Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014
TÍN ĐIỀU, HUYỀN THOẠI, ĐỨC MẸ, VƯỜN ĐỊA ĐÀNG, THÁNH TÍCH.
07:07
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trước hết, tôi xin trình bày sơ lược một số tín
điều quan trọng về Đức Mẹ:
Tín Điều Đức
Mẹ Đồng Trinh. Trong 300 năm
đầu của kỷ nguyên, chúng ta chưa có đạo
Công Giáo mà chỉ có đạo Kitô nguyên thủy (Early
Christianity). Tín đồ Kitô Giáo nguyên
thủy không xây nhà thờ, không có ảnh tượng, không
có hệ thống tu sĩ, không tin Đức Mẹ
đồng trinh. Họ tụ họp nhau trong các phòng
hội (sinagogues) để đọc Thánh Kinh và noi
gương cuộc sống của Chúa Jesus mà họ tin là
Đấng Cứu Thế (Messiah/Christ). Kinh Thánh nói rõ Chúa
Jesus là con trai đầu của Đức Mẹ chứ
không phải là con trai duy nhất của Người. Trưởng nam Jesus có 4 em trai và 3 em gái. Em
trai đầu của Chúa Jesus tên James làm giáo chủ
đạo Kitô tại Jerusalem vào giữa thế kỷ I.
Đức Mẹ có tới 8 người con làm sao còn
đồng trinh được? Vì vậy tín
điều Đức Mẹ Đồng Trinh là một
điều vừa phản tự nhiên vừa khôi hài quái
đản. Mọi vấn đề về
đức tin Kitô trở nên phức tạp và gây ra các
vụ tranh cãi, thậm chí gây ra chiến tranh đẩm máu
là do tham vọng của Đế Quốc La Mã. Đứng đầu bởi Hoàng Đế
Constantine The Great.
Sau hơn 300 năm, các hoàng
đế La Mã ra sức diệt đạo Kitô nhưng
đạo này vẫn bành trướng ra khắp đế
quốc. Điều nguy hiểm là những đoàn
quân Hung Nô (Mông Cổ) rất đông đảo và hùng
mạnh đang đe dọa tràn ngập toàn đế
quốc. Dân chúng đa số theo
đạo Kitô chẳng những không chịu đi lính cho
đế quốc La Mã mà còn sẵn sàng hợp tác với
địch. Do đó, năm 313, Constantine
ra lệnh bãi bỏ việc cấm đạo và chính
thức công nhận đạo Kitô là đạo của toàn
đế quốc. Ngày 20.5.325, Constantine ra lệnh triệu
tập hội nghị các giám mục họp tại Nicaea
(Thổ Nhĩ Kỳ) để thống nhất các giáo
phái Kitô bằng cách buộc mọi người phải
chấp nhận một bản tóm tắt các tín điều
được gọi là "Niềm Tin của các Tông
Đồ" (The Creed of Apostles), sau gọi tắt là Kinh
Tin Kính. Trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba
Ngôi và Đức Mẹ Đồng Trinh. Các Giám mục và tín đồ Kitô nguyên thủy
chống lại Công Đồng Nicaea
đều bị giết hoặc bị đưa đi
đày. Riêng giáo phái Arius bị giết
tới 3000 người. Năm 340,
đạo Kitô của Constantine được đổi tên thành Công Giáo
(Cattolica) nghĩa là Đạo Toàn Cầu (Universal Religion).
Nhờ quyết định cực kỳ khôn ngoan của
Constantine, đế quốc La Mã đã tạo lập
được những đoàn quân thập tự (Crusaders)
vừa đông đảo vừa cuồng tín để
bảo vệ đế quốc La Mã và có thể xử
dụng để chinh phục toàn cầu dưới
khẩu hiệu "IN HOC SIGNO VINCES" (Dưới
dấu hiệu thánh giá ta sẽ chiến thắng toàn
cầu!) Tự Điển Bách Khoa Công Giáo (The Catholic
Encyclopedia vol.4, p.300) đã viết rõ như sau: "Constantine
ưu đãi Kitô Giáo hoàn toàn vì lý do chính trị và ông ta đã
được xem như là một bạo chúa
được ơn soi sáng để xử dụng tôn
giáo vào mục tiêu thực hiện chính sách của mình".
(Constantine favored Christianity
merely from political motives and he has been regarded as an enlightened despot
who made use of religion only to advance his policy). Như vậy rõ
ràng một điều là các vua La Mã đã ra sức diệt
đạo Kitô nguyên thủy để lập ra đạo
Công Giáo. Đạo Công Giáo là Đạo
của đế quốc La Mã nên danh từ Công Giáo La Mã
thật là chính xác (Roman Catholic). Đạo Công Giáo
đã được lập nên trên nấm mồ của
Kitô Giáo nguyên thủy và hoàn toàn đi ngược lại
giáo lý đạo Kitô lúc ban đầu. Kitô giáo
nguyên thủy là Độc Thần Giáo đúng nghĩa vì
chỉ thờ Một Thiên Chúa. Công Giáo La
Mã thực sự là Đa Thần Giáo vì thờ cả Thiên
Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Maria và rất nhiều Thánh.
Đây là một nhận định hết
sức quan trọng về lịch sử, nếu không chú ý
đến những điều trình bày trên đây, ta sẽ
dễ dàng bị các sử gia Công Giáo lừa bịp.
Trong bài tựa cuốn Việt Nam Giáo Sử
(trang 20), Linh Mục Phan Phát Huồn viết: "Máu –
của các thánh tử đạo – đã nhuộm đỏ
đất nước Việt Nam
yêu quí làm cho đất phì nhiêu tốt tươi. Lấy võ
lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người
Công Giáo thì chẳng những Công Giáo không bị tiêu diệt
mà còn sinh sản đông đúc thêm...Các Hoàng đế La Mã
muốn tiêu diệt đạo Công Giáo thì ngày nay trên thủ
đô Roma phất phới trước gió cách oai hùng
quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền bính
của giáo hội".
Sử gia Công Giáo Linh Mục Phan Phát Huồn
đã cao hứng ca ngợi những người cuồng
tín tử đạo Việt Nam
quá trớn mà quên rằng các hoàng đế La Mã không thể
nào tiêu diệt đạo Công Giáo! Các hoàng
đế La Mã chỉ tiêu diệt đạo Kitô nguyên
thủy để lập đạo Công Giáo mà thôi. Từ năm 313 trở đi, các hoàng đế La
Mã chỉ lo củng cố chứ không bao giờ diệt
đạo Công Giáo cả. Xin đề nghị Linh
Mục sử gia Phan Phát Huồn hãy đọc kỹ
lịch sử trước khi viết sách sử, dù là giáo
sử thế giới hay giáo sử Việt Nam!
Về việc "máu tử đạo làm
cho đất phì nhiêu tốt tươi" và làm cho
"Công Giáo càng sinh sản đông đúc thêm" là do chính
sách diệt đạo của các vua chúa Việt Nam
thiếu cương quyết và do thực dân Pháp làm cho Công
Giáo phát triển mạnh chứ chẳng phải máu tử
đạo có sức mạnh thiêng liêng nào. Nếu các vua chúa
Việt Nam biết noi gương như người
Nhật đã làm vào năm 1638 thì liệu Công Giáo Việt
Nam có ngóc đầu lên nổi không? Nếu thực hiện
được một chính sách diệt đạo đúng
đắn và khoa học thì máu tử đạo có
"thiêng" đến mấy cũng không cứu
được sự tuyệt chủng nhục nhã của
đạo Công Giáo!
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam là
con đẻ của thực dân Pháp. Các cố
đạo thừa sai thường nói: "Nước Pháp
là trưởng nữ của Hội thánh và là Mẹ
của giáo hội Việt Nam".
(France, fille
ainée de L’Eglise et Mère du Vietnam).
Đám trí thức Công Giáo mất gốc làm
bộ yêu thương tổ quốc Việt Nam ra tờ
báo lấy tên là "Đất Mẹ", nhưng ai
cũng hiểu đó chẳng phải là đất Mẹ
Việt Nam mà là đất "mẹ Tây" và của
"bà ngoại Vatican".
Công Giáo La Mã không còn là Kitô giáo
đúng nghĩa vì nó đã trở thành đa thần giáo.
Việc thờ kính Đức Mẹ Maria và việc bịa
đặt các tín điều về Đức Mẹ hoàn
toàn do Công Giáo La Mã sáng tạo sau khi các hoàng đế La Mã
đã diệt gọn đạo Kitô nguyên thủy và xóa
bỏ hầu hết các dấu vết của đạo
này vào đầu thế kỷ thứ tư. Các
tín điều về Đức Mẹ đều không có
nền tảng thánh kinh, trái lại tất cả
đều trắng trợn đi ngược lại
với chính các sách kinh Tân Ước là nền tảng
của Kitô Giáo. Suốt 16 thế kỷ, Công Giáo La Mã
thống trị Âu Châu đã đưa lên dàn hỏa tới
10 triệu người, đa số là giới trí thức,
vì đã dám chỉ trích các tín điều vô lý ấy. Giáo
Hoàng Innocent III (1198-1216) sáng lập ra hệ thống tòa án tôn giáo (Inquisition) để xử tội
mọi người chống đạo, bị ghép vào
tội rối đạo (heretic) đều bị đưa
lên dàn hỏa thiêu sống. Trong lịch sử giáo hội
Công Giáo có rất nhiều giáo hoàng giết người,
nhưng Giáo Hoàng Innocent III vượt trên tất cả các
giáo hoàng sát nhân khác vì tòa án dị giáo hiện diện
khắp Âu Châu trên 500 năm và sau này được đoàn
quân xâm lược Tây Ban Nha đưa sang áp dụng tại
các quốc gia Trung Nam Mỹ thuộc địa của
họ.
Sách Babylon Mystery Religion của Hội Nghiên
Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow Evanlistic Association, P.O. Box 124
Riverside, CA 92502) trang 86 viết: "Một số giáo hoàng
can tội sát nhân nhưng Innocent III vượt trên mọi
giáo hoàng tiền nhiệm về tội giết
người... Trong hơn 500 năm, các giáo hoàng dùng tòa án tôn giáo để duy trì quyền lực
chống lại bất cứ ai tỏ ra không đồng ý
với các giáo điều của giáo hội La Mã" (A
number of the popes had committed murders, but Innocent III surpassed all of
his predecessors in killing... For over five hundred years, popes used the
Inquisition to maintain power against those who did not agree with the
teachings of the Roman Church). Cũng chính Innocent III
xúi giục vua Pháp xâm lược nước Anh vì tại
nước này đang có mầm mống chống giáo hoàng.
Điều này do sử gia Loyd M. Graham viết trong tác
phẩm Deceptions and Myths of the Bible như sau: Innocent III even
urged the king of France
to invade England
because something had happened there that threaten the divine right of
popes". Graham viết tiếp: "Đế quốc Công
Giáo luôn luôn là mục tiêu của giáo hội Công Giáo, một
đế quốc bao gồm toàn Âu Châu và Bắc Phi. Sự
kiện này khởi đầu từ Constantine" (Ever and
always a Catholic Empire was the objective of the Catholic Church, an empire
with all Europe and Northern Africa for its domain. It began under Constantine
- page 469). Nhân tiện cũng xin nói thêm về một
điều mỉa mai của lịch sử là giáo dân Ái
Nhĩ Lan đã mấy thế kỷ chống nước
Anh và Tin Lành để khôi phục lãnh thổ và cũng
để giữ vững lòng trung thành với Tòa Thánh La Mã. Họ đâu có ngờ kẻ bán đứng
nước họ cho Anh quốc chính là Giáo Hoàng Adrian IV.
Ngày nay các sử gia đã tìm được thư
của Giáo Hoàng Adrian IV viết cho vua Anh, Henry II như sau:
"Ái Nhĩ Lan và các đảo thuộc về nó nay đã
trở lại đạo, như vậy đã thuộc
về giáo hội La Mã. Nếu nhà vua muốn vào Ái Nhĩ Lan thiết lập luật pháp
để buộc mọi người tuân phục và
bắt mọi người đóng thuế cho Tòa Thánh thì ta
sẵn sàng chuyển nhượng nước đó cho nhà
vua" (Ireland
and all those Islands which have received the faith
belong to the Church of Rome. If you wish to enter that island to cause law to
be obeyed and Saint Peter Pence to be paid by every house, it will be pleased
to us to assign it to you – page 470).
Lịch sử thế giới đã có
đầy đủ mọi tài liệu chứng tích
thống kê tội ác giết người thật khủng
khiếp của giáo hội La Mã do Constantine lập ra từ
thế kỷ thứ tư. Trong 16 thế kỷ, số
người bị giết dưới bàn tay của
những người nhân danh Chúa như sau: 3 triệu tín
đồ Hồi Giáo, 10 triệu tín đồ Công Giáo
bị giết do tòa án tôn giáo, 14 triệu tín đồ Kitô
ngoài Công Giáo (Tin Lành, Chính Thống, Anh Giáo v.v...) 30 triệu
chết trong các cuộc chiến tranh giữa các vua chúa Công
Giáo Âu Châu tranh chấp quyền lợi với nhau hoặc
với giáo hoàng (page 463).
Điều đáng đau buồn là các
cuộc tranh chấp đẫm máu trên phần lớn là do
sự bất đồng với nhau giữa các giáo phái Kitô
về các tín điều có liên quan đến Đức
Mẹ Maria. Đức Mẹ là hiện thân của tình
mẫu tử đã bị giáo hội Công Giáo biến thành
một nguyên nhân của biết bao vụ thảm sát
đẫm máu giữa những người anh em cùng
thờ một Chúa và cùng yêu một Mẹ. Thật không có gì
đau xót và vô lý cho bằng!
NGUỒN GỐC VỀ THẦN THOẠI
ĐỨC MẸ ĐỒNG TRINH
Một trong những điều dị
biệt nhất giữa Công Giáo và Tin Lành là vấn
đề đồng trinh của Đức Mẹ. Sách
Babylon Mystery Religion dành ra 2 chương để nói về
điều này p. 7-22), tôi xin tóm lược như sau:
Việc tôn thờ ảnh
tượng Mẹ Bồng Con xuất phát từ
Babylon cách
đây 6000 năm. Dân Babylon đã có
huyền thoại Chúa Cứu Thế (Kitô/Messiah/Savior) từ
thời đó. Chúa Cứu Thế của
họ là Tammuz và mẹ là nữ thần Semiramis. Cho
đến nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy
nhiều tượng Mẹ bồng con ở Babylon
(phía Iraq)
cũng như tại Ai Cập. Hiện ở Ai Cập còn
tồn tại nhiều đền thờ cổ với
tượng Mẹ bồng con. Đó là tượng
thần nhi đồng Horus ngồi trên
đùi của mẹ là nữ thần Isis.
Người Ai Cập đã nhập cảng tục lệ
này từ Babylon và họ
sáng tác ra thần thoại về tượng mẹ
bồng con như sau: Bà Isis thụ thai do
phép của Thần Mặt Trời (Sun God) sinh ra một
người con thần thánh (a divine son) đặt tên là
Horus. Lúc Horus còn là hài nhi, bị thần
Bão Tố Typhoon rượt bắt nên bà Isis
phải mang con chạy trốn và bị thất lạc con
mình. Về sau bà gặp lại đứa con mới
biết chính con mình là Thần Mặt Trời!
Vào thế kỷ đầu Công Nguyên, các tu
sĩ lập đạo Kitô đã ăn cắp thần
thoại Ai Cập này để phóng tác ra chuyện Bà Maria
thụ thai do phép Đức Chúa Thánh Thần sinh ra con trai
của Thiên Chúa (Son of God) được ít ngày thì bị vua
Herod rượt đuổi nên phải chạy trốn sang
Ai Cập. Đến khi Jesus lên 12 tuổi thì bị lạc
tại Đền Thánh. Nhưng bà Maria vẫn tin
tưởng con mình là Đức Chúa Trời và đồng
thời cũng là chồng của mình, còn ông Joseph chỉ là
chồng hờ để che mặt thế gian. Các tu sĩ
lập đạo Kitô cũng như tu sĩ Ai Cập
đều là những kẻ bệnh hoạn mang mặc
cảm loạn luân với mẹ như chuyệp Odipus
của Hy Lạp loạn luân với mẹ là Jocasta. Kinh
Thánh Tân Ước của Luca viết: "Thiên Thần nói
với bà Maria là Chúa Thánh Thần sẽ đến cùng
Người và Thiên Chúa Tối Cao sẽ "phủ"
người, cho nên vật thánh thiện sẽ
được sinh ra bởi Người được
gọi là Thiên Chúa". (And the Angel answered and said to her: The
Holy Spirit shall come upon thee and the power of the Highest shall overshadow
thee, therefore also that holy thing which shall be born of thee shall be
called the Son of God – Luke I:35).
Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng thực ra là một
ngôi, Jesus cũng chính là Đức Chúa Thánh Thần. Nếu
Đức Chúa Thánh Thần "phủ" bà Maria thì
cũng chính là Jesus đã "phủ" mẹ mình
chẳng khác gì chuyện thần thoại Ai Cập: Bà Isis
được thần Mặt Trời "phủ" sinh
ra Horus và chính Horus là Thần Mặt Trời! Xin
đọc thêm Deceptions and Myths of The Bible, p. 377).
Những tín đồ Kitô Giáo
nguyên thủy không để ý đến chuyện loạn
luân nói trên vì họ không tin bà Maria đồng trinh.
Kinh thánh Tân Ước kể rõ
tên 4 em trai của Jesus là James, Joses, Simon và Judas (không phải
Judas Escariot) và 3 cô em gái nhưng không nêu tên (Matt 13:55-56). Kinh Thánh cũng ghi rõ Jesus là con
trưởng của bà Maria chứ không phải con duy
nhất (first born son – Matt 1:25).
Kẻ duy nhất viết Tân Ước đã xuyên tạc
nữ tính của bà Maria thành "đồng trinh" là ông
Matthew [ Matthew là tên tác giả viết
cuốn Tân Ước, vì vậy người ta đặt
tên cuốn kinh nầy là Matthew.]
và y đã trích dẫn kinh
Cựu Ước nói tiên tri: "Chúa Cứu Thế sẽ
được sinh ra bởi người mẹ
Đồng Trinh". Sự gian trá của
Matthew đã bị các học giả nghiên cứu thánh kinh
vạch mặt. Các học giả đã tìm khắp
Thánh Kinh Cựu Ước không hề có một chữ
"Đồng Trinh" nào cả vì dân tộc Do Thái
từ xưa đến nay không có ý niệm này. Họ
chỉ phân biệt người đàn bà có chồng (married)
và chưa chồng (unwed) mà thôi. Chỉ có một câu duy
nhất của tiên tri Isaiah nói rằng: "Chúa Cứu
Thế sẽ được sinh ra bởi một
người mẹ trẻ". Nguyên văn tiếng Hebrew
là ALMAH nghĩa là trẻ (young) chứ không phải là
đồng trinh (virgin)!
Sau khi tiêu diệt đạo Kitô nguyên
thủy, các tu sĩ ở Vatican triệu tập công
đồng Ephesus năm 431 để thiết lập giáo
lý về Đức Mẹ. Tại Ephesus có đền
thờ nữ thần Diana của La Mã vốn
được mệnh danh là nữ thần Đồng
Trinh (Goddess of Virginity). Tại cuộc họp này, các lãnh
đạo giáo hội chủ trương biến
Đức Mẹ Maria thành nữ thần Diana đồng
trinh, mục đích là để thu hút
các tín đồ của Đa Thần Giáo La Mã. (Babylon Mystery Religion – p.11).
Tín điều Đức
Mẹ Chúa Trời (Master Dei/Mother of God). Danh
hiệu "Đức Mẹ Chúa Trời" bắt
nguồn từ Babylon. Dân Babylon tôn thờ thần Nimrod và tin
rằng chính Nimrod là đức Chúa Trời (Baal) và mẹ
của Nimrod được tuyên xưng là "mẹ Chúa
Trời", tiếng Babylon là "Mea Domina". Theo sử
gia Ý Hislop thì danh hiệu này được chuyển sang
tiếng Ý là "Madonna". Các lãnh đạo giáo hội
Công Giáo đồng hóa La Mã không ngoài mục đích thu hút tín đồ đông đảo vì
họ đễ dàng cải đạo sang niềm tin
tương tự. Hơn nữa, mục tiêu
của chúng là biến Jesus thành Thiên Chúa cho nên một khi
đọc kinh, tuyên xưng bà Maria là Mẹ Chúa Trời,
đương nhiên tín đồ sẽ tự kỷ ám
thị để tin rằng Jesus là Thiên Chúa.
Danh hiệu Đức Mẹ
Mân Côi. Tháng năm là tháng hoa hồng, còn
được gọi là tháng Mân Côi dâng hoa kính Đức
Mẹ. Chuổi hạt dùng để đếm số
lần đọc kinh Kính Mừng được gọi là
Chuỗi hạt Mân Côi. Đức Mẹ Mân
Côi là Đức Mẹ chuyên việc lắng nghe những
lời cầu kinh được nhắc đi nhắc
lại nhiều lần. Việc lần
hạt Mân Côi dựa trên giáo lý Công Giáo cho rằng
Đức Mẹ là trung gian (Mediator) giữa Thiên Chúa và loài
người. Thiên Chúa được mô tả là
một vị thần khó tính, dễ nỗi giận,
rất hung dữ và hình phạt của Ngài rất khủng
khiếp. Các tu sĩ lập đạo cố
tạo ra một Thiên Chúa ghê gớm buộc mọi
người phải sợ. Tín
đồ đồng nghĩa với "kẻ biết
kính sợ Chúa" (God fearer). Tín
đồ muốn được ơn cứu chuộc và
được bênh vực cần phải chạy
đến cầu cứu các tu sĩ.
Bên cạnh Thiên Chúa hung dữ, các tu sĩ
lập đạo tạo ra một bà mẹ nhân từ
biết lắng nghe và sẵn sàng làm trung gian can thiệp
để Thiên Chúa bớt giận và chấp thuận ban cho
kẻ cầu nguyện những ơn này ơn nọ. Các tu sĩ lãnh đạo Công Giáo đã chọn
Mẹ Maria làm đấng trung gian thần thánh đó.
Linh Mục Greeley, Giáo sư Đại học Dublin
mới đây tuyên bố: "Bởi sống trong một
thế giới bị đòi hỏi phải sợ Chúa, nhân
loại cần phải có ai đó giúp đỡ chúng ta
chống lại sự sợ hãi" (Because in a world asked to
be God-fearing, humankind requires someone to help us fight the fear).
Đức Mẹ trở thành một trung gian đắc
lực của Vatican:
Trong thời chiến, Vatican biến
Đức Mẹ thành vị tướng quân sự thúc quân
ra trận. Trong những đoàn thập
tự quân thường có những lá cờ về hình
Đức Mẹ với dòng chữ "Hãy tiến lên,
những người lính của Chúa Kitô" (onward Christian
soldiers!). Trong thời bình, Đức Mẹ biến
thành Nữ Vương Hòa Bình (Regina Pacis), các tu sĩ
vẫn hốt bạc bằng những thùng tiền
đặt bên cạnh các tượng ảnh của
"Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp", bằng
"Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ" với những
bản liệt kê in sẵn chỉ cần đánh dấu
(X) vào những ô vuông bên cạnh: Xin được khỏi
bệnh, xin được khỏe mạnh, xin
được thành công trong việc làm ăn, xin cho tìm
thấy người yêu lý tưởng... gửi về
"Đền Thánh" bằng "Bussiness Reply Mail"
[Thư hồi báo. Tem sẽ được
trả bởi ngươi nhận.] với ghi chú "Postage
will be paid by addressee", tất nhiên trong thư phải kèm
theo chi phiếu vô hạn định!
Tuy được tuyên xưng là Đấng
Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, trong thực
tế, Đức Mẹ đã trở thành một món hàng
hấp dẫn hốt bạc cho các dòng tu và cha cố. Giáo
lý dạy Đức Mẹ là Đấng Trung Gian hoàn toàn
đi ngược với Thánh Kinh vì Thánh kinh đã xác
định chỉ có một mình Chúa Jesus là trung gian duy
nhất giữa Thiên Chúa và con người. (There is one
mediator between God and men, the man Christ Jesus – I Thimothy 2:5). Giáo Hội Công Giáo khuyến khích giáo dân lần
chuỗi Mân Côi và được giáo dân ngoan ngoãn
hưởng ứng. Người ta tính
ra có tới 46.296 lời kinh Kính Mừng được
đọc trong một giây. Đến
Thiên Chúa cũng không nghe kịp chứ đừng nói
tới Đức Mẹ. (Babylon Mystery Religion P.18). Việc lần hạt cầu kinh là một thói
quen trong tôn giáo của Ai Cập từ nhiều ngàn năm
trước Công Nguyên. Người Do Thái cũng
bắt chước làm theo. Trong thời gian giảng đạo tại
Jerusalem, Chúa
Jesus đã công khai ngăn cấm việc đọc kinh
nhắc lại bằng cách lần hạt. Ngài nói:
"Khi cầu nguyện, anh em đừng nhắc đi nhắc
lại vô ích như những người ngoại giáo vì
họ tưởng rằng lời cầu nguyện của
họ sẽ được lắng nghe chỉ vì nói
nhiều. (When ye pray, use not vain repetitions as the heathen do: for
they think that they shall be heard do: for they think that they shall be heard
for their much speaking – Matthew 6:7). Những kẻ
cầu nguyện Chúa qua trung gian Đức Mẹ bằng
những chuỗi hạt Mân Côi chỉ có thể làm cho Chúa
nổi giận. Chúa không thể chấp nhận các
lời cầu nguyện được vì chính họ đã
làm những điều Chúa ngăn cấm!
Tín điều Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội. (The dogma of Immaculate
Conception). Tín điều này bắt đầu từ
chuyện Vườn Địa Đàng (Garden of Eden) do các
tu sĩ lập đạo Do Thái viết Cựu Ước
sao chép từ chuyện thần thoại Babylon
là chuyện "Gan Eden", tiếng Babylon
có nghĩa là "Khu Vườn Phương Đông".
Babylon là xứ sở văn minh nhất ở vùng
Cận Đông từ 5500 năm trước Công Nguyên.
Đến thế kỷ 4 trước Công Nguyên, do sự
đổi dòng bất ngờ của con sông Euphrate gây
trận lụt lớn chưa từng thấy, chôn vùi toàn
vùng Babylon xuống
dưới những lớp cát sa
mạc. Từ đó, loài người ít ai
biết tới Babylon và kho thần thoại của nó. Mãi đến giữa thế kỷ 19, các nhà
khảo cổ mới tìm thấy Babylon (cách
thủ đô Baghdad cuả Iraq 80 dặm về phía Nam
đến biên giới Kuweit ngày nay). Sau hơn một
thế kỷ đào xới, các nhà khảo cổ đã tìm
thấy hàng trăm ngàn tấm đất sét nung khô với
chữ viết giống như những cái nêm cối
(cuneiform) và người ta đã đọc được
những chuyện thần thoại giống như
những chuyện kể trong kinh Thánh Cựu Ước Do
Thái với những tên nhân vật hao hao giống nhau.
Những chuyện thần thoại của Babylon
đã lan tràn ra khắp các vùng Cận
Đông. Đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên,
Alexander The Great (A-lịch-sơn Đại đế)
chiếm Cận Đông thì ngôn ngữ Hy Lạp trở thành
ngôn ngữ chính của vùng này. Các chuyện thần
thoại đó được dịch sang Hy Lạp và
truyền sang Âu Châu. Có nhiều danh từ của Babylon
trở thành căn ngữ trong nhiều ngôn ngữ ở Âu
Châu, nhưng vì Công Giáo La Mã tiêu diệt Kitô Giáo nguyên
thủy, tiêu diệt luôn văn hóa Hy Lạp và các dấu
vết thật về Chúa Jesus trong thế kỷ 4 nên sau này
người ta đã không biết nguồn gốc của
các chuyện kể trong Thánh Kinh Cựu Ước cũng
như Tân Ước. Các công trình lớn lao của ngành khảo
cổ đã là chiếc chìa khóa vạn năng mở toang
cánh cửa bí mật của quá khứ đen tối do Công
Giáo La Mã đã tạo ra để che dấu sự lừa
dối. Trước đây, ai cũng tưởng nhân
vật Abraham là có thật trong lịch sử lập
quốc Do Thái, nhưng nhờ khoa khảo cổ,
người ta mới biết Abraham chỉ là nhân vật
thần thoại của Babylon.
THẦN THOẠI JESUS CHÚA CỨU THẾ
Thần thoại Babylon kể rằng:
Thần Đất Terah sinh ra một "vị thần
con" tại thành phố UR (có nghĩa là Ánh Sáng) tên là
Abarama (a god) và thần Abarama lấy em gái mình là Sarai làm
vợ.
Các tu sĩ lập đạo Do Thái vớ
lấy chuyện này để viết Cựu Ước
Sáng Thế Ký (Genesis) phịa chuyện lập quốc Do
Thái: Cha của Abraham (hoặc Abrama), là Terah vốn sinh
sống tại thành phố UR.
Sau này Abraham lớn lên đã lấy em gái mình là Sarah làm
vợ và được các tộc trưởng Do Thái
tại Babylon bầu làm lãnh tụ dẫn dân Do Thái rời
Babylon về vùng đất hứa là Canaan [Nước
Palestine bây giờ.] để lập quốc. Chuyện
thần Đất Terah truyền tới Âu Châu vào thế
kỷ 3 trước Công Nguyên và trở thành căn ngữ của
tiếng La Tinh "Terra" và tiếng Pháp "Terre"
nghĩa là Đất.
Thần thoại Kitô cũng
xuất phát từ Babylon từ nhiều ngàn năm trước khi có
đạo Do Thái. Ta có thể tìm thấy dấu
vết của thần thoại này ngay trong sách Sáng Thế
Ký (Genesis) của Cựu Ước.
Sách Sáng Thế Ký kể rằng: "
Những đoàn người du mục đến
định cư tại Shinar
và lập nên thành phố Babylon
(có nghĩa là Cổng Trời: Gate of God). Babylon về
sau trở thành đế quốc (Gen 11:2). Tại
đây có hai con sông lớn là Euphrate và Tigris.
Vùng đồng bằng của hai sông này rất phì nhiêu
nhưng có rất nhiều thú dữ ăn
thịt người (Exodus 23:29-30).
Một người thợ săn rất hùng mạnh tên là
Nimrod (the mighty hunter before God – Gen 10:8-9) diệt thú dữ
cứu dân. Về sau lên làm vua cai trị
rất anh minh. Vương quốc của Người
gồm có Erech, Accad và Calneh (Gen 10:10). Khi Nimrod
chết, dân Babylon vì quá yêu thương đã khóc lóc thảm
thiết. Bà vợ của Nimrod là Semeramis chặt xác
Nimrod thành những miếng nhỏ đem nướng chín
gửi đi khắp nơi cho dân chúng ăn
cho bớt đau khổ (Judges 19:29,
Sam 11:17). Bà Semeramis lúc đó
đang mang thai đã hứa với dân
chúng rằng bà sẽ sinh một con trai đặt tên là
Tamuz. Con trai này sẽ là Chúa Cứu Thế và là Nimrod tái sinh.
Từ đó, Tamuz được dân chúng mong
mỏi ra đời cứu thế. Đó
là ý niệm đầu tiên về Chúa Cứu Thế (Savior)
mà người Do Thái dịch ra là Messiah. Đến
thế kỷ 3 trước Công Nguyên, do đế quốc
Hy Lạp chiếm toàn Cận Đông và Âu Châu nên thần
thoại Babylon về Chúa Cứu Thế được
dịch sang tiếng Hy Lạp là CHRISTOS (Savior) người
Hán phiên âm là Cơ Đốc. Babylon nằm giữa hai dòng
sông Euphrate và Tigris được người Hy Lạp
đặt tên là Meso-Potamia (Meso: Middle, Potamia: Rivers). Người Hán dịch thành Lưỡng Hà Châu.
Từ huyền thoại Chúa Cứu Thế
Nimrod và Talmuz, người Babylon lập ra đạo
thờ Thiên Chúa mà họ gọi là BAAL hoặc BAL vì họ
tin rằng Nimrod chính là Bal. Cũng tương tự như
người Công Giáo thờ Jesus vì tin rằng Jesus là Chúa Kitô
và Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa, cũng chính là Thiên Chúa Toàn Năng!
Đạo thờ Thiên Chúa BAL thường
bắt con nít hoặc các thiếu nữ làm vật hy sinh
tế thần. Tượng thần rất lớn, cao
cỡ 10 mét, hai bàn tay thần to bằng
hai cái chảo lớn được đun nóng từ cái lò
trong tượng thần. Các tu sĩ tế thần
(được gọi là CAHNA) ném các nạn nhân trần
truồng vào hai bàn tay của thần.
Trong lúc đó các tu sĩ nhảy múa, đánh trống và phèng
la inh ỏi để khỏa lấp
tiếng thét ghê hồn của các nạn nhân đang bị
nướng sống và tiếng khóc thảm thiết
của thân nhân các nạn nhân. Từ đó phát sinh ra danh
từ CAHNA-BAL (Priest of Bal) có nghĩa là "Những kẻ
ăn thịt đồng loại" vì sau khi tế thần,
các tu sĩ đạo thờ thần Bal chặt nhỏ xác
các nạn nhân lúc đó đã chín để chia nhau ăn.
Tục lệ dã man này của
Babylon
du nhập vào đạo Công Giáo La Mã thành "Phép Mình Thánh
Chúa" mà ta thấy trong các lễ Mi-sa ở nhà thờ
hiện nay. Giáo dân lên rước lễ tưởng
tượng được ăn
thịt uống máu thật của Jesus. Họ đã
trở thành một lũ mọi ăn thịt người
mà Tây Phương gọi là CANNIBAL (Anh Ngữ) hoặc
CANNIBALE (Pháp Ngữ) là danh từ có xuất xứ từ
CAHNA-BAL của Babylon mà ra.
Việt Nam
là một dân tộc có tinh thần nhân bản, ai cũng
phải rùng mình ghê sợ khi nghe chuyện tế thần
bằng người sống như đạo thờ
thần Bal của Babylon.
Chúng ta chưa từng nghe thấy những chuyện dã man
tương tự trong lịch sử dân tộc. Tổ tiên
chúng ta chỉ cúng Trời bằng bông hoa, trái cây hoặc
bánh chưng bánh dầy được
làm ra từ các sản phẩm nông nghiệp.
Cách thờ cúng của dân tộc ta và cách
thờ cúng của Babylon (hoặc
Công Giáo) phản ảnh hai nền văn hóa khác hẳn nhau.
Một bên là nền văn hóa nông nghiệp nhân bản, còn
bên kia là nền văn hóa du mục phi
nhân bản.
Người Việt Nam
từ bỏ đạo của ông bà tổ tiên đi theo đạo Công Giáo là đã từ bỏ
cái nguồn gốc nhân bản của mình để trở
thành kẻ mọi ăn thịt người (cannibal)
của nền văn hóa du mục phi nhân bản. Họ
cứ tưởng đi theo đạo
của Tây Phương là đã trở thành kẻ văn
minh, rồi lên mặt khinh rẻ dân tộc và nền
văn hóa nhân bản của tổ tiên. Họ đâu có
ngờ họ đã trở thành những kẻ mọi
rợ ăn thịt người, dù
chỉ là tưởng tượng. Từ tâm linh văn minh
biến thành tâm linh bán khai mọi rợ mà vẫn không
biết mình đã biến thành bán khai mọi rợ từ
lúc nào và do đâu!
Cũng từ cái thần thoại Chúa Cứu
Thế Nimrod mới phát sinh danh từ MESSIAH của Do Thái có
nghĩa là Chúa Cứu Thế (Savior) ngụ ý "Vua Nimrod
mới hoặc "vua David mới" (Messiah means a new King
David). Người Do Thái định nghĩa
MESSIAH (tiếng hy Lạp là Christos – Anh Pháp Christ) phải là
"đấng giải thoát mọi kẻ bị áp
bức" (to let the oppressed go free – Isaiah 58:6). Họ không tin Jesus là Messiah/Christ vì Jesus chẳng
cứu được ai.
Người Công Giáo đã
lầm lẫn đồng hóa Jesus với Kitô. Jesus là
người thật, sinh khoảng năm thứ 4
trước Công Nguyên, bị đóng đinh năm 29 lúc 33
tuổi, cao 1m82 và cân nặng 79 kí. Kitô là
huyền thoại xuất phát từ Babylon và
được nhập cảng từ đạo Do Thái.
Các tu sĩ lưu manh lập đạo Kitô
đã viết Tân Ước bằng cách dẫn chứng
bậy bạ những điều nói trong Cựu
Ước liên quan đến Messiah để biến Jesus
thành Kitô. Sự việc Jesus được Kitô hóa
(Jesus was Christed) đã được các nhà khoa học, các
học giả và nhất là các nhà khảo cổ vạch
mặt. Kẻ viết Tân Ước cố ý gán ghép mọi
dẫn chứng giả tạo để người
đọc nghĩ rằng Jesus thuộc dòng dõi vua David vì
người Do Thái định nghĩa Messiah (Kitô) là vua David
Mới sẽ được sinh ra để cứu dân
tộc Do Thái. Về sau, các tu sĩ đạo Kitô đã
biến ý nghĩa Messiah lúc ban đầu chỉ có nghĩa
là anh hùng dân tộc (Savior of the People) trở thành
Đấng Cứu Chuộc toàn thể loài người (The
Redeemer). Nền văn hóa du mục phi nhân
bản Babylon là linh hồn của đạo Công Giáo đã làm
cho người Công Giáo Việt Nam
mất hết dân tộc tính. Nước rửa
tội là một thứ a-xít đã hủy diệt cái ánh hào
quang dân tộc trên đầu của mọi người
Công Giáo Việt Nam!
Vào năm 40, hai bà Trưng đã cứu dân
tộc ta chống quân xâm lược phương Bắc
để dành độc lập cho tổ quốc. Hai Bà Trưng là hai Chúa Cứu Thế của dân
tộc ta. Hai Bà Trưng xấp xỉ bằng tuổi
Jesus, là những vị anh hùng đích thực của dân
tộc thì người Công Giáo Việt Nam
lại coi thường và khinh rẻ. Trái lại, cũng
vào thời điểm của Jesus thì dân tộc ta bị
Tàu đô hộ, một phần vì Jesus thất học
chẳng biết nước Giao Chỉ nằm ở
nơi nào trên thế giới, phần khác Jesus còn mãi đi
giảng đạo ở Jerusalem, đâu có giúp ích gì cho
đất nước Việt Nam? Và giả
sử có muốn cứu Việt Nam
cũng chẳng cứu nỗi vì chính Jesus cũng không
cứu nỗi bản thân và dân tộc Do Thái. Vậy hà cớ gì mà Công Giáo Việt Nam
phải tôn thờ Jesus làm Chúa Cứu Thế của mình?
Sự ngu dốt chứ không phải
Đức tin đã là nguyên nhân chính yếu dẫn
đến cái chết của những người tử
đạo Việt Nam.
Vinh danh tử đạo Việt Nam
là vinh danh sự ngu dốt và tôn vinh tinh
thần phản dân tộc. Người Công Giáo Việt nam
hãy tỉnh ngộ để sớm rũ
bỏ cái độc chất văn hóa Babylon
trong người ngõ hầu sớm biết từ bỏ
kiếp sống con chiên (con lừa) để làm
người đứng thẳng (homo-erectus) trước
khi trở lại làm người Việt Nam.
Tổ quốc Việt Nam
có những người công dân đích thực Việt Nam
anh hùng bất khuất dám hiên ngang tiêu diệt mọi
kẻ thù xâm lược, bảo tồn lãnh thổ và danh
dự làm người với truyền thống văn hóa
cao không kém gì ai trên trái đất này.
Không phải đến bây giờ
người ta mới nhận ra cái độc hại
của nền văn hóa du mục Babylon, mà ngay trong sách
Mặc Khải (Tân Ước của Gioan) cũng đã
nguyền rủa cái nền văn hóa này "Huyền
thoại, Babylon vĩ đại, là mẹ của các con
điếm và các chuyện kinh khủng trên trái đất
này". (Mystery, Babylon the
great, the mother of harlots and abdominations of the earth – Rev. 17:1-6). Sách Mặc Khải Tân Ước muốn ám
chỉ "mẹ của các con điếm" đó là ai;
nếu không phải là cái giáo hội thối nát hư
hỏng được xây dựng trên những huyền
thoại của Babylon?
HUYỀN THOẠI VƯỜN ĐỊA
ĐÀNG
Lịch sử nhân loại
đã nhận ra cái hậu quả ghê gớm của
huyền thoại "Gan Eden" kể chuyện Adam và Eva
phạm tội. Chỉ vì dám ăn
trái táo trị giá mấy chục cents (xu) mà cả loài
người phải chết, đàn ông phải vất
vả cực khổ mới kiếm được
miếng ăn và đàn bà phải mang nặng đẻ
đau mới sinh được đứa con của mình!
Cái lỗi nhẹ đó của Adam đã đưa
đến hậu quả là Con một của Thiên Chúa
phải mất công xuống thế gian đầu thai làm
người, phải chịu đánh đòn nhục nhã và
chết trần truồng trên thập giá chỉ để
"Chuộc tội tổ tông"? Nhưng cái chết
thảm của Jesus cũng hóa thành vô ích vì tất cả cái
hậu quả của tội tổ tông trên số phận
của loài người vẫn còn nguyên vẹn: Con người
vẫn phải chết, đàn ông vẫn phải vất
vả kiếm ăn và đàn bà vẫn
mang nặng đẻ đau như lúc Jesus chưa
"cứu chuộc". Thật là xảo
trá bịp bợm, Jesus chẳng cứu được ai,
vậy tại sao lại cứ tôn vinh y là "Chúa Cứu
Thế"? Khoa học khảo cổ
đã chứng minh chuyện Vườn Địa Đàng
chỉ là chuyện thần thoại bịa đặt,
vậy làm gì có tội tổ tông thật đâu mà phải
cứu chuộc? Ngay cả trường hợp
chuyện Vườn Địa Đàng là thật chăng
nữa thì hành vi của Adam cũng không
phải là tội. Triết gia Baruch Spinoza (1632-1677) bậc
thầy tư tưởng Tây Phương được
xếp ngang hàng với Lão Tử của Đông
Phương đã viết: "Ý muốn hay quyết
định của Adam chẳng phải là xấu và cũng
chẳng chống lại ý muốn của Chúa vì Chúa là nguyên
nhân của điều đó... Chúa muốn
kẻ ác hối hận tại sao Ngài cấm Adam ăn trái
táo khi Ngài Phú cho ông ta ý muốn trái ngược?"
(Adam’s will or decision was neither evil, properly speaking,
contrary to God’s will, it follows that God can be its cause... God
wants the wicked to repent, why did he forbid Adam to eat of the tree when he
ordained the opposite – The Enlighten Minds by Stephen, p.142-143).
Một phần lớn cái trách nhiệm
về tội ác của Kitô Giáo nói chung,
của giáo hội Công Giáo nói riêng, có thể qui vào cho
St.
Augustine. Y là cha đẻ ra thuyết
Thiên Chúa Ba Ngôi với tác phẩm "De Trinitate", Cha
đẻ ra thuyết "Tội Tổ Tông" và
thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội". Y xác lập thuyết thần
quyền cho giáo hội để buộc mọi chính
phủ thế quyền phải thần phục giáo hội
bằng tác phẩm "De Civitas Dei". Augustine
sinh tại Algeria năm 354 (chết năm 430, 76 tuổi). Y
được coi là người sáng lập đạo Kitô
đứng hàng thứ hai sau Saint Paul
(Phao lồ) và là tác giả của toàn bộ hệ
thống tư tưởng Tây Phương thời Trung
Cổ. Năm 396, y làm giám mục địa phận Hippo
tại Algeria.
[Trong suốt 6 thế kỷ đầu Công Nguyên, toàn vùng
Bắc Phi, Cận Đông và Âu Châu đều là các
nước theo Kitô Giáo. Sự xuất hiện và bành
trướng mau chóng của Hồi Giáo thời Trung Cổ
đã biến toàn Bắc Phi, Cận Đông và Nam Âu Châu kéo
tới Ấn Độ trở thành các nước Hồi
Giáo. Sự kiện này đã chặn
đứng âm mưu xâm lược toàn cầu bằng chiêu
bài Công Giáo của Đế quốc La Mã.]
Augustine say mê nghiên cứu
và viết sách suốt trong 34 năm. Công trình của Augustine
thật khá vĩ đại, chỉ
tiếc cái vĩ đại đó là ông ta đã xây dựng
cả một tòa lâu đài đồ sộ trên nền
tảng thần thoại Vườn Địa Đàng
của Babylon!
Augustine giải thích mọi đau khổ
của loài người đều do tội lỗi nguyên
thủy của Adam-Eva, gọi là tội tổ tông (the Origin
Sin). Tội này di truyền cho con cháu muôn đời do
sự giao cấu của cha mẹ. Giao
cấu là tội lỗi. (God had condemned humanity to an
eternal damnation simply because of Adam’s sin. The inherited guilt was passed
on to all his descendants through the sexual act which was polluted by what is
called concupiscence). Dựa vào lý luận này,
Augustine viết thêm cuốn On Female Dress nhục mạ
phụ nữ và tạo ra hệ thống nam tu sĩ
của giáo hội Công Giáo và việc phụ nữ bị
từ chối phong chức linh mục.
Augustin gọi mỗi phụ
nữ là một Eva, đồng lõa với ma quỉ, xúi
giục đàn ông chống lại Thiên Chúa. Vì tội lỗi xấu xa của phụ nữ mà
Con Thiên Chúa phải chết. Đàn bà là kẻ đào ngũ khỏi luật của Chúa. Đàn bà
phá hoại đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa... (You are
each an Eve. You are the devil’s gateway. You are the unsealer of that
forbidden tree. You are the first deserter of the divine law. You so carelessly
destroyed man, God’s image. On account of your desertion, even the Son of God
had to die). Tuy nhiên, chỉ có một phụ
nữ duy nhất trên thế gian không bị Augustine
nguyền rủa là Đức Mẹ Maria. Augustine lý
luận: Đức Mẹ không giao cấu với Joseph. Đức Mẹ sinh ra Chúa Jesus vẫn còn
đồng trinh nên Mẹ là đấng Vô Nhiễm Nguyên
tội (The Immaculate Conception).
Những lý luận trên của Augustine
thống trị linh hồn Âu Châu suốt trong hơn 1000
năm! Mãi đến giữa thế kỷ
16, bỗng nhiên xảy ra một cuộc bút chiến
giữa hai phe thần học Công Giáo. Phe cấp
tiến cho rằng Chúa Jesus cũng mắc tội tổ
tông vì bà Maria sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ,
Jesus chỉ được miễn 50% vì cha là Đức
Chúa Tinh Thần. Cuộc bút chiến kéo dài lai rai trong 30
năm và bị tòa án Dị Giáo đàn áp dữ dội nên
không thể bùng lên được. Biết bao sinh mạng
đã phải lên dàn hỏa vì cái chuyện lẩm cẩm
này! Đó là cái gọi là "nền văn
minh Kitô Giáo" (The Christian civilization).
Đến giữa thế kỷ 19, khi
nền dân chủ Tây Phương đã khá lớn mạnh
và uy quyền của Vatican đã bị giảm sút, cuộc
bút chiến về cái trinh của Đức Mẹ lại
bùng lên. Giáo Hoàng Piô IX dùng mọi biện pháp
dập tắt cuộc bút chiến. Đến
năm 1854, y công bố tín điều "Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội". Để cho giáo
dân thêm tin tưởng vào tín điều này, giáo hoàng âm
mưu với giáo hội Pháp phịa ra vụ Đức
Mẹ hiện ra ở hang núi hẻo lánh Massabielle thuộc
tỉnh Lourdes (Tây Nam nước Pháp). Đức Mẹ tiếp
xúc với một cô gái quê tên Bernadette và Mẹ tự
xưng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội (I am The
Immaculate Conception). Nhiều giáo dân tiến
bộ không tin phép lạ ở Lourdes (Lộ
Đức) và đặt vấn đề về thẩm
quyền tuyên bố tín điều của giáo hoàng. Do
đó, giáo hoàng Pio IX phải triệu tập Công
Đồng Vatican
I vào năm 1869. Kết quả Công Đồng
I chấp thuận tín điều "Giáo Hoàng Bất
Khả Ngộ" [Không thể sai lầm.]
(The dogma of Papal Infallibility).
Nhờ có tín điều này, năm 1950, Giáo Hoàng Pio XII công
bố thêm một điều nữa về Đức
Mẹ. Đó là Tín điều "Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời" còn gọi là "Đức
Mẹ Mông Triệu (The Assumption).
Tổng giáo phận Sài Gòn sáng tác một bài
kinh để mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời (Nhựt khóa trang 499) nghe rất cải lương
như sau: "Thung thăng chân bước thang mây, tay
chắp mặt vui áo tỏa. Hớn hở gót nương
cung nguyệt. Khí thanh gió mát trời quang.
Xuân Thu bà đã quá sáu tuần về chầu
Chúa bởi lòng kính mến. Môn đệ
Chúa họp gần đủ mặt Ba Ngôi thảy yêu
đương, xưa đời giữ phận khiêm
nhường xưng mình là tôi tớ Chúa. Nay rời khỏi thế gian nên vì cao trọng.
Bà đáng chức Nữ Vương. Xưa,
Ngôi Hai ngự trong lòng Bà dư chín tháng ơn thiêng gồm
đủ. Rày Chúa Cả thưởng công Mẹ
quyền cai trị chín trời, chức
đặt chủ bầu bốn biển. Sang quá
đỗi sang. Nay xin Ơn Thánh hằng giúp con,
sau nguyện đặng lên trời với Mẹ. Amen".
Để củng cố và nhắc nhở
các tín đồ Công Giáo về các tín điều mới này
về Đức Mẹ cũng như tín điều
"Giáo Hoàng không thể sai lầm.", Vatican ra lệnh
cho các giáo hội phải xây thêm trong khuôn viên nhà thờ
một hang đá Lộ Đức. Lệnh của Tòa Thánh
ban ra chỉ được vài nước Âu Châu như
Pháp, Ý, Tây Ban Nha thi hành còn toàn Bắc Mỹ đa số theo
phe cấp tiến không chịu tuân lệnh. Do đó, ta
thấy ở Mỹ và Canada
gần như không có nhà thờ nào xây hang đá Lộ
Đức. Ở Việt Nam
thì ngược lại, nhà thờ nào cũng xây thêm hang
đá Lộ Đức. Đó là một bằng chứng
cụ thể về tinh thần nô lệ của giáo
hội Công Giáo Việt Nam.
Bất cứ một lệnh nào được ban ra
từ Vatican cũng đều
được các tu sĩ Việt Nam
tuân hành răm rắp!
Tuyệt đại đa
số giáo dân trình độ tâm linh quá thấp đâu
ngờ khi họ xếp hàng đi xưng tội, chính
họ còn ít tội hơn kẻ ngồi ở phía sau tòa
giải tội.
Hầu hết các tu sĩ là
những kẻ đại gian ác ngụy trang dưới
những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng
vai đạo đức giả để phỉnh gạt
tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận
thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ,
họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ
nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng
đủ thủ đoạn để bòn rút tiền
bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà
thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để
họ được vênh vang với đời
. [Một số tu sĩ của tôn giáo
khác cũng thế.]
Mái nhà thờ của họ càng lớn
rộng bao nhiêu, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân
lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng
cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với
nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm
quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội
hoặc ít tội hơn họ. Họ
thực sự là một bọn cướp nguy hiểm
hơn bọn cướp thường vì những kẻ
cướp thường đều bị luật pháp
trừng trị. Trái lại, bọn
cướp đội lốt giáo sĩ lại
được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo
và được xã hội tâng bốc là "những
vị lãnh đạo tinh thần". Tất
cả các tệ nạn này đều xuất phát từ
sự thiếu hiểu biết của đại đa
số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm
linh là vô cùng cần thiết để cứu nước
và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao
đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa
số giáo dân không hề biết tới.
Trong giáo lý Công Giáo có rất nhiều
điều sơ hở của những kẻ sáng lập
đạo có thể khiến cho những người có óc
tò mò tìm hiểu dễ dàng phát giác ra sự lừa bịp
dối trá của giáo hội. Nhưng vì trình
độ thấp kém của giáo dân, giáo hội vẫn tìm
cách che lấp các sơ hở đó của giáo lý và qua
mặt giáo dân dễ dàng. Khi tôi còn
rất nhỏ, tôi thường được cô tôi là
một dì phước dạy giáo lý. Bài
giáo lý đầu tiên trong đời tôi được cô
tôi hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần.
Bà biết tôi đã thuộc như cháo
nhưng bà vẫn hỏi để có cớ cho tôi quà.
Mỗi lần có dịp đến thăm gia đình tôi, bà
thường ôm tôi vào lòng âu yếm hỏi và tôi đáp
như máy:
- Cháu con ai?
- Con Đức Chúa Giời.
- Cháu ai?
- Cháu ông Adong.
- Dòng dõi ai?
- Dòng dõi vua David.
Cả tới nửa thế
kỷ sau, tôi không hề thắc mắc về những
điều đó, nhưng rồi sau đó, tôi mới
thấy cái vai trò quan trọng của vua David trong giáo lý Công
Giáo. Đó là vì dân Do Thái quan niệm Chúa
Cứu Thế (Christ-Messiah) là "vua David mới"
phải là người thuộc dòng dõi của vua David,
cũng tương tự như người Babylon quan
niệm Chúa Cứu Thế (Savior of People) phải là con
của vua Nimrod. Do đó, kẻ lập đạo Kitô
phải viết sách làm sao để người
đọc tin rằng Jesus là người thuộc dòng dõi
của David thì Jesus mới có thể là Messiah (Kitô) đã
được Cựu Ước Do Thái tiên tri. Tân Ước kể tiểu sử Jesus
được viết trong thế kỷ I đã chứng
minh mối tình tội lỗi của David với bà Bathseba
đã sinh ra tổ tiên nhiều đời của Joseph là
cha của Jesus. Do đó, Jesus đã thuộc dòng dõi vua David
bởi cha mình là Joseph và đích thị là Chúa Kitô theo đúng
Cựu Ước. Đến thế kỷ 3 và 4, lý
thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi mới thành hình. Bọn
lập đạo Công Giáo (Hoàng đế Constantine, Irenacuss,
giám mục địa phận Lyon ở Pháp và Augustine là tác
giả Kinh Tin Kính) chủ trương biến Joseph thành cha
nuôi và Đức Mẹ phải là đồng trinh, cha
của Jesus phải là đức Chúa Thánh Thần. Nhưng
họ đã quên khuấy một điều là Tân
Ước và Cựu Ước không có một điều
nào nói về Đức Mẹ Maria thuộc dòng dõi của
vua David. Thành ra, nếu Jesus là con của Đức Chúa Thánh
Thần và bà Maria đồng trinh thì Jesus không thể là Kitô
vì không thuộc dòng dõi vua David! Ngược lại, nếu
chấp nhận Jesus thuộc dòng dõi vua David do cha mình là
Joseph thì Đức Mẹ không còn đồng trinh! Để gỡ thế bí này, Vatican đã phịa ra
những bài kinh cầu Đức Bà, kinh cầu Ông Thánh
Gioakim và kinh cầu bà thánh Anna (là cha mẹ của bà Maria)
để che lấp sơ hở nói trên của kẻ lập
đạo Công Giáo.
- Kinh cầu Đức Bà có câu
"Đức Bà là lâu đài David".
- Kinh cầu Ông Thánh Gioakim (Toàn niên Kinh
Nguyện Bùi Chu do cơ sở Dân Chúa xuất bản. P.O Box 1419 Gretna LA 70053. Đại diện là LM Việt Châu – trang
189): "Lạy ông Thánh Gioakim là đấng rất sang
trọng về dòng dõi vua David. Đức Chúa Trời đã
chọn mà ban mọi sự lành cho cả và loài người
ta vì đã dùng Người cho được làm nên
những sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời
truyền ở thế gian này..."
- Kinh cầu Bà Thánh Anna (Toàn niên kinh Nguyện
tr. 212): "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương,
Bà làm sáng thiên hạ vì sinh được con thanh sạch,
sáng láng hơn mặt trời mặt trăng. Bà là
đấng sang trọng bởi dòng vua David..."
Từ nhỏ đi nhà thờ
đọc kinh cầu Đức Bà, tôi vẫn tưởng
tượng cái "Lâu Đài David" chắc phải là
cái gì thánh thiện cao cả. Nay tôi
Lấy Sách Cựu Ước ra đọc để tìm
hiểu cái lâu đài này như thế nào. Té ra Lâu Đài David là Harems chứa cả ngàn cung
nữ để phụng sự cái tật dâm dật vô
độ của David. Khi David về già,
vẫn ham chơi với các thiếu nữ trẻ măng.
Tôi ngạc nhiên thấy cái gọi là Kinh Thánh Cựu
Ước mô tả các cuộc truy hoan của nhà vua
thật chi tiết như một dâm thư:
"Bây giờ vua David đã già và bị bệnh nhiều
năm, đắp mền cho Người bao nhiêu cũng
không ấm. Các đầy tớ mang đến cho
Người một cô gái trẻ đứng trước
mặt Người và hãy để cho cô ta kích thích làm cho
Người khoái, sau đó đặt cô ta nằm trong lòng
Người thì Người mới ấm..." (Now king David was old and stricken in many years. They covered
him with clothes but he got no heat. Wherefore, the servants sought for the
king a young girl and let her stand before the king and let her cherish him and
let her lie in his bosom that the king may get heat – The Third Book of the
King I:1-12).
MỘT SỐ CÂU CHUYỆN NGỤY TẠO
ĐỂ LỪA BỊP CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ
Tất cả các bài kinh nói trên đều
không có căn bản Thánh Kinh. Các học
giả Âu Mỹ gọi là "Un-Scriptural Prayers". Đó chỉ là những sản phẩm ngụy
tạo để lừa bịp. Nói
đến các chuyện bịp của Công Giáo La Mã thì
nhiều không kể xiết. Chỉ xin kể vài
chuyện tiêu biểu:
Vatican rêu rao đã lưu giữ cái ghế ngồi
của Thánh Phêrô trong nhiều thế kỷ. Vào tháng 7.1968, các nhà khoa học quốc tế
đã đến làm cuộc giảo nghiệm và
đồng xác nhận chiếc ghế này được
ngụy tạo vào thế kỷ 9.
Các nhà khảo cổ xác nhận: Bức
tượng Thánh Phêrô rất lớn bằng đồng
đen đặt tại Đền Thánh La Mã
được khoác áo giáo hoàng và đội nón cao tầng
để đóng vai "giáo hoàng đầu tiên"
của giáo hội là tượng thần Jupiter của
Cổ La Mã trước Công Nguyên (Babylon Mystery Religion p.18-79).
Cựu Linh Mục dòng Tên Pete de Rosa, tác giả cuốn sách
best-seller "Vicars of Christ" đã phải kết
luận: "Vatican là xưởng chế
tạo đồ giả lớn nhất thế
giới".
Các sử gia chuyên nghiên cứu lịch sử
giáo hội Công Giáo xác nhận Phêrô không phải là giáo hoàng vì
ông ta hoàn toàn thất học, có vợ con (Matt 8:14) nên Phêrô không chấp nhận cho
người khác quì lạy mình để hôn tay.
(Stand up! I am a man – Act 10: 25-26). Phêrô
chưa từng đến Rome vì không có
điều nào trong Tân Ước nói về việc này.
Trong 3 thế kỷ đầu của Kitô giáo
nguyên thủy không có giáo hoàng mà chỉ có giám mục (bishop).
Giáo Hoàng là sản phẩm của Công Giáo La Mã.
Bắt đầu từ năm 378 mới có
chức Giáo Hoàng. Giáo hoàng đầu tiên là Demasus
được tôn xưng Pontifex Maximus: Đấng
Đứng Đầu giáo hội (head of Church) tức là
Giáo Hoàng.
Giáo hoàng đầu tiên tuyên
bố ngôi vị giáo hoàng là "thừa kế của Thánh
Phêrô". (Successor of Peter) là một
nữ giáo hoàng (popess). Tên thật của
nữ giáo hoàng là Catherine de Sierra. Từ thuở
nhỏ, Catherine thích mặc đồ con trai và sau đó
giả làm con trai đi tu dòng nam vào đầu thế
kỷ thư 9. Bà là một
phụ nữ thông minh, ham mê hoạt động và có tham
vọng khuynh đảo cả thế giới. Bà có
tài hùng biện và đã để lại nhiều bài
diễn văn rất nổi tiếng hiện còn
được lưu trữ tại văn khố Tòa Thánh.
Nhiều sử gia Ý như Petrarch và Boccacio
đã viết sách ca ngợi tài năng học giả uyên
bác của bà. Vào năm 855, giáo hoàng Leo IV
qua đời. Hội Thánh lúc đó
nhận thấy chỉ có tu sĩ Gioan (tên giả) là
xứng đáng kế vị giáo hoàng. Kết quả,
tu sĩ Gioan được bầu làm giáo hoàng và là
người tuyên bố: "The pope is the successor of Saint
Peter". Giáo Hoàng Gioan cai trị giáo
hội được 3 năm thì chẳng may một tai
biến xảy ra. Trong năm 858, Tòa Thánh
tổ chức một cuộc rước kiệu lớn
tại Rome. Giáo hoàng đi theo đoàn
kiệu bỗng nhiên té xỉu, máu me chảy lênh láng vì
bị sẩy thai! Cả giáo hội lúc đó
mới phát giác giáo hoàng là phụ nữ. Ngay
sau đó, giáo hoàng Gioan bị lột trần truồng và
bị đám tu sĩ cuồng nộ lôi ra công trường
Colossium để cho dân chúng ném đá chết tại
chỗ. (The Pope Encyclopedia. Matthew
Bunson. Crown Trade Paperbacks NY. 1995). Truyền thống của
Công Giáo khinh rẻ phụ nữ do triết thuyết
của Augustine. Giáo hội coi phụ nữ không xứng
đáng chịu chức thấp nhất là linh mục
huống hồ là chức giáo hoàng! Mặc
dầu Giáo Hoàng Gioan rất giỏi và không có tội gì khác
ngoài tội chỉ là một phụ nữ nên phải
chết thảm.
Truyền thống khinh rẻ
phụ nữ đó ngày nay đã trở thành một mối
nguy hiểm có thể đưa đến sự sụp
đổ của giáo hội. Tại Hoa
Kỳ và Âu Châu, phụ nữ Công Giáo bỏ đạo
đã biến thành phong trào lớn. Năm 1995, nữ
giáo sư Joan Meehl là bổn đạo gốc lâu
đời tại Mỹ đã mở một cuộc
phỏng vấn qua nhiều tờ báo toàn quốc
để thu thập ý kiến của phụ nữ Công
Giáo Hoa Kỳ thuộc mọi thành phần và thuộc
mọi lứa tuổi. Bà Joan Meehl đúc kết lại
để viết tác phẩm Người Công Giáo Tỉnh
Ngộ hay Cuộc Hành Trình Của Phụ Nữ Bỏ
Đạo (The Recovering Catholics. Personal Journeys of Women Who Left The Church, 228 trang. Prometheus USA
1995). Phụ nữ Mỹ đồng loạt
kết tội St. Augustine và coi y là một tên bệnh hoạn về
giới tính. Hệ thống triết học và
thần học của Augustine là Xương Sống
của Công Giáo La Mã hoàn toàn dựa trên thần thoại
Vườn Địa Đàng, sản phẩm bịa
đặt của Do Thái ăn cắp từ thần
thoại Babylon. Sự nhục mạ phụ
nữ của Augustine và giáo hội La Mã làm cho phụ nữ
cảm thấy tủi hổ về thân phận đàn bà
của họ. Bà Joan cũng như các
phụ nữ Công Giáo tiến bộ phẫn nộ gọi
Thiên Chúa là "Đấng Toàn năng Đực
Rựa" (The Male Almighty) gọi giáo hội Công Giáo là giáo
hội "đàn ông trị" (man-dominated church).
Họ cho rằng "Thiên Chúa chỉ là tấm màn che
quyền lực của Đàn Ông chứ không phải
quyền lực của Chúa tồn tại trên trái
đất này" (The power of man, not God, still exist on earth. God
is merely a backdrop to man’s ruling). Bà Joan phát biểu: "Công Giáo
La Mã đang trở thành đồ phế thải của
các nước phát triển và đang có khuynh hướng
chuyển đồ phế thải đó sang các
nước chậm tiến! Đặc tính của Công Giáo
là chỉ có thể phát triển được tại
nơi có kẻ ngu dốt và nghèo khổ.
(Catholicism only thrives and grows among the poor and ignorant). Giáo
hội Công Giáo là một chế độ độc tài
ngụy trang tôn giáo, một đường dây Mafia và là những
con buôn đội lốt tôn giáo (A dictatorship claiming to be a
religion, a Mafia Connection, a business masquering a religion).
Song song với phong trào chống Công Giáo
của phụ nữ trên thế giới, giáo hội La Mã
còn bị tấn công tới tấp bởi các phong trào
đòi quyền sống của người da đen, phong
trào Cộng Sản quốc tế... Vatican tìm cách làm giảm bớt tính chất đàn ông
của Thiên Chúa bằng cách đề cao vai trò Đức
Mẹ Maria.
Ba Ngôi Thiên Chúa, theo giáo lý
Công Giáo, là một bộ ba gồm có một ông già rậm
râu xuất thân từ Jehovah (tức là con bò El của Do Thái)
một thanh niên đóng khố máu me đầy mình và
một con chim bồ câu đực. Rõ ràng giáo hội Công
Giáo là một tà giáo đa thần (paganism) vì nó không thờ
Thiên Chúa mà là thờ người (Jesus) và cầm thú (bò,
chim). Bà Karen Amstrong, nguyên là nữ tu Công Giáo, hiện là
một sử gia hàng đầu thế giới về tôn
giáo và là tác giả nhiều tác phẩm Bestsellers. Trong tác phẩm nổi tiếng A History of God, bà
gọi Thiên Chúa của Công Giáo là một ông thần lắm
điều (a talkative God). Giáo Lý Thiên Chúa
Ba Ngôi là giáo lý rắc rối và phỉ báng Thiên Chúa (puzzling
and blasphemous).
Giáo hội Công Giáo biết tâm lý
phụ nữ không ưa Thiên Chúa Ba Ngôi vì đều là
giống đực nên đã lôi Đức Mẹ vào
để biến chế thành "Thiên Chúa Bốn Ngôi".
Nhưng giáo hội lại lâm vào tình trạng... kẻ gian
mắc nạn! Lý do là: Càng làm nổi bật vai trò của
Đức Mẹ bên cạnh Thiên Chúa Ba Ngôi bao nhiêu lại
càng làm nổi bật cái tính loạn luân mất dạy
của giáo lý Thiên Chúa Ba Ngôi bấy nhiêu.
Tờ Newsweek số ra ngày 25.8.1997 (trang 19)
viết "Thay vì Thiên Chúa Ba Ngôi, ngày nay xuất hiện
một loại Thiên Chúa Bốn Ngôi với vai trò phức
tạp của bà Maria: Con gái của Chúa Cha, Mẹ của
Chúa Con và vợ của Chúa Thánh Thần". (In place of the
Holy Trinity, there would be a kind of Holy Quartet with Mary playing the
multiple roles: daughter of the Father, mother of the Son and spouse of the
Holy Spirit). Vì chỉ có một Thiên Chúa, nên cùng một lúc Bà
Maria vừa là con, vừa là mẹ và vừa là vợ
của Jesus. Ngược lại, Jesus cùng lúc là cha, là con và
là chồng của chính mẹ mình! Giáo hội
Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa lắm điều, ác độc
và loạn luân. Vua "thánh" David dâm
dật vô độ, tổ phụ Abraham cũng loạn
luân. Do đó Giáo Hội Công Giáo đã hiện ra nguyên
hình là một giáo hội vô luân vô địch. Toàn
bộ hàng giáo phẩm Công Giáo Việt nam kém cỏi, tới
nay vẫn cứ cắm đầu cắm cổ tụng
niệm đề cao Thiên Chúa Các Đạo Binh (Thần
Bạo Lực) trong các buổi lễ. Giáo dân vẫn
rỉ rả cầu xin: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ
sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi
đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David"
(Nhựt khóa 707), và cầu cho linh hồn người
chết: "Xin các Thánh thiên thần đem linh hồn ...
(Maria, Giêsu, Phanxicô Gioan Baotixita...) lên nơi vui vẻ cùng ông
Thánh Abraham" (Nhựt khóa 330), hoặc "Xin Chúa đoái
thương dân nước Việt Nam đang còn ngồi
trong bóng tối tăm ngoại giáo... Chúa
đã phán rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi
Đông Tây đến nghỉ ngơi cùng Thánh Abraham trên
nước Thiên Đàng". (Nhựt
khóa 144-145). Giáo Hội Công Giáo tỏ ra thương xót
dân tộc Việt nam không phải vì hay bị bão lụt
hạn hán, chiến tranh liên miên chống xâm lược...
mà thương dân nước Việt còn ngồi chồm
hổm trong bóng tối tăm ngoại giáo vì chưa
biết ăn thịt người, và chưa biết Thiên
Chúa Ba Ngôi mất dạy và loại luân đến cở
nào? Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
đã lộ nguyên hình là một đám cỏ dại phá
hoại cánh đồng mang hình chữ S của tổ
quốc Việt Nam chúng ta.
Công Giáo La Mã luôn luôn tự
xưng là giáo hội chính thống của Thánh Phêrô (Peter)
nhưng chính Jesus đã gọi Phêrô là Satan nên Công Giáo La Mã là
đạo chính thống của Satan gian ác. Đó là điều đã được xác
nhận trong Thánh Kinh Tân Ước chứ không phải tôi
dùng chữ thiếu văn hóa. (But he turned and said unto
Peter: Get thee behind me, thou art an offence unto me
– Matt 16:23). Trong
năm 1917, Đức Mẹ Maria đã hiện ra tại Fatima liên tục mỗi
tháng một lần vào ngày 13, từ tháng 5 đến tháng
10.1917. Đức mẹ đã phán: "Vatican
đã biến thành kinh đô của quỉ Satan. Khói của Satan nồng nặc trong giáo hội.
Vatican
đã phá hoại trên nền tảng Công Ơn Cứu
Chuộc của Chúa Jesus". Trong Thánh
Kinh Cựu Ước, Satan được mô tả là
một con rắn, là vật chất và là ông hoàng của
thế giới (the Prince of this world). Người Ai
Cập coi con rắn là biểu tượng của sự
khôn ngoan hiểu biết (an exemplar of the wisdom – knowledge). Chúa
Jesus khuyên mọi người hãy trở nên khôn ngoan như
con rắn (Be ye wise as serpents). Vatican đã trở nên ông hoàng của thế giới
trong nhiều thế kỷ. Nó đã
trở nên trung tâm quyền lực của quỉ (Satanic
power). Vatican khôn như rắn và gắn bó với vật
chất (clinging to matter). Chính nó là Satan, là vật
chất (Satan means Matter).
Giáo Hội Công Giáo là giáo hội của
quỉ đã quấy phá nhân loại trong gần 2000 năm
qua và nó đang đi tới rất gần đến ngày
tận thế của nó!
Ngày 13.5.1982, người
đứng đầu giáo hội của Satan là Jean Paul II
đã đến làm lễ tại Vương Cung thánh
đường Fatima và cầu xin cho cái giáo hội đó khỏi
bị hủy diệt. Giáo hoàng cầu xin như sau:
"Xin Chúa cứu chúng con khỏi trận chiến tranh
nguyên tử và tránh khỏi sự hủy diệt không
thể lường được". Linh Mục Alonso
Fatima, người có nhiệm vụ giữ hồ sơ về các bí mật cho biết: "Bí
mật Fatima có liên quan đến một
cuộc khủng hoảng ghê gớm trong nội bộ giáo
hội Công Giáo gây nên bởi sự tranh giành thế lực
giữa những phẩm trật cao nhất trong giáo
hội". (Công Giáo Thời Luận, số 4 tháng 8.1986).
Linh Mục Alonso cho biết thêm: Kẻ giết giáo hội
Công Giáo không phải là Cộng Sản, cũng chẳng
phải là Judas tái sinh mà là các tu sĩ hư hỏng. Ngày nay,
rất nhiều linh mục đã mất đức tin
nhưng vẫn giả vờ đạo đức
để đóng vai lãnh đạo tinh thần của giáo
hội, không có mục đích nào khác hơn là để bòn
rút tiền bạc của giáo dân để ăn,
để sống và thỏa mãn những dục vọng
thấp hèn của họ. Nhiều linh mục
giả vờ nghiêm trang làm lễ ở nhà thờ, nhưng
sau đó họ gian dâm với vợ con của đám giáo
dân khờ khạo của mình.
Số báo Thời Luận nói
trên, nơi trang 10-11, có thuật chuyện "Đức
Mẹ khóc tại La Salette". Đức Mẹ
đã nghiêm khắc lên án các linh mục Công Giáo hư
hỏng như sau: "Vì đời sống xấu xa
tội lỗi của họ, và vì lòng vô nhân đạo
của họ khi cử hành các phép bí tích mầu nhiệm, vì
lòng ham mê tiền bạc thế gian và ham mê danh vọng hão
huyền, nhất là vì lòng ham mê những thú vui xác thịt
tội lỗi... các linh mục đã trở thành những
hố phân chứa đầy dòi bọ dơ bẩn.
Cuộc sống xấu xa tội lỗi của họ
đòi hỏi sự trả thù của Thiên Chúa và sự
trả thù đang lơ lửng trên đầu
họ..."
Theo báo Newsweek ra ngày 26.8.1997 thì
trong 19 thế kỷ qua, Vatican loan báo Đức Mẹ hiện ra chỉ có vài
lần. Nhưng trong thế kỷ 20, Vatican cho biết có
tới 400 lần Đức Mẹ hiện ra hầu
như tại khắp nơi trên thế giới.
Những vụ Đức Mẹ hiện ra dồn dập
cho loài người thấy tình hình rất là khẩn
trương và là điềm báo cho thấy ngày tận
thế của giáo hội Satan đang trong tầm tay (The Doomsday is at hand). Năm 1917 là năm
giáo hội bị đe dọa nặng nề bởi
hiểm họa Cộng Sản. Nhưng hiện nay giáo
hội Công Giáo mới thực sự đang trên miệng
hố diệt vong.
Trong cuộc hiện ra tại Fatima
năm 1917, Đức Mẹ hứa Trái Tim Mẹ sẽ
chiến thắng Cộng Sản và nước Nga sẽ
ăn năn trở lại với
mẹ. Quả thật, chủ nghĩa Cộng Sản
đã sụp đổ, nhưng người Nga đã
trở lại với Mẹ trong Chính Thống Giáo chứ
không trở lại với giáo hội Satan là Vatican.
Trong tháng 8.1997, quốc hội Nga đã
biểu quyết đạo luật và Tổng Thống
Yelsin ban hành xác nhận quyền tự do tôn giáo trên
nước Nga. Mọi tôn giáo, kể cả đạo
Phật và đạo Hồi, đều được
tự do truyền giáo và hành đạo tại Nga, ngoại
trừ Công Giáo La Mã và Tin Lành. Người Nga coi Công Giáo La Mã
là một giáo hội thù địch vì Công Giáo là kẻ
phản bội Chúa và Đức Mẹ. Tại Fatima năm
1917, Đức Mẹ đã cho 3 em nhỏ được
thấy cảnh hỏa ngục. Trong hỏa
ngục đầy dẫy các giáo hoàng, hồng y, tổng
giám mục và linh mục Công Giáo. Các tu sĩ Công Giáo
trong hỏa ngục nhiều lúc nhúc như dòi trong các hố
phân lộ thiên! Chắc chắn không thể thiếu
mặt Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Bá Tòng,
Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục, Nguyễn Văn
Bình... Toàn bộ Hội đồng Giám Mục Việt Nam
cũng đều đang ở trong thế chờ
để nhào xuống hố phân Địa Ngục. Còn các
linh mục gian ác như Hoàng Quỳnh, Thanh Lãng, Lương
Kim Định, Cao Văn Luận thì khỏi phải bàn
tới.
Chúa đã phán: "Kẻ giầu vào nước
thiên đàng, còn khó hơn lạc đà chui qua lổ kim". Toàn bộ giáo hội Vatican
giầu tới hàng trăm ngàn tỷ đô la còn to hơn
khổng long làm sao chui qua lỗ kim cho
nổi! Cho nên, nếu lời Chúa là chân lý thì
toàn bộ cái giáo hội Công Giáo phải xuống hỏa
ngục. Nếu cả cái giáo hội ấy vì một
lý do nào đó mà không phải xuống hỏa ngục thì
lời Chúa chỉ là lời nói tào lao.
Năm 1917, tại Fatima, Đức
Mẹ nói khá nhiều về Cộng Sản, nhất là nói
về Cộng Sản Nga. Còn tại La
Vang (Quảng Trị) thì Đức Mẹ hoàn toàn không
đề cập đến Cộng Sản Việt Nam nên
ngày nay chúng ta khó có thể đoán biết được
quan điểm của Đức Mẹ về vấn
đề này. Trong thế kỷ 20,
Đức Mẹ hiện ra tới 400 lần tại
nhiều quốc gia. Như vậy Đức Mẹ
biết đủ các thứ tiếng trên thế giới! Tại La Vang năm 1798, dưới thời vua
Cảnh Thịnh, hàng trăm giáo dân Huế và Quảng
Trị đã vào đây lánh nạn cấm đạo trong
khu rừng "Lá Vằng" này. Đức
Mẹ chỉ hiện ra để nói vài điều
chứ không có một chương trình nào cụ thể
để cứu trợ cả. Đức Mẹ
hứa: "Từ nay về sau, bất cứ ai
đến khẩn cầu Mẹ tại nơi đây
sẽ được Mẹ ban ơn phù trợ"
Chắc ý của Mẹ là muốn La Vang sẽ trở thành
một trung tâm hành hương lớn tương tự
như Trung Tâm hành Hương của Dòng Tu Đồng Công
tại Missouri? Tôi tin rằng Đức Mẹ đã nói
với giáo dân tại La Vang năm 1798 bằng tiếng
Việt, không cần thông dịch viên từ tiếng Aramic
sang Việt Ngữ. Có lẽ tiếng nói của
Người hơi nặng theo giọng Huế hoặc
Quảng Trị!
VATICAN,
XƯỞNG SẢN XUẤT PHÉP LẠ
Sự lạm phát phép lạ của Vatican
đi kèm theo tín điều "Giáo hoàng không thể sai
lầm" làm cho các giáo phái Kitô khác như Anh Giáo, Tin Lành,
Chính Thống Giáo đâm ra lo sợ vì nó có thể tạo ra
sự sụp đổ của Công Giáo La Mã và kéo theo sự
sụp đổ của toàn thể Kitô Giáo! Các giáo phái Kitô
chú ý theo dõi các hành động của Vatican
và giáo hoàng. Dưới con mắt của họ, cái tín
điều "Giáo hoàng bất khả ngộ" có
thể là một con dao hai lưỡi. Họ
nghi ngờ giáo hoàng có thể là một Judas. Chúa Jesus có 12 tông đồ, trong đó có một
Judas. Chẳng lẽ trong số 263 tông đồ
giầu có là các giáo hoàng lại chẳng có một "Judas
tân thời?". Judas
Escariot phản Chúa thì Chúa chỉ chết có mấy giờ
rồi tỉnh lại khỏe ra. Còn nếu "Judas
tân thời" phản Chúa thì Chúa sẽ đi luôn không bao
giờ trở lại!
Sau khi đệ Nhị Thế Chiến
chấm dứt vào năm 1945, Vatican thấy các quốc gia
rục rịch lập tổ chức Liên hiệp quốc
nên phịa ra vụ Đức Mẹ hiện ra tại
Amsterdam (Hòa Lan) với cô gái tên Ida Peerderman. Đức
Mẹ tự xưng với cô gái danh hiệu
"Đức Mẹ của Mọi Quốc Gia" (Lady of
All Nations). Điều đáng chú ý nhất là trong
lần hiện ra này, Đức Mẹ chỉ thị cho cô
Ida Peederman phải thỉnh cầu với Giáo Hoàng Pio XII
công bố một số tín điều cuối cùng về
Đức Mẹ là Tín Điều Đức Mẹ
Đồng Công Cứu Chuộc (The dogma of Co-Redemptrix). Vào
năm 1950, Giáo Hoàng Pio XII đã công bố tín điều
"Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời" để
xác nhận việc Đức Mẹ hiện ra là
NGƯỜI THẬT nguyên vẹn hồn xác như cách
đây 2000 năm. Từ đó đến nay, chỉ trong
vòng 50 năm, số lần Đức Mẹ hiện ra
gấp nhiều lần tổng số lần từ 1950
trở về trước cộng lại. Nổi
tiếng nhất là những lần Đức Mẹ
hiện ra ở Rwanda năm 1981 và 1989.
Vụ Đức Mẹ
hiện ra cùng 6 em nhỏ ở Medjugoje (Bosnia)
năm 1981. Đức Mẹ xưng danh
là "Nữ Vương Hòa Bình" (Queen of Peace). Từ 1981 đến nay (1997) có tới 20 triệu
tín đồ đến đây hành hương.
Cũng từ 1950 đến nay, trong thế giới Công
Giáo phát sinh ra hàng trăm tờ báo lá cải chuyên viết
đủ thứ chuyện về Đức Mẹ,
tương tự như tờ "Trái Tim Đức
Mẹ" và hàng ngàn bản tin như "Bản Tin
Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ" của Dòng
Đồng Công Missouri.
Chưa có thế kỷ nào việc tôn thờ
Đức Mẹ Maria ồn ào náo nhiệt cho bằng
thế kỷ 20! Mọi nơi trên thế giới
đều có cha cố hay giáo dân báo cáo là có thấy
Đức Mẹ hiện ra. Mấy năm
trước đây, tại Phoenix và
Cleveland (Hoa Kỳ) cũng ồn lên về việc
Đức Mẹ hiện ra ở vùng này. Việc hành hương thăm viếng các nơi
có tin đồn Đức Mẹ hiện ra đã biến
thành một kỹ nghệ hốt bạc của các tu
sĩ và nhà thờ Công Giáo. Việc phát hành các băng
video về hình ảnh Đức Mẹ khóc, tượng
Đức Mẹ chảy máu, hình Đức Mẹ
chiếu trên mây hoặc trên các tấm kiếng
của
Building (cao ốc), trên nóc
nhà thờ v.v... Tất cả đều đựơc tung ra thị trường nhằm thỏa
mãn tính hiếu kỳ và lòng say mê phép lạ của tín
đồ Công Giáo. Theo nhận xét của nhiều ký giả
theo dõi sự kiện này thì Đức
Mẹ hiện nay càng ngày càng trở thành một bà vợ
hấp dẫn hơn xưa của Đức Chúa Thánh
Thần. (The Holy Spirit’s more interesting spouse). Sau năm 1945, Pio
XII muốn công bố tín điều cuối cùng về
Đức Mẹ nên đã tung tin
Đức Mẹ hiện ra với cô Ida Peederman ở
Amsterdam
và ra lệnh phải thỉnh cầu giáo hoàng công bố tín
điều Đức Mẹ Đồng Công Cứu
Chuộc". Và đây cũng là lý do tại sao có việc
Linh Mục Trần Đình Thủ lập dòng Đồng
Công tại Bùi Chu cuối thập niên 1940. Cũng
cần nhắc lại Pio XII [Pio XII cũng vận
động Hoa Kỳ dội từ 1-6 quả bom nguyên
tử xuống Bắc Việt.]
là tên tội phạm trong
đệ nhị thế chiến vì y đã giúp Đức
Quốc Xã tiêu diệt người Do Thái. Hiện nay,
tại bảo tàng viện Bronx ở New York có phòng triễn
lãm tội ác của Pio XII dưới bảng hiệu
"THE NAZI BUTCHER AT ROME" (Tên đồ tể Đức
Quốc Xã tại Rome) không riêng gì giáo dân Việt Nam mà
từ khắp nơi trên thế giới trong 10 năm qua
đang ráo riết vận động Giáo Hoàng Jean Paul II công
bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công.
Điều đó cho thấy Vatican
dưới thời Pio XII đã vận động Công Giáo
khắp nơi thỉnh cầu y ban hành tín điều này.
Vatican biết rõ Công Giáo Việt Nam là
giáo hội cuồng tín nhất nên đã chọn Bùi Chu làm nơi lập
dòng Đồng Công để quảng bá tín điều này
trước khi Tòa Thánh chính thức công bố. Công Giáo
Việt Nam
đã ngoan ngoãn vâng theo chỉ thị
của Pio XII chứ không phải là một sáng kiến
của tu sĩ Việt Nam
trong việc lập dòng tu mới này.
Hậu quả của "tín điều
Đức Mẹ Đồng Công" sẽ buộc
mọi giáo dân phải tin 3 điều:
Đức Mẹ là
người tích cực góp công với Chúa Jesus hoàn thành
cuộc thí mạng để chuộc tội tổ tông.
Tội tổ tông là tội tổ tiên loài người cách
đây khoảng 6000 năm (theo giáo lý Công Giáo) đã dám
ăn trái táo (trị giá khảng 25 xu ngày nay) nên Chúa phạt
mọi người phải chết, làm việc vất
vả mới kiếm được miếng ăn và
phụ nữ phải mang nặng đẻ đau...
Mọi ân sủng của
Chúa ban cho loài người không bao giờ đi trực
tiếp mà phải qua người trung gian là Đức
Mẹ.
Mọi giáo dân từ nay không được
cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa mà phải
qua người trung gian Đức Mẹ để sau
đó Đức Mẹ sẽ chuyển lời cầu
nguyện của mọi người lên chúa Jesus, con của
Mẹ.
Với những nhiệm vụ kể trên,
từ nay Đức Mẹ sẽ phải đóng 3 vai trò
một lúc:
1. Đấng Đồng Công Cứu
Chuộc (Co-Redemptrix).
2. Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài
người (Mediatrix).
3. Luật sư biện hộ cho loài
người vì loài người không thể tự biện
hộ trước mặt Chúa (Advocate).
Với tín điều
Đức Mẹ Đồng Công, từ nay Đức
Mẹ không còn đóng vai "tôi tớ của Chúa" (The
servant of God) mà được vinh thăng lên thành NGÔI
THỨ TƯ CỦA THIÊN CHÚA. Như vậy phong trào
đấu tranh của phụ nữ thế giới sẽ
không còn lý do gì để gọi Thiên Chúa của Công Giáo là
Đấng Toàn năng Đực (Male Almighty God)
được nữa!
Từ ngày Vatican đưa
ra thuyết Đức Mẹ Đồng Công (sau đệ
nhị Thế Chiến) đã bị các lãnh đạo tôn
giáo khác chỉ trích nặng nề:
Giáo phụ George Passias, lãnh tụ Chính
Thống Giáo Hoa Kỳ, gọi tín điều Đồng
Công là dị giáo (heretic) và kẻ chủ trương tín
điều ấy cần được đưa lên dàn
hỏa của thời trung cổ.
Nhà thần học nổi tiếng hiện
nay của Anh Giáo William Pranklin tuyên bố: "Tín
điều Đồng Công là cái đinh cuối cùng đóng
nắp quan tài của sự hiệp thông hòa giải giữa
Anh Giáo và Công Giáo La Mã".
Các giáo phái Tin Lành khắp thế giới
đưa ra nhận xét chung là: Vatican
lợi dụng tín điều Đồng Công để làm
giảm giá trị của Chúa Jesus và làm tăng uy quyền
của giáo hoàng. Điều này hoàn toàn không có căn bản
Thánh Kinh và chống lại Kitô Giáo. Thánh Kinh đã xác
nhận chỉ có một trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và loài người là Chúa Jesus vì Chúa Jesus mang hai bản
tính Thiên Chúa và con người (Thimothy 2:5).
Lên tiếng chỉ trích tín
điều Đồng Công một cách mạnh mẽ
nhất là nhà thần học Công Giáo người Pháp
Laurentic. Ông tuyên bố: Sự chết của Chúa Jesus
là đầy đủ trọn vẹn để cứu
chuộc loài người. Chúa Jesus là
người duy nhất cứu chuộc và không cần
một ai khác phải cộng tác để hoàn thành việc
này.
Một số người ngoại giáo nhìn
vào cuộc tranh luận của các nhà thần học
cũng muốn xía vô góp ý: Judas Escariot mới là người
tích cực đồng công cứu chuộc vì nếu không có
Judas thì Chúa Jesus không thể bị đóng đinh trên
thập tự giá để thực hiện sứ mạng
"cứu thế" được. Chẳng lẽ Chúa
tự ý lăn đùng ra chết
để cứu thế sao?
Tuy nhiên, Giáo Hoàng La Mã đâu có cần
để ý tới các ý kiến của bất cứ ai, vì
giáo hoàng là người duy nhất trên thế gian có khả
năng tự nhận "không thể sai lầm" nên
Ngài có toàn quyền quyết định về chân lý. Giáo
hoàng xuất thân từ Ba Lan, vốn là
quốc gia toàn tòng Công Giáo và rất tôn sùng Đức
Mẹ Maria. Bất cứ điều gì Ngài cũng qui cho
Đức Mẹ, chẳng hạn như vụ Ngài thoát
chết trong vụ ám sát hụt năm 1981, Ngài tin là
Đức Mẹ Fatima đã cứu Ngài. Khẩu hiệu
của Ngài là "TOTUS TUUS" có nghĩa là "Tất
cả do Mẹ". Hàng năm, giáo hoàng
thuyết giảng cả trăm lần về Đức
Mẹ và Ngài luôn luôn tôn xưng Đức Mẹ là
"Đấng Đồng Công Cứu Chuộc".
Trong tháng 4.1997, giáo hoàng tuyên bố một câu rất
độc đáo về Đức Mẹ: "Sau khi đã
dựng nên Adong Evà, nay Thiên Chúa muốn đặt
Đức Mẹ Maria làm bà Evà mới bên một ông Adong
mới là Chúa Jesus trong công cuộc cứu chuộc tội
lỗi loài người. Như vậy,
Đức Mẹ trong vai trò là bà Evà mới sẽ trở
thành thần tượng hoàn hảo nhất của giáo
hội. Đó là Đức Mẹ trong
vai trò Đồng Công Cứu Chuộc."
Người đứng
đầu công cuộc vận động cho tín
điều mới này tại Hoa Kỳ là giáo sư thần
học Mark Miravalle thuộc trường đại học
Francisco ở Ohio. Ông được coi là chuyên
gia về môn học nghiên cứu Đức Mẹ
(Mariologist) trước đây đã quả quyết là Giáo
Hoàng Jean Paul II sẽ công bố tín điều Đức
Mẹ Đồng Công trước năm 2000. Nay đã qua năm 2000 nhưng vẫn chưa
thấy Vatican có quyết định về vấn đề
này.
Vào tháng 7.1997, Vatican đã triệu
tập một hội nghị gồm có 23 Mariologists bỏ
phiếu để lấy biểu quyết. Kết
quả là: 0-23, một tỷ số tuyệt đối
chống tín điều Đức Mẹ Đồng Công.
Do vậy, đến nay Vatican vẫn
tỏ ra dè dặt chưa vội công bố chính thức tín
điều này.
Điều khó khăn lớn là
giáo hội Công Giáo đang phải đối phó với
phong trào phụ nữ bỏ đạo đang diễn ra
mạnh mẽ tại các nước phát triển có nền
văn hóa cao khiến cho số tín đồ giảm sút mau
lẹ. Chúng ta đã biết điều này như
đã trình bày sơ qua ở đoạn trên khi đề
cập đến tác phẩm The Recovering Catholic – Personal
Journeys of Women Who left the Church của bà Joanne H. Meehl. Giáo lý Công Giáo dựa vào học thuyết của
St. Augustine
miệt thị phụ nữ quá đáng. Họ coi phụ nữ là "cửa hỏa
ngục", là "đồng minh của quỉ
Satan". Trước Công Đồng Vatican II
(1958-1962), mọi phụ nữ, kể cả nữ tu,
đều bị cấm không được tới gần
cung thánh (sanctuary) tức khu vực gần bàn thờ nơi
linh mục làm lễ. Công Giáo và Hồi Giáo là hai tôn giáo thù
nghịch đã từng giết nhau làm thiệt mạng
nhiều chục triệu người trong thời trung
cổ, nhưng cả hai tôn giáo này lại đoàn kết
khắng khít với nhau tại diễn đàn Liên Hiệp
Quốc trong tinh thần thù hận đàn bà (they united in
their misogyny). Các tu sĩ Công Giáo đều đã
được giáo dục từ tấm bé cái óc coi khinh
phụ nữ và cái định kiến bệnh hoạn
về các vấn đề giới tính của phụ
nữ: Coi bản năng sinh 1ý nhân bản là không trong
sạch (Human sexuality is impure). Coi sự biểu lộ
nữ tính của phụ nữ là khoe khoang (feminity is sinful
vanity). Tác giả Joanne H. Meehl kết luận (tóm tắt như
sau): Công Giáo La Mã là kẻ đạo đức giả.
Họ chống ngừa thai và kế
hoạch hạn chế sinh đẻ để kềm
giữ các nước nghèo tiếp tục chìm đắm
trong sự nghèo đói ngu dốt để có môi
trường truyền đạo và giữ đạo.
Bản chất của Công Giáo là gian trá và lừa dối , chỉ có thể phát triển ở
những nước nghèo đói về kinh tế và ngu
dốt về tinh thần mà thôi.
Cứ nhìn vào các nước Công
Giáo như Philippine, các nước Công Giáo thuộc Trung Nam
Mỹ Châu và Phi Châu, ta sẽ phải ngạc nhiên thấy
các nhà thờ Công Giáo hết sức giàu có ở giữa
đám tín đồ nghèo khổ cùng cực. Tòa Thánh có ngân hàng riêng, có chân trong nhiều tổ
chức kinh doanh quốc tế và nhất là các thị
trường chứng khoán. Tòa Thánh nắm nhiều
cổ phần trong nhiều công ty sản xuất vũ khí
và sản xuất thuốc ngừa thai
trong khi vẫn lớn tiếng cổ vũ hòa bình và
chống kế hoạch gia đình! Tòa Thánh là một con buôn
khổng lồ đội lốt tôn giáo (Big business masquering
a religion). Họ luôn luôn nói tới bác ái
nhưng chẳng bao giờ họ chịu bỏ tiền
giúp các gia đình nghèo không có điều kiện và
khuyến khích các phụ nữ nghèo đẻ thật
nhiều để bị chết đói và bệnh tật.
Vấn đề bác ái thật sự không
phải là cứ sinh nhiều con mà là liệu có đủ
khả năng nuôi nấng chăm sóc và dạy dỗ chúng
hay không. Sự bỏ đạo của phụ nữ
kéo theo sự bỏ đạo của
những đứa con và thân nhân của họ. Tác dụng
dây chuyền này sẽ mau chóng đưa đến sự
tan rã của giáo hội Công Giáo tại Tây Phương.
Lịch sử giáo hội Công Giáo xưa nay
đã có truyền thống xử dụng Đức Mẹ
Maria như một thứ vũ khí của chiến tranh tâm
lý:
Để đối phó với chủ
nghĩa siêu nhân (superman) của Nietzch hoặc chủ
nghĩa Cộng Sản của Marx, Công Giáo La Mã xử
dụng Đức Mẹ như một khuôn mặt nữ
phản chứng (the figure of a feminin anti-type). Do đó,
họ đã phát minh ra các tín điều Đức Mẹ
vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời, đồng
công cứu chuộc không ngoài mục đích gián tiếp
đề cao phụ nữ. Như đã nói ở phần
trước, họ đã lỡ dựng nên ba ngôi Thiên Chúa
đều thuộc giống đực, nay họ vớt
vát đôi chút cái lầm lỡ này bằng cách đặt
thêm Đức Mẹ vào; thành bộ tư Thiên Chúa và
đức Mẹ chính là đại diện cho phụ
nữ toàn thế giới bên cạnh Thiên Chúa Nam giới
tối cao.
Từ xưa đến nay,
đức Mẹ Maria chỉ được giáo hội
Công Giáo cho đóng vai nữ tỳ bên cạnh Thiên Chúa Ba
Ngôi. Nay, không phải vì thương tình đối
với Đức Mẹ, giáo hội Công Giáo buộc lòng
phải thăng chức cho Đức Mẹ để
đối phó với phong trào đấu tranh nhân quyền
của phụ nữ và nhất là phong trào phụ nữ Tây
phương bỏ đạo hàng loạt.
Tuy nhiên, âm mưu đen tối
của Vatican không dễ gì có thể thực hiện
được vì đã đang bị các giáo phái Kitô khác
chống đối mạnh mẽ. Vatican cũng gặp
phải sự chống đối ngay trong nội bộ
giáo hội. Nói chung, giáo hội Kitô
được coi là hiện thân của Chúa Jesus đáng
lẽ ra phải là một cơ thể duy nhất. Nhưng cơ thể Kitô đã bị chia năm
xẻ bảy càng ngày càng phân hóa. Ước
mơ thống nhất Kitô Giáo của Vatican được
nêu lên rầm rộ trong Công Đồng Vatican II (1962-1965)
đã hoàn toàn bị thất bại. Nay, nếu Giáo
Hoàng Jean Paul II cả gan công bố tín điều
Đức Mẹ Đồng Công thì sự tan vỡ
của Kitô giáo sẽ thành vĩnh viễn. Sẽ
không còn một giáo phái Kitô nào có thể tin được ý
muốn hòa giải thật lòng của Công Giáo La Mã. Thế giới cũng không thể tin
được sự thành khẩn xin lỗi của giáo
hoàng về các lỗi lầm của giáo hội Công Giáo trong
hơn ngàn năm qua. Bởi vì khi xin lỗi, giáo hoàng
đã nại cớ "Sai lầm là bản tính con
người" (To err is human). Một khi công bố tín
điều Đức Mẹ Đồng Công là tái xác
nhận tín điều không thuộc bản tính con
người là "Giáo hoàng không thể sai lầm"! Theo
Thánh Kinh Tân Ước thì Chúa Jesus lập giáo hội Kitô
(không phải giáo hội Công Giáo La Mã) trên hòn đá Phêrô
(Simon, Peter, Saint Pierre means
Rocks) và Chúa phán: Quỉ hỏa ngục sẽ không phá
nổi giáo hội Kitô của Ngài. Từ
xưa đến nay chẳng có quỉ nào dám đến phá
giáo hội, vậy mà giáo hội đã tự phân hủy rã
ra từng mảnh. Mảnh lớn nhất là Tin Lành
523 triệu tín đồ, mảnh thứ nhì là Chính
Thống Giáo 167 triệu và Anh Giáo 67 triệu.
Căn cứ theo lịch
sử thì giáo hội Kitô Nguyên Thủy chỉ tồn
tại được 3 thế kỷ đầu Công Nguyên.
Kẻ đầu tiên tiêu diệt đạo Kitô nguyên
thủy là Constantine The Great, đóng đô tại
Constantinople, tức Istambul (Thổ Nhĩ Kỳ) ngày nay. Đạo Công Giáo La Mã không xuất phát từ Jesus
mà xuất phát từ tham vọng của đế quốc
La Mã. Tội ác của đế quốc La Mã là xóa
bỏ mọi dấu vết của Kitô Giáo Nguyên Thủy và
xóa bỏ nền văn minh khoa học của Hy Lạp.
Kết quả là nhân loại đã bỏ phí đi nhiều
thế kỷ sống trong sự tối tăm ngu
đốt. Công Giáo La Mã là thủ phạm gây ra thời
đại đen tối kéo dài trên ngàn năm trong tâm
hồn người Tây Phương và do đó người
Tây Phương đã gieo rắc biết bao tai
ương cho nhân loại. Công Giáo La Mã là tên
tội phạm lớn nhất chưa từng thấy trong
lịch sử loại người. Ngày
nay, giới trí thức Công Giáo Tây Phương đã có
rất nhiều người tỉnh ngộ. Họ
đã đem tâm hồn và trí óc viết nên những tác
phẩm có giá trị cao và đạt hiệu quả khai
sáng tâm linh hữu hiệu. Nhờ đó, chúng ta mới có
tài liệu quí báu khai sáng tâm linh của đồng bào mình.
Mọi người trí thức ngoại giáo
cũng như những người trí thức Công Giáo
tỉnh ngộ cần hợp tác với nhau để
đẩy mạnh cuộc khai sáng tâm linh của những
tín đồ cuồng tín. Đó là việc làm hết
sức cao cả và cần thiết để tránh cho dân
tộc ta khỏi lâm vào tình trạng bi thảm như đã
diễn ra tại Bosnia, Kosovo, Rwanda hoặc đang còn
tiếp diễn tại Ái Nhĩ Lan, thủ phạm chính
yếu của các cuộc chiến tranh tôn giáo là các tu sĩ
tham quyền hám lợi. Ngoài miệng, họ
nhân danh Thiên Chúa để làm chuyện này chuyện nọ,
thực chất, họ chỉ nhân danh lòng tham lam ích kỷ
của họ mà thôi.
Hòn đá Phêrô mà trên đó Jesus
hoặc Constantine xâydựng giáo hội thực chất chỉ là
đá vôi hoặc đất sét đang rã ra thành bùn. Nó
tự tan rã do bản chất gian ác lừa dối của
nó chứ sự thật khó ai phá nỗi nó vì nó là trung tâm
quyền lực của quỉ (satanic power). Có thể nói
Công Giáo La Mã thực chất là một tên khủng bố vĩ đại nhất trong li sử
loài người. Các cuộc thánh chiến, tòa án
dị giáo, các ghetto, holocausts đều là sản phẩm
phát sinh từ chính sách khủng bố của Vatican.
Gần hai ngàn năm qua, các lương tâm sáng suốt và
thiện lành của nhân loại đã bị chính sách
khủng bố của Vatican bịt
miệng. Lòng căm thù Vatican của nhân
loại đã ngất cao như núi. Do đó, cái
chết của Vatican rồi đây sẽ
phải là cái chết tức tưởi ô nhục
trước nỗi vui mừng của toàn thể nhân
loại. Vatican biết nó sắp chết. Công cuộc
vận động rầm rộ hiện nay trong thế
giới Công Giáo do tín điều Đức Mẹ
Đồng Công thực chất chỉ là một tiếng
kêu chới với của một kẻ sắp chết. Hình ảnh Đức Mẹ Nhân Từ là cái phao
cuối cùng mà Vatican bám víu với hy vọng cứu sống giáo
hội Công Giáo thêm một thời gian nữa. Trong
những thế kỷ qua, giáo hội Công Giáo đã sống
còn không phải do "ơn" của Thiên Chúa Ba Ngôi mà
thật sự do "ơn" của Đức Mẹ.
Cái thế giới Công Giáo trong những thế kỷ qua là
cái thế giới ngột ngạt của hạng nam tu
sĩ bệnh hoạn mà đa số đều mắc
bệnh bạo dâm (sadism). Đa số họ
chỉ có thể đã khoái cảm tột độ khi
được chứng kiến cảnh đổ máu
giống như Tây Ban Nha thích những trận đấu
bò.
Barbara Harrison, tác giả bài viết My Eve, My
Mary đăng trong Newsweek ngày 25.8.1997 đã viết rất
chí lý: "Thân xác Đức Mẹ Maria gắn liền
với giáo hội Công Giáo trong thế giới vật
chất. Nếu không có Đức Mẹ thì
cái giáo hội Công Giáo đã chết ngộp từ lâu vì cái
bầu không khí ngột ngạt thiếu dưỡng khí
của các tu sĩ đàn ông". (Her flesh anchors the
church in the material world. Without her, the church would be suffocating male
airless abstracts).
Chắc chắn vong linh của Đức
Mẹ Maria đã phải khóc nhiều lần về các
tội ác tầy đình của giáo hội Công Giáo , thực chất là giáo hội của ác
quỉ núp bóng của Người. Sự kiên nhẫn
của Đức Mẹ dù có lớn lao
đến đâu cũng phải tới một giới
hạn là vứt cái giáo hội của tội ác đó vào
lửa hỏa ngục. Mọi tổ chức chính trị
hay tôn giáo được xây dựng trên nền tảng phi
nhân và dối trá cuối cùng đều phải lãnh nhận
cái số phận thảm khốc ô nhục. Sự
chiến thắng vinh quang cuối cùng phải là sự
chiến thắng vinh quang của Lẽ Thật.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét