh Thánh Do Thái – Kitô và bộ
truyện nổi tiếng thế giới là “Ngàn Lẻ
Một Đêm”.
Một trong những người cùng di cư với
Abraham là Lot. Lot gọi Abraham bằng bác ruột, có vợ và
hai con gái lớn. Cả hai bác cháu đều là chủ nhân
của đàn gia súc lớn. Khi tới vùng đất
hứa, Abraham chọn vùng cao nguyên Canaan, còn Lot thì chọn
vùng đồng bằng sông Jordan. Tại đây có hai thành phố
Sodom và Gomorah. Sau khi di cư được ít lâu, bọn
cướp từ hai thành phố đến đồng
cỏ lấy hết gia súc của Lot khiến cho Lot và gia
đình trở thành những kẻ ăn mày trong hai thành
phố này. Tệ trạng xấu nhất trong hai thành
phố Sodom và Gomorah là có rất nhiều đàn ông mắc
chứng bệnh đồng tính luyến ái. Họ
thường làm tình với nhau qua đường hậu
môn. Chính vì câu chuyện này trong Thánh Kinh nên ngôn ngữ Tây phương
đã phát sinh ra danh từ SODOMY (do tên thành phố Sodom mà ra)
để chỉ cái lối làm tình theo kiểu nói trên.
Cái thói tật xấu xa của những kẻ
đồng tính luyến ái đã làm cho Chúa nổi giận
và ngài quyết định sai các thiên thần mang lửa
từ trời xuống tiêu hủy hoàn toàn hai thành phố
này. Trước khi ra tay, Thiên Chúa sai thiên thần xuống
báo tin cho Lot và gia đình rút ra khỏi thành phố. Khi
vừa mới chạy ra khỏi thành phố thì bà vợ
của Lot thấy ánh lửa cháy và nghe tiếng la thét kinh
hoàng ở phía sau lưng. Bà ta xúc động ngoái cổ
lại xem việc gì xẩy ra thì ngay lập tức bà ta
bị Chúa phạt biến thành tượng muối. Lot và
hai cô con gái chạy đến một cái hang núi và trú
ngụ tại đó. Kinh Thánh không nói rõ Lot ở đó bao
lâu nhưng Lot đã làm tình với hai cô con gái ruột
của mình và mỗi cô cho ra đời hai đứa con!
Đọc chuyện trên trong Thánh Kinh, chúng ta
thấy Thiên Chúa của Công Giáo tán thành sự loạn luân
nhưng rất ghét cái tội đồng tình luyến ái
(homosexuality). Chỉ vì một nhóm người đồng
tính kuyến ái mà Chúa nổi giận đốt cháy cả
hai thành phố khiến cho biết bao nhiêu người vô
tội phải chết oan.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 6.5.2002 có loan tin sau:
Nhà khoa học tâm lý trị liệu Richard Sipe nguyên là một
linh mục, sau 25 năm nghiên cứu về tính dục
của các tu sĩ Công Giáo đã đưa ra sự ước
tính hiện nay có khoảng 50% tu sĩ Công Giáo Mỹ mắc
chứng đồng tính luyến ái! Nếu Chúa là
đấng công bình vô cùng thì Chúa phải tính chuyện
đốt hết các nhà thờ Công Giáo như Chúa đã làm
ở Sodom và Gomorah xưa kia. Có lẽ vì vậy nên tuần
báo Newsweek đã đặt ra một câu hỏi lớn
ở ngay trang bìa: “Jesus biết làm cái gì để giải
quyết đây?” (What would Jesus do?).
Chúng ta đọc tiếp Kinh Thánh về gia
phả của Jesus: Vợ chồng Abraham rất hiếm
muộn, phải đợi đến lúc vợ Abraham là
Sarah 90 tuổi mới sinh con, đặt tên là Isaac, có
nghĩa là “tiếng cười”. Vì chuyện bà già 90
tuổi đẻ con là một chuyện tiếu lâm
khiến ai cũng phải phì cười! Isaac lớn lên
thay cha làm tộc trưởng (patriarch) Do Thái. Isaac sinh ra hai
con trai. Con đầu là Esau và con thứ là Jacob. Jacob là
kẻ gian tham đã lợi dụng lúc Esau đói bụng,
gạ gẫm anh ăn bát cháo để đổi lấy
chức trưởng nam. Esau trong cơn đói đã
nhận lời. Do đó, sau này Jacob trở thành tộc
trưởng của Do Thái và đặt tên nước Do
Thái là Isra-el để tôn vinh thần bò El (tức Elohim trong
ngôn ngữ Hebrew).
Chuyện kể trên của Kinh Thánh cho thấy
Jacob là một tên lưu manh đã cướp quyền
tộc trưởng của anh ruột bằng một
thủ đoạn hèn hạ. Jacob sinh ra 12 người con.
Một trong những người con đó tên là Judas. Con trai
lớn của Judas có vợ tên là Thamar. Người con trai
lớn này chẳng may chết sớm khiến cho Thamar
phải sống góa bụa. Theo cổ luật của Do Thái
thì người em trai của chồng phải lấy
chị dâu để nối dõi, nhưng người em trai
này lại không thích chị dâu, nên chị dâu không có con.
Ít lâu sau, vợ Judas qua đời. Judas buồn
quá nên đi tìm gái điếm để giải khuây, tình
cờ lại gặp con dâu Thamar. Judas ăn ở với
con dâu sinh ra Perez. Perez là tổ tiên 9 đời của David.
Nếu tính từ ông tổ Abraham thì David là đời
thứ 14.
Bàn về nhân vật David thì chúng ta có rất
nhiều điều để nói. Phạm vi bài này không cho
phép chúng tôi viết quá dài ở đây. Chúng tôi xin giới
thiệu với quý vị đề tài “Thánh David là ai?”
thuộc phần phụ lục trong sách “Chúa Jesus là ai?
Giảng dạy những gì? Của giáo sư Trần Chung
Ngọc, Giao Điểm (Cali) 2002. Qua gần 20 trang sách
viết về David với những bằng chứng hùng
hồn, tác giả đã chứng minh David không thể
xứng đáng được gọi là thánh mà “chỉ là
một tên tướng cướp, một bạo chúa hoang
dâm vô độ, vô đạo đức và cuồng sát”
(Sách đã dẫn, vị Hồng Y thuộc dòng dõi tam
đại Việt gian là Nguyễn Văn Thuận đã ca
ngợi David trong sách “Chứng Nhân Hy Vọng” trang 30, như
sau: “Nơi David, người nổi danh nhất trong các vua
đã sinh ra đấng Messiah”.
Messiah là tiếng Hebrew có nghĩa là Chúa Cứu
Thế, tức chúa Kitô (Christ). Quả thật David là tổ
tiên của Jesus, đấng Merssiah của Thuận và
Việt gian, nhưng vấn đề quan trọng là David
đã sinh ra đấng cứu thế trong trường
hợp nào?
Một hôm David lên sân thượng hóng gió, tình
cờ nhìn thấy bà hàng xóm là Bathseba, vợ của
tướng Uriah, đang tắm truồng trên sân
thượng nhà của bà. Vì thấy Bathseba quá đẹp
nên David ỷ quyền làm vua sai người triệu nàng vào
cung cho vua thỏa mãn thú tính. Để chiếm đoạt
Bathseba, David đã đày chồng nàng là tướng Uriah ra
mặt trận nguy hiểm nhất. Cuối cùng Uriah đã
tử trận như ý David mong muốn. David đã trắng
trợn giết chồng cướp vợ người
để thỏa mãn dục tình vô độ của y. Chính
cái hành vi mất dạy của David đã đẻ ra
đấng Messiah của Nguyễn Văn Thuận và
đồng bọn. Cũng chính vì cái hành vi mất dạy
của David mà giáo hội Công Giáo Việt Nam mới có
những câu kinh vừa ngu xuẩn vừa hèn hạ như
sau: “Xin Chúa làm cho tôi khinh dể sự đời là chốn
muông chim cầm thú, xin làm cho chúng tôi đặng về quê
thật hiệp làm một cùng vua Đa-vít”. (Sách kinh
Nhựt Khóa, trang 707).
Người Công Giáo Việt Nam đã biểu
lộ tâm tình mình qua những câu kinh vong bản như trên:
Đất nước Việt Nam không phải là quê
hương thật mà chỉ là một nơi “muông chim
cầm thú” đáng khinh dể, hoặc chỉ là một
nơi dung thân tạm bợ mà thôi, vì quê hương
thật phải là nơi họ được “hiệp làm
một với vua Đa-vít. Dưới con mắt mê
muội của người Công Giáo thì 92% dân tộc
Việt Nam hãy còn chìm trong bóng tối tăm vì chưa
nhận được ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Kinh
Nhựt Khóa, trang 144-145, có câu: “Xin Chúa đoái thương nước
Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm
ngoại giáo”. Những người Công Giáo quá chủ quan
nên trở thành mê muội vì họ thực sự không
biết họ tôn thờ cái gì. Đức Chúa Cha xuất
thân từ Thiên Chúa Jehovah. Theo tiếng Hebrew, Jehovah có
nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ” (Jehovah means God
of Fathers) tức Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob. Thiên Chúa
của những vị này là Thiên Chúa Elohim, tức thần
bò El của thành phố UR, thuộc xứ Babylon. Các nhà
khảo cổ đã tìm thấy tại thành phố UR một
bức tượng của con bò thần El mạ vàng
thuộc niên đại 2000 năm TCN (thời Abraham).
Tượng này hiện được triển lãm tại
bảo tàng viện Baghdad, Iraq. (Xin đọc Iraq’s Ancient
heritage – National Geographic Magazine, May 1991). Muốn biết hình
hài nó ra sao, xin coi bìa sách “Công Giáo Huyền Thoại và Tội
Ác” của Charlie Nguyễn, Giao Điểm xuất bản
hè 2001).
Người Công Giáo chê đất nước
của mình là “nơi chim muông cầm thú” đáng khinh dể.
Trong khi đó thì họ thờ Đức Chúa Cha là con bò
Elohim (thú/muông) và thờ Đức Chúa Thánh Thần là con
chim bồ câu (cầm/chim). Vậy nơi nào mới thật
sự là “nơi chim muông cầm thú”? Ai mới thật
sự là những kẻ đáng khinh dể? Vậy nên
sửa lại kinh cầu nguyện cho Việt Nam nơi
trang 144-145 của Kinh Nhựt Khóa như sau: “Xin Chúa đoái thương
7% dân nước Việt Nam đang còn trong bóng tối
tăm ngoại giáo!”
TÔI YÊU CẦU Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam PHẢI LÊN TIẾNG TRẢ LỜI NHỮNG CÂU
HỎI TRÊN VÀ PHẢI RA LỆNH THU HỒI CÁC CUỐN SÁCH
KINH NGUYỆN CÓ NHỮNG LỜI KINH NGU XUẨN BẬY
BẠ, NHỤC MẠ DÂN TỘC VIỆT NAM, NHỤC MẠ
MỌI NGƯỜI KHÔNG THEO ĐẠO THỜ BÒ CỦA CÁC
NGƯỜI!
Cuốn sách Kinh Thánh của các người và ngay
cả gia phả tổ tiên của “Đấng Messiah”
đầy dẫy những chuyện dâm đãng, loạn
luân của một đoàn mất dạy!” Kinh Thánh đó
chỉ đáng gọi là “Kinh Thánh Ô Nhục”. (Gospel of Shame)
mà thôi!
Thời nay chúng ta lại có thêm một cuốn
Kinh Thánh Ô Nhục khác. Thật sự tựa đề cuốn
sách này rất dài: “A Gospel of Shame, Children Sexual Abuse and the
Catholic Church” (Kinh Thánh Ô Nhục về trẻ em bị sách
nhiễu tình dục và đạo Giáo Hội Công Giáo La Mã)
của hai tác giả Elinor Burkett, tiến sĩ sử
học, giáo sư đại học về báo chí. Công trình
điều tra của bà về bệnh Aids được
giải thưởng Pulitzer năm 1991. Đồng tác
giả là Frank Bruni, ký giả 28 năm chuyên nghiệp trong
nghề, đoạt giải thưởng Pulitzer năm 1992
về công trình điều tra nạn rờ mó trẻ em
(child molesters). Sách dầy gần 300 trang, do Viking Penguin
xuất bản năm 1993. Để thu thập các tài
liệu sống và xác thực, hai tác giả đã lặn
lội đi khắp nước để tiếp xúc
với các nạn nhân, phỏng vấn một số tu
sĩ ở trong tù, gặp gỡ các chuyên viên về tâm lý và
đặc biệt phỏng vấn 188 giám mục Công Giáo
Hoa Kỳ.
Vì cuốn sách khổ lớn và khá dầy
thuật lại những vụ phạm pháp về tính
dục của các tu sĩ Công Giáo Mỹ đã bị truy
tố từ thập niên 1960 đến 1993, chúng tôi không
thể thuật lại đầy đủ ở đây,
nên chỉ xin nêu lên một số nét tiêu biểu mà thôi:
Vụ đầu tiên được kể trong
sách là vụ phạm pháp liên tục của Linh Mục James
Porter, chánh xứ Saint Mary thuộc giáo phận Massachusetts,
từ năm 1960. Cứ sau một thời gian trông coi
một giáo xứ nào đó, linh mục lại dở trò
rờ mó con nít, làm tình theo kiểu sodomy với các bé trai giúp
lễ (altar boy), đến khi bị mang tiếng trong giáo
xứ thì y lại được tòa giám mục thuyên
chuyển đến giáo xứ khác. Cứ như thế
trên 30 năm, Linh Mục Porter đã được các giám
mục thuyên chuyển qua nhiều giáo xứ thuộc các
tiểu bang Massachusetts, New Mexico và Minnesota. Tổng số
nạn nhân cả nam lẫn nữ của linh mục Porter
lên tới nhiều trăm người. Trong phiên tòa xử
Porter tại Boston trong tháng 9-1992, một trăm nạn nhân
từ các nơi kéo về tham dự. Linh mục Porter
bị tòa tuyên phạt 317 năm tù.
Điều chính yếu trong vụ án này cho
thấy các tòa giám mục hoàn toàn không quan tâm đến
sự thiệt hại của các nạn nhân mà chỉ lo
bưng bít che dấu tội phạm hầu bảo vệ
uy tín của giáo hội mà thôi. Các tòa giám mục đều
biết rất rõ các hành vi bỉ ổi của Linh Mục
James Porter trong hơn 30 năm nhưng không hề có một
biện pháp kỷ luật nào với y. Y vẫn ngang nhiên
thực hiện các phép bí tích rửa tội, làm lễ Misa,
truyền phép Mình Thánh v.v... Như vậy tất cả các
nghi lễ do y thực hiện đều là các trò bịp và
các giám mục bao che cho y đều là những kẻ
đồng lõa. Cái vẻ nghiêm trang từ tốn của các
tu sĩ Công Giáo chỉ là những trò đóng kịch,
thực chất chúng chỉ là một đám đạo
đức giả.
Trong chương 5, dưới tựa đề
“False Idols” (Nhận lầm thần tượng), các tác
giả phỏng vấn một tu sĩ dòng Tên và
được ông thổ lộ bí mật: Trong mấy
chục năm làm linh mục, ông đã sờ mó và làm tình
(sodomize) với 50 đứa nhỏ trai từ 7 đến
17 tuổi và rờ mó nhiều cô gái khác. Nhưng ông may
mắn không bị ai tố cáo nên ông vẫn được
bình an vô sự. Tuy nhiên, ông muốn các tác giả nêu lên ý
kiến của ông là những chuyện dâm ô trong kinh thánh
đã gây ảnh hưởng xấu về tâm lý của ông.
Thậm chí Kinh Kính Mừng (Hail Mary) cũng làm cho ông bị
ám ảnh rất nhiều. Trong Kinh Kính Mừng có câu “Blessed
is the fruit of thy womb, Jesus”. Cái tiếng “womb” (tử cung) trong
Kinh Kính Mừng làm cho ông liên tưởng đến bộ
phận sinh dục của đàn bà. Linh mục tự
hỏi: “Tại sao người ta lại đem cái danh
từ tử cung vào một bài kinh cầu nguyện như
vậy?”
Xin nói thêm ở đây là trong Kinh Kính Mừng
bằng Việt ngữ không có danh từ “tử cung”. Nguyên
văn câu “Blessed is the fruit of thy womb, Jesus” được
dịch thành: “và Jesus con lòng bà gồm phước lạ”.
Chương 6, dưới tựa đề là
“The silencing of the lambs” (Sự bịt miệng con chiên) các tác
giả cho thấy đại đa số các nạn nhân
bị lạm dụng đều là bị bịt miệng
bởi cha mẹ, thầy giáo và các thủ đoạn
hăm dọa, khủng bố của các tu sĩ phạm
pháp.
Đối với những thiếu niên của
những gia đình ngoan đạo thì các tu sĩ Công Giáo
luôn luôn được chúng coi là những người thánh
thiện (holy men) và có uy tín hơn cả cha mẹ chúng. Khi
chúng bị các tu sĩ lạm dụng tình dục, đã
không dám về mách cha mẹ vì sợ bị cha mẹ la
mắng hay trừng phạt. Năm 1992, một số nhà
tâm lý học đã phỏng vấn 15 em nhỏ ở
Lafayette, Louisiana bị tu sĩ lạm dụng tình dục.
Các em cho biết đã không dám tố cáo vì bị các linh
mục hăm dọa: “Nếu tố cáo sẽ bị Chúa
đày xuống hỏa ngục đời đời”
hoặc “mày phải câm miệng, nếu không, quỉ sẽ
bắt mày!” Mấy bé gái bị linh mục sờ mó đã
khai: “Cha nói Chúa đã chọn con để giúp cha biết
cái đó thế nào!”
Trong chương này có một chuyện đáng chú
ý, đó là chuyện của Cristine Clark thuộc giáo phận
Joliet, Illinois. Lúc cô lên 7 tuổi, đi học lớp giáo lý
để rước lễ lần đầu thì cô đã
bị cha xứ là Ed Stephanie dụ dỗ hôn hít sờ mó.
Năm cô 14 tuổi, cô bị cha xứ dạy cách thủ
dâm cho ông ta. Năm 18 tuổi, cha xứ giao cấu với
cô. Lúc này cô tỏ ra rất lo lắng vì sợ tội. Cha
khẳng định giao cấu với cha không có tội vì
đó là ý Chúa. Sau đó, Cristine thấy không thể chịu
đựng được nữa nên nói với cha mẹ ý
định tố cáo nội vụ trước Cảnh
Sát. Linh Mục Ed Stephanie thấy nguy nên trình sự việc
với tòa Giám Mục Joliet. Tòa giám mục cho người
đến trao cho gia đình Cristine số tiền 450.000
đô la để mua sự im lặng.
Cristine ký giấy cam kết không tố cáo ngày
15-4-1988. Tuy nhiên, Linh Mục Ed bị nhiều người
khác tố cáo nên y bị cảnh sát bắt vào mùa thu năm
1992.
Chương cuối sách nói về sự thành
lập hội VOCAL, chữ tắt của Victims of Clergy
Abuse Linkup (Hội Liên Kết Những Nạn Nhân Bị Tu
Sĩ Công Giáo Lạm Dụng Tình Dục) quy tụ 300
người họp tại một khách sạn ở Chicago
cuối tháng 10-1992. Hội đưa ra nhiều biện
pháp như viết thư cho các tòa giám mục yêu cầu
chấm dứt sự bao che cho các tu sĩ phạm pháp.
Hội viết báo và tổ chức các talk shows trên TV và Radio
để lưu ý toàn quốc về sự nguy hiểm
của tu sĩ Công Giáo, hô hào đồng bào mọi giới
đừng quá tin tưởng vào các trường Công Giáo
v.v...
Rất nhiều tòa giám mục hồi đó (1992)
cam kết sẽ không bao giờ để các vụ lạm
dụng tình dục trẻ em tái diễn. Trong thực
tế, các vụ lạm dụng tình dục trong giới tu
sĩ Công Giáo vẫn tiếp diễn, chẳng những
không giảm bớt mà mỗi ngày một gia tăng.
Đến nay (2002) tệ trạng này đã tới mức nghiêm
trọng khiến cho tất cả mọi ngành truyền
thông từ báo chí, truyền thanh, truyền hình và Internet
đều phải lên tiếng tố cáo và nghiêm khắc lên
án các tu sĩ phạm pháp cũng như sự đồng
lõa bao che của các giới lãnh đạo.
Trong tháng 4 và tháng 5 năm 2002, cuộc tấn công
của mọi ngành truyền thông nhắm vào tính vô
đạo đức của giới tu sĩ Công Giáo
mạnh mẽ như một cơn bão lửa, đến
nỗi Hồng Y Mahony phải than rằng: “Giáo Hội Công
Giáo không thể tự cứu, chỉ có Chúa Jesus mới
cứu nỗi mà thôi!” (www.cnn.com 4-11-2002). Giáo Hội Công Giáo
hiện chỉ còn biết trông cậy vào phép lạ của
Chúa Jesus! Đó là thái độ thường có nơi
những tín đồ cuồng tín mỗi khi họ lâm vào
tình trạng nguy hiểm tuyệt vọng. Họ vin vào
niềm tin tôn giáo như chiếc phao cuối cùng của hy
vọng để tiếp tục cuộc sống. Tất
cả chỉ là ảo tưởng vì trong thực tế,
dù cho Jesus chết đi sống lại nhiều lần
cũng không xóa nổi những vết đen ô nhục
của các tu sĩ Công Giáo phạm pháp trong ký ức của
mọi người, ở trong cũng như ở ngoài Giáo
Hội Công Giáo.
Tội phạm lạm dụng tính dục nơi
trẻ em là tội phạm chung của giới tu sĩ Công
Giáo ở khắp mọi nơi và từ lâu đời
chứ không phải chỉ ở Hoa Kỳ thời nay
mới có. Tuy nhiên, các nhà thờ Công Giáo là những tiệm
buôn thần bán thánh đạt kỷ lục thành công về
mặt tài chánh nên họ luôn luôn có sẵn tiền
để thương lượng mua sự im lặng
của các nạn nhân. Do đó tất cả những
vụ phạm pháp bỉ ổi của giới tu sĩ Công
Giáo bị lộ ra ngoài chỉ là cái ngọn của
tảng băng sơn trôi trên mặt biển.
Hiện nay, mọi mũi dùi dư luận
đều tập trung chĩa vào Giáo Hội Công Giáo Hoa
Kỳ, bởi lẽ giáo hội này là một định
chế phi chính phủ (non-governmental institution) giàu nhất
thế giới và có ảnh hưởng lớn nhất
với Vatican về mọi phương diện.
Vụ tai tiếng về tính dục của
giới tu sĩ Công Giáo Mỹ hiện nay chẳng những
đã lột mặt nạ đạo đức giả
của họ mà còn vén lên bức màn bí mật về tài chánh
của giáo hội Công Giáo Mỹ. Chuyên gia tài chánh Richard Sipe,
nguyên là một linh mục, tuyên bố với ký giả
tuần báo Business ngày 15-4-02 rằng: “Giáo Hội Công Giáo luôn
luôn tìm cách bưng bít hai điều bí mật: Đó là bí
mật về lạm dụng tính dục và bí mật về
tài chánh. Hai bí mật này có liên quan với nhau. Từ năm
1985 đến nay, Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã phải
chi trên 1 tỷ đô-la trong việc dàn xếp với các
nạn nhân để họ không tố cáo các vụ
phạm pháp – Giáo hội đã tốn rất nhiều
tiền để bảo vệ thanh danh giả tạo.”
Luật sư Roderick Mac Leigh đã từng
đại diện cho trên 100 nạn nhân của các tu sĩ
Công Giáo tại tòa án Boston trên 10 năm qua cho biết:
“Số tiền 1 tỷ đô-la bồi thường cho các
nạn nhân chỉ là số tiền đã bị tiết
lộ, số tiền mà GHCG thực sự chi tiêu về
việc này lên đến nhiều tỷ đô-la”.
Giáo sư Patrick Schiltz, viện trưởng
Đại Học Luật Khoa Saint Paul, Minnesota, cho biết:
Số tiền GHCG Hoa Kỳ dùng để dàn xếp
bịt miệng các nạn nhân là một số tiền
khổng lồ mà đến nay chúng ta chưa có thể
ước lượng chính xác, nhưng hiện nay đã có
nhiều giáo phận bị buộc phải bán nhà thờ,
đất đai và nhiều bất động sản
để trả nợ. Thậm chí nhiều giáo phận
đã lâm vào tình trạng phá sản. Trong khi đó các
khoản đóng góp của giáo dân cho nhà thờ đã sút
giảm rõ rệt vì họ không muốn số tiền
mồ hôi nước mắt của họ được
chi dùng để che lấp những thói xấu xa của
giới tu sĩ Công Giáo đã xúc phạm tính dục trên thân
thể con cái của chính họ.
Dư luận của giáo dân hiện nay kết án
các tu sĩ phạm pháp là chính yếu, nhưng bên cạnh
đó họ qui phần trách nhiệm lớn thuộc
về Vatican. Giáo dân ở nhiều nơi đã lên tiếng
đòi hỏi Vatican phải thành khẩn xét lại một
số vấn đề mà từ xưa đến nay Vatican
vẫn luôn luôn lẩn tránh:
1. Cho các tu sĩ (kể cả linh mục, giám
mục, hồng y) được quyền tự do lựa
chọn hoặc có gia đình, hoặc sống độc
thân (optional celibacy). Không có một luật nào của Chúa
buộc các tu sĩ phải tuyên thệ độc thân.
Đây chỉ là một thói tục do con người
đặt ra và do đó con người có quyền thay
đổi khi thấy nó bất lợi.
2. Hủy bỏ các giáo lý khắt khe về
giới tính và khinh rẻ phụ nữ như những giáo
lý của nhà thần học Ả Rập điên khùng St.
Augustin (Cha đẻ ra Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Đồng Công).
Sau vụ tai tiếng nhục nhã của giới
tu sĩ Công Giáo, GHCG sẽ bị thụt lùi rất xa so
với Tin Lành về phương diện tài chánh. Theo ký
giả William C. Symonds của tờ Business Week thì giáo dân
Mormon đóng góp cho nhà thờ hàng năm bằng 8% lợi
tức. Các giáo phái Tin Lành khác đóng góp trung bình là 2% lợi
tức. Còn các giáo dân Công Giáo đóng góp cho nhà thờ luôn luôn
dưới mức 1%. Ngày nay, theo kết quả thăm dò
của Viện Gallup ngày 27.3.02 thì 30% giáo dân Công Giáo Mỹ
đã chấm dứt góp tiền cho nhà thờ vì họ không
còn tin tưởng nơi các tu sĩ như trước.
Cũng theo kết quả cuộc điều tra của ký
giả William Symonds (đăng trên Busniess Week ngày 15-4-02) thì
Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã thu được các
khoản tiền khổng lồ do các nguồn sau đây
(trước khi nổ ra vụ tai tiếng):
1. Hoa Kỳ có 194 giáo phận (dioceses) đứng
đầu bởi một hay nhiều giám mục, tổng
giám mục hay hồng y. Mỗi giáo phận có nhiều giáo
xứ (parishes). Mỗi giáo xứ có một hay nhiều linh
muc. Trung bình mỗi giáo xứ có một nhà thờ với
khoảng 3000 giáo dân. Tổng số Công Giáo Mỹ hiện
nay khoảng 60 triệu với 20.000 giáo xứ. Tổng
số tiền quyên tại nhà thờ hàng năm là 7 tỷ
500.
2. Giáo Hội Công Giáo Mỹ là sở hữu
chủ lớn nhất về các trường tư
thục, gồm có:
- 6900 trường tiểu học trực
thuộc giáo xứ.
- 1200 trường trung học trực thuộc
các dòng tu (như dòng Tên, dòng Phan-xi-cô, dòng St. Paul v.v...)
Tổng cộng 2.6 triệu học sinh.
Các trường trung học và tiểu học thu
lợi cho Giáo Hội hàng năm là 10 tỷ đô-la.
- Giáo Hội Công Giáo Mỹ còn thủ đắc
230 trường Cao Đẳng và Đại Học với
tổng số 670,000 sinh viên. Số thu không rõ bao nhiêu.
Ngoài ra, các trường Đại Học còn
được nhiều người tặng những
khoản tiền rất lớn như Đại Học
Boston được tặng 1 tỷ, Notre Dame 2.8 tỷ.
3. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ làm chủ 637
bệnh viện (chiếm 17% tổng số bệnh
viện của cả nước), 122 cơ quan y tế
(health care agencies) và 700 nhà hưu dưỡng (senior housing)
thu lợi hàng năm cho giáo hội 65 tỷ đô-la. Ngoài
ra, giáo hội còn khai thác 14,000 “cơ quan Bác Ái” (Charities) thu
lợi hàng năm cho giáo hội 2 tỷ 340 triệu
đô-la!
Làm một bài toán cộng các khoản thu nói trên,
chúng ta thấy mỗi năm Giáo Hội Công Giáo Mỹ
đã thu về trên 85 tỷ đô-la!
Về việc chi tiêu được công bố
thì không thấm gì với số thu khổng lồ nói trên:
- Khoản tiền chi cho ngân sách hoạt
động của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ
(gồm 375 thành viên) là 150 triệu đô-la.
- Khoản tiền đóng góp cho ngân sách của
Vatican trong năm 2000 là 209 triệu đô-la. Đây là số
tiền rất nhỏ so với khả năng tài chánh
khổng lồ (85 tỷ/năm) của GHCG Hoa Kỳ,
nhưng nó cũng đủ làm cho Công Giáo Mỹ thành
người đóng góp hàng đầu cho Vatican. Sau Mỹ là
Giáo Hội Công Giáo Đức.
Các hồng y Mỹ thường được
các giáo hoàng bổ nhiệm làm quản trị viên tài chánh
(Financial Administrator) của Tòa Thánh. Trước đây,
Hồng Y John O’Connor đảm nhận chức vụ này
trong nhiều năm. Tưởng cũng nên nhắc lại
rằng O’Connor đã từng là “Tuyên Úy Công Giáo Mỹ”,
thường xuyên có mặt tại Dinh Độc Lập
ở Saigon trong nhiều năm và là bạn chí thân của
cả hai tổng thống Công Giáo Ngô Đình Diệm và
Nguyễn Văn Thiệu.
Cách đây vài năm, Hồng Y O’Connor đã
được Chúa gọi về. Giáo Hoàng John Paul II bổ
nhiệm Hồng Y Edward Egan (quản nhiệm địa
phận Bridgefort) thay thế. Lý do bổ nhiệm là vì
Hồng Y Edward Egan có tài giao thiệp rộng trong giới
tài phiệt Mỹ. Một trong những bạn chí thân
của ông là ông Jack Welch, cựu chủ tịch đại
công ty General Electric. Số tiền thu của giáo hội
rất lớn nhưng thường đọng lại
ở các văn phòng của các giáo phận. Không có một
cơ quan nào đại diện cho toàn giáo hội kiểm
tra tài chánh của các giáo phận. Tình trạng này đưa
đến sự lạm dụng của các giáo phận
trong việc dùng tiền để thương
lượng với gia đình nạn nhân trong các vụ
lạm dụng tính dục của các tu sĩ để
thanh danh của giáo hội không bị mang tiếng.
Sự thiếu trách nhiệm tài chánh tại các
giáo phận tạo cơ hội cho các giới chức cao
cấp của giáo hội dễ bị hủ hóa bằng
cách đi tìm thú vui vật chất. Năm 1988, tờ báo
National Catholic Reporter tố cáo Hồng Y Anthony Bevilaqua đã
biển thủ 5 triệu đô-la của giáo phận
Philadelphia để mua nhà nghỉ mát riêng ở bãi biển.
Nhà nghỉ mát riêng rộng lớn và hết sức sang
trọng xa hoa chẳng lẽ để một mình hồng
y ăn chay hãm mình ở đó? Điều mỉa mai là
hầu hết các giáo dân trong địa phận Philadelphia
lại là những người nghèo!
Cũng tờ báo Công Giáo nói trên tố cáo một
câu chuyện làm người đọc phải ghê tởm
hơn nhiều. Đó là trường hợp một linh
mục thuộc địa phận Santa Rosa, California,
bị tố cáo biển thủ một số tiền
của địa phận. Nội vụ được
trình lên cha Darth Vader, giám mục quản nhiệm giáo
phận Santa Rosa.
Giám mục Vader cho gọi linh mục phạm pháp
đến tra vấn. Cuối cùng, giám mục Vader
điều đình với linh mục là sẽ bỏ qua
tội biển thủ với điều kiện linh
mục phải để cho y làm tình qua hậu môn! Sau
đó nội vụ bị đổ bể và Giám Mục
Vader buộc phải từ chức năm 1999. Nhân vụ
này, người ta mới phát giác ra rằng: tất cả
những tiền quỹ của giáo phận Santa Rosa đã
được dùng để bồi thường cho các
nạn nhân bị nhiều tu sĩ trong địa phận
xâm phạm tính dục. Tuy nhiên, tất cả ngân quỹ
cũng chưa đủ nên địa phận phải bán
một số nhà thờ và bất động sản.
Hiện nay, địa phận này còn mắc nợ 16
triệu đô-la.
* * *
Kính thưa
quí vị độc giả,
Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục của đạo Công
Giáo cũng giống như bộ truyện Ả Rập
“Ngàn Lẻ Một Đêm” kể hoài không hết. Tôi xin
tạm dừng ở đây để nêu lên vài điều
nhận định sau đây:
Phong Trào Giải Trừ Kitô Giáo là một hiện
thực lịch sử có tính chất quốc tế
nhắm vào kẻ thù chung của nhân loại trong 2000 năm
qua.
Trước đây chúng ta đã từng nghe nói
đến phong trào giải trừ Kitô Giáo (Dechristianization)
tại các nước Âu Mỹ. Thoạt đầu, chúng ta
thấy danh từ này có vẻ lạ tai và thật sự
chúng ta chưa có đủ chứng cớ để tin
rằng điều đó có thật. Nhưng đến
nay, qua nhiều diễn biến có tính cách lớp lang qui mô
và đồng loạt trên cả 3 lục địa
Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu nhắm vào Kitô Giáo nói chung và
Giáo Hội Công Giáo nói riêng, chúng ta phải khách quan thừa
nhận rằng: Phong Trào Giải Trừ Kitô quả là
một hiện thực lịch sử có tính chất
quốc tế. Điều đó chứng tỏ lịch
sử thế giới đã tiến đến giai
đoạn đại đa số nhân loại nhận
diện ra kẻ thù chung lớn nhất của mình trong 200
năm qua là ai.
Chiến dịch mở đầu từ sau khi
Cộng Sản Nga và Đông Âu sụp đổ trong
những năm 1989-1991. Tới thời điểm này, Kitô
Giáo trở nên thừa thãi vì không còn cần thiết cho nhu
cầu chiến lược chống chủ nghĩa
Cộng Sản của các đế quốc. Phong trào
chống Kitô Giáo đột nhiên bùng lên dữ dội trong
các giới trí thức Âu Mỹ trên cả ba lục
địa. Theo Tuần báo Newsweek số ra ngày 8-4-1996 thì
chỉ trong vòng 5 năm từ 1991-1995, trên cả 3 lục
địa Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu đã xuất
hiện trên một ngàn bài báo nảy lửa và hàng trăm
đầu sách thuộc loại best-sellers đồng
loạt chĩa mũi dùi tấn công trực diện vào các
giáo lý Kitô. Một trong những chủ đề trọng
yếu của cuộc tấn công là tố giác các sai
lầm nghiêm trọng của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Rõ ràng
một điều là phải có một kế hoạch
quốc tế mới có thể nổ ra một cuộc
tấn công qui mô đồng loạt trên cả 3 lục
địa như vậy được. Phải công
nhận cuộc tấn công đợt đầu của
Phong Trào Giải Trừ Kitô của các nước Âu Mỹ
mạnh mẽ hơn nhiều so với Phong Trào Enlightenment
ở Âu Châu thế kỷ 18. Kết quả ngoạn
mục của đợt tấn công này là Vatican đã
phải làm lễ long trọng thú nhận trước toàn
thể nhân loại về 7 núi tội ác của nó trong
lịch sử.
Đến nay, riêng trong hai tháng 4 và 5-2002, chúng ta
ngạc nhiên nhận thấy hầu như tất cả
các nhật báo, tuần báo, các đài phát thanh và truyền
hình đồng loạt tố giác tu sĩ các cấp của
giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ về các tội tà dâm,
đặc biệt là tội tà dâm đối với các
trẻ vị thành niên. Lúc tôi đang viết bài này là vào
cuối tháng 5-2002, tôi không biết vụ tai tiếng này còn
kéo dài trong những tháng tới hay không. Tuy nhiên, hiện
tượng này cũng đủ để thêm một
bằng cớ chứng tỏ việc Giải Trừ Kitô
là một thực tế nằm trong một kế hoạch
toàn cầu. Kết quả của cuộc tấn công
lần này là tập đoàn tu sĩ dâm tặc Công Giáo
phải cúi đầu gục mặt nhận tội
của chúng và uy tín về đạo đức của Giáo
hội Công Giáo đã bị suy sụp nghiêm trọng.
Bước kế tiếp là luật pháp quốc
gia sẽ nhắm làm giảm bớt khối lượng
tài sản và số thu nhập hàng năm quá lớn của
Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Tất cả những
diễn tiến nói trên chứng tỏ Đạo Công Giáo
đang trên đà tuột dốc để lao xuống
đáy vực diệt vong đầy ô nhục.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét