Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo


(A Gospel of Shame)

Charlie Nguyễn


Trên thế gian này không có tôn giáo nào xử dụng tĩnh từ “thánh” (holy) một cách bừa bãi và vô trách nhiệm cho bằng Công Giáo La Mã: Cây thập ác là một dụng cụ giết người dã man vì nạn nhân phải chịu đói khát và đau đớn rất lâu mới chết. Mọi nạn nhân đều bị lột trần truồng trước khi bị đóng đinh vào thập ác. Đó là một sự bêu riếu sỉ nhục cùng cực. Dù cho Jesus đã bị quân La Mã xử tử trên thập ác chăng nữa thì cây thập ác vẫn là cây thập ác chứ không thể trở thành “Thánh Giá” (Holy Cross) được! Giả sử quân La Mã đã không xử tử Jesus bằng thập ác mà xử tử bằng cách treo cổ hay chém đầu thì Công Giáo sẽ có “Thánh Thòng Lọng” hoặc “Thánh Mã Tấu” chăng?
Sào huyệt của Mafia đội lốt tôn giáo trú đóng ở Rome được gọi là “Tòa Thánh La Mã”. Lịch sử thế giới ghi nhận: Từ ngày đế quốc La Mã lập ra đạo Công Giáo (Katholicos) vào đầu thế kỷ 4 đến nay, nó đã giết hại trên 200 triệu người.
Cái tội sát nhân vô địch này chỉ là một trong 7 núi tội mà chính Vatican đã phải thú nhận. Một tổ chức tội ác vô tiền khoáng hậu như vậy có lẽ nào được gọi là “Hội Thánh”? Sào huyệt Vatican phải được gọi là sào huyệt của quân cướp quốc tế cho chính danh. Tổ chức quốc tế này tại sao được xưng tụng là “Đức Thánh Cha”, “Đức Hồng Y”, “Đức Cha”, “Đức Ông”?
Bà Maria đẻ ra Jesus cũng chỉ được gọi là “Đức Mẹ” chứ có được gọi là “Đức Thánh Mẹ” bao giờ đâu? Vậy “Đức Mẹ” cũng chỉ được coi ngang hàng với các “Đức Cha” thôi. Đức Mẹ sẽ phải gọi các “Đức Ông” bằng bố xưng con và phải quỳ mọp trước dung nhan của các giáo hoàng vì các giáo hoàng là các vị thánh sống (Đức Thánh Cha)!
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 6 tháng 5 năm 2002, có in trên trang bìa một câu hỏi lớn: “What would Jesus do?”) Jesus nên làm gì đây?”). Bên trong là 10 trang báo viết về tình trạng lạm dụng tình dục của các tu sĩ Công Giáo. Nơi trang 28 có in hình một bức tranh sơn dầu vẽ gia đình Giáo Hoàng Alexander Borgia vào cuối thế kỷ 15. Giáo hoàng này có nhiều vợ nhiều con, loạn luân với chị ruột và con gái ruột. Cô con gái này có một đứa con với giáo hoàng. Vào giữa thế kỷ 16, Giáo Hòang Julius III dụ dỗ một thiếu niên 15 tuổi để làm tình theo kiểu sodomy (anal copulation). Giáo hoàng được đứa nhỏ chiều ý nên đã phong cho nó chức Hồng Y. Chẳng những thế, Giáo Hoàng Julius III còn bổ nhiệm thằng nhỏ giữ chức quốc vụ khanh tòa thánh! (trang 28).
Nơi trang 29, tờ Newsweek còn cho biết: Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, ít nhất có 3 trường hợp giáo hoàng La Mã truyền ngôi cho con ruột giống như kiểu thế tập của các vua chúa thế gian.
Trong lịch sử Công Giáo không thiếu gì những tên khốn nạn dùng thủ đoạn lưu manh như giết người, lừa gạt, hối lộ... để chiếm đoạt ngôi vị giáo hoàng. Trong khi đó luận điệu của giáo hội luôn luôn dạy giáo dân rằng: Các giáo hoàng đều đã được Hội Đồng Hồng Y bầu chọn theo ơn soi sáng của Đức Chúa Thánh Thần. Nếu như vậy thì tại sao Giáo Hội Công Giáo lại có quá nhiều những tên giáo hoàng khốn nạn? Phải chăng cặp mắt của Đức Chúa Thánh Thần là cặp mắt heo luộc nên đã không thấy được điều đó?
Các sách Tân Ước cũng như Cựu Ước đầy rẫy những chuyện nhảm nhí bậy bạ, tại sao lại được gọi là “Thánh Kinh” (Holy Bible)? Trọng tâm của những sách này là để đề cao Jesus, từ một gã thợ mộc tầm thường biến thành Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, nghĩa là Jesus đã đẻ ra cha mẹ tổ tiên ông bà của chính mình!
Sau đó người ta lộn lại gọi bà Maria là “Mẹ Chúa” (Mother of God). Mẹ Thiên Chúa đẻ ra Thiên Chúa. Trước đó Thiên Chúa đẻ ra Mẹ và cả lò tổ tiên nhà Thiên Chúa. Đây chính là một thứ Thiên Chúa quái vật trong truyện thần thoại dành cho nhi đồng. Đến đây, xin tạm coi Jesus như một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Do Thái, chúng ta hãy đọc lại trong kinh thánh phần nói về gia phả của Jesus để xem tổ tiên của y thánh thiện đến cỡ nào.
Hàng năm cứ đến Noel, các nhà thờ thường đọc Kinh Thánh về gia phả của Jesus gồm có 42 đời kể từ tổ phụ Abraham. Sách Sáng Thế Ký (Genesis, 11:27-28) kể rằng: Thợ nặn tượng tên Terah sinh ra ba người con là Abraham, Nabor và Haran tại thành phố UR, thành phố lớn nhất và cổ nhất của xứ Babylon. Chính tại thành phố UR, Abraham đã đập nát các tượng thần của cha và chỉ giữ lại một tượng thần duy nhất là tượng thần El (hình dạng của một con bò đực với bộ râu dài) để tôn thờ. Chính vì hành vi này mà Abraham đã được tôn vinh là ông tổ của các Đạo Độc Thần (Monotheism) tức các đạo chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Tên của bò thần El được chuyển sang tiếng Hebrew là Elohim. Tám thế kỷ sau, nó được Moises đổi tên thành Jehovah. Đạo Kitô gọi Jehovah (tức con bò Elohim) là Đức Chúa Cha! Do đó, đối với Jesus, Abraham chẳng những là tổ phụ về huyết thống mà còn là tổ phụ về niềm tin tôn giáo của y nữa.
Abraham lấy em gái (cùng cha khác mẹ) là Sarah làm vợ. Năm Sarah 90 tuổi mới sinh con trai đầu lòng là Isaac. Sarah chết vào năm 127 tuổi. Mấy năm sau khi vợ chết, Abraham lấy một cô vợ trẻ tên Keturah vào lúc y 137 tuổi. Cô này sinh cho y 6 người con. Theo sách Sáng Thế Ký thì Abraham hưởng thọ 175 tuổi! Vào năm 1994, Giáo Hoàng John Paul II ngỏ ý rất mong muốn đến thăm thành phố UR vì đó mới đích thực là quê hương của các đạo thờ Chúa. (Quả thật, Thiên Chúa đã không giáng sinh ở đất Do Thái mà ngài đã phát sinh từ tượng bò vàng – the golden calf – ở thành phố UR thuộc Babylon). Jean Paul II đã nói rất chí lý là thánh kinh không khởi đầu từ Israel mà đã khởi đầu từ thành phố UR. Jean Paul II đã tuyên bố với báo chí năm 1994: “Nếu không khởi hành từ UR thì không thể nói là đã đi thăm vùng đất của thánh kinh vì thánh kinh đã bắt đầu từ đó.” (No visit to the lands of the Bible is possible without a start in UR where it all began – Abraham, Journey of faith, by Tad Szule, National Geographic, December 2001, p.46).
Về đức hạnh thì Abraham là kẻ loạn luân với em gái. Về tôn giáo thì y là kẻ đã lập ra đạo thờ bò El. (“tức Thiên Chúa Elohim”). Ở Abraham tuyệt nhiên không có một đức hạnh hay một công trạng hiển hách nào đáng cho chúng ta kính phục. Tất cả chỉ vì Abraham là người đầu tiên có ý kiến thờ một thần (thay vì thờ đa thần) và vì y là ông tổ 42 đời của Jesus nên người Công Giáo đã tôn vinh Abraham một cách lố bịch và đồng thời mù quáng nhục mạ tuyệt đại đa số dân tộc Việt Nam. Sách Kinh Nhựt Khóa Công Giáo (trang 143-146) có bài “Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt Nam Trở Lại Đạo Thánh” có đoạn như sau: “Chúa đã phán rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi phương Đông, Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước Thiên Đàng. Nay nước Việt Nam cũng là một nước phương Đông đang còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy chưa hề biết đến Đấng Chí Tôn”.
Đấng Chí Tôn của Công Giáo cũng là Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái. Người Công Giáo và Do Thái được ông tổ đạo Hồi là Mohammed gọi là “Những người của các sách Thánh Kinh (The People of the Books).
Chúng ta hãy đọc Kinh Koran chương 4, câu 153 (Sutra 4, verse 153) sẽ được Mohammed giải đáp cho chúng ta biết Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái và đạo Kitô là ai: “Những người của các sách thánh kinh đã thờ CON BÒ thay vì thờ Thiên Chúa, mặc dầu Thiên Chúa đã tỏ cho biết nhiều dấu hiệu về ngài”. (The people of the Books took THE CALF for God after clear signs had come to them). Mohammed đã giải đáp dùm cho 92% dân tộc Việt Nam lý do tại sao họ đã không theo đạo Công Giáo. Bởi lẽ giản dị Công Giáo chỉ là một biến thể của đạo thờ BÒ!
Thành phố UR hiện nay chỉ còn là một phế tích trong sa mạc ở phía Nam nước Iraq, gần giáp với Koweit. Diện tích của thành phố UR khoảng 120 acres. Căn cứ vào di tích các ngôi cổ mộ và các di vật khai quật được, các nhà khảo cổ ước tính thành phố UR được xây dựng cách đây 7500 năm. Dân số ước lượng khoảng 12.000 dân vào năm 2000 TCN, tức vào thời của Abraham. Lộ trình Abraham di cư từ UR đến Canaan (tức vùng Tây ngạn sông Jodan hiện nay) là 600 miles. Điều này cho thấy nguồn gốc thật sự của đạo Công Giáo là kho chuyện thần thoại của thành phố UR. Chính kho tàng thần thoại này đã đẻ ra Kinh Thánh Do Thái – Kitô và bộ truyện nổi tiếng thế giới là “Ngàn Lẻ Một Đêm”.
Một trong những người cùng di cư với Abraham là Lot. Lot gọi Abraham bằng bác ruột, có vợ và hai con gái lớn. Cả hai bác cháu đều là chủ nhân của đàn gia súc lớn. Khi tới vùng đất hứa, Abraham chọn vùng cao nguyên Canaan, còn Lot thì chọn vùng đồng bằng sông Jordan. Tại đây có hai thành phố Sodom và Gomorah. Sau khi di cư được ít lâu, bọn cướp từ hai thành phố đến đồng cỏ lấy hết gia súc của Lot khiến cho Lot và gia đình trở thành những kẻ ăn mày trong hai thành phố này. Tệ trạng xấu nhất trong hai thành phố Sodom và Gomorah là có rất nhiều đàn ông mắc chứng bệnh đồng tính luyến ái. Họ thường làm tình với nhau qua đường hậu môn. Chính vì câu chuyện này trong Thánh Kinh nên ngôn ngữ Tây phương đã phát sinh ra danh từ SODOMY (do tên thành phố Sodom mà ra) để chỉ cái lối làm tình theo kiểu nói trên.
Cái thói tật xấu xa của những kẻ đồng tính luyến ái đã làm cho Chúa nổi giận và ngài quyết định sai các thiên thần mang lửa từ trời xuống tiêu hủy hoàn toàn hai thành phố này. Trước khi ra tay, Thiên Chúa sai thiên thần xuống báo tin cho Lot và gia đình rút ra khỏi thành phố. Khi vừa mới chạy ra khỏi thành phố thì bà vợ của Lot thấy ánh lửa cháy và nghe tiếng la thét kinh hoàng ở phía sau lưng. Bà ta xúc động ngoái cổ lại xem việc gì xẩy ra thì ngay lập tức bà ta bị Chúa phạt biến thành tượng muối. Lot và hai cô con gái chạy đến một cái hang núi và trú ngụ tại đó. Kinh Thánh không nói rõ Lot ở đó bao lâu nhưng Lot đã làm tình với hai cô con gái ruột của mình và mỗi cô cho ra đời hai đứa con!
Đọc chuyện trên trong Thánh Kinh, chúng ta thấy Thiên Chúa của Công Giáo tán thành sự loạn luân nhưng rất ghét cái tội đồng tình luyến ái (homosexuality). Chỉ vì một nhóm người đồng tính kuyến ái mà Chúa nổi giận đốt cháy cả hai thành phố khiến cho biết bao nhiêu người vô tội phải chết oan.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 6.5.2002 có loan tin sau: Nhà khoa học tâm lý trị liệu Richard Sipe nguyên là một linh mục, sau 25 năm nghiên cứu về tính dục của các tu sĩ Công Giáo đã đưa ra sự ước tính hiện nay có khoảng 50% tu sĩ Công Giáo Mỹ mắc chứng đồng tính luyến ái! Nếu Chúa là đấng công bình vô cùng thì Chúa phải tính chuyện đốt hết các nhà thờ Công Giáo như Chúa đã làm ở Sodom và Gomorah xưa kia. Có lẽ vì vậy nên tuần báo Newsweek đã đặt ra một câu hỏi lớn ở ngay trang bìa: “Jesus biết làm cái gì để giải quyết đây?” (What would Jesus do?).
Chúng ta đọc tiếp Kinh Thánh về gia phả của Jesus: Vợ chồng Abraham rất hiếm muộn, phải đợi đến lúc vợ Abraham là Sarah 90 tuổi mới sinh con, đặt tên là Isaac, có nghĩa là “tiếng cười”. Vì chuyện bà già 90 tuổi đẻ con là một chuyện tiếu lâm khiến ai cũng phải phì cười! Isaac lớn lên thay cha làm tộc trưởng (patriarch) Do Thái. Isaac sinh ra hai con trai. Con đầu là Esau và con thứ là Jacob. Jacob là kẻ gian tham đã lợi dụng lúc Esau đói bụng, gạ gẫm anh ăn bát cháo để đổi lấy chức trưởng nam. Esau trong cơn đói đã nhận lời. Do đó, sau này Jacob trở thành tộc trưởng của Do Thái và đặt tên nước Do Thái là Isra-el để tôn vinh thần bò El (tức Elohim trong ngôn ngữ Hebrew).
Chuyện kể trên của Kinh Thánh cho thấy Jacob là một tên lưu manh đã cướp quyền tộc trưởng của anh ruột bằng một thủ đoạn hèn hạ. Jacob sinh ra 12 người con. Một trong những người con đó tên là Judas. Con trai lớn của Judas có vợ tên là Thamar. Người con trai lớn này chẳng may chết sớm khiến cho Thamar phải sống góa bụa. Theo cổ luật của Do Thái thì người em trai của chồng phải lấy chị dâu để nối dõi, nhưng người em trai này lại không thích chị dâu, nên chị dâu không có con.
Ít lâu sau, vợ Judas qua đời. Judas buồn quá nên đi tìm gái điếm để giải khuây, tình cờ lại gặp con dâu Thamar. Judas ăn ở với con dâu sinh ra Perez. Perez là tổ tiên 9 đời của David. Nếu tính từ ông tổ Abraham thì David là đời thứ 14.
Bàn về nhân vật David thì chúng ta có rất nhiều điều để nói. Phạm vi bài này không cho phép chúng tôi viết quá dài ở đây. Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị đề tài “Thánh David là ai?” thuộc phần phụ lục trong sách “Chúa Jesus là ai? Giảng dạy những gì? Của giáo sư Trần Chung Ngọc, Giao Điểm (Cali) 2002. Qua gần 20 trang sách viết về David với những bằng chứng hùng hồn, tác giả đã chứng minh David không thể xứng đáng được gọi là thánh mà “chỉ là một tên tướng cướp, một bạo chúa hoang dâm vô độ, vô đạo đức và cuồng sát” (Sách đã dẫn, vị Hồng Y thuộc dòng dõi tam đại Việt gian là Nguyễn Văn Thuận đã ca ngợi David trong sách “Chứng Nhân Hy Vọng” trang 30, như sau: “Nơi David, người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messiah”.
Messiah là tiếng Hebrew có nghĩa là Chúa Cứu Thế, tức chúa Kitô (Christ). Quả thật David là tổ tiên của Jesus, đấng Merssiah của Thuận và Việt gian, nhưng vấn đề quan trọng là David đã sinh ra đấng cứu thế trong trường hợp nào?
Một hôm David lên sân thượng hóng gió, tình cờ nhìn thấy bà hàng xóm là Bathseba, vợ của tướng Uriah, đang tắm truồng trên sân thượng nhà của bà. Vì thấy Bathseba quá đẹp nên David ỷ quyền làm vua sai người triệu nàng vào cung cho vua thỏa mãn thú tính. Để chiếm đoạt Bathseba, David đã đày chồng nàng là tướng Uriah ra mặt trận nguy hiểm nhất. Cuối cùng Uriah đã tử trận như ý David mong muốn. David đã trắng trợn giết chồng cướp vợ người để thỏa mãn dục tình vô độ của y. Chính cái hành vi mất dạy của David đã đẻ ra đấng Messiah của Nguyễn Văn Thuận và đồng bọn. Cũng chính vì cái hành vi mất dạy của David mà giáo hội Công Giáo Việt Nam mới có những câu kinh vừa ngu xuẩn vừa hèn hạ như sau: “Xin Chúa làm cho tôi khinh dể sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho chúng tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua Đa-vít”. (Sách kinh Nhựt Khóa, trang 707).
Người Công Giáo Việt Nam đã biểu lộ tâm tình mình qua những câu kinh vong bản như trên: Đất nước Việt Nam không phải là quê hương thật mà chỉ là một nơi “muông chim cầm thú” đáng khinh dể, hoặc chỉ là một nơi dung thân tạm bợ mà thôi, vì quê hương thật phải là nơi họ được “hiệp làm một với vua Đa-vít. Dưới con mắt mê muội của người Công Giáo thì 92% dân tộc Việt Nam hãy còn chìm trong bóng tối tăm vì chưa nhận được ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Kinh Nhựt Khóa, trang 144-145, có câu: “Xin Chúa đoái thương nước Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngoại giáo”. Những người Công Giáo quá chủ quan nên trở thành mê muội vì họ thực sự không biết họ tôn thờ cái gì. Đức Chúa Cha xuất thân từ Thiên Chúa Jehovah. Theo tiếng Hebrew, Jehovah có nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ” (Jehovah means God of Fathers) tức Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob. Thiên Chúa của những vị này là Thiên Chúa Elohim, tức thần bò El của thành phố UR, thuộc xứ Babylon. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại thành phố UR một bức tượng của con bò thần El mạ vàng thuộc niên đại 2000 năm TCN (thời Abraham). Tượng này hiện được triển lãm tại bảo tàng viện Baghdad, Iraq. (Xin đọc Iraq’s Ancient heritage – National Geographic Magazine, May 1991). Muốn biết hình hài nó ra sao, xin coi bìa sách “Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác” của Charlie Nguyễn, Giao Điểm xuất bản hè 2001).
Người Công Giáo chê đất nước của mình là “nơi chim muông cầm thú” đáng khinh dể. Trong khi đó thì họ thờ Đức Chúa Cha là con bò Elohim (thú/muông) và thờ Đức Chúa Thánh Thần là con chim bồ câu (cầm/chim). Vậy nơi nào mới thật sự là “nơi chim muông cầm thú”? Ai mới thật sự là những kẻ đáng khinh dể? Vậy nên sửa lại kinh cầu nguyện cho Việt Nam nơi trang 144-145 của Kinh Nhựt Khóa như sau: “Xin Chúa đoái thương 7% dân nước Việt Nam đang còn trong bóng tối tăm ngoại giáo!”
TÔI YÊU CẦU Hội Đồng Giám Mục Việt Nam PHẢI LÊN TIẾNG TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI TRÊN VÀ PHẢI RA LỆNH THU HỒI CÁC CUỐN SÁCH KINH NGUYỆN CÓ NHỮNG LỜI KINH NGU XUẨN BẬY BẠ, NHỤC MẠ DÂN TỘC VIỆT NAM, NHỤC MẠ MỌI NGƯỜI KHÔNG THEO ĐẠO THỜ BÒ CỦA CÁC NGƯỜI!
Cuốn sách Kinh Thánh của các người và ngay cả gia phả tổ tiên của “Đấng Messiah” đầy dẫy những chuyện dâm đãng, loạn luân của một đoàn mất dạy!” Kinh Thánh đó chỉ đáng gọi là “Kinh Thánh Ô Nhục”. (Gospel of Shame) mà thôi!
Thời nay chúng ta lại có thêm một cuốn Kinh Thánh Ô Nhục khác. Thật sự tựa đề cuốn sách này rất dài: “A Gospel of Shame, Children Sexual Abuse and the Catholic Church” (Kinh Thánh Ô Nhục về trẻ em bị sách nhiễu tình dục và đạo Giáo Hội Công Giáo La Mã) của hai tác giả Elinor Burkett, tiến sĩ sử học, giáo sư đại học về báo chí. Công trình điều tra của bà về bệnh Aids được giải thưởng Pulitzer năm 1991. Đồng tác giả là Frank Bruni, ký giả 28 năm chuyên nghiệp trong nghề, đoạt giải thưởng Pulitzer năm 1992 về công trình điều tra nạn rờ mó trẻ em (child molesters). Sách dầy gần 300 trang, do Viking Penguin xuất bản năm 1993. Để thu thập các tài liệu sống và xác thực, hai tác giả đã lặn lội đi khắp nước để tiếp xúc với các nạn nhân, phỏng vấn một số tu sĩ ở trong tù, gặp gỡ các chuyên viên về tâm lý và đặc biệt phỏng vấn 188 giám mục Công Giáo Hoa Kỳ.
Vì cuốn sách khổ lớn và khá dầy thuật lại những vụ phạm pháp về tính dục của các tu sĩ Công Giáo Mỹ đã bị truy tố từ thập niên 1960 đến 1993, chúng tôi không thể thuật lại đầy đủ ở đây, nên chỉ xin nêu lên một số nét tiêu biểu mà thôi:
Vụ đầu tiên được kể trong sách là vụ phạm pháp liên tục của Linh Mục James Porter, chánh xứ Saint Mary thuộc giáo phận Massachusetts, từ năm 1960. Cứ sau một thời gian trông coi một giáo xứ nào đó, linh mục lại dở trò rờ mó con nít, làm tình theo kiểu sodomy với các bé trai giúp lễ (altar boy), đến khi bị mang tiếng trong giáo xứ thì y lại được tòa giám mục thuyên chuyển đến giáo xứ khác. Cứ như thế trên 30 năm, Linh Mục Porter đã được các giám mục thuyên chuyển qua nhiều giáo xứ thuộc các tiểu bang Massachusetts, New Mexico và Minnesota. Tổng số nạn nhân cả nam lẫn nữ của linh mục Porter lên tới nhiều trăm người. Trong phiên tòa xử Porter tại Boston trong tháng 9-1992, một trăm nạn nhân từ các nơi kéo về tham dự. Linh mục Porter bị tòa tuyên phạt 317 năm tù.
Điều chính yếu trong vụ án này cho thấy các tòa giám mục hoàn toàn không quan tâm đến sự thiệt hại của các nạn nhân mà chỉ lo bưng bít che dấu tội phạm hầu bảo vệ uy tín của giáo hội mà thôi. Các tòa giám mục đều biết rất rõ các hành vi bỉ ổi của Linh Mục James Porter trong hơn 30 năm nhưng không hề có một biện pháp kỷ luật nào với y. Y vẫn ngang nhiên thực hiện các phép bí tích rửa tội, làm lễ Misa, truyền phép Mình Thánh v.v... Như vậy tất cả các nghi lễ do y thực hiện đều là các trò bịp và các giám mục bao che cho y đều là những kẻ đồng lõa. Cái vẻ nghiêm trang từ tốn của các tu sĩ Công Giáo chỉ là những trò đóng kịch, thực chất chúng chỉ là một đám đạo đức giả.
Trong chương 5, dưới tựa đề “False Idols” (Nhận lầm thần tượng), các tác giả phỏng vấn một tu sĩ dòng Tên và được ông thổ lộ bí mật: Trong mấy chục năm làm linh mục, ông đã sờ mó và làm tình (sodomize) với 50 đứa nhỏ trai từ 7 đến 17 tuổi và rờ mó nhiều cô gái khác. Nhưng ông may mắn không bị ai tố cáo nên ông vẫn được bình an vô sự. Tuy nhiên, ông muốn các tác giả nêu lên ý kiến của ông là những chuyện dâm ô trong kinh thánh đã gây ảnh hưởng xấu về tâm lý của ông. Thậm chí Kinh Kính Mừng (Hail Mary) cũng làm cho ông bị ám ảnh rất nhiều. Trong Kinh Kính Mừng có câu “Blessed is the fruit of thy womb, Jesus”. Cái tiếng “womb” (tử cung) trong Kinh Kính Mừng làm cho ông liên tưởng đến bộ phận sinh dục của đàn bà. Linh mục tự hỏi: “Tại sao người ta lại đem cái danh từ tử cung vào một bài kinh cầu nguyện như vậy?”
Xin nói thêm ở đây là trong Kinh Kính Mừng bằng Việt ngữ không có danh từ “tử cung”. Nguyên văn câu “Blessed is the fruit of thy womb, Jesus” được dịch thành: “và Jesus con lòng bà gồm phước lạ”.
Chương 6, dưới tựa đề là “The silencing of the lambs” (Sự bịt miệng con chiên) các tác giả cho thấy đại đa số các nạn nhân bị lạm dụng đều là bị bịt miệng bởi cha mẹ, thầy giáo và các thủ đoạn hăm dọa, khủng bố của các tu sĩ phạm pháp.
Đối với những thiếu niên của những gia đình ngoan đạo thì các tu sĩ Công Giáo luôn luôn được chúng coi là những người thánh thiện (holy men) và có uy tín hơn cả cha mẹ chúng. Khi chúng bị các tu sĩ lạm dụng tình dục, đã không dám về mách cha mẹ vì sợ bị cha mẹ la mắng hay trừng phạt. Năm 1992, một số nhà tâm lý học đã phỏng vấn 15 em nhỏ ở Lafayette, Louisiana bị tu sĩ lạm dụng tình dục. Các em cho biết đã không dám tố cáo vì bị các linh mục hăm dọa: “Nếu tố cáo sẽ bị Chúa đày xuống hỏa ngục đời đời” hoặc “mày phải câm miệng, nếu không, quỉ sẽ bắt mày!” Mấy bé gái bị linh mục sờ mó đã khai: “Cha nói Chúa đã chọn con để giúp cha biết cái đó thế nào!”
Trong chương này có một chuyện đáng chú ý, đó là chuyện của Cristine Clark thuộc giáo phận Joliet, Illinois. Lúc cô lên 7 tuổi, đi học lớp giáo lý để rước lễ lần đầu thì cô đã bị cha xứ là Ed Stephanie dụ dỗ hôn hít sờ mó. Năm cô 14 tuổi, cô bị cha xứ dạy cách thủ dâm cho ông ta. Năm 18 tuổi, cha xứ giao cấu với cô. Lúc này cô tỏ ra rất lo lắng vì sợ tội. Cha khẳng định giao cấu với cha không có tội vì đó là ý Chúa. Sau đó, Cristine thấy không thể chịu đựng được nữa nên nói với cha mẹ ý định tố cáo nội vụ trước Cảnh Sát. Linh Mục Ed Stephanie thấy nguy nên trình sự việc với tòa Giám Mục Joliet. Tòa giám mục cho người đến trao cho gia đình Cristine số tiền 450.000 đô la để mua sự im lặng.
Cristine ký giấy cam kết không tố cáo ngày 15-4-1988. Tuy nhiên, Linh Mục Ed bị nhiều người khác tố cáo nên y bị cảnh sát bắt vào mùa thu năm 1992.
Chương cuối sách nói về sự thành lập hội VOCAL, chữ tắt của Victims of Clergy Abuse Linkup (Hội Liên Kết Những Nạn Nhân Bị Tu Sĩ Công Giáo Lạm Dụng Tình Dục) quy tụ 300 người họp tại một khách sạn ở Chicago cuối tháng 10-1992. Hội đưa ra nhiều biện pháp như viết thư cho các tòa giám mục yêu cầu chấm dứt sự bao che cho các tu sĩ phạm pháp. Hội viết báo và tổ chức các talk shows trên TV và Radio để lưu ý toàn quốc về sự nguy hiểm của tu sĩ Công Giáo, hô hào đồng bào mọi giới đừng quá tin tưởng vào các trường Công Giáo v.v...
Rất nhiều tòa giám mục hồi đó (1992) cam kết sẽ không bao giờ để các vụ lạm dụng tình dục trẻ em tái diễn. Trong thực tế, các vụ lạm dụng tình dục trong giới tu sĩ Công Giáo vẫn tiếp diễn, chẳng những không giảm bớt mà mỗi ngày một gia tăng. Đến nay (2002) tệ trạng này đã tới mức nghiêm trọng khiến cho tất cả mọi ngành truyền thông từ báo chí, truyền thanh, truyền hình và Internet đều phải lên tiếng tố cáo và nghiêm khắc lên án các tu sĩ phạm pháp cũng như sự đồng lõa bao che của các giới lãnh đạo.
Trong tháng 4 và tháng 5 năm 2002, cuộc tấn công của mọi ngành truyền thông nhắm vào tính vô đạo đức của giới tu sĩ Công Giáo mạnh mẽ như một cơn bão lửa, đến nỗi Hồng Y Mahony phải than rằng: “Giáo Hội Công Giáo không thể tự cứu, chỉ có Chúa Jesus mới cứu nỗi mà thôi!” (www.cnn.com 4-11-2002). Giáo Hội Công Giáo hiện chỉ còn biết trông cậy vào phép lạ của Chúa Jesus! Đó là thái độ thường có nơi những tín đồ cuồng tín mỗi khi họ lâm vào tình trạng nguy hiểm tuyệt vọng. Họ vin vào niềm tin tôn giáo như chiếc phao cuối cùng của hy vọng để tiếp tục cuộc sống. Tất cả chỉ là ảo tưởng vì trong thực tế, dù cho Jesus chết đi sống lại nhiều lần cũng không xóa nổi những vết đen ô nhục của các tu sĩ Công Giáo phạm pháp trong ký ức của mọi người, ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Công Giáo.
Tội phạm lạm dụng tính dục nơi trẻ em là tội phạm chung của giới tu sĩ Công Giáo ở khắp mọi nơi và từ lâu đời chứ không phải chỉ ở Hoa Kỳ thời nay mới có. Tuy nhiên, các nhà thờ Công Giáo là những tiệm buôn thần bán thánh đạt kỷ lục thành công về mặt tài chánh nên họ luôn luôn có sẵn tiền để thương lượng mua sự im lặng của các nạn nhân. Do đó tất cả những vụ phạm pháp bỉ ổi của giới tu sĩ Công Giáo bị lộ ra ngoài chỉ là cái ngọn của tảng băng sơn trôi trên mặt biển.
Hiện nay, mọi mũi dùi dư luận đều tập trung chĩa vào Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, bởi lẽ giáo hội này là một định chế phi chính phủ (non-governmental institution) giàu nhất thế giới và có ảnh hưởng lớn nhất với Vatican về mọi phương diện.
Vụ tai tiếng về tính dục của giới tu sĩ Công Giáo Mỹ hiện nay chẳng những đã lột mặt nạ đạo đức giả của họ mà còn vén lên bức màn bí mật về tài chánh của giáo hội Công Giáo Mỹ. Chuyên gia tài chánh Richard Sipe, nguyên là một linh mục, tuyên bố với ký giả tuần báo Business ngày 15-4-02 rằng: “Giáo Hội Công Giáo luôn luôn tìm cách bưng bít hai điều bí mật: Đó là bí mật về lạm dụng tính dục và bí mật về tài chánh. Hai bí mật này có liên quan với nhau. Từ năm 1985 đến nay, Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã phải chi trên 1 tỷ đô-la trong việc dàn xếp với các nạn nhân để họ không tố cáo các vụ phạm pháp – Giáo hội đã tốn rất nhiều tiền để bảo vệ thanh danh giả tạo.”
Luật sư Roderick Mac Leigh đã từng đại diện cho trên 100 nạn nhân của các tu sĩ Công Giáo tại tòa án Boston trên 10 năm qua cho biết: “Số tiền 1 tỷ đô-la bồi thường cho các nạn nhân chỉ là số tiền đã bị tiết lộ, số tiền mà GHCG thực sự chi tiêu về việc này lên đến nhiều tỷ đô-la”.
Giáo sư Patrick Schiltz, viện trưởng Đại Học Luật Khoa Saint Paul, Minnesota, cho biết: Số tiền GHCG Hoa Kỳ dùng để dàn xếp bịt miệng các nạn nhân là một số tiền khổng lồ mà đến nay chúng ta chưa có thể ước lượng chính xác, nhưng hiện nay đã có nhiều giáo phận bị buộc phải bán nhà thờ, đất đai và nhiều bất động sản để trả nợ. Thậm chí nhiều giáo phận đã lâm vào tình trạng phá sản. Trong khi đó các khoản đóng góp của giáo dân cho nhà thờ đã sút giảm rõ rệt vì họ không muốn số tiền mồ hôi nước mắt của họ được chi dùng để che lấp những thói xấu xa của giới tu sĩ Công Giáo đã xúc phạm tính dục trên thân thể con cái của chính họ.
Dư luận của giáo dân hiện nay kết án các tu sĩ phạm pháp là chính yếu, nhưng bên cạnh đó họ qui phần trách nhiệm lớn thuộc về Vatican. Giáo dân ở nhiều nơi đã lên tiếng đòi hỏi Vatican phải thành khẩn xét lại một số vấn đề mà từ xưa đến nay Vatican vẫn luôn luôn lẩn tránh:
1. Cho các tu sĩ (kể cả linh mục, giám mục, hồng y) được quyền tự do lựa chọn hoặc có gia đình, hoặc sống độc thân (optional celibacy). Không có một luật nào của Chúa buộc các tu sĩ phải tuyên thệ độc thân. Đây chỉ là một thói tục do con người đặt ra và do đó con người có quyền thay đổi khi thấy nó bất lợi.
2. Hủy bỏ các giáo lý khắt khe về giới tính và khinh rẻ phụ nữ như những giáo lý của nhà thần học Ả Rập điên khùng St. Augustin (Cha đẻ ra Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Đồng Công).
Sau vụ tai tiếng nhục nhã của giới tu sĩ Công Giáo, GHCG sẽ bị thụt lùi rất xa so với Tin Lành về phương diện tài chánh. Theo ký giả William C. Symonds của tờ Business Week thì giáo dân Mormon đóng góp cho nhà thờ hàng năm bằng 8% lợi tức. Các giáo phái Tin Lành khác đóng góp trung bình là 2% lợi tức. Còn các giáo dân Công Giáo đóng góp cho nhà thờ luôn luôn dưới mức 1%. Ngày nay, theo kết quả thăm dò của Viện Gallup ngày 27.3.02 thì 30% giáo dân Công Giáo Mỹ đã chấm dứt góp tiền cho nhà thờ vì họ không còn tin tưởng nơi các tu sĩ như trước. Cũng theo kết quả cuộc điều tra của ký giả William Symonds (đăng trên Busniess Week ngày 15-4-02) thì Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã thu được các khoản tiền khổng lồ do các nguồn sau đây (trước khi nổ ra vụ tai tiếng):
1. Hoa Kỳ có 194 giáo phận (dioceses) đứng đầu bởi một hay nhiều giám mục, tổng giám mục hay hồng y. Mỗi giáo phận có nhiều giáo xứ (parishes). Mỗi giáo xứ có một hay nhiều linh muc. Trung bình mỗi giáo xứ có một nhà thờ với khoảng 3000 giáo dân. Tổng số Công Giáo Mỹ hiện nay khoảng 60 triệu với 20.000 giáo xứ. Tổng số tiền quyên tại nhà thờ hàng năm là 7 tỷ 500.
2. Giáo Hội Công Giáo Mỹ là sở hữu chủ lớn nhất về các trường tư thục, gồm có:
- 6900 trường tiểu học trực thuộc giáo xứ.
- 1200 trường trung học trực thuộc các dòng tu (như dòng Tên, dòng Phan-xi-cô, dòng St. Paul v.v...) Tổng cộng 2.6 triệu học sinh.
Các trường trung học và tiểu học thu lợi cho Giáo Hội hàng năm là 10 tỷ đô-la.
- Giáo Hội Công Giáo Mỹ còn thủ đắc 230 trường Cao Đẳng và Đại Học với tổng số 670,000 sinh viên. Số thu không rõ bao nhiêu.
Ngoài ra, các trường Đại Học còn được nhiều người tặng những khoản tiền rất lớn như Đại Học Boston được tặng 1 tỷ, Notre Dame 2.8 tỷ.
3. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ làm chủ 637 bệnh viện (chiếm 17% tổng số bệnh viện của cả nước), 122 cơ quan y tế (health care agencies) và 700 nhà hưu dưỡng (senior housing) thu lợi hàng năm cho giáo hội 65 tỷ đô-la. Ngoài ra, giáo hội còn khai thác 14,000 “cơ quan Bác Ái” (Charities) thu lợi hàng năm cho giáo hội 2 tỷ 340 triệu đô-la!
Làm một bài toán cộng các khoản thu nói trên, chúng ta thấy mỗi năm Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã thu về trên 85 tỷ đô-la!
Về việc chi tiêu được công bố thì không thấm gì với số thu khổng lồ nói trên:
- Khoản tiền chi cho ngân sách hoạt động của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (gồm 375 thành viên) là 150 triệu đô-la.
- Khoản tiền đóng góp cho ngân sách của Vatican trong năm 2000 là 209 triệu đô-la. Đây là số tiền rất nhỏ so với khả năng tài chánh khổng lồ (85 tỷ/năm) của GHCG Hoa Kỳ, nhưng nó cũng đủ làm cho Công Giáo Mỹ thành người đóng góp hàng đầu cho Vatican. Sau Mỹ là Giáo Hội Công Giáo Đức.
Các hồng y Mỹ thường được các giáo hoàng bổ nhiệm làm quản trị viên tài chánh (Financial Administrator) của Tòa Thánh. Trước đây, Hồng Y John O’Connor đảm nhận chức vụ này trong nhiều năm. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng O’Connor đã từng là “Tuyên Úy Công Giáo Mỹ”, thường xuyên có mặt tại Dinh Độc Lập ở Saigon trong nhiều năm và là bạn chí thân của cả hai tổng thống Công Giáo Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.
Cách đây vài năm, Hồng Y O’Connor đã được Chúa gọi về. Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm Hồng Y Edward Egan (quản nhiệm địa phận Bridgefort) thay thế. Lý do bổ nhiệm là vì Hồng Y Edward Egan có tài giao thiệp rộng trong giới tài phiệt Mỹ. Một trong những bạn chí thân của ông là ông Jack Welch, cựu chủ tịch đại công ty General Electric. Số tiền thu của giáo hội rất lớn nhưng thường đọng lại ở các văn phòng của các giáo phận. Không có một cơ quan nào đại diện cho toàn giáo hội kiểm tra tài chánh của các giáo phận. Tình trạng này đưa đến sự lạm dụng của các giáo phận trong việc dùng tiền để thương lượng với gia đình nạn nhân trong các vụ lạm dụng tính dục của các tu sĩ để thanh danh của giáo hội không bị mang tiếng.
Sự thiếu trách nhiệm tài chánh tại các giáo phận tạo cơ hội cho các giới chức cao cấp của giáo hội dễ bị hủ hóa bằng cách đi tìm thú vui vật chất. Năm 1988, tờ báo National Catholic Reporter tố cáo Hồng Y Anthony Bevilaqua đã biển thủ 5 triệu đô-la của giáo phận Philadelphia để mua nhà nghỉ mát riêng ở bãi biển. Nhà nghỉ mát riêng rộng lớn và hết sức sang trọng xa hoa chẳng lẽ để một mình hồng y ăn chay hãm mình ở đó? Điều mỉa mai là hầu hết các giáo dân trong địa phận Philadelphia lại là những người nghèo!
Cũng tờ báo Công Giáo nói trên tố cáo một câu chuyện làm người đọc phải ghê tởm hơn nhiều. Đó là trường hợp một linh mục thuộc địa phận Santa Rosa, California, bị tố cáo biển thủ một số tiền của địa phận. Nội vụ được trình lên cha Darth Vader, giám mục quản nhiệm giáo phận Santa Rosa.
Giám mục Vader cho gọi linh mục phạm pháp đến tra vấn. Cuối cùng, giám mục Vader điều đình với linh mục là sẽ bỏ qua tội biển thủ với điều kiện linh mục phải để cho y làm tình qua hậu môn! Sau đó nội vụ bị đổ bể và Giám Mục Vader buộc phải từ chức năm 1999. Nhân vụ này, người ta mới phát giác ra rằng: tất cả những tiền quỹ của giáo phận Santa Rosa đã được dùng để bồi thường cho các nạn nhân bị nhiều tu sĩ trong địa phận xâm phạm tính dục. Tuy nhiên, tất cả ngân quỹ cũng chưa đủ nên địa phận phải bán một số nhà thờ và bất động sản. Hiện nay, địa phận này còn mắc nợ 16 triệu đô-la.
* * *
Kính thưa quí vị độc giả,

Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục của đạo Công Giáo cũng giống như bộ truyện Ả Rập “Ngàn Lẻ Một Đêm” kể hoài không hết. Tôi xin tạm dừng ở đây để nêu lên vài điều nhận định sau đây:
Phong Trào Giải Trừ Kitô Giáo là một hiện thực lịch sử có tính chất quốc tế nhắm vào kẻ thù chung của nhân loại trong 2000 năm qua.
Trước đây chúng ta đã từng nghe nói đến phong trào giải trừ Kitô Giáo (Dechristianization) tại các nước Âu Mỹ. Thoạt đầu, chúng ta thấy danh từ này có vẻ lạ tai và thật sự chúng ta chưa có đủ chứng cớ để tin rằng điều đó có thật. Nhưng đến nay, qua nhiều diễn biến có tính cách lớp lang qui mô và đồng loạt trên cả 3 lục địa Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu nhắm vào Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng, chúng ta phải khách quan thừa nhận rằng: Phong Trào Giải Trừ Kitô quả là một hiện thực lịch sử có tính chất quốc tế. Điều đó chứng tỏ lịch sử thế giới đã tiến đến giai đoạn đại đa số nhân loại nhận diện ra kẻ thù chung lớn nhất của mình trong 200 năm qua là ai.
Chiến dịch mở đầu từ sau khi Cộng Sản Nga và Đông Âu sụp đổ trong những năm 1989-1991. Tới thời điểm này, Kitô Giáo trở nên thừa thãi vì không còn cần thiết cho nhu cầu chiến lược chống chủ nghĩa Cộng Sản của các đế quốc. Phong trào chống Kitô Giáo đột nhiên bùng lên dữ dội trong các giới trí thức Âu Mỹ trên cả ba lục địa. Theo Tuần báo Newsweek số ra ngày 8-4-1996 thì chỉ trong vòng 5 năm từ 1991-1995, trên cả 3 lục địa Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu đã xuất hiện trên một ngàn bài báo nảy lửa và hàng trăm đầu sách thuộc loại best-sellers đồng loạt chĩa mũi dùi tấn công trực diện vào các giáo lý Kitô. Một trong những chủ đề trọng yếu của cuộc tấn công là tố giác các sai lầm nghiêm trọng của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Rõ ràng một điều là phải có một kế hoạch quốc tế mới có thể nổ ra một cuộc tấn công qui mô đồng loạt trên cả 3 lục địa như vậy được. Phải công nhận cuộc tấn công đợt đầu của Phong Trào Giải Trừ Kitô của các nước Âu Mỹ mạnh mẽ hơn nhiều so với Phong Trào Enlightenment ở Âu Châu thế kỷ 18. Kết quả ngoạn mục của đợt tấn công này là Vatican đã phải làm lễ long trọng thú nhận trước toàn thể nhân loại về 7 núi tội ác của nó trong lịch sử.
Đến nay, riêng trong hai tháng 4 và 5-2002, chúng ta ngạc nhiên nhận thấy hầu như tất cả các nhật báo, tuần báo, các đài phát thanh và truyền hình đồng loạt tố giác tu sĩ các cấp của giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ về các tội tà dâm, đặc biệt là tội tà dâm đối với các trẻ vị thành niên. Lúc tôi đang viết bài này là vào cuối tháng 5-2002, tôi không biết vụ tai tiếng này còn kéo dài trong những tháng tới hay không. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng đủ để thêm một bằng cớ chứng tỏ việc Giải Trừ Kitô là một thực tế nằm trong một kế hoạch toàn cầu. Kết quả của cuộc tấn công lần này là tập đoàn tu sĩ dâm tặc Công Giáo phải cúi đầu gục mặt nhận tội của chúng và uy tín về đạo đức của Giáo hội Công Giáo đã bị suy sụp nghiêm trọng.
Bước kế tiếp là luật pháp quốc gia sẽ nhắm làm giảm bớt khối lượng tài sản và số thu nhập hàng năm quá lớn của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Tất cả những diễn tiến nói trên chứng tỏ Đạo Công Giáo đang trên đà tuột dốc để lao xuống đáy vực diệt vong đầy ô nhục.

Charlie Nguyễn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét