PGS. TSKH Võ Đại Lược
Tổng Giám đốc Trung tâm Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Việt Nam
Thành viên ban Nghiên cứu của Thủ tướng
Hà Nội, Việt Nam
Từ thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã thực sự bước
vào thời kỳ phát triển trên nhiều mặt với những thành tựu nổi bật về tăng trưởng
cao, về xoá đói giảm nghèo, về phát triển con người, về hội nhập quốc tế… Tuy
nhiên Việt Nam cũng đang phải đối diện với không ít vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải
có sự nghiên cứu khách quan khoa học, đề có thể có những giải pháp phù hợp.
Những vấn đề đó có thể là tăng trưởng và công bằng xã hội, phát triển thị
trường, hội nhập quốc tế, hoàn thiện hệ thống thể chế, cải cách chính phủ và
hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Bài này sẽ không đi sâu phân tích cụ thể từng vấn đề
trên, mà chỉ đi sâu vào những khía cạnh bức xúc của một số vấn đề, từ đó nêu ra
một số giải pháp.
I. Về tăng trưởng và công bằng xã hội
Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã đạt mức
tăng trưởng kinh tế khá cao 7 - 8% một năm, đó là một thực tế. Nhưng vấn đề đặt
ra là liệu Việt Nam có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn không, và tăng
trưởng cao đó có đi cùng với tiến bộ và công bằng xã hội không?
Có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có nhiều tiềm
năng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, vì Việt Nam vẫn còn là một
nước kém phát triển, những khả năng phát triển theo chiều rộng còn rất lớn, tiềm
năng lao động tiền công thấp còn lớn, còn điều kiện sử dụng các nguồn vốn trong
và ngoài nước có hiệu quả, khả năng khai mở thị trường trong và ngoài nước còn
nhiều, còn nhiều khả năng ứng dụng công nghệ nhập khẩu có hiệu quả, các tài
nguyên thiên nhiên chưa khai thác còn lớn v.v..
Về tiềm năng lao động.
Năm 2002 Việt Nam có 38,75 triệu lao động chiếm 48,3% dân số, trong đó 66% lao
động trong nông lâm nghiệp và thuỷ sản, số người thất nghiệp ở các thành phố
khoảng 6%, thời gian nhàn rỗi của lao động nông thôn hiện khoảng 25%. Việt Nam
về cơ bản đã xoá nạn mù chữ, đang phấn đấu phổ cập giáo dục tiểu học và trung
học cơ sở. Tiền lương của lao động Việt Nam nói chung còn thấp hơn các quốc gia
trong khu vực. Nhược điểm căn bản của lao động Việt Nam là thiếu đào tạo về
chuyên môn kỹ thuật, số lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tới 84,2%
tổng số lao động (2002). Số lượng lao động Việt Nam đông đảo có văn hoá, nếu
được đào tạo chuyên môn kỹ thuật tốt, đó sẽ là một nguồn lực phát triển rất cơ
bản của Việt Nam.
Về nguồn vốn.
Nguồn vốn tiền tiết kiệm của dân cư trên GDP của Việt Nam vào loại cao khoảng
30% GDP. Các loại thu nhập ngoại tệ do xuất khẩu lao động, thu từ du lịch, kiều
hối… hàng năm ước tính khoảng 6-7 tỷ USD. Nguồn vốn ODA hàng năm được các nhà
tài trợ cam kết khoảng trên 2 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
được cam kết trong những năm 1996, 1997 đã tới 6-7 tỷ USD, tuy trong những năm
gần đây đã giảm mạnh, năm 2004 đã tăng lên hơn 4 tỷ USD. Vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài Việt Nam chưa có chủ trương tiếp nhận rõ rệt. Nếu Việt Nam có cơ chế
sử dụng vốn có hiệu quả, khả năng gia tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở
Việt Nam còn lớn.
Về thị trường.
Việt Nam về cơ bản mới có thị trường hàng hoá, còn thị trường dịch vụ, thị
trường tiền tệ, vốn, bất động sản thực sự mới chỉ manh nha. Một khi những thị
trường này phát triển, thì đó là một nguồn lực hết sức to lớn cho sự phát
triển.Việt Nam chưa là thành viên của WTO, do vậy cánh cửa của các thị trường
của các quốc gia thành viên WTO chưa thực sự được mở, Việt Nam cũng chưa ký kết
các Hiệp nghị thương mại tự do song phương với những trung tâm kinh tế lớn của
thế giới. Việt Nam gia nhập WTO ký kết các Hiệp nghị thương mại tự do song
phương với các nền kinh tế lớn, thì đó sẽ là một cơ hội mở rộng thị trường bên
ngoài vô cùng to lớn.
Về công nghệ.
Trình độ công nghệ của Việt Nam hiện là thấp xa so với những nước tiên tiến. Một
nước đi sau sẽ có những lợi thế do nhập khẩu công nghệ mang lại. Cho đến nay
Việt Nam mới chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết bị, chưa nhập các bằng sáng chế,
phát minh, các ý tưởng công nghệ… do vậy tiềm năng này còn rất lớn.
Về tài nguyên.
Các nguồn tài nguyên của Việt Nam như dầu khí,
bô- xít, đất hiếm, đặc biệt là vị trí địa lý thuận lợi chưa được thăm dò khai
thác bao nhiêu. Đó là một nguồn lực quan trọng cho phát triển.
Về thể chế.
Có thể nói nguồn lực về thể chế ở Việt Nam hiện còn rất lớn, vì các thể chế thị
trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hoặc còn chưa hoàn thiện, hoặc thiếu
vắng. Chỉ cần Việt Nam xem xét, ban hành các thể chế pháp luật phù hợp với các
thông lệ quốc tế hiện nay cũng đã đủ tạo ra một hành lang phát triển thông
thoáng cho nền kinh tế Việt Nam.
Ngoài những nguồn lực trên, còn có thể có những
nguồn lực khác như truyền thống dân tộc, văn hoá dân tộc… Nếu biết phát huy sử
dụng, cũng sẽ là một nguồn lực to lớn.
Thực tế khu vực cũng cho thấy những quốc gia láng
giềng của Việt Nam như Trung Quốc đã có tốc độ tăng trưởng cao 9- 10% năm kéo
dài trong nhiều năm, một số tỉnh ven biển của Trung Quốc như Thượng Hải, Quảng
Châu, Phúc Kiến… có quy mô lớn bằng cả Việt Nam cũng đã có tốc độ tăng trưởng
GDP hàng năm trên 10% kéo dài vài chục năm nay. Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã có
tốc độ tăng trưởng "thần kỳ". Việt Nam hoàn toàn có đủ những nguồn lực cho một
sự tăng trưởng và phát triển với nhịp độ cao, vấn đề là cần có những chính sách,
thể chế, chiến lược phát triển thích hợp để tận dụng có hiệu quả các nguồn trên.
Tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội là một vấn đề bức xúc đối với mọi quốc gia, cũng như đối với Việt
Nam.
Mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ thập kỷ 90 đến
nay là khá cao chỉ sau Trung Quốc. Điều này đã là một thực tế, được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Tăng trưởng kinh tế cao đã mang lại nhiều hệ quả tích cực về
xã hội: gia tăng các khoản thu của chính phủ đặc biệt là thuế, phí và lệ phí,
mức tăng này hàng năm từ 2000 đến 2003 đạt khoảng 17,5% đến 20,7%- đây là cơ sở
quan trọng để chính phủ có thể gia tăng chi cho phát triển giáo dục, y tế, các
chương trình an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo,[1]
đảm bảo việc làm cho những người đến tuổi lao động, tỷ lệ nhóm người này ở Việt
Nam hàng năm cao nhất thế giới,[2]
theo đánh giá của các nhà tài trợ tại Hội nghị Tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam
ở Hà Nội, tháng 12/2003 tỷ lệ này là 85% đối với nam và 83% đối với nữ (2002).
Sự tăng trưởng kinh tế cao ở Việt Nam đã đi
liền với sự gia tăng chênh lệch về phát triển và bất bình đẳng.
Thứ nhất, việc gia tăng sự chênh lệch về phát
triển liệu có là cần thiết? Đối với Việt Nam, một quốc gia đang chuyển từ
kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, thì sự gia tăng chênh lệch phát triển
là cần thiết, xét về mặt tạo động lực phát triển, tạo lập cơ chế cạnh tranh…
Không ít người ở Việt Nam hiện đang phê phán mạnh mẽ sự gia tăng chênh lệch phát
triển, xem đó như là mặt trái của kinh tế thị trường, và yêu cầu phải hạn chế,
phải thu hẹp sự chênh lệch phát triển này. Người ta có thể đưa ra câu hỏi Trung
Quốc đã có cả chiến lược phát triển miền Tây để giảm bớt sự chênh lệch này, tại
sao Việt Nam chưa có? Nước ta đang chuyển từ cơ chế phân phối bình quân - cả
nước nghèo như nhau, sang cơ chế phân phối theo thị trường - tạo ra sự chênh
lệch phát triển - đây là một trong những điểm mấu chốt của sự tăng trưởng và
phát triển của nước ta. Nếu thu hẹp, hay xoá bỏ sự chênh lệch này, trở về cơ chế
phân phối bình quân, thì xem như nước ta sẽ không có đổi mới. Vấn đề chỉ là ở
chỗ mức chênh lệch phát triển ở nước ta hiện đã quá cao chưa, đã dẫn tới những
bất ổn xã hội chưa? So sánh với các quốc gia trong khu vực và thế giới có cùng
trình độ phát triển như nước ta, thì mức độ chênh lệch phát triển ở nước ta còn
thấp hơn, và điều quan trọng là chưa dẫn tới những vấn đề bất ổn xã hội nghiêm
trọng. Do vậy, chưa nên đặt vấn đề phải hạn chế hay thu hẹp, và phải xem đó là
một kết quả của quá trình đổi mới, mặt tích cực của kinh tế thị trường.
Thứ hai, phải có những biện pháp loại bỏ những
kẻ làm giàu bất hợp pháp, tham nhũng, buôn lậu… Trong số dân cư giàu có lên
nhanh chóng nhờ quá trình đổi mới, đa số họ đã làm ăn theo pháp luật, có các
nguồn thu hợp pháp. Phải ủng hộ, khuyến khích, động viên tầng lớp giàu có chân
chính này. Sự giàu có của họ sẽ góp phần làm gia tăng sự giàu có của đất nước.
Tuy nhiên trong số đó cũng có không ít kẻ đã giàu có lên nhờ tham nhũng, buôn
lậu, làm ăn bất hợp pháp, phải có những biện pháp răn đe, ngăn chặn và trừng
trị thích đáng. Giải pháp trước hết là phải đổi mới hoàn thiện thể chế và chính
sách, giảm bớt và loại bỏ những khe hở cho tham nhũng và buôn lậu. Sau đó mới
đến những công tác giáo dục ý thức tôn trọng luật pháp, giám sát, phát hiện và
trừng trị những kẻ làm trái pháp luật.
Thứ ba, thực hiện chương trình xoá đói giảm
nghèo. Xây dựng một xã hội có nhiều người giàu, không có người nghèo đói,
hoặc có người nghèo đói nhưng được xã hội trợ giúp, quan tâm- đó là một định
hướng mà Việt Nam lựa chọn. Chương trình xoá đói giảm nghèo đã được Chính phủ
Việt Nam thực hiện có kết quả trong nhiều năm nay là một thể hiện rõ rệt quyết
tâm đó, những kết quả thu được là rõ rệt - đã giảm được một nửa số người nghèo
trong vòng 10 năm. Có thể nói là chương trình xoá đói giảm nghèo theo nghĩa rộng
nhất đã bao gồm toàn bộ chương trình phát triển của Việt Nam, nhưng theo nghĩa
hẹp nó chỉ tập trung vào những trợ giúp cho các vùng, các tầng lớp nghèo đói.
Tuy nhiên có thể còn phải có những cố gắng tiếp tục hoàn thiện chương trình này
theo hướng - xây dựng một hệ thống an sinh xã hội hoàn thiện hơn, đảm bảo an
toàn hơn cho những người gặp rủi ro, cơ lỡ, hỗ trợ tốt hơn cho những vùng nghèo.
II. Phát triển thị trường
Phát triển kinh tế thị trường là một trong những
động lực quan trọng nhất cho sự tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ thập
kỷ 90 đến nay, và đây cũng là lĩnh vực Việt Nam tiến hành những đổi mới sâu rộng
nhất và đạt nhiều hành tựu to lớn nhất, và đây cũng là lĩnh vực mà lúc nào cũng
có nhiều vấn đề phức tạp nhất, gây tranh cãi nhiều nhất, ít sự thống nhất ý kiến
nhất. Sự phát triển kinh tế thị trường đã bao gồm hầu như tất cả các vấn đề kinh
tế từ giá cả, tỷ giá, lãi suất đến các thành phần kinh tế, đến các doanh nghiệp,
đến cả hội nhập quốc tế, ngân hàng tài chính và cả các lĩnh vực dịch vụ… Có
những vấn đề như "khoán hộ" trong nông nghiệp người ta đã tưởng nó không cần đến
giải pháp thị trường, đã quy cho nó vai trò như một giải pháp đột phá quan trọng
nhất cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam, nhưng thực ra nếu tách "khoán
hộ" khỏi sự phát triển của thị trường, khỏi sự tự do hoá thu mua, phân phối
lương thực, khỏi sự bãi bỏ chế độ độc quyền kinh doanh lương thực, vật tư nông
nhiệp của Nhà nước… thì chế độ "khoán hộ" sẽ không thể có tác dụng gì hoặc chỉ
có tác dụng hạn chế. Thực tế cho thấy, chế độ "khoán hộ" ở Việt Nam dã được cho
phép chính thức áp dụng từ đầu những năm 80, nhưng mãi đến 1988, Việt Nam hàng
năm vẫn phải nhập khẩu lương thực hàng trăm ngàn tấn. Việt Nam vẫn luôn thiếu
nông phẩm từ hạt muối, mớ rau. Chỉ từ năm 1989, cơ chế thị trường bắt đầu được
áp dụng phổ biến ở Việt Nam, thì nền kinh tế thiếu nông phẩm mới bắt đầu chuyển
sang nền kinh tế thừa nông phẩm, mới xuất khẩu gạo và các nông phẩm khác.
Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường là quá rõ ràng: đã thiết lập được cơ
chế thị trường quy định giá cả, tỷ giá, lãi suất; đã hình thành các thị trường
cơ bản dù còn sơ khai; các thành phần kinh tế, các chủ doanh nghiệp, các chủ thể
kinh doanh đã được khuyến khích phát triển và đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh
rộng rãi; hệ thống các luật kinh tế thị trường đã được ban hành tuy còn khiếm
khuyết; nền kinh tế đã mở cửa và hội nhập quốc tế v.v. Việt Nam đã chuyển đổi
sang kinh tế thị trường không phải với giá phải trả là suy thoái và trì trệ, mà
với phần thưởng là liên tục tăng trưởng cao và mức sống của dân cư được cải
thiện.
Vấn đề được đặt ra hiện nay là đối với Việt Nam
kinh tế thị trường hiện còn có thể mở rộng, phát triển hơn nữa, liệu còn có vai
trò là một động lực tăng trưởng và phát triển quan trọng bậc nhất nữa không?
Có thể nói là kinh tế thị trường ở Việt Nam mới
hình thành sơ khai đang còn nhiều lãnh địa để phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu:
Về chiều rộng,
còn nhiều thị trường chưa được khai mở ở cả trong nước và ngoài nước. Thị trường
vốn và bất động sản mới khởi động, đây là hai thị trường cơ bản, nếu được phát
triển chúng sẽ tạo ra một dung lượng thị trường lớn hơn thị trường hàng hoá, và
tạo ra một động lực phát triển mạnh mẽ hơn thị trường hàng hoá mà Việt Nam có
cho đến nay. Thị trường dịch vụ, thị trường công nghệ, thị trường lao động cũng
là những thị trường cực kỳ quan trọng và thường có một thị phần rất đáng kể
trong mọi nền kinh tế thị trường, thì ở nước ta chúng lại chiếm một thị phần còn
quá nhỏ bé và rất kém phát triển, thậm chí còn không ít lĩnh vực dịch vụ còn
chưa có thị trường, do ở đó chỉ có các cơ quan nhà nước làm dịch vụ bao cấp. Nếu
tất cả những thị trường này được khai mở và phát triển, chắc chắn thị trường nội
địa của nước ta sẽ được mở rộng lớn hơn hiện nay. Thị trường bên ngoài của Việt
Nam tuy đã được mở rộng, nhưng thực tế hàng rào bảo hộ của các thị trường này
đối với hàng hoá Việt Nam hiện còn khá cao, nên hàng hoá Việt Nam rất khó thâm
nhập vào thị trường này. Một ví dụ có thể thấy rõ ràng đó là thị trường Mỹ từ
khi Hiệp nghị thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, hàng rào bảo hộ của Mỹ giảm
xuống, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng vọt lên hơn 4 lần trong
vòng 2 năm (2001-2003). Thị trường bên ngoài này còn rộng mênh mông hơn thị
trường trong nước nhiều lần. Có người lo ngại là dù hàng rào bảo hộ của các thị
trường bên ngoài được giảm thiểu, thì Việt Nam cũng chưa thể sản xuất được hàng
hoá gì xuất khẩu vào các thị trường này. Thực tế cho thấy mối lo ngại đó là
không đúng. Vì khi có thị trường, các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ tìm mọi
cách thiết lập các cơ sở sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường đó. Khi
Trung Quốc gia nhập WTO, các nhà đầu tư bên ngoài đã lập tức đổ tiền của vào
Trung Quốc, thành lập các cơ sở sản xuất xuất khẩu ra các thị trường của các
nước thành viên WTO, do vậy FDI vào Trung Quốc đã đạt mức cao nhất thế giới, kim
ngạch xuất khẩu của Trung Quốc cũng tăng cao nhất thế giới.
Về chiều sâu,
Việt Nam còn phải làm nhiều việc trong lĩnh vực phát triển kinh tế thị trường.
Có thể nói là, hiện thị trường Việt Nam còn bị Nhà nước can thiệp trực tiếp quá
nhiều, thậm chí đã làm thay thị trường trong không ít trường hợp, đặc biệt là
trong việc phân bổ các nguồn lực.
Những hạn chế trên đây là một trong những nguyên
nhân làm cho Việt Nam đã bị tụt bậc trong thang bậc xếp hạng các quốc gia về
năng lực cạnh tranh do tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới thực hiện. Năm 2004
Việt Nam đứng thứ 77 trong số 104 nước, tụt 17 bậc so với năm 2003. Nếu so với
năm 1998, mức tụt bậc còn nghiêm trọng hơn, tới 38 bậc, năm 1998 Việt Nam xếp
thứ 39.
Những hạn chế trên đây có thể có nhiều nguyên
nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng có thể kể ra là do những nhận thức về kinh tế
thị trường ở Việt Nam còn có những khác biệt xa so với thế giới. Nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa khác với các nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước phương Tây trên
những phương diện sau đây:
Về chế độ sở hữu, tuy Việt Nam đã thừa nhận mọi
thành phần kinh tế đều là những bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế quốc
dân, tồn tại lâu dài và bình đẳng, nhưng vẫn còn tồn tại sự khác biệt giữa các
doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác. Sự khác biệt đã thể hiện trong
các chính sách của Nhà nước, và khó tránh khỏi sự phân biệt đối xử. Nhà nước
phải ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa các
doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài nhà nước - một bên có nhiều lợi
thế, một bên không có những lợi thế đó. Điều này đã làm méo mó thị trường, giảm
thiểu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài nhà nước, ảnh hưởng tiêu
cực tới khả năng cạnh tranh chung của nền kinh tế và môi trường đầu tư.
Về sự quản lý của Nhà nước,
ở Việt Nam vai trò quản lý của Nhà nước được xác định cho đến nay là rất rộng và
đang lấn át thị trường trên nhiều lĩnh vực. Tư duy kinh tế kế hoạch vẫn còn rất
nặng trong các giới chức do lo ngại cho sự giảm thiểu quyền lực quản lý nhà
nước, giảm thiểu chế độ "xin-cho" hiện có lợi cho họ.
Với sự quản lý nhà nước quá chặt chẽ và chế độ
"xin- cho" khá phổ biến hiện nay thì kinh tế thị trường ở Việt Nam phải phát
triển trong một khuôn khổ chật hẹp, méo mó và kém lợi thế là điều khó tránh
khỏi.
Về tâm lý xã hội,
kinh tế thị trường phát triển ở Việt Nam tất nhiên đã bộc lộ cả những tác động
tích cực, lẫn những mặt trái của nó. Nhưng điều đáng lưu ý là tâm lý lo ngại
những mặt trái của thị trường, quy tất cả hiện tượng tiêu cực của xã hội từ tham
nhũng đến xì ke ma tuý… đều do thị trường đẻ ra lại là tâm lý khá phổ biến. Sự
lo ngại này đã có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
III. Hội nhập kinh tế quốc tế
Kể từ thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã có những
bước tiến hết sức quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: bình
thường hoá quan hệ kinh tế với tất cả các nước, với IMF, WB, ADB, gia nhập
ASEAN, AFTA, APEC, ký Hiệp nghị thương mại với Mỹ, đang đàm phán gia nhập WTO…
những bước tiến này thể hiện thực tế ở chỗ tỷ trọng kim ngạch thương mại so với
GDP đã tăng từ dưới 30% thập kỷ 80 lên trên 120% hiện nay, FDI chiếm khoảng 18 -
28% trong tổng đầu tư xã hội, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế
giới về cà phê, tiêu, gạo, hạt điều… Tuy nhiên để tiếp tục hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng hơn, Việt Nam phải đối diện và giải quyết không ít vấn đề có liên
quan đến cả nhận thức và chính sách.
Trước hết, đó là vấn đề mở cửa thị trường trong
nước để khai mở thị trường quốc tế. Hiện Việt Nam đã mở cửa thị trường trong
nước, nhưng mức độ bảo hộ nói chung vẫn còn cao kể cả về danh nghĩa và thực tế,
đặc biệt là so với các quốc gia trong khu vực. Năm 2002 mức thuế danh nghĩa của
Việt Nam là 15,9% tính bình quân chung, nhưng mức thuế thực tế lại là 54,2%,[3]
do có sự chênh lệch về thuế đáng kể trong các ngành công nghiệp, và nhiều chính
sách khuyến khích thay thế nhập khẩu. Mức độ mở cửa các ngành kinh tế của Việt
Nam nhất là các ngành dịch vụ cho đầu tư nước ngoài nói chung vẫn còn thấp hơn
các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực. Đây chính là một trở ngại quan
trọng khi Việt Nam đàm phán khai mở thị trường bên ngoài, đàm phán gia nhập WTO,
vì các bên đối tác đều có hàng rào bảo hộ thấp hơn ta và đòi ta phải hạ thấp hơn
hàng rào bảo hộ. Đây cũng là một lý do quan trọng khiến Việt Nam trong nhiều năm
liên tục phải nhập siêu, vì hàng rào bảo hộ cao sẽ làm cho chi phí kinh doanh
xuất khẩu cao; giảm khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế
giới. Đây cũng là một lý do làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt
Nam, vì chính sách khuyến khích thay thế nhập khẩu đã định hướng các doanh
nghiệp trong và ngoài nước kinh doanh hướng nội với thị trường nội địa hạn hẹp,
họ khó có khả năng mở rộng thêm đầu tư. Hàng rào bảo hộ cao còn có ảnh hưởng
tiêu cực nghiêm trọng tới khả năng mở rộng thị trường trong nước, vì hàng rào
bảo hộ cao đã làm tăng giá cả hàng hoá nhập khẩu, hạn chế sức mua của dân chúng
trong nước.
Tuy nhiên việc hạ thấp hàng rào bảo hộ và việc mở
cửa lĩnh vực dịch vụ lại vấp phải sự phản ứng của các doanh nghiệp kinh doanh
hướng nội, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Trên thực tế, sự phản ứng
của khu vực doanh nghiệp hướng nội đã làm trì hoãn quá trình hạ thấp hàng rào
bảo hộ và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Có thể có hai sự lựa chọn. Thứ nhất, duy trì
mức bảo hộ cao với lộ trình kéo dài để chờ các doanh nghiệp nhà nước nâng
cao sức cạnh tranh vươn lên đủ sức đua tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Thực ra Việt Nam đã thực hiện phương án này trong suốt quá trình đổi mới, nhưng
trên thực tế những doanh nghiệp được bảo hộ kéo dài đã không nâng cao được sức
cạnh tranh như mong muốn, mà họ lại luôn luôn đòi hỏi Nhà nước phải bảo hộ kéo
dài nữa. Thứ hai, giảm dần mức bảo hộ và rút ngắn lộ trình bảo hộ. Việt
Nam cũng đã thực thi phương án này trên một số lĩnh vực như dệt may, bòng đèn,
phích nước, bia, bột giặt, nước giải khát v.v… Thực tế cho thấy, chính những
ngành không được bảo hộ này đã phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế, đã phải tự
đổi mới công nghệ, quản lý, tổ chức lao động nâng cao chất lượng lao động v.v...
để vươn lên, và hiện đó là những ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.
Trong thời gian tới đây, sức ép của hội nhập và
cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng, Việt Nam buộc phải giảm mạnh hơn hàng rào
bảo hộ và rút ngắn hơn lộ trình bảo hộ, và đây chính là con đường chủ động và
tích cực của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, là bước đi chủ động và
tích cực để mở cửa thị trường của các quốc gia khác. Ta phải sẵn sàng mở cửa
thị trường của mình, thì thiên hạ mới mở cửa thị trường của họ, không có
chuyện ta chỉ muốn mở cửa thị trường thiên hạ, còn thị trường của ta lại đóng
lại.
Thứ hai, đổi mới các chính sách kinh tế theo
hướng hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Việt Nam đã thực hiện những đổi mới rất
quan trọng theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, tuy nhiên hiện vẫn còn không ít
vấn đề cần tiếp tục giải quyết như: VNĐ chưa chuyển đổi tự do, tỷ giá do thị
trường xác định nhưng còn rất hạn chế, chưa mở cửa tiếp nhận các dòng vốn gián
tiếp, mức độ mở cửa khu vực dịch vụ còn quá hạn chế v.v. Những vấn đề này rất
quan trọng đối với việc hoàn thiện kinh tế thị trường ở Việt Nam nói chung và
hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Lộ trình chuyển đổi tự do VND
hiện chưa được xác định cụ thể. Tuy Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã cho phép
chuyển đổi VND trên các tài khoản vãng lai, nhưng phải có điều kiện, chứ chưa
phải là tự do. Việt Nam càng hội nhập quốc tế sâu rộng, thì việc chuyển đổi VND
tự do là một điều kiện có tính tiên quyết, vì các hoạt động thương mại, đầu tư
quốc tế gia tăng đòi hỏi sự trao đổi tiền tệ rộng rãi và tự do. Do vậy Việt Nam
cần có một lộ trình cụ thể chuyển đổi tự do VND với một thời hạn phù hợp. Một số
người lo ngại, nếu sớm chuyển đổi tự do VND, trong khi Việt Nam chưa có dự trữ
ngoại tệ ở mức cần thiết, VN vẫn phải nhập siêu cao, khả năng cạnh tranh yếu
kém… thì có thể sẽ có những rủi ro về tiền tệ. Thực tế thế giới cho thấy có
không ít quốc gia có dự trữ ngoại tệ không lớn, bị nhập siêu, nhưng họ vẫn thực
hiện chế độ chuyển đổi tự do đồng tiền của họ. Nhưng cũng có những nước luôn
xuất siêu, có dự trữ ngoại tệ lớn, như Trung Quốc, vẫn thực hiện chế độ chuyển
đổi tiền tệ một cách hạn chế (mới hạn chế trên các tài khoản vãng lai). Vậy điều
kiện gì có thể cho phép chuyển đổi tự do VND. Đó chính là sự kiểm soát và điều
tiết của Nhà nước phù hợp với các điều kiện cụ thể. Chẳng hạn, khi các dòng
ngoại tệ đổ vào lớn hơn các dòng ngoại tệ rút ra, thì chính phủ có thể nới lỏng
kiểm soát, cho phép hoàn toàn tự do chuyển đổi. Nhưng khi các dòng ngoại tệ rút
ra lớn hơn đổ vào, thì Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết như: đánh thuế
việc chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ đưa ra khỏi đất nước, quy định một số điều
kiện để hạn chế việc rút chạy dòng ngoại tệ ra khỏi đất nước v.v…Chế độ điều
tiết và kiểm soát phù hợp của Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo việc
chuyển đổi tự do VND không mang lại những rủi ro.
Tự do hoá tỷ giá cũng cần có một lộ trình cụ
thể. Tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ ở
Việt Nam hiện đã có tính thị trường, tuy còn hạn chế: do biên độ giao động của
tỷ giá còn hẹp, các ngân hàng thương mại tham gia thoả thuận mức tỷ giá đến nay
phần lớn vẫn là các ngân hàng thương mại quốc doanh…Từ 1996 đến nay VND đã được
điều chỉnh theo hướng hạ giá VND liên tục, tuy nhiên VND vẫn có những biểu hiện
được đánh giá cao hơn thực tế. Những biểu hiện này là: nhập siêu của Việt Nam
quá cao, năm 2004 đã đạt tới 5,5 tỷ USD; mức mất giá VND còn quá thấp so với mức
lạm phát (mức mất giá VND năm 2004 dưới 1% trong khi lạm phát dưới 9,5%); lãi
suất VND cao hơn lãi suất USD… Nếu mở rộng tự do hoá tỷ giá, nghĩa là mở rộng
biên độ giao động và tiến tới bỏ biên độ này, đồng thời mở rộng các thành phần
tham gia vào việc xác định tỷ giá, thì tính thị trường của tỷ giá sẽ cao hơn.
Nhưng sẽ có lo ngại VND sẽ bị hạ giá quá mức, gây ra những rối loạn về tiền tệ.
Thực tế đã không phải như vậy, Trung Quốc năm 1994 đã hạ giá đồng nguyên tới
40%, nhưng đã không gây ra rối loạn gì vì Trung Quốc đã chủ động hạ giá. Ở một
số nước Châu Á, đồng nội tệ đã bị phá giá vào năm 1997 là do chính sách tiền tệ,
tài chính sai lầm của các quốc gia này như: cố định tỷ giá, đầu tư sai không
hiệu quả, chậm tiến hành cải cách cơ cấu…, chứ không phải là do tự do hoá tỷ
giá. Hiện nay tất cả các nước phát triển đã thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi,
trên 55% các quốc gia đang phát triển cũng đã đi theo hướng này. Đương nhiên ở
các quốc gia thực hiện tự do hoá tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết. Từ
năm 2002 đến nay đồng USD luôn bị hạ giá, nhiều quốc gia châu Á đã hạ giá đồng
tiền của mình tương ứng để đảm bảo xuất khẩu thuận lợi. Đi theo hướng này Nhật
đã bỏ ra hàng trăm tỷ Yên trong mấy năm gần đây mua USD để duy trì đồng Yên
không bị lên giá quá mức. Chính phủ Mỹ đã thực thi chính sách hạ giá USD liên
tục để giảm bớt thâm hụt cán cân thương mại. Vậy là chính sách tự do hoá tỷ giá
luôn đi theo chính sách điều tiết, quản lý của Nhà nước để đảm bảo duy trì một
mức tỷ giá có lợi cho tăng trưởng và phát triển. Việt Nam cần có lộ trình tự do
hoá tỷ giá theo hướng này và lộ trình này không thể kéo quá dài.
Các dòng vốn gián tiếp nước ngoài (FPI) hiện
chưa được Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích thu hút.
Cuộc tháo chạy của các dòng vốn gián tiếp nước ngoài khỏi một số quốc gia Châu Á
năm 1997 đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính ở một số nước Châu Á, và đã để lại
những ấn tượng rất không tốt. Một số quốc gia, trong đó có Việt Nam đã rất cảnh
giác với các dòng vốn này, tới mức thi hành chính sách hầu như đóng cửa đối với
các dòng vốn này. Thực ra sự vận động của các dòng vốn gián tiếp từ quốc gia này
sang quốc gia khác là một sự vận động bình thường. Ở đâu có mức sinh lợi lớn
hơn, thì nguồn vốn này đổ đến và ngược lại. Có một đặc điểm rất nổi bật của dòng
vốn này là chúng đổ vào một quốc gia có thể rất nhanh, và khi cần phải rút chạy
cũng rất nhanh. Do vậy sự vận động của các dòng vốn này trở thành một tín hiệu
nhanh nhạy cho giới đầu tư và kinh doanh nhận biết được đâu là nơi đầu tư có lợi
cần đến, đâu là nơi bất lợi phải tránh. Nếu một quốc gia đóng cửa đối với những
dòng vốn này, có nghĩa là cắt bỏ tín hiệu phản ánh tình hình biến động của môi
trường đầu tư, làm cho các nhà đầu tư và kinh doanh nước ngoài mất phương hướng.
Đây là một lý do rất quan trọng làm cho những nước đóng cửa đối với dòng vốn
gián tiếp, sẽ kém hấp dẫn đầu tư hơn các quốc gia mở cửa rộng rãi cho các dòng
vốn này.
Trước cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính 1997,
nhiều nước Đông Á đều đã mở cửa đón nhận dòng vốn gián tiếp nước ngoài, ở
Malaixia vốn gián tiếp nước ngoài năm 1993 đã chiếm tới 15,5% GDP, năm 1995 là
năm tiếp nhận vốn gián tiếp khá thấp cũng tới 2,4% GDP, ở Trung Quốc vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài năm 1997 đã chiếm tới 0,9% GDP, và những năm trước đó luôn
ở mức 0,1-0,6% GDP. Ở Thái Lan, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài năm 1997 chiếm
3% GDP, những năm trước đó luôn ở mức 2-3% GDP. Từ sau năm 1997 ở tất cả các
quốc gia này FPI đều giảm, tuy nhiên Trung Quốc vẫn luôn duy trì FPI ở mức 0,1%
GDP. Từ năm 1999 Malaixia đã lại thu hút FPI ở mức 0,4% GDP sau 2 năm giảm . Vây
là sau cơn choáng váng do cuộc khủng hoảng 1997 gây ra, các nước châu Á lại thấy
sự cần thiết của dòng vốn FPI, và trở lại thi hành chính sách thu hút FPI với sự
thận trọng và các biện pháp điều tiết cần thiết hoặc là trực tiếp, hoặc gián
tiếp. Những biện pháp chủ yếu bao gồm : mua bán các tài sản ngoại tệ và nội tệ;
điều chỉnh tỷ giá; thắt chặt hoặc nới lỏng chính sách tài chính; kiểm soát vốn
bằng các biện pháp cấp phép đầu tư gián tiếp, hạn chế ngân hàng vay nợ nước
ngoài, hạn chế người nước ngoài rút vốn; điều tiết và giám sát thận trọng đối
với các thể chế tài chính nội địa; thiết lập các cơ sở hạ tầng cơ bản của thị
trường tài chính.
Thực hiện các biện pháp kiểm soát FPI trên đây đã
giúp các nước đang phát triển châu Á có thể hạn chế được những tác động tiêu cực
của các dòng vốn FPI và họ đã có thể an tâm hơn thu hút các dòng vốn này.
Việt Nam hiện chưa có luật điều tiết các dòng vốn
FPI. Luật đầu tư nước ngoài hiện có ở Việt Nam chỉ có tác dụng điều tiết các
dòng vốn đầu tư trực tiếp. Do vậy cần sớm soạn thảo và ban hành một khuôn khổ
pháp lý phù hợp với các dòng vốn FPI, có thể theo phương án mở rộng Luật đầu
tư nước ngoài - thêm phần cho đầu tư gián tiếp.
Mức độ mở cửa khu vực dịch vụ của Việt Nam hiện
còn quá hạn chế. Thị trường dịch vụ ở
Việt Nam nói chung còn kém phát triển, tốc độ tăng trưởng thấp và trong nhiều
lĩnh vực hầu như chỉ do các doanh nghiệp nhà nước độc quyền kinh doanh với mức
độ mở cửa hạn chế. Khu vực dịch vụ chiếm vào khoảng 40% GDP với những hạn chế
trên đây đã tác động rất tiêu cực tới sự tăng trưởng và phát triển ở Việt Nam. Ở
đây có những vấn đề về nhận thức cũng như về thực tế cần được xem xét và cần có
những giải pháp phù hợp với Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Thứ nhất, các lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam còn
khác với thông lệ quốc tế. Theo các tài liệu thống kê hiện nay, Việt Nam
không xếp các lĩnh vực xây dựng, hành chính công và quốc phòng vào khu vực dịch
vụ, mà gắn xây dựng với khu vực công nghiệp và loại hành chính công và quốc
phòng khỏi dịch vụ. Vấn đề đặt ra là liệu Việt Nam có nên theo thông lệ quốc tế
xếp các lĩnh vực xây dựng, hành chính công và quốc phòng vào khu vực dịch vụ
không? Theo chúng tôi, có thể trước mắt Việt Nam nên xếp lĩnh vực xây dựng, hành
chính công vào khu vực dịch vụ. Lý do đơn giản là về mặt kỹ thuật thống kê Việt
Nam không nên khác với các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Ngân hàng thế
giới, Quỹ tiền tệ thế giới, Tổ chức thương mại thế giới.. Vì sự khác biệt về
thống kê, sẽ làm cho những thông tin kinh tế Việt Nam khác với các quốc gia
khác, gây khó cho việc nghiên cứu tìm hiểu về kinh tế Việt Nam.
Thứ hai, tình trạng độc quyền kinh doanh của
các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực dịch vụ hiện là khá phổ biến. Do vậy
giá cả hình thành trong khu vực dịch vụ, phần lớn là những giá cả độc quyền,
hoặc do các doanh nghiệp nhà nước độc quyền chi phối, những giá cả này khá cao
so với giá cả quốc tế và khu vực, đã làm tăng chi phí đầu vào của mọi doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ. Hơn nữa tình trạng độc quyền kinh doanh dịch vụ còn làm
cho chất lượng của các hoạt động dịch vụ suy giảm. Vấn đề trước hết cần được
tính tới là giảm bớt và hạn chế tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh dịch vụ, cho phép các doanh nghiệp tư nhân trong nước được quyền
kinh doanh các lĩnh vực dịch vụ. Đây là một điều kiện quan trọng để
có thể mở cửa lĩnh vực dịch vụ.
Thứ ba, các lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam được mở
cửa rất hạn chế, không ít lĩnh vực hiện còn đóng cửa. Về thương mại,Việt Nam
đã cho công ty nước ngoài mở các siêu thị, nhưng hiện còn rất ít. Kinh doanh
xuất nhập khẩu là lĩnh vực hầu như chưa cho phép nước ngoài hoạt động, mà các
công ty nước ngoài chỉ được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng họ đăng ký sản
xuất. Các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, lữ hành quốc tế, vận tải biển, tư vấn,
giáo dục, y tế v.v. hầu như còn mở cửa rất hạn chế. Đây là một trong những
nguyên nhân làm cho lĩnh vực dịch vụ của nước ta phát triển yếu kém và hiện còn
khá lạc hậu. Có không ít người cho rằng phải chờ các doanh nghiệp dịch vụ Việt
Nam phát triển đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, khi đó mới mở
cửa lĩnh vực dịch vụ. Đây là điều khó có thể xảy ra. Trên thực tế càng bảo hộ,
càng đóng cửa, các doanh nghiệp dịch vụ càng không chịu đổi mới vươn lên, và
càng không thể cạnh tranh với bên ngoài. Muốn các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam
đổi mới, vươn lên, phải mạnh dạn mở cửa, giảm bảo hộ bao cấp, tạo ra sức ép cạnh
tranh buộc các doanh nghiệp này phải phát triển. Đương nhiên cần có một lộ trình
mở cửa phù hợp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này đổi mới, tránh tình trạng
hỗn loạn. Song lộ trình mở cửa này không thể quá dài. Cần thiết lập cơ chế quản
lý, điều tiết của Nhà nước cả về luật pháp và các cơ quan kiểm soát, để đảm bảo
một môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng, các doanh nghiệp nhà nước phát
triển cùng với các doanh nghiệp nước ngoài.
IV.
Hoàn thiện thể chế là một nguồn lực phát triển, đặc biệt là đối
với các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam
Việt Nam đang chuyển từ kinh tế kế hoạch tập
trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, do vậy yêu
cầu đổi mới, thiết lập và hoàn thiện các thể chế kinh tế có vai trò hết sức quan
trọng. Việt Nam đã sửa đổi Hiến pháp, đã ban hành nhiều đạo luật từ các bộ Luật
dân sự, đến các Luật thương mại, Ngân hàng, đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp…
Nhưng cho đến nay hệ thống Luật kinh tế của Việt Nam theo yêu cầu phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vẫn còn có những khiếm khuyết: Thiếu
không ít Luật quan trọng như: luật về thị trường chứng khoán, luật về thị trường
bất động sản…, nhiều luật tuy đã ban hành nhưng so với yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điều khoản bất cập cần sửa đổi. Đồng
thời bộ máy thực thi luật pháp, và giám sát thực thi luật pháp ở Việt Nam còn
nhiều yếu kém, do vậy tuy có luật kinh tế nhưng hiệu lực của luật không cao.
Phần này chỉ đề cập với việc hoàn thiện thể chế, luật pháp ở Việt Nam.
Trước hết, công tác hoàn thiện thể chế phải theo
hướng đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở các nguyên tắc của kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế. Những đạo luật nào được soạn thảo theo đúng các nguyên
tắc này, thì chúng đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả rõ rệt, chẳng hạn
như: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài.. Nhưng có không ít đạo luật đã
phát huy tác dụng rất yếu, như luật phá sản từ khi ban hành đến nay đã có rất ít
doanh nghiệp phá sản theo luật; Luật đất đai đã được sửa nhiều lần, nhưng thị
trường đất đai vẫn chưa thể phát triển vận hành theo luật... Vậy những nguyên
tắc của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có thể lấy gì làm chuẩn? Có thể
nói là các cam kết quốc tế song phương và đa phương của Việt Nam với các đối tác
nước ngoài có thể được xem là những chuẩn mực thể hiện các nguyên tắc của thị
trường và hội nhập quốc tế. Các luật kinh tế của các nước có nền kinh tế thị
trường đã phát triển và hoàn thiện cũng là những căn cứ hết sức quan trọng để ta
có thể tham khảo. Những điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của nước ta cũng là một
chuẩn mực để xem xét và xây dựng các điều luật cho phù hợp. Không ít luật và các
chế định của Việt Nam tuy đã được ban hành, nhưng nội dung của chúng vẫn chứa
đựng những yếu tố của kinh tế kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp. Chẳng
hạn, Luật đất đai mới ban hành đã có nhiều sửa đổi, nhưng giá đất vẫn do nhà
nước định dù có sát giá thị trường, quy định này đã không phù hợp với nguyên tắc
của thị trường. Do vậy việc sửa đổi các thể chế phù hợp với kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế phải là việc làm thường xuyên.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống luật pháp theo những
cam kết quốc tế song phương và đa phương, đặc biệt là những cam kết với WTO.
Những cam kết quốc tế song phương và đa phương khi
đã được quốc hội Việt Nam thông qua, sẽ là luật pháp Việt Nam, tất cả các Luật
pháp khác phải phục tùng những cam kết luật pháp này. Có thể nói, trong tiến
trình hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ ngày càng có nhiều cam kết song phương và đa
phương hơn, do vậy ngay từ bây giờ Việt Nam đã phải chuẩn bị một chương trình
hoàn thiện hệ thống pháp luật có tính dự báo tới những cam kết quốc tế sẽ ký như
với WTO, hay những cam kết của các hiệp nghị thương mại tự do song phương và khu
vực khác. Trung Quốc phải thực hiện một chương trình hoàn thiện hệ thống luật
pháp theo những cam kết với WTO trong 3 năm, đã phải huỷ bỏ và thanh lý gần 3000
văn kiện mang tính pháp quy ở Trung ương và hơn 200.000 quy định, pháp quy, mang
tính địa phương. Chương trình sửa đổi và ban hành pháp luật mới của Việt Nam
hiện là khá đồ sộ, nhưng có thể sẽ chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế
nếu chương trình này không có tính dự báo, không tính tới những cam kết mà Việt
Nam sẽ ký kết. Mặt khác cách làm luật của Việt Nam hiện nay (từ nghiên cứu, biên
soạn, thông qua) có thể nói là đã bất cập với yêu cầu. Cần có sự đổi mới cách
làm luật hiện nay theo hướng chuyên môn hơn, và thông qua luật cũng phải có tri
thức, thông tin, chuyên nghiệp hơn. Hiện nay có một thực tế là các chương trình
soạn thảo luật pháp của chính phủ luôn không thực hiện được theo đúng thời hạn,
do vậy chương trình thông qua luật của Quốc hội cũng khó đảm bảo. Một lý do quan
trọng là các bộ ngành của chính phủ đã chưa tập trung nguồn lực phù hợp cho việc
soạn thảo luật pháp kể cả về tài chính và nhân lực.
V. Đổi mới sự điều hành của chính phủ
Sự điều hành của chính phủ Việt Nam từ thập kỷ 90
đã có nhiều đổi mới từ việc ban hành thể chế, đến chức năng nhiệm vụ, bộ máy tổ
chức. Tuy nhiên nếu so với yêu cầu phát triển, hoàn thiện kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế, thì còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đổi mới hơn
nữa, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến chức năng của chính phủ.
1. Quan hệ giữa chính phủ và thị trường
Ai cũng có thể dễ đồng ý là Chính phủ chỉ làm
những gì mà thị trường không làm được, trong điều kiện cơ chế thị trường đã phát
triển hoàn thiện, các thị trường yếu tố đã phát triển đồng bộ…, nghĩa là thị
trường đã làm được các chức năng huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển
của xã hội. Hiện nay ở Việt Nam cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, các loại thị
trường yếu tố mới hình thành sơ khai… do vậy chính phủ không thể không làm những
việc mà đáng ra là của thị trường. Để chính phủ có thể làm đúng các chức năng
của mình, trước hết chính phủ Việt Nam phải hoàn thiện cơ chế thị trường, xây
dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường để chúng có thể gánh vác trách
nhiệm huy động và phân bổ các nguồn lực, nghĩa là thị trường phát triển đến đâu
chính phủ lui về vị trí đúng của mình đến đó. Một khi các loại thị trường chưa
phát triển, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, chính phủ chưa thể rút lui để
tránh tạo ra một khoảng trống quyền lực, Chính phủ phải đảm trách những việc
không phải của Chính phủ. Điều đó giải thích Việt Nam tại sao đã chuyển sang
kinh tế thị trường, mà chính phủ vẫn thực thi không ít các biện pháp hành chính
trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực. Chính phủ chỉ có thể từ bỏ các
biện pháp lý hành chính, cơ chế “xin-cho”, cấp phát..., khi thị trường phát
triển, hoàn thiện và đảm trách được những công việc đó. Cần có một lộ trình
thiết lập và phát triển kinh tế thị trường, tạo dựng “bàn tay vô hình”. Ở các
nước phương Tây quá trình này đã diễn ra hoàn toàn tự phát, lâu dài, thị trường
phát triển trước, tự do tác động hoàn toàn tới sự phát triển, chính phủ dường
như không can thiệp. Nhưng ở những nước đi sau như Việt Nam, chính phủ có thể
tác động, tạo dựng ra thị trường theo một lộ trình với những giải pháp phù hợp.
Một khi thị trường đã phát triển và hoàn thiện, đã phát huy được các chức năng
của “bàn tay vô hình”, thì chính phủ có thể tập trung làm tốt những việc đích
thực của chính phủ, nghĩa là giữ vai trò của người cầm lái, người trọng tài,
người hỗ trợ, chứ không phải là người chèo thuyền, người đá bóng, nhà kinh
doanh... Những việc của chính phủ có thể kể ra là:
- Định ra chiến lược, chính sách phát triển kinh
tế- xã hội, thể chế, quản lý kinh tế vĩ mô.
- Xác định các chương trình phát triển khai thác,
bảo vệ tài nguyên, phát triển khoa học- công nghệ, giáo dục, y tế…
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành và các vùng.
- Bố trí các công trình trọng điểm quốc gia, đặc
biệt là những cơ sở hạ tầng, những công trình năng lượng, giao thông, liên lạc.
- Thu thập và phổ biến các thông tin kinh tế.
- Giám sát việc thực thi pháp luật, các nhiệm vụ
kinh tế- xã hội.
- Quản lý các quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc và bảo vệ
môi trường v.v.
Chừng ấy vấn đề đã là một khối lượng công việc quá
lớn, quá đủ, và trong không ít trường hợp đã là quá sức đối với một chính phủ.
Tuy nhiên, trên thực tế các quan chức chính phủ lại ít hứng thú làm những công
việc đích thực của chính phủ, vì những công việc này khó khăn, phức tạp, đòi hỏi
phải có trí tuệ, bản lĩnh v.v… mà lại ít hoặc không có lợi lộc cá nhân, họ rất
thích thú với những phần việc của thị trường, của “bàn tay vô hình” đặc biệt là
trong phân bổ các nguồn lực, duy trì cơ chế “xin - cho” v.v.., vì những công
việc này ít phức tạp hơn, dễ mang lại những bổng lộc cá nhân hơn. Đây chính là
một lý do vì sao các quan chức chính phủ không dễ từ bỏ việc phân bổ các nguồn
lực, từ bỏ cơ chế “xin - cho”. Do vậy, việc chính phủ thu về thực hiện các chức
năng đích thực của nó phải được định thành luật, nghiêm cấm các quan chức chính
phủ tiếp tục làm thay thị trường.
2. Quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp
Quan hệ giữa chính phủ Việt Nam và các doanh
nghiệp cho đến nay đã có nhiều đổi mới cả về chính sách cũng như cách ứng xử
theo hướng các doanh nghiệp ngày càng có nhiều quyền kinh doanh hơn và cũng được
xem trọng hơn. Tuy nhiên hiện vẫn còn có vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Trước hết
đó là vấn đề thành lập doanh nghiệp mới và giải thể doanh nghiệp. Chủ thể quan
trọng của mọi nền kinh tế là doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề thành lập các
doanh nghiệp mới và giải thể các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp mới thành lập có
tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mọi nền kinh tế, vì nó mang
lại luồng sinh khí mới, sức sống mới cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp mới càng
xuất hiện nhiều càng làm cho nền kinh tế phát triển năng động hơn. Từ năm 2000
đến năm 2002 số lượng doanh nghiệp Việt Nam đã tăng từ 42.288 doanh nghiệp lên
đến 62.908 doanh nghiệp,[4]
nghĩa là tăng 48,8% doanh nghiệp mới trong 3 năm. Có thể nói đó là một bước tiến
đáng kể nhờ có luật doanh nghiệp. Tuy nhiên một quốc gia như Việt Nam có trên 80
triệu dân, mà chỉ có 62,9 ngàn doanh nghiệp, thì đó vẫn còn là con số nhỏ bé so
với các quốc gia trong khu vực. Chính phủ Việt Nam đã bãi bỏ hàng trăm giấy phép
hạn chế sự ra đời của các doanh nghiệp, nhưng hiện vẫn còn tới 290 giấy phép
đang có hiệu lực, mà các cấp chưa muốn bỏ. Do vậy vẫn còn có những khả năng tiếp
tục bãi bỏ các giấy phép hơn nữa và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự ra
đời của các doanh nghiệp mới. Trong cộng đồng các doanh nghiệp, các doanh nghiệp
mới ra đời đã quan trọng, nhưng các doanh nghiệp ốm yếu, thua lỗ cần loại bỏ
cũng có tầm quan trọng không kém. Cần phải tiếp tục sửa đổi luật phá sản để Luật
này có thể có hiệu lực.
Thứ hai,
sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, trong
nước và ngoài nước đã được giảm nhiều trong quá trình đổi mới. Tuy nhiên, hiện
vẫn tồn tại tình trạng này và đang được tiếp tục xử lý, nhất là khi Việt Nam
được gia nhập WTO. Sự phân biệt đối xử hiện còn tồn tại trên các mặt:
- Các lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước thường là những lĩnh vực quan trọng, chính yếu, nhiều lợi thế, tuy gần đây
nhiều lĩnh vực đã được mở cửa cho doanh nghiệp dân doanh và nước ngoài. Dù vậy
sự phân biệt đối xử ở đây vẫn còn lớn so với các quốc gia trong khu vực.
- Không ít doanh nghiệp nhà nước còn được ưu đãi
về vốn, được độc quyền kinh doanh trên một số lĩnh vực, gần đây chính phủ đã hạn
chế, nhưng tình trạng độc quyền kinh doanh và bao cấp vẫn còn lớn.
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ nhiều
hơn, có lợi thế hơn trong việc xin cấp mặt bằng, vay vốn.
Hiện nay chính phủ Việt Nam đang soạn thảo một
luật doanh nghiệp thống nhất cho mọi doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc
doanh, trong nước và ngoài nước. Bộ luật này sẽ được ban hành là một bước tiến
đáng kể về thể chế, và chắc chắn sẽ giảm thiểu sự phân biệt đối xử.
Thứ ba,
quan hệ giữa chính phủ với các doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều đổi mới. Theo
hướng chính phủ ngày càng để cho doanh nghiệp nhà nước tự chủ kinh doanh, tuy
nhiên cơ chế chủ quản vẫn còn khá nặng nề. Về pháp lý, các doanh nghiệp nhà nước
được tự chủ kinh doanh, nhưng lại chịu sự quản lý trực tiếp của các bộ, các
ngành, các chính quyền địa phương... Thực chất của mối quan hệ “chủ quản” là hai
bên dựa dẫm và lợi dụng lẫn nhau. Các doanh nghiệp nhà nước dựa vào quyền lực và
uy tín của các cấp chủ quản để có thể tín chấp vay ngân hàng, xin cấp đất, xin
cô ta... Đương nhiên các quan chức của các cấp chủ quản cũng có lợi nhờ những
quan hệ này. Trung Quốc đã chủ trương chính quyền tách khỏi xí nghiệp; “Chính,
xí phân khai” là muốn nhằm giải quyết vấn đề
này. Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương bỏ chế độ “chủ quản”, nhưng lại chưa có
cơ chế thay thế hữu hiệu, do vậy chế độ “chủ quản” vẫn tiếp tục tồn tại đến nay.
3. Quan hệ giữa chính phủ và các tổ chức xã
hội.
Các tổ chức xã hội dân sự có vai trò rất quan
trọng trong một nền kinh tế thị trường, vì tiếng nói, nguyện vọng, yêu cầu của
các tầng lớp dân chúng, của các doanh nghiệp ở mọi ngành nghề phải có người đại
diện. Mỗi ngành nghề cần có một tổ chức như: Hội những người nuôi ong, Hội cây
cảnh, Hội nuôi cá, nuôi tôm v.v.. Ở Việt Nam những tổ chức xã hội loại này trong
những năm gần đây đã bắt đầu hình thành. Hiện đã có 240 Hiệp hội ngành nghề có
tính chất cả nước và khoảng 1400 hội ngành nghề địa phương. Những tổ chức này đã
có những tác động cụ thể như, các hội này đã
đại diện cho những người nuôi cá ba sa, nuôi tôm.. kiện lên chính phủ Mỹ về
chính sách chống bán phá giá. Họ cũng có thể cùng nhau trao đổi đề xuất những
kiến nghị với chính quyền các cấp về những vấn đề có liên quan đến ngành
nghề, đến lợi ích của họ.
Chính phủ Việt Nam hiện đang soạn thảo, chuẩn bị
ban hành một bộ luật về các tổ chức xã hội, đây sẽ là một khuôn khổ pháp lý quan
trọng cho các tổ chức xã hội Việt Nam ra đời và hoạt động phù hợp với kinh tế
thị trường.
Một mặt phải thúc đẩy quá trình phát triển của các
tổ chức này rộng khắp ở hầu hết các ngành và lĩnh vực, đồng thời phải hướng dẫn
để các tổ chức này hoạt động theo luật định.
Một khi các tổ chức này đã phát triển, thì chính
phủ phải giao những việc vốn không phải của chính phủ, cho các tổ chức này thực
hiện như: cấp giấy chứng chỉ hành nghề, giám
sát về nghề nghiệp, bảo vệ lợi ích cho
các
nhóm ngành nghề, kế toán, kiểm toán, đánh
giá tài sản, đánh giá nhà đất…
Những tổ chức này thực sự là những tổ chức xã hội
dân sự, do các nhóm dân cư, nghề nghiệp tư tổ chức ra, tự quản lý, tự bảo vệ lấy
những lợi ích của mình.
Những tổ chức xã hội này khác với các tổ chức
chính trị do Đảng và Nhà nước lập ra như Đoàn thanh niên cộng sản, Hội liên hiệp
phụ nữ.
4. Quan hệ giữa chính phủ trung ương và các cấp
chính quyền địa phương
Vẫn còn có tình trạng các ngành Trung ương muốn
tập trung quyền lực về trung ương với lý do cần có sự quản lý thống nhất theo
ngành dọc. Các chính quyền địa phương luôn muốn được tăng thêm quyền lực do yêu
cầu quản lý theo lãnh thổ, dường như ai cũng đồng ý là phải có sự phối hợp giữa
quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Mọi người cũng dễ đồng ý là tất cả các công
việc mang tính toàn quốc, có liên quan tới lợi ích tổng thể của quốc gia thì
chính phủ Trung ương quyết định, còn những việc chỉ liên quan đến lợi ích khu
vực địa phương sẽ do chính quyền địa phương quyết định. Ở Việt Nam cho đến nay
đã có nhiều lần phân cấp cho các chính quyền địa phương, chi tiêu của chính
quyền cấp tỉnh, thành phố đã tăng đều từ 26% năm 1992 lên 43% năm 1998 và gần
44% hiện nay. Theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt Nam đã là một quốc gia phân quyền
cho địa phương khá cao,[5]
Trong số 61 tỉnh thành của Việt Nam, có 56 tỉnh nghèo nhất được giữ lại 100%
nguồn thu từ phần thuế phân chia. Chỉ có Thành phố Hồ Chí Minh được giữ lại 24
%, Hà Nội -30%, Vũng Tầu -48%, Bình Dương- 52%, Đồng Nai- 53%. Chính quyền các
địa phương còn có các quyền: quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội địa phương mình
trình chính phủ phê duyệt, quyền cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài với
quy mô nhất định, quyền phát hành công trái địa phương (Thành phố Hồ Chí Minh),
và một số tỉnh .v.v.. Vấn đề đặt ra hiện nay là phân quyền cho địa phương đến
đâu là đủ, tiêu chí gì quy định mức độ phân quyền này?
Thứ nhất,
thực tế ở các nước cho thấy mức độ phân quyền cho các địa phương tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển. Ở trình độ phát triển kinh tế còn thấp, quan hệ kinh tế
phát triển còn hạn chế, ngân sách Trung ương còn nhỏ, trình độ của cán bộ các
cấp chính quyền địa phương còn thấp…, thì chính phủ Trung ương không thể phân
quyền nhiều cho địa phương. Nhưng một khi trình độ phát triển kinh tế đã đạt cao
hơn, các quan hệ kinh tế phát triển phong phú và đa dạng, ngân sách trung ương
dồi dào trình độ cán bộ địa phương đã được nâng cao…, thì việc phân quyền cao
hơn cho địa phương lại là cần thiết. Vấn đề đặt ra là mức phân quyền ở Việt Nam
như trên trình bày đã là phù hợp chưa? Theo chúng tôi, mức phân quyền cho địa
phương ở Việt Nam hiện có mặt còn chưa phù hợp. Về phân chia ngân sách, chính
quyền các cấp địa phương được quyền tự chủ tới 44% ngân sách có thể là mức cao,
vì hiện nay trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung còn thấp, bình
quân đầu người mới khoảng hơn 500 USD, yêu cầu đầu tư xây dựng các kết cấu hạ
tầng chung của cả nước rất lớn, do vậy nếu giành cho các địa phương tới 44% ngân
sách quốc gia, thì Trung ương sẽ phải hạn chế việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ
tầng có tầm cỡ quốc gia như: các bến cảng quốc gia, các đường cao tốc quốc gia,
các cơ sở cung cấp điện nước, thuỷ lợi quốc gia v.v. Điều này giải thích tại sao
cho đến nay kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với các quốc gia
khác trong khu vực, ngay cả so với tỉnh Quảng Tây - tỉnh lạc hậu của Trung Quốc.
Tuy nhiên có những mặt, Trung ương có thể phân quyền cho địa phương cao hơn như
quản lý giáo dục phổ thông, dạy nghề, y tế dự phòng v.v.
Thứ hai,
xu hướng địa phương chủ nghĩa, muốn phát triển những nền kinh tế địa phương là
khá phổ biến hiện nay. Quy hoạch phát triển của các tỉnh thành phố gần như theo
một công thức - các thành phố lớn đều phấn đấu xây dựng cơ cấu kinh tế - công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, các tỉnh - nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ.
Mỗi tỉnh đều phấn đấu có cả cảng biển, sân bay và một số khu công nghiệp. Do vậy
Việt Nam hiện đã có tới hơn 100 cảng biển và khoảng 80 sân bay. Hậu quả là công
suất sử dụng nhiều cảng rất thấp: Cảng Đà Nẵng chỉ sử dụng 2,2 triệu tấn/năm so
với công suất thực kế 5 triệu tấn/năm, cảng Cửa Việt - 200 ngàn tấn/1 triệu tấn
năm, cảng Kỳ Hà -10 ngàn tấn/450.000 tấn năm,[6]
Chi phí bốc dỡ tại cảng quá cao so với khu vực. Có những khu kinh tế lớn vào
hàng nhất nước nhưng lại liền kề nhau và ở hai tỉnh nghèo nhất nước như khu kinh
tế mở Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất. Trong phạm vi 100 km từ Đà Nẵng tới Dung
Quất đã có tới 3 cảng lớn- Tiên Sa, Kỳ Hà, Dung Quất và 2 sân bay lớn: Đà Nẵng
và Chu Lai- Thật sự khó có hiệu quả.
Vấn đề hiện nay là Trung ương phải nắm quyền quyết
định quy hoạch phát triển quốc gia: hệ thống cảng biển quốc gia, những sân bay
quốc gia, những đường cao tốc quốc gia, những khu công nghiệp quốc gia và chỉ
cho phép các tỉnh được quyền quy hoặc, những gì có tầm địa phương tỉnh.
VI. Xây dựng và hiện đại
hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Các quốc gia kém phát triển đã lạc hậu so với các
nước phát triển về rất nhiều phương diện và do vậy phương diện nào cũng thấy cần
phải có đầu tư phát triển. Thực tế phát triển của thế giới cho thấy: trong tất
cả các phương diện đó, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội có một tầm quan trọng đặc
biệt, vì toàn bộ sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia lệ thuộc trước
hết vào kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, không có giao thông, liên lạc không thể
nói tới một sự phát triển kinh tế nào; giao thông liên lạc lạc hậu khó có thể
xây dựng kinh tế hiện đại. Các nước kém phát triển có thể phải xây dựng và hiện
đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đi trước một bước nhờ vào nguồn viện trợ
phát triển của các nước đã phát triển, cũng như sự tích luỹ ban đầu của quốc
gia. Thậm chí phải tạm ngừng việc xây dựng các nhà máy lại, tập trung vốn cao
hơn cho xây dựng kết cấu hạ tầng. Các nước kém phát triển phải tập trung đầu tư
vào những cơ sở hạ tầng có thể sử dụng ngay, sớm mang lại hiệu quả, sớm phát huy
tác dụng- đó là những cảng biển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc từ
các cửa khẩu đó tới các trung tâm kinh tế, sau đó mới đến các kết cấu hạ tầng
khác. Các kết cấu kinh tế- xã hội mềm phải kể đến trước hết là những thiết chế
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Không có những thiết chế này không thể
nói đến sự phát triển.
Việt Nam trong quá trình đổi mới đã chú trọng đầu
tư xây dựng và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, và đã đạt được
những kết quả rất đáng khích lệ. Song kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của Việt
Nam đến nay vẫn chưa được xây dựng thích ứng với yêu cầu phát triển. Việt Nam
chưa có cảng trung chuyển quốc tế, chưa có đường cao tốc hiện đại ra các cảng
biển và sân bay quốc tế, chưa có đường sắt hiện đại, sân bay quốc tế nhỏ bé, các
thiết chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn sơ khai.. Định hướng đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam còn phân tán, chưa tập trung vào những
định hướng quan trọng nhất. Đây là nguyên nhân rất quan trọng làm cho chi phí,
kinh doanh ở Việt Nam còn cao hơn khu vực. Hiện nay các chi phí vận tải biển bốc
dỡ ở cảng, vận tải từ cảng về nơi sử dụng, các chi phí liên lạc.. được xem như
tương đương với thuế xuất nhập khẩu. Vì những chi phí này cao sẽ làm tăng giá
hàng nhập khẩu, hạ thấp khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
KẾT LUẬN:
Những vấn đề phát triển của Việt Nam đã được đề
cập tới trên đây có thể xem là những vấn đề cấp thiết nhất hiện nay, tuy nhiên
cùng với sự phát triển, những vấn đề mới sẽ luôn xuất hiện, đòi hỏi phải có sự
theo dõi nghiên cứu sát sao. Trong tất cả các vấn đề trên đây, chính phủ luôn có
một vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia.
Một chính phủ ban hành được những thể chế đúng đắn, phù hợp với các xu hướng
phát triển của thế giới và những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, biết
điều hành kinh tế năng động và thích ứng với tình thế, biết sử dụng sức mạnh của
thị trường, của doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội và dân chúng, biết làm đúng
những việc cần làm, thì nền kinh tế chắc chắn sẽ phát triển, tiến bộ và bền
vững. Không thể không kể tới vai trò của các cá nhân. Không có Lý Quang Diệu,
khó có thể có được Singapore hiện đại ngày nay. Không có Đặng Tiểu Bình, khó có
thể thấy được nước Trung Hoa phát triển hiện tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.
2. Nghèo, Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, tại
Hội nghị Tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội, tháng 12/2003.
3. Các mục tiêu thiên niên kỷ, xoá bỏ khoảng cách
Thiên niên kỷ, Liên hiệp quốc, Hà Nội, 2003.
4. Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001,
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
2001.
5. Việt Nam 2010, tiến vào thế kỷ 21, Báo cáo phát
triển Việt Nam 2001, Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ 12/2000.
6. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm
1991-2000.
7. Niên giám thống kê 2003, Tổng cục thống kê.
8. Hoạt động không chính thức và môi trường kinh
doanh ở Việt Nam Stoyan Tenew, Amanda Carbier.. NXB Thông tấn 2003.
9. Cải cách hoạt động của chính phủ Trung Quốc,
Nguyễn Thành Phát, Thị trưởng Hoàng Thạch, Hồ Bắc Trung Quốc, Thực hiện do Viện
kinh tế chính trị thế giới dịch năm 2002.
10. Quản lý và điều hành, Báo cáo phát triển Việt
Nam 2005. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam 12/2004.
11. Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế
kỷ XX, NXB Công an nhân dân, 2002, HN.
Hà Nội, tháng 5/2005
(1) Kinh tế Việt Nam
2003 Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Tr.26.
(2) Nghèo, báo cáo Phát
triển Việt Nam 2003, tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam Hà
Nội, 2-3 tháng 12 năm 2003, tr.45.
(3) A Thukorala Prema-
Chandra, 2002.
(4) Niên giám thống kê
2003, NXB Thống kê, Hà Nội 2004, tr. 383.
(5) Quản lý và điều
hành, Báo cáo phát triển Việt Nam 2005, báo cáo chung của các nhà tài
trợ.
* Bản duyệt lại
của bài phát biểu tại Hội Thảo Hè 2005 “Tiếp Tục Đổi
Mới Kinh Tế và Xã Hội để Phát Triển”,
tổ chức tại Đà Nẵng ngày 28-30/7/2005 với sự hỗ trợ của VAPEC, Vietnamese
Heritage Institute và Đại học Đà Nẵng.
© Thời Đại Mới
Posted in: Chính Trị
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét