Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

TÍN ĐIỀU, HUYỀN THOẠI, ĐỨC MẸ, VƯỜN ĐỊA ĐÀNG, THÁNH TÍCH.

 Trước hết, tôi xin trình bày lược một số tín điều quan trọng về Đức Mẹ:
Tín Điều Đức Mẹ Đồng Trinh. Trong 300 năm đầu của kỷ nguyên, chúng ta chưa có đạo Công Giáo mà chỉ có đạo Kitô nguyên thủy (Early Christianity). Tín đồ Kitô Giáo nguyên thủy không xây nhà thờ, không có ảnh tượng, không có hệ thống tu sĩ, không tin Đức Mẹ đồng trinh. Họ tụ họp nhau trong các phòng hội (sinagogues) để đọc Thánh Kinh và noi gương cuộc sống của Chúa Jesus mà họ tin là Đấng Cứu Thế (Messiah/Christ). Kinh Thánh nói rõ Chúa Jesus là con trai đầu của Đức Mẹ chứ không phải là con trai duy nhất của Người. Trưởng nam Jesus có 4 em trai và 3 em gái. Em trai đầu của Chúa Jesus tên James làm giáo chủ đạo Kitô tại Jerusalem vào giữa thế kỷ I. Đức Mẹ có tới 8 người con làm sao còn đồng trinh được? Vì vậy tín điều Đức Mẹ Đồng Trinh là một điều vừa phản tự nhiên vừa khôi hài quái đản. Mọi vấn đề về đức tin Kitô trở nên phức tạp và gây ra các vụ tranh cãi, thậm chí gây ra chiến tranh đẩm máu là do tham vọng của Đế Quốc La Mã. Đứng đầu bởi Hoàng Đế Constantine The Great.
Sau hơn 300 năm, các hoàng đế La Mã ra sức diệt đạo Kitô nhưng đạo này vẫn bành trướng ra khắp đế quốc. Điều nguy hiểm là những đoàn quân Hung Nô (Mông Cổ) rất đông đảo và hùng mạnh đang đe dọa tràn ngập toàn đế quốc. Dân chúng đa số theo đạo Kitô chẳng những không chịu đi lính cho đế quốc La Mã mà còn sẵn sàng hợp tác với địch. Do đó, năm 313, Constantine ra lệnh bãi bỏ việc cấm đạo và chính thức công nhận đạo Kitô là đạo của toàn đế quốc. Ngày 20.5.325, Constantine ra lệnh triệu tập hội nghị các giám mục họp tại Nicaea (Thổ Nhĩ Kỳ) để thống nhất các giáo phái Kitô bằng cách buộc mọi người phải chấp nhận một bản tóm tắt các tín điều được gọi là "Niềm Tin của các Tông Đồ" (The Creed of Apostles), sau gọi tắt là Kinh Tin Kính. Trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ Đồng Trinh. Các Giám mục và tín đồ Kitô nguyên thủy chống lại Công Đồng Nicaea đều bị giết hoặc bị đưa đi đày. Riêng giáo phái Arius bị giết tới 3000 người. Năm 340, đạo Kitô của Constantine được đổi tên thành Công Giáo (Cattolica) nghĩa là Đạo Toàn Cầu (Universal Religion). Nhờ quyết định cực kỳ khôn ngoan của Constantine, đế quốc La Mã đã tạo lập được những đoàn quân thập tự (Crusaders) vừa đông đảo vừa cuồng tín để bảo vệ đế quốc La Mã và có thể xử dụng để chinh phục toàn cầu dưới khẩu hiệu "IN HOC SIGNO VINCES" (Dưới dấu hiệu thánh giá ta sẽ chiến thắng toàn cầu!) Tự Điển Bách Khoa Công Giáo (The Catholic Encyclopedia vol.4, p.300) đã viết rõ như sau: "Constantine ưu đãi Kitô Giáo hoàn toàn vì lý do chính trị và ông ta đã được xem như là một bạo chúa được ơn soi sáng để xử dụng tôn giáo vào mục tiêu thực hiện chính sách của mình". (Constantine favored Christianity merely from political motives and he has been regarded as an enlightened despot who made use of religion only to advance his policy). Như vậy rõ ràng một điều là các vua La Mã đã ra sức diệt đạo Kitô nguyên thủy để lập ra đạo Công Giáo. Đạo Công Giáo là Đạo của đế quốc La Mã nên danh từ Công Giáo La Mã thật là chính xác (Roman Catholic). Đạo Công Giáo đã được lập nên trên nấm mồ của Kitô Giáo nguyên thủy và hoàn toàn đi ngược lại giáo lý đạo Kitô lúc ban đầu. Kitô giáo nguyên thủy là Độc Thần Giáo đúng nghĩa vì chỉ thờ Một Thiên Chúa. Công Giáo La Mã thực sự là Đa Thần Giáo vì thờ cả Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Maria và rất nhiều Thánh. Đây là một nhận định hết sức quan trọng về lịch sử, nếu không chú ý đến những điều trình bày trên đây, ta sẽ dễ dàng bị các sử gia Công Giáo lừa bịp.
Trong bài tựa cuốn Việt Nam Giáo Sử (trang 20), Linh Mục Phan Phát Huồn viết: "Máu – của các thánh tử đạo – đã nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quí làm cho đất phì nhiêu tốt tươi. Lấy võ lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người Công Giáo thì chẳng những Công Giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm...Các Hoàng đế La Mã muốn tiêu diệt đạo Công Giáo thì ngày nay trên thủ đô Roma phất phới trước gió cách oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền bính của giáo hội".
Sử gia Công Giáo Linh Mục Phan Phát Huồn đã cao hứng ca ngợi những người cuồng tín tử đạo Việt Nam quá trớn mà quên rằng các hoàng đế La Mã không thể nào tiêu diệt đạo Công Giáo! Các hoàng đế La Mã chỉ tiêu diệt đạo Kitô nguyên thủy để lập đạo Công Giáo mà thôi. Từ năm 313 trở đi, các hoàng đế La Mã chỉ lo củng cố chứ không bao giờ diệt đạo Công Giáo cả. Xin đề nghị Linh Mục sử gia Phan Phát Huồn hãy đọc kỹ lịch sử trước khi viết sách sử, dù là giáo sử thế giới hay giáo sử Việt Nam!
Về việc "máu tử đạo làm cho đất phì nhiêu tốt tươi" và làm cho "Công Giáo càng sinh sản đông đúc thêm" là do chính sách diệt đạo của các vua chúa Việt Nam thiếu cương quyết và do thực dân Pháp làm cho Công Giáo phát triển mạnh chứ chẳng phải máu tử đạo có sức mạnh thiêng liêng nào. Nếu các vua chúa Việt Nam biết noi gương như người Nhật đã làm vào năm 1638 thì liệu Công Giáo Việt Nam có ngóc đầu lên nổi không? Nếu thực hiện được một chính sách diệt đạo đúng đắn và khoa học thì máu tử đạo có "thiêng" đến mấy cũng không cứu được sự tuyệt chủng nhục nhã của đạo Công Giáo!
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam là con đẻ của thực dân Pháp. Các cố đạo thừa sai thường nói: "Nước Pháp là trưởng nữ của Hội thánh và là Mẹ của giáo hội Việt Nam". (France, fille ainée de L’Eglise et Mère du Vietnam).
Đám trí thức Công Giáo mất gốc làm bộ yêu thương tổ quốc Việt Nam ra tờ báo lấy tên là "Đất Mẹ", nhưng ai cũng hiểu đó chẳng phải là đất Mẹ Việt Nam mà là đất "mẹ Tây" và của "bà ngoại Vatican".
Công Giáo La Mã không còn là Kitô giáo đúng nghĩa vì nó đã trở thành đa thần giáo. Việc thờ kính Đức Mẹ Maria và việc bịa đặt các tín điều về Đức Mẹ hoàn toàn do Công Giáo La Mã sáng tạo sau khi các hoàng đế La Mã đã diệt gọn đạo Kitô nguyên thủy và xóa bỏ hầu hết các dấu vết của đạo này vào đầu thế kỷ thứ tư. Các tín điều về Đức Mẹ đều không có nền tảng thánh kinh, trái lại tất cả đều trắng trợn đi ngược lại với chính các sách kinh Tân Ước là nền tảng của Kitô Giáo. Suốt 16 thế kỷ, Công Giáo La Mã thống trị Âu Châu đã đưa lên dàn hỏa tới 10 triệu người, đa số là giới trí thức, vì đã dám chỉ trích các tín điều vô lý ấy. Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216) sáng lập ra hệ thống tòa án tôn giáo (Inquisition) để xử tội mọi người chống đạo, bị ghép vào tội rối đạo (heretic) đều bị đưa lên dàn hỏa thiêu sống. Trong lịch sử giáo hội Công Giáo có rất nhiều giáo hoàng giết người, nhưng Giáo Hoàng Innocent III vượt trên tất cả các giáo hoàng sát nhân khác vì tòa án dị giáo hiện diện khắp Âu Châu trên 500 năm và sau này được đoàn quân xâm lược Tây Ban Nha đưa sang áp dụng tại các quốc gia Trung Nam Mỹ thuộc địa của họ.
Sách Babylon Mystery Religion của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow Evanlistic Association, P.O. Box 124 Riverside, CA 92502) trang 86 viết: "Một số giáo hoàng can tội sát nhân nhưng Innocent III vượt trên mọi giáo hoàng tiền nhiệm về tội giết người... Trong hơn 500 năm, các giáo hoàng dùng tòa án tôn giáo để duy trì quyền lực chống lại bất cứ ai tỏ ra không đồng ý với các giáo điều của giáo hội La Mã" (A number of the popes had committed murders, but Innocent III surpassed all of his predecessors in killing... For over five hundred years, popes used the Inquisition to maintain power against those who did not agree with the teachings of the Roman Church). Cũng chính Innocent III xúi giục vua Pháp xâm lược nước Anh vì tại nước này đang có mầm mống chống giáo hoàng. Điều này do sử gia Loyd M. Graham viết trong tác phẩm Deceptions and Myths of the Bible như sau: Innocent III even urged the king of France to invade England because something had happened there that threaten the divine right of popes". Graham viết tiếp: "Đế quốc Công Giáo luôn luôn là mục tiêu của giáo hội Công Giáo, một đế quốc bao gồm toàn Âu Châu và Bắc Phi. Sự kiện này khởi đầu từ Constantine" (Ever and always a Catholic Empire was the objective of the Catholic Church, an empire with all Europe and Northern Africa for its domain. It began under Constantine - page 469). Nhân tiện cũng xin nói thêm về một điều mỉa mai của lịch sử là giáo dân Ái Nhĩ Lan đã mấy thế kỷ chống nước Anh và Tin Lành để khôi phục lãnh thổ và cũng để giữ vững lòng trung thành với Tòa Thánh La Mã. Họ đâu có ngờ kẻ bán đứng nước họ cho Anh quốc chính là Giáo Hoàng Adrian IV. Ngày nay các sử gia đã tìm được thư của Giáo Hoàng Adrian IV viết cho vua Anh, Henry II như sau: "Ái Nhĩ Lan và các đảo thuộc về nó nay đã trở lại đạo, như vậy đã thuộc về giáo hội La Mã. Nếu nhà vua muốn vào Ái Nhĩ Lan thiết lập luật pháp để buộc mọi người tuân phục và bắt mọi người đóng thuế cho Tòa Thánh thì ta sẵn sàng chuyển nhượng nước đó cho nhà vua" (Ireland and all those Islands which have received the faith belong to the Church of Rome. If you wish to enter that island to cause law to be obeyed and Saint Peter Pence to be paid by every house, it will be pleased to us to assign it to you – page 470).
Lịch sử thế giới đã có đầy đủ mọi tài liệu chứng tích thống kê tội ác giết người thật khủng khiếp của giáo hội La Mã do Constantine lập ra từ thế kỷ thứ tư. Trong 16 thế kỷ, số người bị giết dưới bàn tay của những người nhân danh Chúa như sau: 3 triệu tín đồ Hồi Giáo, 10 triệu tín đồ Công Giáo bị giết do tòa án tôn giáo, 14 triệu tín đồ Kitô ngoài Công Giáo (Tin Lành, Chính Thống, Anh Giáo v.v...) 30 triệu chết trong các cuộc chiến tranh giữa các vua chúa Công Giáo Âu Châu tranh chấp quyền lợi với nhau hoặc với giáo hoàng (page 463).
Điều đáng đau buồn là các cuộc tranh chấp đẫm máu trên phần lớn là do sự bất đồng với nhau giữa các giáo phái Kitô về các tín điều có liên quan đến Đức Mẹ Maria. Đức Mẹ là hiện thân của tình mẫu tử đã bị giáo hội Công Giáo biến thành một nguyên nhân của biết bao vụ thảm sát đẫm máu giữa những người anh em cùng thờ một Chúa và cùng yêu một Mẹ. Thật không có gì đau xót và vô lý cho bằng!
NGUỒN GỐC VỀ THẦN THOẠI ĐỨC MẸ ĐỒNG TRINH
 Một trong những điều dị biệt nhất giữa Công Giáo và Tin Lành là vấn đề đồng trinh của Đức Mẹ. Sách Babylon Mystery Religion dành ra 2 chương để nói về điều này p. 7-22), tôi xin tóm lược như sau:
Việc tôn thờ ảnh tượng Mẹ Bồng Con xuất phát từ Babylon cách đây 6000 năm. Dân Babylon đã có huyền thoại Chúa Cứu Thế (Kitô/Messiah/Savior) từ thời đó. Chúa Cứu Thế của họ là Tammuz và mẹ là nữ thần Semiramis. Cho đến nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tượng Mẹ bồng con ở Babylon (phía Iraq) cũng như tại Ai Cập. Hiện ở Ai Cập còn tồn tại nhiều đền thờ cổ với tượng Mẹ bồng con. Đó là tượng thần nhi đồng Horus ngồi trên đùi của mẹ là nữ thần Isis. Người Ai Cập đã nhập cảng tục lệ này từ Babylon và họ sáng tác ra thần thoại về tượng mẹ bồng con như sau: Bà Isis thụ thai do phép của Thần Mặt Trời (Sun God) sinh ra một người con thần thánh (a divine son) đặt tên là Horus. Lúc Horus còn là hài nhi, bị thần Bão Tố Typhoon rượt bắt nên bà Isis phải mang con chạy trốn và bị thất lạc con mình. Về sau bà gặp lại đứa con mới biết chính con mình là Thần Mặt Trời!
Vào thế kỷ đầu Công Nguyên, các tu sĩ lập đạo Kitô đã ăn cắp thần thoại Ai Cập này để phóng tác ra chuyện Bà Maria thụ thai do phép Đức Chúa Thánh Thần sinh ra con trai của Thiên Chúa (Son of God) được ít ngày thì bị vua Herod rượt đuổi nên phải chạy trốn sang Ai Cập. Đến khi Jesus lên 12 tuổi thì bị lạc tại Đền Thánh. Nhưng bà Maria vẫn tin tưởng con mình là Đức Chúa Trời và đồng thời cũng là chồng của mình, còn ông Joseph chỉ là chồng hờ để che mặt thế gian. Các tu sĩ lập đạo Kitô cũng như tu sĩ Ai Cập đều là những kẻ bệnh hoạn mang mặc cảm loạn luân với mẹ như chuyệp Odipus của Hy Lạp loạn luân với mẹ là Jocasta. Kinh Thánh Tân Ước của Luca viết: "Thiên Thần nói với bà Maria là Chúa Thánh Thần sẽ đến cùng Người và Thiên Chúa Tối Cao sẽ "phủ" người, cho nên vật thánh thiện sẽ được sinh ra bởi Người được gọi là Thiên Chúa". (And the Angel answered and said to her: The Holy Spirit shall come upon thee and the power of the Highest shall overshadow thee, therefore also that holy thing which shall be born of thee shall be called the Son of God – Luke I:35).
Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng thực ra là một ngôi, Jesus cũng chính là Đức Chúa Thánh Thần. Nếu Đức Chúa Thánh Thần "phủ" bà Maria thì cũng chính là Jesus đã "phủ" mẹ mình chẳng khác gì chuyện thần thoại Ai Cập: Bà Isis được thần Mặt Trời "phủ" sinh ra Horus và chính Horus là Thần Mặt Trời! Xin đọc thêm Deceptions and Myths of The Bible, p. 377).
Những tín đồ Kitô Giáo nguyên thủy không để ý đến chuyện loạn luân nói trên vì họ không tin bà Maria đồng trinh.
Kinh thánh Tân Ước kể rõ tên 4 em trai của Jesus là James, Joses, Simon và Judas (không phải Judas Escariot) và 3 cô em gái nhưng không nêu tên (Matt 13:55-56). Kinh Thánh cũng ghi rõ Jesus là con trưởng của bà Maria chứ không phải con duy nhất (first born son – Matt 1:25). Kẻ duy nhất viết Tân Ước đã xuyên tạc nữ tính của bà Maria thành "đồng trinh" là ông Matthew [ Matthew là tên tác giả viết cuốn Tân Ước, vì vậy người ta đặt tên cuốn kinh nầy là Matthew.]
y đã trích dẫn kinh Cựu Ước nói tiên tri: "Chúa Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi người mẹ Đồng Trinh". Sự gian trá của Matthew đã bị các học giả nghiên cứu thánh kinh vạch mặt. Các học giả đã tìm khắp Thánh Kinh Cựu Ước không hề có một chữ "Đồng Trinh" nào cả vì dân tộc Do Thái từ xưa đến nay không có ý niệm này. Họ chỉ phân biệt người đàn bà có chồng (married) và chưa chồng (unwed) mà thôi. Chỉ có một câu duy nhất của tiên tri Isaiah nói rằng: "Chúa Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người mẹ trẻ". Nguyên văn tiếng Hebrew là ALMAH nghĩa là trẻ (young) chứ không phải là đồng trinh (virgin)!
Sau khi tiêu diệt đạo Kitô nguyên thủy, các tu sĩ ở Vatican triệu tập công đồng Ephesus năm 431 để thiết lập giáo lý về Đức Mẹ. Tại Ephesus có đền thờ nữ thần Diana của La Mã vốn được mệnh danh là nữ thần Đồng Trinh (Goddess of Virginity). Tại cuộc họp này, các lãnh đạo giáo hội chủ trương biến Đức Mẹ Maria thành nữ thần Diana đồng trinh, mục đích là để thu hút các tín đồ của Đa Thần Giáo La Mã. (Babylon Mystery Religion – p.11).
Tín điều Đức Mẹ Chúa Trời (Master Dei/Mother of God). Danh hiệu "Đức Mẹ Chúa Trời" bắt nguồn từ Babylon. Dân Babylon tôn thờ thần Nimrod và tin rằng chính Nimrod là đức Chúa Trời (Baal) và mẹ của Nimrod được tuyên xưng là "mẹ Chúa Trời", tiếng Babylon là "Mea Domina". Theo sử gia Ý Hislop thì danh hiệu này được chuyển sang tiếng Ý là "Madonna". Các lãnh đạo giáo hội Công Giáo đồng hóa La Mã không ngoài mục đích thu hút tín đồ đông đảo vì họ đễ dàng cải đạo sang niềm tin tương tự. Hơn nữa, mục tiêu của chúng là biến Jesus thành Thiên Chúa cho nên một khi đọc kinh, tuyên xưng bà Maria là Mẹ Chúa Trời, đương nhiên tín đồ sẽ tự kỷ ám thị để tin rằng Jesus là Thiên Chúa.
Danh hiệu Đức Mẹ Mân Côi. Tháng năm là tháng hoa hồng, còn được gọi là tháng Mân Côi dâng hoa kính Đức Mẹ. Chuổi hạt dùng để đếm số lần đọc kinh Kính Mừng được gọi là Chuỗi hạt Mân Côi. Đức Mẹ Mân Côi là Đức Mẹ chuyên việc lắng nghe những lời cầu kinh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Việc lần hạt Mân Côi dựa trên giáo lý Công Giáo cho rằng Đức Mẹ là trung gian (Mediator) giữa Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa được mô tả là một vị thần khó tính, dễ nỗi giận, rất hung dữ và hình phạt của Ngài rất khủng khiếp. Các tu sĩ lập đạo cố tạo ra một Thiên Chúa ghê gớm buộc mọi người phải sợ. Tín đồ đồng nghĩa với "kẻ biết kính sợ Chúa" (God fearer). Tín đồ muốn được ơn cứu chuộc và được bênh vực cần phải chạy đến cầu cứu các tu sĩ.
Bên cạnh Thiên Chúa hung dữ, các tu sĩ lập đạo tạo ra một bà mẹ nhân từ biết lắng nghe và sẵn sàng làm trung gian can thiệp để Thiên Chúa bớt giận và chấp thuận ban cho kẻ cầu nguyện những ơn này ơn nọ. Các tu sĩ lãnh đạo Công Giáo đã chọn Mẹ Maria làm đấng trung gian thần thánh đó. Linh Mục Greeley, Giáo sư Đại học Dublin mới đây tuyên bố: "Bởi sống trong một thế giới bị đòi hỏi phải sợ Chúa, nhân loại cần phải có ai đó giúp đỡ chúng ta chống lại sự sợ hãi" (Because in a world asked to be God-fearing, humankind requires someone to help us fight the fear). Đức Mẹ trở thành một trung gian đắc lực của Vatican: Trong thời chiến, Vatican biến Đức Mẹ thành vị tướng quân sự thúc quân ra trận. Trong những đoàn thập tự quân thường có những lá cờ về hình Đức Mẹ với dòng chữ "Hãy tiến lên, những người lính của Chúa Kitô" (onward Christian soldiers!). Trong thời bình, Đức Mẹ biến thành Nữ Vương Hòa Bình (Regina Pacis), các tu sĩ vẫn hốt bạc bằng những thùng tiền đặt bên cạnh các tượng ảnh của "Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp", bằng "Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ" với những bản liệt kê in sẵn chỉ cần đánh dấu (X) vào những ô vuông bên cạnh: Xin được khỏi bệnh, xin được khỏe mạnh, xin được thành công trong việc làm ăn, xin cho tìm thấy người yêu lý tưởng... gửi về "Đền Thánh" bằng "Bussiness Reply Mail" [Thư hồi báo. Tem sẽ được trả bởi ngươi nhận.] với ghi chú "Postage will be paid by addressee", tất nhiên trong thư phải kèm theo chi phiếu vô hạn định!
Tuy được tuyên xưng là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, trong thực tế, Đức Mẹ đã trở thành một món hàng hấp dẫn hốt bạc cho các dòng tu và cha cố. Giáo lý dạy Đức Mẹ là Đấng Trung Gian hoàn toàn đi ngược với Thánh Kinh vì Thánh kinh đã xác định chỉ có một mình Chúa Jesus là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. (There is one mediator between God and men, the man Christ Jesus – I Thimothy 2:5). Giáo Hội Công Giáo khuyến khích giáo dân lần chuỗi Mân Côi và được giáo dân ngoan ngoãn hưởng ứng. Người ta tính ra có tới 46.296 lời kinh Kính Mừng được đọc trong một giây. Đến Thiên Chúa cũng không nghe kịp chứ đừng nói tới Đức Mẹ. (Babylon Mystery Religion P.18). Việc lần hạt cầu kinh là một thói quen trong tôn giáo của Ai Cập từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Người Do Thái cũng bắt chước làm theo. Trong thời gian giảng đạo tại Jerusalem, Chúa Jesus đã công khai ngăn cấm việc đọc kinh nhắc lại bằng cách lần hạt. Ngài nói: "Khi cầu nguyện, anh em đừng nhắc đi nhắc lại vô ích như những người ngoại giáo vì họ tưởng rằng lời cầu nguyện của họ sẽ được lắng nghe chỉ vì nói nhiều. (When ye pray, use not vain repetitions as the heathen do: for they think that they shall be heard do: for they think that they shall be heard for their much speaking – Matthew 6:7). Những kẻ cầu nguyện Chúa qua trung gian Đức Mẹ bằng những chuỗi hạt Mân Côi chỉ có thể làm cho Chúa nổi giận. Chúa không thể chấp nhận các lời cầu nguyện được vì chính họ đã làm những điều Chúa ngăn cấm!
Tín điều Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. (The dogma of Immaculate Conception). Tín điều này bắt đầu từ chuyện Vườn Địa Đàng (Garden of Eden) do các tu sĩ lập đạo Do Thái viết Cựu Ước sao chép từ chuyện thần thoại Babylon là chuyện "Gan Eden", tiếng Babylon có nghĩa là "Khu Vườn Phương Đông".
Babylon là xứ sở văn minh nhất ở vùng Cận Đông từ 5500 năm trước Công Nguyên. Đến thế kỷ 4 trước Công Nguyên, do sự đổi dòng bất ngờ của con sông Euphrate gây trận lụt lớn chưa từng thấy, chôn vùi toàn vùng Babylon xuống dưới những lớp cát sa mạc. Từ đó, loài người ít ai biết tới Babylon và kho thần thoại của nó. Mãi đến giữa thế kỷ 19, các nhà khảo cổ mới tìm thấy Babylon (cách thủ đô Baghdad cuả Iraq 80 dặm về phía Nam đến biên giới Kuweit ngày nay). Sau hơn một thế kỷ đào xới, các nhà khảo cổ đã tìm thấy hàng trăm ngàn tấm đất sét nung khô với chữ viết giống như những cái nêm cối (cuneiform) và người ta đã đọc được những chuyện thần thoại giống như những chuyện kể trong kinh Thánh Cựu Ước Do Thái với những tên nhân vật hao hao giống nhau. Những chuyện thần thoại của Babylon đã lan tràn ra khắp các vùng Cận Đông. Đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên, Alexander The Great (A-lịch-sơn Đại đế) chiếm Cận Đông thì ngôn ngữ Hy Lạp trở thành ngôn ngữ chính của vùng này. Các chuyện thần thoại đó được dịch sang Hy Lạp và truyền sang Âu Châu. Có nhiều danh từ của Babylon trở thành căn ngữ trong nhiều ngôn ngữ ở Âu Châu, nhưng vì Công Giáo La Mã tiêu diệt Kitô Giáo nguyên thủy, tiêu diệt luôn văn hóa Hy Lạp và các dấu vết thật về Chúa Jesus trong thế kỷ 4 nên sau này người ta đã không biết nguồn gốc của các chuyện kể trong Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước. Các công trình lớn lao của ngành khảo cổ đã là chiếc chìa khóa vạn năng mở toang cánh cửa bí mật của quá khứ đen tối do Công Giáo La Mã đã tạo ra để che dấu sự lừa dối. Trước đây, ai cũng tưởng nhân vật Abraham là có thật trong lịch sử lập quốc Do Thái, nhưng nhờ khoa khảo cổ, người ta mới biết Abraham chỉ là nhân vật thần thoại của Babylon.
THẦN THOẠI JESUS CHÚA CỨU THẾ
 Thần thoại Babylon kể rằng: Thần Đất Terah sinh ra một "vị thần con" tại thành phố UR (có nghĩa là Ánh Sáng) tên là Abarama (a god) và thần Abarama lấy em gái mình là Sarai làm vợ.
Các tu sĩ lập đạo Do Thái vớ lấy chuyện này để viết Cựu Ước Sáng Thế Ký (Genesis) phịa chuyện lập quốc Do Thái: Cha của Abraham (hoặc Abrama), là Terah vốn sinh sống tại thành phố UR. Sau này Abraham lớn lên đã lấy em gái mình là Sarah làm vợ và được các tộc trưởng Do Thái tại Babylon bầu làm lãnh tụ dẫn dân Do Thái rời Babylon về vùng đất hứa là Canaan [Nước Palestine bây giờ.] để lập quốc. Chuyện thần Đất Terah truyền tới Âu Châu vào thế kỷ 3 trước Công Nguyên và trở thành căn ngữ của tiếng La Tinh "Terra" và tiếng Pháp "Terre" nghĩa là Đất.
Thần thoại Kitô cũng xuất phát từ Babylon từ nhiều ngàn năm trước khi có đạo Do Thái. Ta có thể tìm thấy dấu vết của thần thoại này ngay trong sách Sáng Thế Ký (Genesis) của Cựu Ước.
Sách Sáng Thế Ký kể rằng: " Những đoàn người du mục đến định cư tại Shinar và lập nên thành phố Babylon (có nghĩa là Cổng Trời: Gate of God). Babylon về sau trở thành đế quốc (Gen 11:2). Tại đây có hai con sông lớn là Euphrate và Tigris. Vùng đồng bằng của hai sông này rất phì nhiêu nhưng có rất nhiều thú dữ ăn thịt người (Exodus 23:29-30). Một người thợ săn rất hùng mạnh tên là Nimrod (the mighty hunter before God – Gen 10:8-9) diệt thú dữ cứu dân. Về sau lên làm vua cai trị rất anh minh. Vương quốc của Người gồm có Erech, Accad và Calneh (Gen 10:10). Khi Nimrod chết, dân Babylon vì quá yêu thương đã khóc lóc thảm thiết. Bà vợ của Nimrod là Semeramis chặt xác Nimrod thành những miếng nhỏ đem nướng chín gửi đi khắp nơi cho dân chúng ăn cho bớt đau khổ (Judges 19:29, Sam 11:17). Bà Semeramis lúc đó đang mang thai đã hứa với dân chúng rằng bà sẽ sinh một con trai đặt tên là Tamuz. Con trai này sẽ là Chúa Cứu Thế và là Nimrod tái sinh. Từ đó, Tamuz được dân chúng mong mỏi ra đời cứu thế. Đó là ý niệm đầu tiên về Chúa Cứu Thế (Savior) mà người Do Thái dịch ra là Messiah. Đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên, do đế quốc Hy Lạp chiếm toàn Cận Đông và Âu Châu nên thần thoại Babylon về Chúa Cứu Thế được dịch sang tiếng Hy Lạp là CHRISTOS (Savior) người Hán phiên âm là Cơ Đốc. Babylon nằm giữa hai dòng sông Euphrate và Tigris được người Hy Lạp đặt tên là Meso-Potamia (Meso: Middle, Potamia: Rivers). Người Hán dịch thành Lưỡng Hà Châu.
Từ huyền thoại Chúa Cứu Thế Nimrod và Talmuz, người Babylon lập ra đạo thờ Thiên Chúa mà họ gọi là BAAL hoặc BAL vì họ tin rằng Nimrod chính là Bal. Cũng tương tự như người Công Giáo thờ Jesus vì tin rằng Jesus là Chúa Kitô và Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa, cũng chính là Thiên Chúa Toàn Năng!
Đạo thờ Thiên Chúa BAL thường bắt con nít hoặc các thiếu nữ làm vật hy sinh tế thần. Tượng thần rất lớn, cao cỡ 10 mét, hai bàn tay thần to bằng hai cái chảo lớn được đun nóng từ cái lò trong tượng thần. Các tu sĩ tế thần (được gọi là CAHNA) ném các nạn nhân trần truồng vào hai bàn tay của thần. Trong lúc đó các tu sĩ nhảy múa, đánh trống và phèng la inh ỏi để khỏa lấp tiếng thét ghê hồn của các nạn nhân đang bị nướng sống và tiếng khóc thảm thiết của thân nhân các nạn nhân. Từ đó phát sinh ra danh từ CAHNA-BAL (Priest of Bal) có nghĩa là "Những kẻ ăn thịt đồng loại" vì sau khi tế thần, các tu sĩ đạo thờ thần Bal chặt nhỏ xác các nạn nhân lúc đó đã chín để chia nhau ăn.
Tục lệ dã man này của Babylon du nhập vào đạo Công Giáo La Mã thành "Phép Mình Thánh Chúa" mà ta thấy trong các lễ Mi-sa ở nhà thờ hiện nay. Giáo dân lên rước lễ tưởng tượng được ăn thịt uống máu thật của Jesus. Họ đã trở thành một lũ mọi ăn thịt người mà Tây Phương gọi là CANNIBAL (Anh Ngữ) hoặc CANNIBALE (Pháp Ngữ) là danh từ có xuất xứ từ CAHNA-BAL của Babylon mà ra.
Việt Nam là một dân tộc có tinh thần nhân bản, ai cũng phải rùng mình ghê sợ khi nghe chuyện tế thần bằng người sống như đạo thờ thần Bal của Babylon. Chúng ta chưa từng nghe thấy những chuyện dã man tương tự trong lịch sử dân tộc. Tổ tiên chúng ta chỉ cúng Trời bằng bông hoa, trái cây hoặc bánh chưng bánh dầy được làm ra từ các sản phẩm nông nghiệp.
Cách thờ cúng của dân tộc ta và cách thờ cúng của Babylon (hoặc Công Giáo) phản ảnh hai nền văn hóa khác hẳn nhau. Một bên là nền văn hóa nông nghiệp nhân bản, còn bên kia là nền văn hóa du mục phi nhân bản.
Người Việt Nam từ bỏ đạo của ông bà tổ tiên đi theo đạo Công Giáo là đã từ bỏ cái nguồn gốc nhân bản của mình để trở thành kẻ mọi ăn thịt người (cannibal) của nền văn hóa du mục phi nhân bản. Họ cứ tưởng đi theo đạo của Tây Phương là đã trở thành kẻ văn minh, rồi lên mặt khinh rẻ dân tộc và nền văn hóa nhân bản của tổ tiên. Họ đâu có ngờ họ đã trở thành những kẻ mọi rợ ăn thịt người, dù chỉ là tưởng tượng. Từ tâm linh văn minh biến thành tâm linh bán khai mọi rợ mà vẫn không biết mình đã biến thành bán khai mọi rợ từ lúc nào và do đâu!
Cũng từ cái thần thoại Chúa Cứu Thế Nimrod mới phát sinh danh từ MESSIAH của Do Thái có nghĩa là Chúa Cứu Thế (Savior) ngụ ý "Vua Nimrod mới hoặc "vua David mới" (Messiah means a new King David). Người Do Thái định nghĩa MESSIAH (tiếng hy Lạp là Christos – Anh Pháp Christ) phải là "đấng giải thoát mọi kẻ bị áp bức" (to let the oppressed go free – Isaiah 58:6). Họ không tin Jesus là Messiah/Christ vì Jesus chẳng cứu được ai.
Người Công Giáo đã lầm lẫn đồng hóa Jesus với Kitô. Jesus là người thật, sinh khoảng năm thứ 4 trước Công Nguyên, bị đóng đinh năm 29 lúc 33 tuổi, cao 1m82 và cân nặng 79 kí. Kitô là huyền thoại xuất phát từ Babylon và được nhập cảng từ đạo Do Thái. Các tu sĩ lưu manh lập đạo Kitô đã viết Tân Ước bằng cách dẫn chứng bậy bạ những điều nói trong Cựu Ước liên quan đến Messiah để biến Jesus thành Kitô. Sự việc Jesus được Kitô hóa (Jesus was Christed) đã được các nhà khoa học, các học giả và nhất là các nhà khảo cổ vạch mặt. Kẻ viết Tân Ước cố ý gán ghép mọi dẫn chứng giả tạo để người đọc nghĩ rằng Jesus thuộc dòng dõi vua David vì người Do Thái định nghĩa Messiah (Kitô) là vua David Mới sẽ được sinh ra để cứu dân tộc Do Thái. Về sau, các tu sĩ đạo Kitô đã biến ý nghĩa Messiah lúc ban đầu chỉ có nghĩa là anh hùng dân tộc (Savior of the People) trở thành Đấng Cứu Chuộc toàn thể loài người (The Redeemer). Nền văn hóa du mục phi nhân bản Babylon là linh hồn của đạo Công Giáo đã làm cho người Công Giáo Việt Nam mất hết dân tộc tính. Nước rửa tội là một thứ a-xít đã hủy diệt cái ánh hào quang dân tộc trên đầu của mọi người Công Giáo Việt Nam! Vào năm 40, hai bà Trưng đã cứu dân tộc ta chống quân xâm lược phương Bắc để dành độc lập cho tổ quốc. Hai Bà Trưng là hai Chúa Cứu Thế của dân tộc ta. Hai Bà Trưng xấp xỉ bằng tuổi Jesus, là những vị anh hùng đích thực của dân tộc thì người Công Giáo Việt Nam lại coi thường và khinh rẻ. Trái lại, cũng vào thời điểm của Jesus thì dân tộc ta bị Tàu đô hộ, một phần vì Jesus thất học chẳng biết nước Giao Chỉ nằm ở nơi nào trên thế giới, phần khác Jesus còn mãi đi giảng đạo ở Jerusalem, đâu có giúp ích gì cho đất nước Việt Nam? Và giả sử có muốn cứu Việt Nam cũng chẳng cứu nỗi vì chính Jesus cũng không cứu nỗi bản thân và dân tộc Do Thái. Vậy hà cớ gì mà Công Giáo Việt Nam phải tôn thờ Jesus làm Chúa Cứu Thế của mình? Sự ngu dốt chứ không phải Đức tin đã là nguyên nhân chính yếu dẫn đến cái chết của những người tử đạo Việt Nam. Vinh danh tử đạo Việt Nam là vinh danh sự ngu dốt và tôn vinh tinh thần phản dân tộc. Người Công Giáo Việt nam hãy tỉnh ngộ để sớm bỏ cái độc chất văn hóa Babylon trong người ngõ hầu sớm biết từ bỏ kiếp sống con chiên (con lừa) để làm người đứng thẳng (homo-erectus) trước khi trở lại làm người Việt Nam. Tổ quốc Việt Nam có những người công dân đích thực Việt Nam anh hùng bất khuất dám hiên ngang tiêu diệt mọi kẻ thù xâm lược, bảo tồn lãnh thổ và danh dự làm người với truyền thống văn hóa cao không kém gì ai trên trái đất này.
Không phải đến bây giờ người ta mới nhận ra cái độc hại của nền văn hóa du mục Babylon, mà ngay trong sách Mặc Khải (Tân Ước của Gioan) cũng đã nguyền rủa cái nền văn hóa này "Huyền thoại, Babylon vĩ đại, là mẹ của các con điếm và các chuyện kinh khủng trên trái đất này". (Mystery, Babylon the great, the mother of harlots and abdominations of the earth – Rev. 17:1-6). Sách Mặc Khải Tân Ước muốn ám chỉ "mẹ của các con điếm" đó là ai; nếu không phải là cái giáo hội thối nát hư hỏng được xây dựng trên những huyền thoại của Babylon?
HUYỀN THOẠI VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
Lịch sử nhân loại đã nhận ra cái hậu quả ghê gớm của huyền thoại "Gan Eden" kể chuyện Adam và Eva phạm tội. Chỉ vì dám ăn trái táo trị giá mấy chục cents (xu) mà cả loài người phải chết, đàn ông phải vất vả cực khổ mới kiếm được miếng ăn và đàn bà phải mang nặng đẻ đau mới sinh được đứa con của mình! Cái lỗi nhẹ đó của Adam đã đưa đến hậu quả là Con một của Thiên Chúa phải mất công xuống thế gian đầu thai làm người, phải chịu đánh đòn nhục nhã và chết trần truồng trên thập giá chỉ để "Chuộc tội tổ tông"? Nhưng cái chết thảm của Jesus cũng hóa thành vô ích vì tất cả cái hậu quả của tội tổ tông trên số phận của loài người vẫn còn nguyên vẹn: Con người vẫn phải chết, đàn ông vẫn phải vất vả kiếm ăn và đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau như lúc Jesus chưa "cứu chuộc". Thật là xảo trá bịp bợm, Jesus chẳng cứu được ai, vậy tại sao lại cứ tôn vinh y là "Chúa Cứu Thế"? Khoa học khảo cổ đã chứng minh chuyện Vườn Địa Đàng chỉ là chuyện thần thoại bịa đặt, vậy làm gì có tội tổ tông thật đâu mà phải cứu chuộc? Ngay cả trường hợp chuyện Vườn Địa Đàng là thật chăng nữa thì hành vi của Adam cũng không phải là tội. Triết gia Baruch Spinoza (1632-1677) bậc thầy tư tưởng Tây Phương được xếp ngang hàng với Lão Tử của Đông Phương đã viết: "Ý muốn hay quyết định của Adam chẳng phải là xấu và cũng chẳng chống lại ý muốn của Chúa vì Chúa là nguyên nhân của điều đó... Chúa muốn kẻ ác hối hận tại sao Ngài cấm Adam ăn trái táo khi Ngài Phú cho ông ta ý muốn trái ngược?" (Adam’s will or decision was neither evil, properly speaking, contrary to God’s will, it follows that God can be its cause... God wants the wicked to repent, why did he forbid Adam to eat of the tree when he ordained the opposite – The Enlighten Minds by Stephen, p.142-143).
Một phần lớn cái trách nhiệm về tội ác của Kitô Giáo nói chung, của giáo hội Công Giáo nói riêng, có thể qui vào cho St. Augustine. Y là cha đẻ ra thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi với tác phẩm "De Trinitate", Cha đẻ ra thuyết "Tội Tổ Tông" và thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội". Y xác lập thuyết thần quyền cho giáo hội để buộc mọi chính phủ thế quyền phải thần phục giáo hội bằng tác phẩm "De Civitas Dei". Augustine sinh tại Algeria năm 354 (chết năm 430, 76 tuổi). Y được coi là người sáng lập đạo Kitô đứng hàng thứ hai sau Saint Paul (Phao lồ) và là tác giả của toàn bộ hệ thống tư tưởng Tây Phương thời Trung Cổ. Năm 396, y làm giám mục địa phận Hippo tại Algeria. [Trong suốt 6 thế kỷ đầu Công Nguyên, toàn vùng Bắc Phi, Cận Đông và Âu Châu đều là các nước theo Kitô Giáo. Sự xuất hiện và bành trướng mau chóng của Hồi Giáo thời Trung Cổ đã biến toàn Bắc Phi, Cận Đông và Nam Âu Châu kéo tới Ấn Độ trở thành các nước Hồi Giáo. Sự kiện này đã chặn đứng âm mưu xâm lược toàn cầu bằng chiêu bài Công Giáo của Đế quốc La Mã.]
Augustine say mê nghiên cứu và viết sách suốt trong 34 năm. Công trình của Augustine thật khá đại, chỉ tiếc cái vĩ đại đó là ông ta đã xây dựng cả một tòa lâu đài đồ sộ trên nền tảng thần thoại Vườn Địa Đàng của Babylon!
Augustine giải thích mọi đau khổ của loài người đều do tội lỗi nguyên thủy của Adam-Eva, gọi là tội tổ tông (the Origin Sin). Tội này di truyền cho con cháu muôn đời do sự giao cấu của cha mẹ. Giao cấu là tội lỗi. (God had condemned humanity to an eternal damnation simply because of Adam’s sin. The inherited guilt was passed on to all his descendants through the sexual act which was polluted by what is called concupiscence). Dựa vào lý luận này, Augustine viết thêm cuốn On Female Dress nhục mạ phụ nữ và tạo ra hệ thống nam tu sĩ của giáo hội Công Giáo và việc phụ nữ bị từ chối phong chức linh mục.
Augustin gọi mỗi phụ nữ là một Eva, đồng lõa với ma quỉ, xúi giục đàn ông chống lại Thiên Chúa. Vì tội lỗi xấu xa của phụ nữ mà Con Thiên Chúa phải chết. Đàn bà là kẻ đào ngũ khỏi luật của Chúa. Đàn bà phá hoại đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa... (You are each an Eve. You are the devil’s gateway. You are the unsealer of that forbidden tree. You are the first deserter of the divine law. You so carelessly destroyed man, God’s image. On account of your desertion, even the Son of God had to die). Tuy nhiên, chỉ có một phụ nữ duy nhất trên thế gian không bị Augustine nguyền rủa là Đức Mẹ Maria. Augustine lý luận: Đức Mẹ không giao cấu với Joseph. Đức Mẹ sinh ra Chúa Jesus vẫn còn đồng trinh nên Mẹ là đấng Vô Nhiễm Nguyên tội (The Immaculate Conception).
Những lý luận trên của Augustine thống trị linh hồn Âu Châu suốt trong hơn 1000 năm! Mãi đến giữa thế kỷ 16, bỗng nhiên xảy ra một cuộc bút chiến giữa hai phe thần học Công Giáo. Phe cấp tiến cho rằng Chúa Jesus cũng mắc tội tổ tông vì bà Maria sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ, Jesus chỉ được miễn 50% vì cha là Đức Chúa Tinh Thần. Cuộc bút chiến kéo dài lai rai trong 30 năm và bị tòa án Dị Giáo đàn áp dữ dội nên không thể bùng lên được. Biết bao sinh mạng đã phải lên dàn hỏa vì cái chuyện lẩm cẩm này! Đó là cái gọi là "nền văn minh Kitô Giáo" (The Christian civilization).
Đến giữa thế kỷ 19, khi nền dân chủ Tây Phương đã khá lớn mạnh và uy quyền của Vatican đã bị giảm sút, cuộc bút chiến về cái trinh của Đức Mẹ lại bùng lên. Giáo Hoàng Piô IX dùng mọi biện pháp dập tắt cuộc bút chiến. Đến năm 1854, y công bố tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội". Để cho giáo dân thêm tin tưởng vào tín điều này, giáo hoàng âm mưu với giáo hội Pháp phịa ra vụ Đức Mẹ hiện ra ở hang núi hẻo lánh Massabielle thuộc tỉnh Lourdes (Tây Nam nước Pháp). Đức Mẹ tiếp xúc với một cô gái quê tên Bernadette và Mẹ tự xưng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội (I am The Immaculate Conception). Nhiều giáo dân tiến bộ không tin phép lạ ở Lourdes (Lộ Đức) và đặt vấn đề về thẩm quyền tuyên bố tín điều của giáo hoàng. Do đó, giáo hoàng Pio IX phải triệu tập Công Đồng Vatican I vào năm 1869. Kết quả Công Đồng I chấp thuận tín điều "Giáo Hoàng Bất Khả Ngộ" [Không thể sai lầm.]
(The dogma of Papal Infallibility). Nhờ có tín điều này, năm 1950, Giáo Hoàng Pio XII công bố thêm một điều nữa về Đức Mẹ. Đó là Tín điều "Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời" còn gọi là "Đức Mẹ Mông Triệu (The Assumption).
Tổng giáo phận Sài Gòn sáng tác một bài kinh để mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (Nhựt khóa trang 499) nghe rất cải lương như sau: "Thung thăng chân bước thang mây, tay chắp mặt vui áo tỏa. Hớn hở gót nương cung nguyệt. Khí thanh gió mát trời quang. Xuân Thu bà đã quá sáu tuần về chầu Chúa bởi lòng kính mến. Môn đệ Chúa họp gần đủ mặt Ba Ngôi thảy yêu đương, xưa đời giữ phận khiêm nhường xưng mình là tôi tớ Chúa. Nay rời khỏi thế gian nên vì cao trọng. Bà đáng chức Nữ Vương. Xưa, Ngôi Hai ngự trong lòng Bà dư chín tháng ơn thiêng gồm đủ. Rày Chúa Cả thưởng công Mẹ quyền cai trị chín trời, chức đặt chủ bầu bốn biển. Sang quá đỗi sang. Nay xin Ơn Thánh hằng giúp con, sau nguyện đặng lên trời với Mẹ. Amen".
Để củng cố và nhắc nhở các tín đồ Công Giáo về các tín điều mới này về Đức Mẹ cũng như tín điều "Giáo Hoàng không thể sai lầm.", Vatican ra lệnh cho các giáo hội phải xây thêm trong khuôn viên nhà thờ một hang đá Lộ Đức. Lệnh của Tòa Thánh ban ra chỉ được vài nước Âu Châu như Pháp, Ý, Tây Ban Nha thi hành còn toàn Bắc Mỹ đa số theo phe cấp tiến không chịu tuân lệnh. Do đó, ta thấy ở Mỹ và Canada gần như không có nhà thờ nào xây hang đá Lộ Đức. Ở Việt Nam thì ngược lại, nhà thờ nào cũng xây thêm hang đá Lộ Đức. Đó là một bằng chứng cụ thể về tinh thần nô lệ của giáo hội Công Giáo Việt Nam. Bất cứ một lệnh nào được ban ra từ Vatican cũng đều được các tu sĩ Việt Nam tuân hành răm rắp!
Tuyệt đại đa số giáo dân trình độ tâm linh quá thấp đâu ngờ khi họ xếp hàng đi xưng tội, chính họ còn ít tội hơn kẻ ngồi ở phía sau tòa giải tội.
Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian ác ngụy trang dưới những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân, để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với đời . [Một số tu sĩ của tôn giáo khác cũng thế.]
Mái nhà thờ của họ càng lớn rộng bao nhiêu, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là "những vị lãnh đạo tinh thần". Tất cả các tệ nạn này đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới.
Trong giáo lý Công Giáo có rất nhiều điều sơ hở của những kẻ sáng lập đạo có thể khiến cho những người có óc tò mò tìm hiểu dễ dàng phát giác ra sự lừa bịp dối trá của giáo hội. Nhưng vì trình độ thấp kém của giáo dân, giáo hội vẫn tìm cách che lấp các sơ hở đó của giáo lý và qua mặt giáo dân dễ dàng. Khi tôi còn rất nhỏ, tôi thường được cô tôi là một dì phước dạy giáo lý. Bài giáo lý đầu tiên trong đời tôi được cô tôi hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần. Bà biết tôi đã thuộc như cháo nhưng bà vẫn hỏi để có cớ cho tôi quà. Mỗi lần có dịp đến thăm gia đình tôi, bà thường ôm tôi vào lòng âu yếm hỏi và tôi đáp như máy:
- Cháu con ai?
- Con Đức Chúa Giời.
- Cháu ai?
- Cháu ông Adong.
- Dòng dõi ai?
- Dòng dõi vua David.
Cả tới nửa thế kỷ sau, tôi không hề thắc mắc về những điều đó, nhưng rồi sau đó, tôi mới thấy cái vai trò quan trọng của vua David trong giáo lý Công Giáo. Đó là vì dân Do Thái quan niệm Chúa Cứu Thế (Christ-Messiah) là "vua David mới" phải là người thuộc dòng dõi của vua David, cũng tương tự như người Babylon quan niệm Chúa Cứu Thế (Savior of People) phải là con của vua Nimrod. Do đó, kẻ lập đạo Kitô phải viết sách làm sao để người đọc tin rằng Jesus là người thuộc dòng dõi của David thì Jesus mới có thể là Messiah (Kitô) đã được Cựu Ước Do Thái tiên tri. Tân Ước kể tiểu sử Jesus được viết trong thế kỷ I đã chứng minh mối tình tội lỗi của David với bà Bathseba đã sinh ra tổ tiên nhiều đời của Joseph là cha của Jesus. Do đó, Jesus đã thuộc dòng dõi vua David bởi cha mình là Joseph và đích thị là Chúa Kitô theo đúng Cựu Ước. Đến thế kỷ 3 và 4, lý thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi mới thành hình. Bọn lập đạo Công Giáo (Hoàng đế Constantine, Irenacuss, giám mục địa phận Lyon ở Pháp và Augustine là tác giả Kinh Tin Kính) chủ trương biến Joseph thành cha nuôi và Đức Mẹ phải là đồng trinh, cha của Jesus phải là đức Chúa Thánh Thần. Nhưng họ đã quên khuấy một điều là Tân Ước và Cựu Ước không có một điều nào nói về Đức Mẹ Maria thuộc dòng dõi của vua David. Thành ra, nếu Jesus là con của Đức Chúa Thánh Thần và bà Maria đồng trinh thì Jesus không thể là Kitô vì không thuộc dòng dõi vua David! Ngược lại, nếu chấp nhận Jesus thuộc dòng dõi vua David do cha mình là Joseph thì Đức Mẹ không còn đồng trinh! Để gỡ thế bí này, Vatican đã phịa ra những bài kinh cầu Đức Bà, kinh cầu Ông Thánh Gioakim và kinh cầu bà thánh Anna (là cha mẹ của bà Maria) để che lấp sơ hở nói trên của kẻ lập đạo Công Giáo.
- Kinh cầu Đức Bà có câu "Đức Bà là lâu đài David".
- Kinh cầu Ông Thánh Gioakim (Toàn niên Kinh Nguyện Bùi Chu do cơ sở Dân Chúa xuất bản. P.O Box 1419 Gretna LA 70053. Đại diện là LM Việt Châu – trang 189): "Lạy ông Thánh Gioakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David. Đức Chúa Trời đã chọn mà ban mọi sự lành cho cả và loài người ta vì đã dùng Người cho được làm nên những sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời truyền ở thế gian này..."
- Kinh cầu Bà Thánh Anna (Toàn niên kinh Nguyện tr. 212): "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương, Bà làm sáng thiên hạ vì sinh được con thanh sạch, sáng láng hơn mặt trời mặt trăng. Bà là đấng sang trọng bởi dòng vua David..."
Từ nhỏ đi nhà thờ đọc kinh cầu Đức Bà, tôi vẫn tưởng tượng cái "Lâu Đài David" chắc phải là cái gì thánh thiện cao cả. Nay tôi Lấy Sách Cựu Ước ra đọc để tìm hiểu cái lâu đài này như thế nào. Té ra Lâu Đài David là Harems chứa cả ngàn cung nữ để phụng sự cái tật dâm dật vô độ của David. Khi David về già, vẫn ham chơi với các thiếu nữ trẻ măng. Tôi ngạc nhiên thấy cái gọi là Kinh Thánh Cựu Ước mô tả các cuộc truy hoan của nhà vua thật chi tiết như một dâm thư: "Bây giờ vua David đã già và bị bệnh nhiều năm, đắp mền cho Người bao nhiêu cũng không ấm. Các đầy tớ mang đến cho Người một cô gái trẻ đứng trước mặt Người và hãy để cho cô ta kích thích làm cho Người khoái, sau đó đặt cô ta nằm trong lòng Người thì Người mới ấm..." (Now king David was old and stricken in many years. They covered him with clothes but he got no heat. Wherefore, the servants sought for the king a young girl and let her stand before the king and let her cherish him and let her lie in his bosom that the king may get heat – The Third Book of the King I:1-12).


MỘT SỐ CÂU CHUYỆN NGỤY TẠO ĐỂ LỪA BỊP CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ
 Tất cả các bài kinh nói trên đều không có căn bản Thánh Kinh. Các học giả Âu Mỹ gọi là "Un-Scriptural Prayers". Đó chỉ là những sản phẩm ngụy tạo để lừa bịp. Nói đến các chuyện bịp của Công Giáo La Mã thì nhiều không kể xiết. Chỉ xin kể vài chuyện tiêu biểu:
Vatican rêu rao đã lưu giữ cái ghế ngồi của Thánh Phêrô trong nhiều thế kỷ. Vào tháng 7.1968, các nhà khoa học quốc tế đã đến làm cuộc giảo nghiệm và đồng xác nhận chiếc ghế này được ngụy tạo vào thế kỷ 9.
Các nhà khảo cổ xác nhận: Bức tượng Thánh Phêrô rất lớn bằng đồng đen đặt tại Đền Thánh La Mã được khoác áo giáo hoàng và đội nón cao tầng để đóng vai "giáo hoàng đầu tiên" của giáo hội là tượng thần Jupiter của Cổ La Mã trước Công Nguyên (Babylon Mystery Religion p.18-79). Cựu Linh Mục dòng Tên Pete de Rosa, tác giả cuốn sách best-seller "Vicars of Christ" đã phải kết luận: "Vatican là xưởng chế tạo đồ giả lớn nhất thế giới".
Các sử gia chuyên nghiên cứu lịch sử giáo hội Công Giáo xác nhận Phêrô không phải là giáo hoàng vì ông ta hoàn toàn thất học, có vợ con (Matt 8:14) nên Phêrô không chấp nhận cho người khác quì lạy mình để hôn tay.
(Stand up! I am a man – Act 10: 25-26). Phêrô chưa từng đến Rome vì không có điều nào trong Tân Ước nói về việc này. Trong 3 thế kỷ đầu của Kitô giáo nguyên thủy không có giáo hoàng mà chỉ có giám mục (bishop). Giáo Hoàng là sản phẩm của Công Giáo La Mã. Bắt đầu từ năm 378 mới có chức Giáo Hoàng. Giáo hoàng đầu tiên là Demasus được tôn xưng Pontifex Maximus: Đấng Đứng Đầu giáo hội (head of Church) tức là Giáo Hoàng.
Giáo hoàng đầu tiên tuyên bố ngôi vị giáo hoàng là "thừa kế của Thánh Phêrô". (Successor of Peter) là một nữ giáo hoàng (popess). Tên thật của nữ giáo hoàng là Catherine de Sierra. Từ thuở nhỏ, Catherine thích mặc đồ con trai và sau đó giả làm con trai đi tu dòng nam vào đầu thế kỷ thư 9. Bà là một phụ nữ thông minh, ham mê hoạt động và có tham vọng khuynh đảo cả thế giới. Bà có tài hùng biện và đã để lại nhiều bài diễn văn rất nổi tiếng hiện còn được lưu trữ tại văn khố Tòa Thánh. Nhiều sử gia Ý như Petrarch và Boccacio đã viết sách ca ngợi tài năng học giả uyên bác của bà. Vào năm 855, giáo hoàng Leo IV qua đời. Hội Thánh lúc đó nhận thấy chỉ có tu sĩ Gioan (tên giả) là xứng đáng kế vị giáo hoàng. Kết quả, tu sĩ Gioan được bầu làm giáo hoàng và là người tuyên bố: "The pope is the successor of Saint Peter". Giáo Hoàng Gioan cai trị giáo hội được 3 năm thì chẳng may một tai biến xảy ra. Trong năm 858, Tòa Thánh tổ chức một cuộc rước kiệu lớn tại Rome. Giáo hoàng đi theo đoàn kiệu bỗng nhiên té xỉu, máu me chảy lênh láng vì bị sẩy thai! Cả giáo hội lúc đó mới phát giác giáo hoàng là phụ nữ. Ngay sau đó, giáo hoàng Gioan bị lột trần truồng và bị đám tu sĩ cuồng nộ lôi ra công trường Colossium để cho dân chúng ném đá chết tại chỗ. (The Pope Encyclopedia. Matthew Bunson. Crown Trade Paperbacks NY. 1995). Truyền thống của Công Giáo khinh rẻ phụ nữ do triết thuyết của Augustine. Giáo hội coi phụ nữ không xứng đáng chịu chức thấp nhất là linh mục huống hồ là chức giáo hoàng! Mặc dầu Giáo Hoàng Gioan rất giỏi và không có tội gì khác ngoài tội chỉ là một phụ nữ nên phải chết thảm.
Truyền thống khinh rẻ phụ nữ đó ngày nay đã trở thành một mối nguy hiểm có thể đưa đến sự sụp đổ của giáo hội. Tại Hoa Kỳ và Âu Châu, phụ nữ Công Giáo bỏ đạo đã biến thành phong trào lớn. Năm 1995, nữ giáo sư Joan Meehl là bổn đạo gốc lâu đời tại Mỹ đã mở một cuộc phỏng vấn qua nhiều tờ báo toàn quốc để thu thập ý kiến của phụ nữ Công Giáo Hoa Kỳ thuộc mọi thành phần và thuộc mọi lứa tuổi. Bà Joan Meehl đúc kết lại để viết tác phẩm Người Công Giáo Tỉnh Ngộ hay Cuộc Hành Trình Của Phụ Nữ Bỏ Đạo (The Recovering Catholics. Personal Journeys of Women Who Left The Church, 228 trang. Prometheus USA 1995). Phụ nữ Mỹ đồng loạt kết tội St. Augustine và coi y là một tên bệnh hoạn về giới tính. Hệ thống triết học và thần học của Augustine là Xương Sống của Công Giáo La Mã hoàn toàn dựa trên thần thoại Vườn Địa Đàng, sản phẩm bịa đặt của Do Thái ăn cắp từ thần thoại Babylon. Sự nhục mạ phụ nữ của Augustine và giáo hội La Mã làm cho phụ nữ cảm thấy tủi hổ về thân phận đàn bà của họ. Bà Joan cũng như các phụ nữ Công Giáo tiến bộ phẫn nộ gọi Thiên Chúa là "Đấng Toàn năng Đực Rựa" (The Male Almighty) gọi giáo hội Công Giáo là giáo hội "đàn ông trị" (man-dominated church). Họ cho rằng "Thiên Chúa chỉ là tấm màn che quyền lực của Đàn Ông chứ không phải quyền lực của Chúa tồn tại trên trái đất này" (The power of man, not God, still exist on earth. God is merely a backdrop to man’s ruling). Bà Joan phát biểu: "Công Giáo La Mã đang trở thành đồ phế thải của các nước phát triển và đang có khuynh hướng chuyển đồ phế thải đó sang các nước chậm tiến! Đặc tính của Công Giáo là chỉ có thể phát triển được tại nơi có kẻ ngu dốt và nghèo khổ. (Catholicism only thrives and grows among the poor and ignorant). Giáo hội Công Giáo là một chế độ độc tài ngụy trang tôn giáo, một đường dây Mafia và là những con buôn đội lốt tôn giáo (A dictatorship claiming to be a religion, a Mafia Connection, a business masquering a religion).
Song song với phong trào chống Công Giáo của phụ nữ trên thế giới, giáo hội La Mã còn bị tấn công tới tấp bởi các phong trào đòi quyền sống của người da đen, phong trào Cộng Sản quốc tế... Vatican tìm cách làm giảm bớt tính chất đàn ông của Thiên Chúa bằng cách đề cao vai trò Đức Mẹ Maria.
Ba Ngôi Thiên Chúa, theo giáo lý Công Giáo, là một bộ ba gồm có một ông già rậm râu xuất thân từ Jehovah (tức là con bò El của Do Thái) một thanh niên đóng khố máu me đầy mình và một con chim bồ câu đực. Rõ ràng giáo hội Công Giáo là một tà giáo đa thần (paganism) vì nó không thờ Thiên Chúa mà là thờ người (Jesus) và cầm thú (bò, chim). Bà Karen Amstrong, nguyên là nữ tu Công Giáo, hiện là một sử gia hàng đầu thế giới về tôn giáo và là tác giả nhiều tác phẩm Bestsellers. Trong tác phẩm nổi tiếng A History of God, bà gọi Thiên Chúa của Công Giáo là một ông thần lắm điều (a talkative God). Giáo Lý Thiên Chúa Ba Ngôi là giáo lý rắc rối và phỉ báng Thiên Chúa (puzzling and blasphemous).
Giáo hội Công Giáo biết tâm lý phụ nữ không ưa Thiên Chúa Ba Ngôi vì đều là giống đực nên đã lôi Đức Mẹ vào để biến chế thành "Thiên Chúa Bốn Ngôi". Nhưng giáo hội lại lâm vào tình trạng... kẻ gian mắc nạn! Lý do là: Càng làm nổi bật vai trò của Đức Mẹ bên cạnh Thiên Chúa Ba Ngôi bao nhiêu lại càng làm nổi bật cái tính loạn luân mất dạy của giáo lý Thiên Chúa Ba Ngôi bấy nhiêu.
Tờ Newsweek số ra ngày 25.8.1997 (trang 19) viết "Thay vì Thiên Chúa Ba Ngôi, ngày nay xuất hiện một loại Thiên Chúa Bốn Ngôi với vai trò phức tạp của bà Maria: Con gái của Chúa Cha, Mẹ của Chúa Con và vợ của Chúa Thánh Thần". (In place of the Holy Trinity, there would be a kind of Holy Quartet with Mary playing the multiple roles: daughter of the Father, mother of the Son and spouse of the Holy Spirit). Vì chỉ có một Thiên Chúa, nên cùng một lúc Bà Maria vừa là con, vừa là mẹ và vừa là vợ của Jesus. Ngược lại, Jesus cùng lúc là cha, là con và là chồng của chính mẹ mình! Giáo hội Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa lắm điều, ác độc và loạn luân. Vua "thánh" David dâm dật vô độ, tổ phụ Abraham cũng loạn luân. Do đó Giáo Hội Công Giáo đã hiện ra nguyên hình là một giáo hội vô luân vô địch. Toàn bộ hàng giáo phẩm Công Giáo Việt nam kém cỏi, tới nay vẫn cứ cắm đầu cắm cổ tụng niệm đề cao Thiên Chúa Các Đạo Binh (Thần Bạo Lực) trong các buổi lễ. Giáo dân vẫn rỉ rả cầu xin: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David" (Nhựt khóa 707), và cầu cho linh hồn người chết: "Xin các Thánh thiên thần đem linh hồn ... (Maria, Giêsu, Phanxicô Gioan Baotixita...) lên nơi vui vẻ cùng ông Thánh Abraham" (Nhựt khóa 330), hoặc "Xin Chúa đoái thương dân nước Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngoại giáo... Chúa đã phán rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi Đông Tây đến nghỉ ngơi cùng Thánh Abraham trên nước Thiên Đàng". (Nhựt khóa 144-145). Giáo Hội Công Giáo tỏ ra thương xót dân tộc Việt nam không phải vì hay bị bão lụt hạn hán, chiến tranh liên miên chống xâm lược... mà thương dân nước Việt còn ngồi chồm hổm trong bóng tối tăm ngoại giáo vì chưa biết ăn thịt người, và chưa biết Thiên Chúa Ba Ngôi mất dạy và loại luân đến cở nào? Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã lộ nguyên hình là một đám cỏ dại phá hoại cánh đồng mang hình chữ S của tổ quốc Việt Nam chúng ta.
Công Giáo La Mã luôn luôn tự xưng là giáo hội chính thống của Thánh Phêrô (Peter) nhưng chính Jesus đã gọi Phêrô là Satan nên Công Giáo La Mã là đạo chính thống của Satan gian ác. Đó là điều đã được xác nhận trong Thánh Kinh Tân Ước chứ không phải tôi dùng chữ thiếu văn hóa. (But he turned and said unto Peter: Get thee behind me, thou art an offence unto me – Matt 16:23). Trong năm 1917, Đức Mẹ Maria đã hiện ra tại Fatima liên tục mỗi tháng một lần vào ngày 13, từ tháng 5 đến tháng 10.1917. Đức mẹ đã phán: "Vatican đã biến thành kinh đô của quỉ Satan. Khói của Satan nồng nặc trong giáo hội. Vatican đã phá hoại trên nền tảng Công Ơn Cứu Chuộc của Chúa Jesus". Trong Thánh Kinh Cựu Ước, Satan được mô tả là một con rắn, là vật chất và là ông hoàng của thế giới (the Prince of this world). Người Ai Cập coi con rắn là biểu tượng của sự khôn ngoan hiểu biết (an exemplar of the wisdom – knowledge). Chúa Jesus khuyên mọi người hãy trở nên khôn ngoan như con rắn (Be ye wise as serpents). Vatican đã trở nên ông hoàng của thế giới trong nhiều thế kỷ. Nó đã trở nên trung tâm quyền lực của quỉ (Satanic power). Vatican khôn như rắn và gắn bó với vật chất (clinging to matter). Chính nó là Satan, là vật chất (Satan means Matter).
Giáo Hội Công Giáo là giáo hội của quỉ đã quấy phá nhân loại trong gần 2000 năm qua và nó đang đi tới rất gần đến ngày tận thế của nó!
Ngày 13.5.1982, người đứng đầu giáo hội của Satan là Jean Paul II đã đến làm lễ tại Vương Cung thánh đường Fatima và cầu xin cho cái giáo hội đó khỏi bị hủy diệt. Giáo hoàng cầu xin như sau: "Xin Chúa cứu chúng con khỏi trận chiến tranh nguyên tử và tránh khỏi sự hủy diệt không thể lường được". Linh Mục Alonso Fatima, người có nhiệm vụ giữ hồ về các bí mật cho biết: "Bí mật Fatima có liên quan đến một cuộc khủng hoảng ghê gớm trong nội bộ giáo hội Công Giáo gây nên bởi sự tranh giành thế lực giữa những phẩm trật cao nhất trong giáo hội". (Công Giáo Thời Luận, số 4 tháng 8.1986). Linh Mục Alonso cho biết thêm: Kẻ giết giáo hội Công Giáo không phải là Cộng Sản, cũng chẳng phải là Judas tái sinh mà là các tu sĩ hư hỏng. Ngày nay, rất nhiều linh mục đã mất đức tin nhưng vẫn giả vờ đạo đức để đóng vai lãnh đạo tinh thần của giáo hội, không có mục đích nào khác hơn là để bòn rút tiền bạc của giáo dân để ăn, để sống và thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của họ. Nhiều linh mục giả vờ nghiêm trang làm lễ ở nhà thờ, nhưng sau đó họ gian dâm với vợ con của đám giáo dân khờ khạo của mình.
Số báo Thời Luận nói trên, nơi trang 10-11, có thuật chuyện "Đức Mẹ khóc tại La Salette". Đức Mẹ đã nghiêm khắc lên án các linh mục Công Giáo hư hỏng như sau: "Vì đời sống xấu xa tội lỗi của họ, và vì lòng vô nhân đạo của họ khi cử hành các phép bí tích mầu nhiệm, vì lòng ham mê tiền bạc thế gian và ham mê danh vọng hão huyền, nhất là vì lòng ham mê những thú vui xác thịt tội lỗi... các linh mục đã trở thành những hố phân chứa đầy dòi bọ dơ bẩn. Cuộc sống xấu xa tội lỗi của họ đòi hỏi sự trả thù của Thiên Chúa và sự trả thù đang lơ lửng trên đầu họ..."
Theo báo Newsweek ra ngày 26.8.1997 thì trong 19 thế kỷ qua, Vatican loan báo Đức Mẹ hiện ra chỉ có vài lần. Nhưng trong thế kỷ 20, Vatican cho biết có tới 400 lần Đức Mẹ hiện ra hầu như tại khắp nơi trên thế giới. Những vụ Đức Mẹ hiện ra dồn dập cho loài người thấy tình hình rất là khẩn trương và là điềm báo cho thấy ngày tận thế của giáo hội Satan đang trong tầm tay (The Doomsday is at hand). Năm 1917 là năm giáo hội bị đe dọa nặng nề bởi hiểm họa Cộng Sản. Nhưng hiện nay giáo hội Công Giáo mới thực sự đang trên miệng hố diệt vong.
Trong cuộc hiện ra tại Fatima năm 1917, Đức Mẹ hứa Trái Tim Mẹ sẽ chiến thắng Cộng Sản và nước Nga sẽ ăn năn trở lại với mẹ. Quả thật, chủ nghĩa Cộng Sản đã sụp đổ, nhưng người Nga đã trở lại với Mẹ trong Chính Thống Giáo chứ không trở lại với giáo hội Satan là Vatican.
Trong tháng 8.1997, quốc hội Nga đã biểu quyết đạo luật và Tổng Thống Yelsin ban hành xác nhận quyền tự do tôn giáo trên nước Nga. Mọi tôn giáo, kể cả đạo Phật và đạo Hồi, đều được tự do truyền giáo và hành đạo tại Nga, ngoại trừ Công Giáo La Mã và Tin Lành. Người Nga coi Công Giáo La Mã là một giáo hội thù địch vì Công Giáo là kẻ phản bội Chúa và Đức Mẹ. Tại Fatima năm 1917, Đức Mẹ đã cho 3 em nhỏ được thấy cảnh hỏa ngục. Trong hỏa ngục đầy dẫy các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục và linh mục Công Giáo. Các tu sĩ Công Giáo trong hỏa ngục nhiều lúc nhúc như dòi trong các hố phân lộ thiên! Chắc chắn không thể thiếu mặt Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Bá Tòng, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Thục, Nguyễn Văn Bình... Toàn bộ Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng đều đang ở trong thế chờ để nhào xuống hố phân Địa Ngục. Còn các linh mục gian ác như Hoàng Quỳnh, Thanh Lãng, Lương Kim Định, Cao Văn Luận thì khỏi phải bàn tới.
Chúa đã phán: "Kẻ giầu vào nước thiên đàng, còn khó hơn lạc đà chui qua lổ kim". Toàn bộ giáo hội Vatican giầu tới hàng trăm ngàn tỷ đô la còn to hơn khổng long làm sao chui qua lỗ kim cho nổi! Cho nên, nếu lời Chúa là chân lý thì toàn bộ cái giáo hội Công Giáo phải xuống hỏa ngục. Nếu cả cái giáo hội ấy vì một lý do nào đó mà không phải xuống hỏa ngục thì lời Chúa chỉ là lời nói tào lao.
Năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ nói khá nhiều về Cộng Sản, nhất là nói về Cộng Sản Nga. Còn tại La Vang (Quảng Trị) thì Đức Mẹ hoàn toàn không đề cập đến Cộng Sản Việt Nam nên ngày nay chúng ta khó có thể đoán biết được quan điểm của Đức Mẹ về vấn đề này. Trong thế kỷ 20, Đức Mẹ hiện ra tới 400 lần tại nhiều quốc gia. Như vậy Đức Mẹ biết đủ các thứ tiếng trên thế giới! Tại La Vang năm 1798, dưới thời vua Cảnh Thịnh, hàng trăm giáo dân Huế và Quảng Trị đã vào đây lánh nạn cấm đạo trong khu rừng "Lá Vằng" này. Đức Mẹ chỉ hiện ra để nói vài điều chứ không có một chương trình nào cụ thể để cứu trợ cả. Đức Mẹ hứa: "Từ nay về sau, bất cứ ai đến khẩn cầu Mẹ tại nơi đây sẽ được Mẹ ban ơn phù trợ" Chắc ý của Mẹ là muốn La Vang sẽ trở thành một trung tâm hành hương lớn tương tự như Trung Tâm hành Hương của Dòng Tu Đồng Công tại Missouri? Tôi tin rằng Đức Mẹ đã nói với giáo dân tại La Vang năm 1798 bằng tiếng Việt, không cần thông dịch viên từ tiếng Aramic sang Việt Ngữ. Có lẽ tiếng nói của Người hơi nặng theo giọng Huế hoặc Quảng Trị!
VATICAN, XƯỞNG SẢN XUẤT PHÉP LẠ
Sự lạm phát phép lạ của Vatican đi kèm theo tín điều "Giáo hoàng không thể sai lầm" làm cho các giáo phái Kitô khác như Anh Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo đâm ra lo sợ vì nó có thể tạo ra sự sụp đổ của Công Giáo La Mã và kéo theo sự sụp đổ của toàn thể Kitô Giáo! Các giáo phái Kitô chú ý theo dõi các hành động của Vatican và giáo hoàng. Dưới con mắt của họ, cái tín điều "Giáo hoàng bất khả ngộ" có thể là một con dao hai lưỡi. Họ nghi ngờ giáo hoàng có thể là một Judas. Chúa Jesus có 12 tông đồ, trong đó có một Judas. Chẳng lẽ trong số 263 tông đồ giầu có là các giáo hoàng lại chẳng có một "Judas tân thời?". Judas Escariot phản Chúa thì Chúa chỉ chết có mấy giờ rồi tỉnh lại khỏe ra. Còn nếu "Judas tân thời" phản Chúa thì Chúa sẽ đi luôn không bao giờ trở lại!
Sau khi đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt vào năm 1945, Vatican thấy các quốc gia rục rịch lập tổ chức Liên hiệp quốc nên phịa ra vụ Đức Mẹ hiện ra tại Amsterdam (Hòa Lan) với cô gái tên Ida Peerderman. Đức Mẹ tự xưng với cô gái danh hiệu "Đức Mẹ của Mọi Quốc Gia" (Lady of All Nations). Điều đáng chú ý nhất là trong lần hiện ra này, Đức Mẹ chỉ thị cho cô Ida Peederman phải thỉnh cầu với Giáo Hoàng Pio XII công bố một số tín điều cuối cùng về Đức Mẹ là Tín Điều Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc (The dogma of Co-Redemptrix). Vào năm 1950, Giáo Hoàng Pio XII đã công bố tín điều "Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời" để xác nhận việc Đức Mẹ hiện ra là NGƯỜI THẬT nguyên vẹn hồn xác như cách đây 2000 năm. Từ đó đến nay, chỉ trong vòng 50 năm, số lần Đức Mẹ hiện ra gấp nhiều lần tổng số lần từ 1950 trở về trước cộng lại. Nổi tiếng nhất là những lần Đức Mẹ hiện ra ở Rwanda năm 1981 và 1989.
Vụ Đức Mẹ hiện ra cùng 6 em nhỏ ở Medjugoje (Bosnia) năm 1981. Đức Mẹ xưng danh là "Nữ Vương Hòa Bình" (Queen of Peace). Từ 1981 đến nay (1997) có tới 20 triệu tín đồ đến đây hành hương. Cũng từ 1950 đến nay, trong thế giới Công Giáo phát sinh ra hàng trăm tờ báo lá cải chuyên viết đủ thứ chuyện về Đức Mẹ, tương tự như tờ "Trái Tim Đức Mẹ" và hàng ngàn bản tin như "Bản Tin Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ" của Dòng Đồng Công Missouri.
Chưa có thế kỷ nào việc tôn thờ Đức Mẹ Maria ồn ào náo nhiệt cho bằng thế kỷ 20! Mọi nơi trên thế giới đều có cha cố hay giáo dân báo cáo là có thấy Đức Mẹ hiện ra. Mấy năm trước đây, tại Phoenix và Cleveland (Hoa Kỳ) cũng ồn lên về việc Đức Mẹ hiện ra ở vùng này. Việc hành hương thăm viếng các nơi có tin đồn Đức Mẹ hiện ra đã biến thành một kỹ nghệ hốt bạc của các tu sĩ và nhà thờ Công Giáo. Việc phát hành các băng video về hình ảnh Đức Mẹ khóc, tượng Đức Mẹ chảy máu, hình Đức Mẹ chiếu trên mây hoặc trên các tấm kiếng của Building (cao ốc), trên nóc nhà thờ v.v... Tất cả đều đựơc tung ra thị trường nhằm thỏa mãn tính hiếu kỳ và lòng say mê phép lạ của tín đồ Công Giáo. Theo nhận xét của nhiều ký giả theo dõi sự kiện này thì Đức Mẹ hiện nay càng ngày càng trở thành một bà vợ hấp dẫn hơn xưa của Đức Chúa Thánh Thần. (The Holy Spirit’s more interesting spouse). Sau năm 1945, Pio XII muốn công bố tín điều cuối cùng về Đức Mẹ nên đã tung tin Đức Mẹ hiện ra với cô Ida Peederman ở Amsterdam và ra lệnh phải thỉnh cầu giáo hoàng công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc". Và đây cũng là lý do tại sao có việc Linh Mục Trần Đình Thủ lập dòng Đồng Công tại Bùi Chu cuối thập niên 1940. Cũng cần nhắc lại Pio XII [Pio XII cũng vận động Hoa Kỳ dội từ 1-6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt.]
tên tội phạm trong đệ nhị thế chiến vì y đã giúp Đức Quốc Xã tiêu diệt người Do Thái. Hiện nay, tại bảo tàng viện Bronx ở New York có phòng triễn lãm tội ác của Pio XII dưới bảng hiệu "THE NAZI BUTCHER AT ROME" (Tên đồ tể Đức Quốc Xã tại Rome) không riêng gì giáo dân Việt Nam mà từ khắp nơi trên thế giới trong 10 năm qua đang ráo riết vận động Giáo Hoàng Jean Paul II công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công. Điều đó cho thấy Vatican dưới thời Pio XII đã vận động Công Giáo khắp nơi thỉnh cầu y ban hành tín điều này.
Vatican biết rõ Công Giáo Việt Nam là giáo hội cuồng tín nhất nên đã chọn Bùi Chu làm nơi lập dòng Đồng Công để quảng bá tín điều này trước khi Tòa Thánh chính thức công bố. Công Giáo Việt Nam đã ngoan ngoãn vâng theo chỉ thị của Pio XII chứ không phải là một sáng kiến của tu sĩ Việt Nam trong việc lập dòng tu mới này.
Hậu quả của "tín điều Đức Mẹ Đồng Công" sẽ buộc mọi giáo dân phải tin 3 điều:
Đức Mẹ là người tích cực góp công với Chúa Jesus hoàn thành cuộc thí mạng để chuộc tội tổ tông. Tội tổ tông là tội tổ tiên loài người cách đây khoảng 6000 năm (theo giáo lý Công Giáo) đã dám ăn trái táo (trị giá khảng 25 xu ngày nay) nên Chúa phạt mọi người phải chết, làm việc vất vả mới kiếm được miếng ăn và phụ nữ phải mang nặng đẻ đau...
Mọi ân sủng của Chúa ban cho loài người không bao giờ đi trực tiếp mà phải qua người trung gian là Đức Mẹ.
Mọi giáo dân từ nay không được cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa mà phải qua người trung gian Đức Mẹ để sau đó Đức Mẹ sẽ chuyển lời cầu nguyện của mọi người lên chúa Jesus, con của Mẹ.
Với những nhiệm vụ kể trên, từ nay Đức Mẹ sẽ phải đóng 3 vai trò một lúc:
1. Đấng Đồng Công Cứu Chuộc (Co-Redemptrix).
2. Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người (Mediatrix).
3. Luật sư biện hộ cho loài người vì loài người không thể tự biện hộ trước mặt Chúa (Advocate).
Với tín điều Đức Mẹ Đồng Công, từ nay Đức Mẹ không còn đóng vai "tôi tớ của Chúa" (The servant of God) mà được vinh thăng lên thành NGÔI THỨ TƯ CỦA THIÊN CHÚA. Như vậy phong trào đấu tranh của phụ nữ thế giới sẽ không còn lý do gì để gọi Thiên Chúa của Công Giáo là Đấng Toàn năng Đực (Male Almighty God) được nữa!
Từ ngày Vatican đưa ra thuyết Đức Mẹ Đồng Công (sau đệ nhị Thế Chiến) đã bị các lãnh đạo tôn giáo khác chỉ trích nặng nề:
Giáo phụ George Passias, lãnh tụ Chính Thống Giáo Hoa Kỳ, gọi tín điều Đồng Công là dị giáo (heretic) và kẻ chủ trương tín điều ấy cần được đưa lên dàn hỏa của thời trung cổ.
Nhà thần học nổi tiếng hiện nay của Anh Giáo William Pranklin tuyên bố: "Tín điều Đồng Công là cái đinh cuối cùng đóng nắp quan tài của sự hiệp thông hòa giải giữa Anh Giáo và Công Giáo La Mã".
Các giáo phái Tin Lành khắp thế giới đưa ra nhận xét chung là: Vatican lợi dụng tín điều Đồng Công để làm giảm giá trị của Chúa Jesus và làm tăng uy quyền của giáo hoàng. Điều này hoàn toàn không có căn bản Thánh Kinh và chống lại Kitô Giáo. Thánh Kinh đã xác nhận chỉ có một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Jesus vì Chúa Jesus mang hai bản tính Thiên Chúa và con người (Thimothy 2:5).
Lên tiếng chỉ trích tín điều Đồng Công một cách mạnh mẽ nhất là nhà thần học Công Giáo người Pháp Laurentic. Ông tuyên bố: Sự chết của Chúa Jesus là đầy đủ trọn vẹn để cứu chuộc loài người. Chúa Jesus là người duy nhất cứu chuộc và không cần một ai khác phải cộng tác để hoàn thành việc này.
Một số người ngoại giáo nhìn vào cuộc tranh luận của các nhà thần học cũng muốn xía vô góp ý: Judas Escariot mới là người tích cực đồng công cứu chuộc vì nếu không có Judas thì Chúa Jesus không thể bị đóng đinh trên thập tự giá để thực hiện sứ mạng "cứu thế" được. Chẳng lẽ Chúa tự ý lăn đùng ra chết để cứu thế sao?
Tuy nhiên, Giáo Hoàng La Mã đâu có cần để ý tới các ý kiến của bất cứ ai, vì giáo hoàng là người duy nhất trên thế gian có khả năng tự nhận "không thể sai lầm" nên Ngài có toàn quyền quyết định về chân lý. Giáo hoàng xuất thân từ Ba Lan, vốn là quốc gia toàn tòng Công Giáo và rất tôn sùng Đức Mẹ Maria. Bất cứ điều gì Ngài cũng qui cho Đức Mẹ, chẳng hạn như vụ Ngài thoát chết trong vụ ám sát hụt năm 1981, Ngài tin là Đức Mẹ Fatima đã cứu Ngài. Khẩu hiệu của Ngài là "TOTUS TUUS" có nghĩa là "Tất cả do Mẹ". Hàng năm, giáo hoàng thuyết giảng cả trăm lần về Đức Mẹ và Ngài luôn luôn tôn xưng Đức Mẹ là "Đấng Đồng Công Cứu Chuộc". Trong tháng 4.1997, giáo hoàng tuyên bố một câu rất độc đáo về Đức Mẹ: "Sau khi đã dựng nên Adong Evà, nay Thiên Chúa muốn đặt Đức Mẹ Maria làm bà Evà mới bên một ông Adong mới là Chúa Jesus trong công cuộc cứu chuộc tội lỗi loài người. Như vậy, Đức Mẹ trong vai trò là bà Evà mới sẽ trở thành thần tượng hoàn hảo nhất của giáo hội. Đó là Đức Mẹ trong vai trò Đồng Công Cứu Chuộc."
Người đứng đầu công cuộc vận động cho tín điều mới này tại Hoa Kỳ là giáo sư thần học Mark Miravalle thuộc trường đại học Francisco ở Ohio. Ông được coi là chuyên gia về môn học nghiên cứu Đức Mẹ (Mariologist) trước đây đã quả quyết là Giáo Hoàng Jean Paul II sẽ công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công trước năm 2000. Nay đã qua năm 2000 nhưng vẫn chưa thấy Vatican có quyết định về vấn đề này.
Vào tháng 7.1997, Vatican đã triệu tập một hội nghị gồm có 23 Mariologists bỏ phiếu để lấy biểu quyết. Kết quả là: 0-23, một tỷ số tuyệt đối chống tín điều Đức Mẹ Đồng Công. Do vậy, đến nay Vatican vẫn tỏ ra dè dặt chưa vội công bố chính thức tín điều này.
Điều khó khăn lớn là giáo hội Công Giáo đang phải đối phó với phong trào phụ nữ bỏ đạo đang diễn ra mạnh mẽ tại các nước phát triển có nền văn hóa cao khiến cho số tín đồ giảm sút mau lẹ. Chúng ta đã biết điều này như đã trình bày sơ qua ở đoạn trên khi đề cập đến tác phẩm The Recovering Catholic – Personal Journeys of Women Who left the Church của bà Joanne H. Meehl. Giáo lý Công Giáo dựa vào học thuyết của St. Augustine miệt thị phụ nữ quá đáng. Họ coi phụ nữ là "cửa hỏa ngục", là "đồng minh của quỉ Satan". Trước Công Đồng Vatican II (1958-1962), mọi phụ nữ, kể cả nữ tu, đều bị cấm không được tới gần cung thánh (sanctuary) tức khu vực gần bàn thờ nơi linh mục làm lễ. Công Giáo và Hồi Giáo là hai tôn giáo thù nghịch đã từng giết nhau làm thiệt mạng nhiều chục triệu người trong thời trung cổ, nhưng cả hai tôn giáo này lại đoàn kết khắng khít với nhau tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc trong tinh thần thù hận đàn bà (they united in their misogyny). Các tu sĩ Công Giáo đều đã được giáo dục từ tấm bé cái óc coi khinh phụ nữ và cái định kiến bệnh hoạn về các vấn đề giới tính của phụ nữ: Coi bản năng sinh 1ý nhân bản là không trong sạch (Human sexuality is impure). Coi sự biểu lộ nữ tính của phụ nữ là khoe khoang (feminity is sinful vanity). Tác giả Joanne H. Meehl kết luận (tóm tắt như sau): Công Giáo La Mã là kẻ đạo đức giả. Họ chống ngừa thai và kế hoạch hạn chế sinh đẻ để kềm giữ các nước nghèo tiếp tục chìm đắm trong sự nghèo đói ngu dốt để có môi trường truyền đạo và giữ đạo. Bản chất của Công Giáo là gian trá và lừa dối , chỉ có thể phát triển ở những nước nghèo đói về kinh tế và ngu dốt về tinh thần mà thôi.
Cứ nhìn vào các nước Công Giáo như Philippine, các nước Công Giáo thuộc Trung Nam Mỹ Châu và Phi Châu, ta sẽ phải ngạc nhiên thấy các nhà thờ Công Giáo hết sức giàu có ở giữa đám tín đồ nghèo khổ cùng cực. Tòa Thánh có ngân hàng riêng, có chân trong nhiều tổ chức kinh doanh quốc tế và nhất là các thị trường chứng khoán. Tòa Thánh nắm nhiều cổ phần trong nhiều công ty sản xuất vũ khí và sản xuất thuốc ngừa thai trong khi vẫn lớn tiếng cổ vũ hòa bình và chống kế hoạch gia đình! Tòa Thánh là một con buôn khổng lồ đội lốt tôn giáo (Big business masquering a religion). Họ luôn luôn nói tới bác ái nhưng chẳng bao giờ họ chịu bỏ tiền giúp các gia đình nghèo không có điều kiện và khuyến khích các phụ nữ nghèo đẻ thật nhiều để bị chết đói và bệnh tật. Vấn đề bác ái thật sự không phải là cứ sinh nhiều con mà là liệu có đủ khả năng nuôi nấng chăm sóc và dạy dỗ chúng hay không. Sự bỏ đạo của phụ nữ kéo theo sự bỏ đạo của những đứa con và thân nhân của họ. Tác dụng dây chuyền này sẽ mau chóng đưa đến sự tan rã của giáo hội Công Giáo tại Tây Phương.
Lịch sử giáo hội Công Giáo xưa nay đã có truyền thống xử dụng Đức Mẹ Maria như một thứ vũ khí của chiến tranh tâm lý:
Để đối phó với chủ nghĩa siêu nhân (superman) của Nietzch hoặc chủ nghĩa Cộng Sản của Marx, Công Giáo La Mã xử dụng Đức Mẹ như một khuôn mặt nữ phản chứng (the figure of a feminin anti-type). Do đó, họ đã phát minh ra các tín điều Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời, đồng công cứu chuộc không ngoài mục đích gián tiếp đề cao phụ nữ. Như đã nói ở phần trước, họ đã lỡ dựng nên ba ngôi Thiên Chúa đều thuộc giống đực, nay họ vớt vát đôi chút cái lầm lỡ này bằng cách đặt thêm Đức Mẹ vào; thành bộ tư Thiên Chúa và đức Mẹ chính là đại diện cho phụ nữ toàn thế giới bên cạnh Thiên Chúa Nam giới tối cao.
Từ xưa đến nay, đức Mẹ Maria chỉ được giáo hội Công Giáo cho đóng vai nữ tỳ bên cạnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Nay, không phải vì thương tình đối với Đức Mẹ, giáo hội Công Giáo buộc lòng phải thăng chức cho Đức Mẹ để đối phó với phong trào đấu tranh nhân quyền của phụ nữ và nhất là phong trào phụ nữ Tây phương bỏ đạo hàng loạt.
Tuy nhiên, âm mưu đen tối của Vatican không dễ gì có thể thực hiện được vì đã đang bị các giáo phái Kitô khác chống đối mạnh mẽ. Vatican cũng gặp phải sự chống đối ngay trong nội bộ giáo hội. Nói chung, giáo hội Kitô được coi là hiện thân của Chúa Jesus đáng lẽ ra phải là một cơ thể duy nhất. Nhưng cơ thể Kitô đã bị chia năm xẻ bảy càng ngày càng phân hóa. Ước mơ thống nhất Kitô Giáo của Vatican được nêu lên rầm rộ trong Công Đồng Vatican II (1962-1965) đã hoàn toàn bị thất bại. Nay, nếu Giáo Hoàng Jean Paul II cả gan công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công thì sự tan vỡ của Kitô giáo sẽ thành vĩnh viễn. Sẽ không còn một giáo phái Kitô nào có thể tin được ý muốn hòa giải thật lòng của Công Giáo La Mã. Thế giới cũng không thể tin được sự thành khẩn xin lỗi của giáo hoàng về các lỗi lầm của giáo hội Công Giáo trong hơn ngàn năm qua. Bởi vì khi xin lỗi, giáo hoàng đã nại cớ "Sai lầm là bản tính con người" (To err is human). Một khi công bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công là tái xác nhận tín điều không thuộc bản tính con người là "Giáo hoàng không thể sai lầm"! Theo Thánh Kinh Tân Ước thì Chúa Jesus lập giáo hội Kitô (không phải giáo hội Công Giáo La Mã) trên hòn đá Phêrô (Simon, Peter, Saint Pierre means Rocks) và Chúa phán: Quỉ hỏa ngục sẽ không phá nổi giáo hội Kitô của Ngài. Từ xưa đến nay chẳng có quỉ nào dám đến phá giáo hội, vậy mà giáo hội đã tự phân hủy rã ra từng mảnh. Mảnh lớn nhất là Tin Lành 523 triệu tín đồ, mảnh thứ nhì là Chính Thống Giáo 167 triệu và Anh Giáo 67 triệu.
Căn cứ theo lịch sử thì giáo hội Kitô Nguyên Thủy chỉ tồn tại được 3 thế kỷ đầu Công Nguyên. Kẻ đầu tiên tiêu diệt đạo Kitô nguyên thủy là Constantine The Great, đóng đô tại Constantinople, tức Istambul (Thổ Nhĩ Kỳ) ngày nay. Đạo Công Giáo La Mã không xuất phát từ Jesus mà xuất phát từ tham vọng của đế quốc La Mã. Tội ác của đế quốc La Mã là xóa bỏ mọi dấu vết của Kitô Giáo Nguyên Thủy và xóa bỏ nền văn minh khoa học của Hy Lạp. Kết quả là nhân loại đã bỏ phí đi nhiều thế kỷ sống trong sự tối tăm ngu đốt. Công Giáo La Mã là thủ phạm gây ra thời đại đen tối kéo dài trên ngàn năm trong tâm hồn người Tây Phương và do đó người Tây Phương đã gieo rắc biết bao tai ương cho nhân loại. Công Giáo La Mã là tên tội phạm lớn nhất chưa từng thấy trong lịch sử loại người. Ngày nay, giới trí thức Công Giáo Tây Phương đã có rất nhiều người tỉnh ngộ. Họ đã đem tâm hồn và trí óc viết nên những tác phẩm có giá trị cao và đạt hiệu quả khai sáng tâm linh hữu hiệu. Nhờ đó, chúng ta mới có tài liệu quí báu khai sáng tâm linh của đồng bào mình.
Mọi người trí thức ngoại giáo cũng như những người trí thức Công Giáo tỉnh ngộ cần hợp tác với nhau để đẩy mạnh cuộc khai sáng tâm linh của những tín đồ cuồng tín. Đó là việc làm hết sức cao cả và cần thiết để tránh cho dân tộc ta khỏi lâm vào tình trạng bi thảm như đã diễn ra tại Bosnia, Kosovo, Rwanda hoặc đang còn tiếp diễn tại Ái Nhĩ Lan, thủ phạm chính yếu của các cuộc chiến tranh tôn giáo là các tu sĩ tham quyền hám lợi. Ngoài miệng, họ nhân danh Thiên Chúa để làm chuyện này chuyện nọ, thực chất, họ chỉ nhân danh lòng tham lam ích kỷ của họ mà thôi.
Hòn đá Phêrô mà trên đó Jesus hoặc Constantine xâydựng giáo hội thực chất chỉ là đá vôi hoặc đất sét đang rã ra thành bùn. Nó tự tan rã do bản chất gian ác lừa dối của nó chứ sự thật khó ai phá nỗi nó vì nó là trung tâm quyền lực của quỉ (satanic power). Có thể nói Công Giáo La Mã thực chất là một tên khủng bố đại nhất trong li sử loài người. Các cuộc thánh chiến, tòa án dị giáo, các ghetto, holocausts đều là sản phẩm phát sinh từ chính sách khủng bố của Vatican. Gần hai ngàn năm qua, các lương tâm sáng suốt và thiện lành của nhân loại đã bị chính sách khủng bố của Vatican bịt miệng. Lòng căm thù Vatican của nhân loại đã ngất cao như núi. Do đó, cái chết của Vatican rồi đây sẽ phải là cái chết tức tưởi ô nhục trước nỗi vui mừng của toàn thể nhân loại. Vatican biết nó sắp chết. Công cuộc vận động rầm rộ hiện nay trong thế giới Công Giáo do tín điều Đức Mẹ Đồng Công thực chất chỉ là một tiếng kêu chới với của một kẻ sắp chết. Hình ảnh Đức Mẹ Nhân Từ là cái phao cuối cùng mà Vatican bám víu với hy vọng cứu sống giáo hội Công Giáo thêm một thời gian nữa. Trong những thế kỷ qua, giáo hội Công Giáo đã sống còn không phải do "ơn" của Thiên Chúa Ba Ngôi mà thật sự do "ơn" của Đức Mẹ. Cái thế giới Công Giáo trong những thế kỷ qua là cái thế giới ngột ngạt của hạng nam tu sĩ bệnh hoạn mà đa số đều mắc bệnh bạo dâm (sadism). Đa số họ chỉ có thể đã khoái cảm tột độ khi được chứng kiến cảnh đổ máu giống như Tây Ban Nha thích những trận đấu bò.
Barbara Harrison, tác giả bài viết My Eve, My Mary đăng trong Newsweek ngày 25.8.1997 đã viết rất chí lý: "Thân xác Đức Mẹ Maria gắn liền với giáo hội Công Giáo trong thế giới vật chất. Nếu không có Đức Mẹ thì cái giáo hội Công Giáo đã chết ngộp từ lâu vì cái bầu không khí ngột ngạt thiếu dưỡng khí của các tu sĩ đàn ông". (Her flesh anchors the church in the material world. Without her, the church would be suffocating male airless abstracts).
Chắc chắn vong linh của Đức Mẹ Maria đã phải khóc nhiều lần về các tội ác tầy đình của giáo hội Công Giáo , thực chất là giáo hội của ác quỉ núp bóng của Người. Sự kiên nhẫn của Đức Mẹ dù có lớn lao đến đâu cũng phải tới một giới hạn là vứt cái giáo hội của tội ác đó vào lửa hỏa ngục. Mọi tổ chức chính trị hay tôn giáo được xây dựng trên nền tảng phi nhân và dối trá cuối cùng đều phải lãnh nhận cái số phận thảm khốc ô nhục. Sự chiến thắng vinh quang cuối cùng phải là sự chiến thắng vinh quang của Lẽ Thật.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét