Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

Heo trong Thánh Kinh



Heo là con vật qúy và bình dân trong nền văn hoá Việt Nam, nhất là vào buổi đầu năm hay các dịp lễ hội hay khao vọng. Vì thế, nếu trong phần chủ đề số báo Xuân Đinh Hợi, độc giả có bài nghiên cứu mang mầu sắc văn hóa và phong tục Việt Nam, thì dưới đây tôi xin viết tặng độc giả một cái nhìn khác về con heo : ‘HEO TRONG THÁNH KINH’.
1 - Heo là vật dơ bẩn và thịt heo bị cấm ăn.
Sách Lêvi là cuốn sách bàn về mọi nghi thức tế lễ Giavê, lúc dân Do Thái còn bôn ba trong sa mạc. Nó tổng hợp mọi nghi thức của hàng tư tế đã có từ trước. Theo sách Lêvi, ‘Heo tuy là vật có móng và móng xẻ hai, và không nhai lại, heo vẫn là loài vật do bẩn. Vì thế không được ăn thịt chúng’ (Lv 11,7).
Sách Lêvi có ảnh hưởng lớn trong quan niệm về đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của dân Do Thái. Ăn thịt heo là điều cấm kỵ đối với họ. Như có lần dân thành Giêrusalem bị phiền trách ‘vì ăn thịt heo’ (Is 66,17), vi ‘lấy tiết heo làm lễ vật dâng tiến, và do đó, làm nhơ bẩn bàn thờ’ (Is 66,3). Đối với dân Do Thái bấy giờ, ‘người dữ kẻ ác, chính là người sống giữa mồ mả, ăn thịt heo và nấu cháo thịt hôi thối’ (Is 65,4). ‘Người đàn bà duyên sắc nhưng thiếu đức hạnh cũng chỉ là vòng vàng đeo vào mõm heo mà thôi’ (Cn 11,22).
2 - Chối ăn thịt heo là cử chỉ anh hùng.
Ngược lại, từ chối ăn thịt heo chính là hành động tử đạo. Ông Elêaza, một trong những viên chức cao niên và uy tín, đã bị người ta chành miệng ra và nhét thịt heo vào. Thế nhưng, ông đã ‘thà chết vinh hơn sống nhục’, nhất định nhả thịt heo ra, và tự thân hiên ngang đến chịu hình trượng. Sau đó, những người ‘chủ sự lễ cúng theo luật’ đã đưa ông ra ngoài, lấy tình xưa nghĩa cũ khuyên can ông : “Thịt chúng tôi đưa tới là thịt được phép ăn, ông cứ giả đò ăn đi cho vua vui lòng. Như vậy, ông sẽ được đối xử nhân đạo và được thoát chết…”. Ông Êlêaza khảng khái trả lời: “Vào tuổI tôi đây, giả đò là điều chẳng xứng, lại làm gương xấu cho người trẻ. Chúng sẽ nghĩ rằng ‘Lão Elêaza 90 tuổi đầu, lại hèn nhát quy hàng dân ngoại giáo’. Giả đò hèn nhát để tránh khổ hình do tay người phàm, nhưng làm sao tôi lại phản bội Thiên Chúa toàn năng và làm hoen tuổi già của tôi?. Với tuổi 90 này, tôi sẵn sàng thí mạng sống để làm gương cho tuổi trẻ. Bức gương cao qúy là cái chết hạnh phúc, tự nguyện và dũng cảm để bảo vệ luật pháp khả kính và lành thánh”. Nói rồi, ông Êlêaza tiến thẳng về nơi hình trượng. Khi sắp chết dưới những trận đòn dữ dằn, ông còn tuyên bố: “Thiên Chúa Giavê chứng giám rằng: tôi có thể trốn chết, nhưng vì kính yêu Ngài, tôi chịu đòn đau đớn về thể xác. Tâm gồn tôi hoan lạc về sự đau đớn này và vì danh Chúa”. Ông Êlêaza chết đi, để lại không những cho giới trẻ mà cho cả dân tộc tấm gương anh hùng sáng lạn. Muôn đời, ngườI ta ngưỡng phục nhân đức của ông (2Mcb 6,18-31).
3 - Bảy người trẻ và bà mẹ can tràng.
Tiêu biểu cho những người trẻ đã noi gương ông già Êlêaza mà thà chết còn hơn ăn thịt heo trái luật tổ tiên, là bảy anh em được kể trong sách Maccabêô II chương 7. Chuyện rằng, có bảy anh em bị bắt cùng với mẹ và đã bị vua cưỡng ép ăn thit heo, là loại thịt cấm ăn. Cả bảy anh em bị tra tấn bằng hình trượng và roi gân bò. Thay mặt cho bảy anh em, người anh trưởng đã khảng khái tâu vua: “Vua còn muốn hạch hỏi gì nữa? Chúng tôi sẵn sàng chết chứ không trái phạm luật tổ tiên. Chúng tôi không ăn thịt heo. Vua xung giận cho lính nung đỏ chảo vạc lên. Chảo vạc vừa đỏ, vua cho lệnh cắt lưỡi người anh trưởng. Lột da đầu, chặt mút tứ chi, ngay trước mắt các em và người mẹ… Lần lượt năm anh em khác đều bị hành hạ hung dữ và bị giết chết như vậy… trước mặt người mẹ. Năm người như một, ai cũng theo gương người anh trưởng, mạnh dạn tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, trông cậy phần thưởng Ngài ban và nhất trí không nghe lời vua dụ dỗ hay tức giận, dọa nạt và giết chết…
Còn người mẹ, bà đáng thán phục mọi đàng, xứng đáng được kính cẩn ghi nhớ, một lòng cậy trông vào Chúa. Bà đã can đảm chịu đựng mà chứng kiến bảy con cùng chết trong một ngày. Bà đã ủy lạo mỗi đứa con bà bằng tiếng nói của tổ tiên. Lòng đầy chí khí anh hùng, nữ tính được khí phách nam nhi làm cho phấn khởi. Bà đã nói với các con: “Má không biết làm sao các con đã được hoài thai trong lòng má, rồi sinh ra làm người. Không phải má đã tặng cho các con sinh khí và sự sống. Cũng không phải má đã hòa nhịp các yếu tố tạo thành mỗi đứa chúng con. Đó là công việc của Đấng tạo thành vũ trụ, Đấng đã nắn chúng con thành người và cho sinh ra, Đấng đã sáng kiến hoàn thành mọi vật khi tạo dựng ra chúng. Người sẽ trả lại cho chúng con theo lòng lân tuất của Người, sinh khí và sự sống… Vì các con đã không màng đến sự sống để bảo toàn lề luật của Người”… Khi người con út tỏ ra sợ vạc dầu sôi và roi gân bò hung ác của vua, bà đã năn nỉ khích lệ con can đảm : “Con ơi, con hãy thương má đã cưu mang con chín tháng và bú mớm ba năm, cùng đã nuôi nấng giáo dục con đến tuổi này. Hỡi con, con hãy ngước nhìn trời đất mà xem tất cả mọi vật trong đó, hãy xác tín rằng Thiên Chúa đã dựng nên chúng… Con đừng sợ vạc dầu sôi, đừng sợ tên lý hình!, Con hãy xử sao cho xứng với các anh con. Con hãy can đảm cùng chết như các anh con… Má tin tưởng một ngày kia má sẽ gặp lại tất cả các con trong Nước Thiên Chúa” (2Mcb 7).
4 - Heo trong Tân Ước.
Bốn lần heo được nhắc đến trong Tân Ước. Lần thứ nhất, trong Phúc Âm thánh Matthêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Anh em chớ ném của thánh cho chó, chớ vất hạt trai cho heo, kẻo chúng giẫm xéo lên, rồi quay lại cắn anh em” (Mt 7,6). Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, nói như vậy, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng : như phải kính trọng của lễ thánh, người ta cũng phảI kính trọng giáo lý thánh, không được trao ban cho những người bất xứng, không đủ khả năng lãnh nhận, kẻo chính họ lại phản bội và báo hại mình. Người bất xứng đây là ai ? Chúa Giêsu không nói rõ. Nhưng Ngài ám chỉ họ bằng hình ảnh ‘con heo’ quen thuộc với người Do Thái.
Lần thứ hai, trong Phúc Âm thánh Luca. Khi nói về dụ ngôn ‘đứa con hoang đàng bỏ nhà cha ra đi, đến khi sa cơ thất thế, phải đi làm thuê cho người ta’ (Lc 15,11-32). Công việc của chàng là chăn heo, nên lúc đói quá, chỉ mong được ăn cám heo và rau heo. Nhưng không ai cho. Ý nói ‘chăn heo là việc làm hèn hạ, đồ ăn của heo là đồ ăn dơ bẩn. Tất cả diễn tả cảnh sống cùng quẫn và bi đát của người con hoang đàng.
Lần thứ ba, trong các Phúc Âm thánh Mathêu (8,28-34), thánh Mátcô (5,1-26) và thánh Luca (8,26-39). Cốt yếu của câu chuyện được kể lại trong ba Phúc Âm : Khi Chúa Giêsu đi tới Gadara, có hai người bị qủy ám, sống lẩn lút giữa mồ mả và chuyên hành hung khách qua đường. Vì thế cả miền sợ hãi, không dám đi qua con đường đó. Một hôm thấy Chúa Giêsu đi tới, hai người bị qủy ám tru lớn tiếng : «Lạy Con Thiên Chúa, Ngài đến đây làm chi ? Phải chăng Ngài đến để làm khổ chúng tôi». Chúa Giêsu dừng lại, dùng uy quyền thần linh truyền rằng : «Hỡi tà thần, Ta truyền cho ngươi hãy ra khỏi hai người này». Ma qủy thưa Chúa rằng : «Nhân danh Thiên Chúa, xin ông đừng làm khổ chúng tôi». Chúa Giêsu hỏi : «Tên các ngươi là gì ?». Thưa tên chúng tôi là Quân Đoàn, vì chúng tôi đông lắm». Gần đó có một đàn heo đông đảo đang ăn cỏ, ma qủy xin với Chúa rằng : «Xin ông cho chúng tôi nhập vào đàn heo kia». Chúa cho phép chúng. Lập tức chúng nhập vào đàn heo đông cả ngàn con. Bị ma qủy nhập, đàn heo xô nhau lao mình xuống biển, chết chìm tất cả. Tin đồn ra, cả miền hoảng sợ.
Lần thứ bốn là lời trong thư thứ hai của thánh Phêrô. Ngài nguyền rủa tiên tri giả chuyên xuyên tạc Thánh Kinh và lừa gạt dân chúng : «Trường hợp của họ thật đúng như câu tục ngữ ‘Chó mửa ra rồi lại liếm ăn, lợn vừa tắm sạch lại lăn vào bùn’ (2Pr 2,1).
5 - Hai thắc mắc cần làm sáng tỏ.
- Vật sạch vật dơ : Cứ như trên, ta thấy heo bị liệt vào số những con vật dơ bẩn. Thánh Kinh chỉ nhắc đến con heo trong những ý nghĩa tiêu cực hay trong những hoàn cảnh không đẹp. Tại sao vậy ? Theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì từ xa xưa, heo là một trong những con vật mà dân ngoại thường cúng tế các tà thần của họ. Heo lại là con vật đầm phân, cục mịch, háu đói, ăn nhiều và hung dữ, nên về phương diện vệ sinh, luân lý, tư cách, heo không phải là con vật được kính trọng, sống gần gũi với người như con chó, con chiên… Và càng không được vào sổ những con vật đáng làm hy lễ dâng hiến cho Thiên Chúa. Thêm vào đó, dân Do Thái vốn là dân du mục, chăn nuôi những đàn chiên, cừu, dê, lại rất xa lạ với loài heo. Cũng vì thế, từ chỗ không quen ăn thịt heo, người ta liệt heo vào số những con vật dơ ‘cấm ăn thịt’. Hơn thế, người Do Thái cho ‘việc ăn thịt heo là một hành động chối đạo’.
Khi chú giải ‘luật về vật sạch và vật dơ’ trong cuốn Lêvi, Đức Giám Mục Nguyễn Bình Tĩnh viết : “Luật Maisen xếp loại vật sạch, vật dơ ‘là theo kinh nghiệm hay theo mục đích chống thờ quấy’. Ví dụ cấm ăn thỏ thuộc loài ‘nhai lại’ vì thấy miệng nó cử động luôn. Cấm ăn cá vì người Philitinh và Phêniki thờ thần cá. Heo thuộc loại vật dơ vì dân Canaan coi heo là vật qúy, chim kiền kiền dơ là vì chúng ăn thịt và là biểu tượng của thần Nekbet, thần hộ mệnh của Ai Cập… Tiêu chuẩn xác định vật dơ như vậy thực tế nhưng không chính xác. Tiêu chuẩn này còn liên quan đến một số hiện tượng sinh lý như phạm vi tình dục, sự chết, một số bệnh ngoài da, một số thức ăn, chiến tranh (xem ‘Biết yêu và sống Lời Chúa’ I, tr. 67).
Có thể thêm rằng : Kể từ thời Tân Ước, quan niệm ‘heo là vật dơ bẩn’ của Cựu Ước đã được thay đổi ngay giữa dân chúng. Sự kiện ‘một đàn heo cả ngàn con’ (Mc 5,11-13) chứng tỏ ‘kỹ nghệ nuôi heo’ đã phát triển, dân chúng bắt đầu qúy chuộng loài heo.
- Tại sao người Kitô giáo ăn thịt heo ? Cho tới nay, người Do Thái vẫn nghiêm giữ luật Cựu Ước ‘Heo là vật dơ bẩn, nên không được ăn thit heo’. Người Hồi giáo cũng vậy (Coran vi,146-147). Câu hỏi đặt ra là : Tại sao người Kitô giáo không giữ luật Cựu Ước như người Do Thái hay người Hồi giáo ?”. Xin thưa : Chúng ta tin theo Chúa Giêsu. Người Do Thái và người Hồi giáo không tin theo Chúa Giêsu. Khác với chúng ta, họ không tin nhận rằng ‘Chúa Giêsu đến để hoàn hảo hóa các luật Cựu Ước’ (Mt 5,17-34). Ngài mạnh dạn bãi bỏ những luật lệ hay tập tục vụ hình thức, thiếu tình thương và bác ái. Chúng ta thấy rõ điều đó trong các đoạn Phúc Âm : Chúa chữa bệnh ngày thứ bảy (Mt 12,1-14 Mc 3,1-8 Lc 13,10) ; Chúa tranh luận với người Biệt Phái về các tập tục (Mc 7,1-23) ; Những lời Chúa khiển trách người Biệt Phái (Mt 23,1-19)… Còn luật liên hệ đến các thức ăn, chúng ta có lời Chúa Giêsu dạy : “Chẳng có của ăn nào từ ngoài vào trong mình người ta làm cho người ta ra dơ bẩn. Bởi vì của ăn đó không nhập vào tâm hồn người ta. Nó chỉ đi vào bụng rồi bài tiết ra nơi kín đáo” (Mc 7,18-18). Và thánh Mátcô khẳng định thêm “Nư vậy là Chúa bảo mọi của ăn đều sạch” (Mc 7,19).
Chúng ta có thể kết luận : Heo thuộc muôn loài Thiên Chúa đã tạo thành. Việc tạo thành của Chúa phong phú vô lường. Mọi vật Chúa đã dựng nên đều tốt lành (DSt 1,1 tt). Vì thế, khi nhìn ngắm một thụ tạo, kể cả con heo, chúng ta phải bắt chước thánh vương Davít mà ca ngợi Thiên Chúa Tạo Thành :
Hãy ca tụng Chúa, tự khắp mười phương đất,
Này thủy quái dị hình, này tất cả vực sâu,
Lửa hồng mưa đá, tuyết trắng mây mù,
Ngọn cuồng phong, cấp thừa hành Lời Chúa,
Núi với đồi trùng trùng điệp,
Cây ăn trái và đủ loại bá hương,
Thú vật rừng hoang,
Loài bò sát hay mọi giống chim trời,
Hãy ca tụng Chúa, Hóa Công quyền uy. (Tv 148).

Đức Vinh

0 nhận xét:

Đăng nhận xét