Lý thuyết giá trị thặng dư đã được Marx sử dụng để
phân tích kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản hoạt động với
rất ít các định chế ràng buộc, kiểm soát và can thiệp của nhà nước.[2]
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929-30, kéo dài đến thế chiến lần thứ hai đã
khiến các nhà kinh tế đặt lại vai trò của nhà nước đối với chế độ tư bản này. Có
thể nói Keynes là nhà kinh tế đi đầu trong việc nhấn mạnh đến vai trò can thiệp
của nhà nước vào nền kinh tế. Kinh tế tư bản phục hồi và từ đó dù vẫn tiếp tục
trải qua nhiều khủng hoảng nhưng cũng chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó
trong việc phát huy tiềm năng con người về khoa học kỹ thuật và đưa tiềm năng
này vào phát triển kinh tế. Trong khi các nước tư bản tìm mọi cách cải cách thì
xuất hiện một mô hình kinh tế mới của các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là
Liên Xô, lấy hoạch định kinh tế làm cơ sở trong đó nhà nước đóng vai trò chủ
chốt về mọi mặt của cuộc sống, nhưng về mặt kinh tế thì nắm toàn bộ giá trị
thặng dư, tập trung vào tích lũy để phát triển là điểm mấu chốt. Mô hình mới này
vận động tổng hợp được sức mạnh của khoa học kỹ thuật và tiềm năng thiên nhiên
sẵn có cũng như sự hy sinh của con người đã tạo được đột biến trong phát triển
cho Liên Xô, nhưng rồi do năng suất thấp kém, tiềm năng con người bị đè bẹp
trong hệ thống nhà nước hoạch định ngày càng quan liêu hoá, thiếu dân chủ, với
vài người nghĩ cho nhiều người, nền kinh tế Liên Xô đã đi đến chỗ phá sản. Các
nước khác do sống nhờ vào sức mạnh kinh tế của Liên Xô cũng có số phận tương tự.
Thực tế này cho thấy để giải quyết vấn đề người bóc lột người trong một chế độ
kinh tế tư bản, mà lý thuyết thặng dư nói tới, kinh tế hoạch định kiểu cũ không
phải là giải pháp. Mục đích xoá bỏ người bóc lột người vẫn sẽ tiếp tục là mục
tiêu của những người cấp tiến trong đó có những người theo chủ nghĩa Marx, nhưng
kinh nghiệm thực tế vừa qua đòi hỏi việc nhìn nhận lại lý thuyết thặng dư và từ
đó đúc kết nhằm đưa đến một cái nhìn mới về một xã hội không còn bóc lột lao
động hay ít nhất là về một xã hội mà tình trạng bóc lột được giảm thiểu tới mức
tối đa. Bài viết này là nhằm mục đích đó.
Lý thuyết thặng dư của Marx
Marx giải thích thặng dư giá trị như sau: “Hình
thức đúng đắn của quá trình này do đó là M-C-M’, M’ = M+DM=tổng
số tiền ban đầu cộng thêm phần tăng thêm. Phần tăng thêm này, phần vượt giá trị
ban đầu này tôi gọi là giá trị thặng dư.”[3]
Thặng dư như vậy là quá trình chuyển lượng tiền ban đầu (M) qua sản xuất hàng
hoá (C) để đem về được lượng tiền M’ lớn hơn.
Thặng dư giá trị bao gồm cả lãi và lợi nhuận như
Marx viết: “Nhà tư bản tạo ra thặng dư giá trị – nghĩa là rút tỉa
lao-động-không-trả-công thẳng từ người lao động và gắn nó vào hàng hoá - thật ra
nhà tư bản là người nắm lấy ban đầu[4],
nhưng không phải là người sở hữu cuối cùng thặng dư giá trị này. Anh ta phải
chia cho các tay tư bản khác, như chủ đất, v.v. Thặng dư giá trị do đó bị phân
thành nhiều phần, rơi vãi cho nhiều thành phần dưới nhiều dạng như lợi nhuận,
lãi, lợi nhuận của nhà buôn, tiền thuê, v.v.”[5]
Ý niệm giá trị thặng dư
của Marx có thể trình bày theo thống kê kinh tế hiện đại trong bảng 1.
Bảng 1
Phân phối
doanh thu và thặng dư theo ý niệm thống kê hiện đại
|
Giá hàng hóa
|
|
Trừ |
Chi phí sản xuất |
|
|
Hàng hoá và dịch vụ dùng trong sản
xuất |
|
|
Lương bổng |
Giá trị tăng thêm tính vào GDP
(bằng tổng của
lương bổng thuế sản
xuất, khấu hao và giá trị thặng dư)
|
|
Thuế sản xuất |
|
Khấu hao |
Bằng |
Giá trị thặng dư |
Trừ |
Lãi
trả cho vốn vay ngân hàng, và vốn thuê tài sản không do con người
làm ra, và vốn người sở hữu bỏ ra
|
Bằng |
Lợi
nhuận |
Giá trị thặng
dư theo quan điểm của Marx[6]
như đã trình bày ở trên là giá trị hàng hoá trên thị trường sau khi trừ đi chi
phí sản xuất (tức là chi phí hàng hoá và dịch vụ dùng trong sản xuất),[7]
chi phí trả cho lao động, thuế sản xuất và khấu hao tài sản cố định dùng cho sản
xuất. Giá trị thặng dư gồm hai phần:
· Phần trả lãi cho vốn mà doanh nghiệp vay
ngân hàng. Phần trả cho tiền thuê đất, sử dụng bầu trời, biển, tài sản trong
lòng đất hoặc nói rộng ra là các tài sản không do con người làm ra (tức là không
do lao động tạo ra). Hai phần này Marx đều coi như là trả lãi. Điều này cũng phù
hợp với lý thuyết kinh tế của thống kê Tài Khoản Quốc Gia của Liên Hợp Quốc[8].
·
Phần còn lại là lợi nhuận cho chủ xí nghiệp
hay là các cổ phần viên.
Marx không phân biệt lãi và lợi nhuận vì
đều coi chúng là thuộc giá trị thặng dư. Toàn bộ giá trị thặng dư theo Marx là
do sức lao động của con người tạo ra vì bản thân của tiền nếu không qua quá
trình sản xuất hàng hoá sẽ không thể tạo ra lượng tiền nhiều hơn. Giá trị thặng
dư này, trong xã hội tư bản, thuộc về tư bản (người bỏ vốn và người tư hữu các
tài sản không do con người tao ra, tức là những người tư hữu tư liệu sản xuất).
Nhìn
nhận lại lý thuyết thặng dư
Marx cho rằng lý luận của ông không có
tính chất phê phán đạo đức mà chỉ có tính phân tích nhằm tìm nguồn gốc của thặng
dư. Theo cách nhìn của Marx:
·
Tài sản cố định là lao động chết tức là từ
thặng dư lao động của quá khứ, giá trị của nó đã được phản ánh qua chi phí khấu
hao.
· Tài sản tài chính dùng để tổ chức sản xuất
(cần có vốn trả lương cho lao động trước khi có thể thu hồi lại vốn sau khi bán
hàng) cũng như dùng để mua hoặc chế tạo tài sản cố định dùng trong sản xuất là
do bóc lột lao động mà ra.
·
Tài sản không do con người sản xuất ra như
đất đai và của cải thiên nhiên mà một người nào đó nắm được là do sử dụng bạo
lực, hoặc do thừa kế từ cha ông sử dụng bạo lực, hoặc do thu mua cũng từ vốn
thặng dư sinh ra từ bóc lột lao động.
·
Lương lao động theo quan điểm của Marx bao
gồm cả phần trả lương cao cho lao động quản lý và lao động có kỹ thuật cao, tức
là lao động quản lý và kỹ thuật của bản thân của người sở hữu tư bản, nếu như họ
cũng làm việc.[9]
Như vậy giá trị thặng dư chỉ có thể hiểu là phần chiếm hữu của người sở hữu tư
bản không hoạt động, hoặc phần chiếm hữu vượt quá mức giá trị lao động họ bỏ ra.[10]
Lãi và lợi nhuận do việc sở hữu các tài sản mang
lại là từ thặng dư lao động. Bảng 1 ở trên cũng cho thấy là lý thuyết kinh tế
tư bản hiện đại cũng coi lãi và lợi nhuận là thặng dư (operating surplus). Nói
tóm lại, bóc lột xuất hiện dưới hình thức giá trị thặng dư chỉ xảy ra trong một
xã hội có tư hữu tư liệu sản xuất. Marx dĩ nhiên không quên các loại vắt sức lao
động người khác bằng bạo lực để chiếm đoạt mà ta thường gọi là áp bức đã
từng xảy ra trong suốt lịch sử loài người của chủ nghĩa nô lệ, đế quốc, thực
dân, cũng như qua các hành động hoặc áp đặt hoặc duy trì tình trạng bất bình
đẳng trong quan hệ trao đổi của quá trình toàn cầu hoá hiện nay.[11]
Từ nhận định vừa có tính chất thực tế về xã hội tư bản chủ nghĩa vừa dựa trên
phương pháp trừu tượng hoá, xoá bỏ những phức tạp có tính đặc thù, để làm phân
tích khoa học, Marx đã đưa đến một cái nhìn tương lai về một xã hội không có bóc
lột trong Tuyên ngôn Cộng Sản.
Trong Tuyên ngôn này Marx chủ trương: “xoá
bỏ chế độ tư hữu”, cụ thể hơn là cổ vũ cho “giai cấp vô sản biến thành giai cấp
thống trị” và “dùng sự thống trị của mình để từng bước
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những
công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã
được tổ chức thành giai cấp thống trị” kể cả “tước đoạt sở hữu ruộng đất”, “xoá
bỏ quyền thừa kế”. Và nắm quyền bằng bạo lực. “Những người cộng sản coi là điều
đáng khinh bỉ nếu giấu diếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai
tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ
toàn bộ trật tự xã hội hiện hành.”[12]
Như vậy mặc dù không để thì giờ suy nghĩ
và viết nhiều về xã hội tương lai, tức là xã hội xã hội chủ nghĩa có tính chuyển
tiếp, rõ ràng theo Marx xã hội này phải dựa trên một nhà nước của giai cấp vô
sản, trong đó toàn bộ tư liệu sản xuất và tất nhiên là vốn tài chính nằm
trong tay nhà nước. Và nhà nước này cũng chỉ là một hình thức quá độ đến xã hội
cộng sản. Marx tin tưởng rằng xã hội cộng sản sẽ là một xã hội mà ở đó nhà nước
sẽ không còn tồn tại, con người hoàn toàn tự ý thức làm việc vì mọi người. Tổ
chức xã hội cộng sản sẽ là phải là thể chế mà ở đó con người không còn giai cấp,
hoàn toàn bình đẳng, tự do, có trách nhiệm và làm việc hết khả năng, không tư
lợi.
Trong nền kinh tế không có tư hữu và con
người không toàn hảo, tức là ở thời kỳ quá độ, người chăm chỉ, năng suất cao,
tri thức cao tất nhiên cũng được trả lương cao hơn người lười biếng, tri thức
thấp, năng suất thấp. Nhà nước sẽ tính toán đầy đủ để mọi người sử dụng hết
lương được trả, số tiền dành dụm và tâm lý dành dụm coi như không đáng kể và
chẳng cần khuyến khích. Toàn bộ phần còn lại là thặng dư giá trị lao động mà nhà
nước chiếm dụng với mục đích tích lũy nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và
mang lại lợi ích cao hơn cho mọi người lao động.
Thặng dư lao động mà nhà nước chiếm đoạt ở các
nước xã hội chủ nghĩa trước kia có thể nói là rất cao, phản ánh qua tỷ lệ tích
lũy/GDP lên đến 30-35%. Nếu nhìn vào thặng dư lao động mà nhà nước chiếm dụng
thì tỷ lệ này nói chung cao hơn chế độ tư bản Mỹ. Vào năm 1996, ở Việt Nam tỷ lệ
thặng dư là 19,0% trong khu vực công nghiệp nhà nước so với ở Mỹ là 22,6%. Nếu
kể cả thuế sản xuất vào thặng dư (như theo quan điểm của Marx) thì tỷ lệ thặng
dư ở Việt Nam là 35%, cao hơn tỷ lệ thặng dư ở Mỹ là 30.0%[13].
Bảng 2
Một số chỉ tiêu thu nhập lao động và thặng
dư tính trên GDP
|
Mỹ, 1996
|
Việt Nam, 1996
|
Cả nền kinh tế
|
Công nghiệp nhà nước
|
Thuế sản xuất
|
7,7%
|
15,1%
|
16,0%
|
Thu
nhập lao động
|
60,0%
|
63,8%
|
52,7%
|
Khấu hao
|
10,5%
|
10,2%
|
12,3%
|
Thặng dư
|
22,6%
|
10,9%
|
19,0%
|
Nguồn: National Accounts Statistics, 1996-1997,
Liên Hiệp Quốc và Kinh tế Việt Nam Trong Những Năm Đổi Mới, Nhà Xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 2000.
Chúng ta có thể lý luận là việc nhà nước
nắm thặng dư về cơ bản khác với việc tư nhân nắm thặng dư. Nhà nước nắm thặng dư
là nhằm phục vụ cho số đông. Nhưng đối với nhiều người lao động có thể họ nhìn
khác vì không tin tưởng vào vai trò, tính hiệu quả và sự trong sạch của nhà
nước. Họ chỉ cần thấy phần được chia của họ; phần thặng dư bị người khác nắm
lấy, dù là nhà nước hay tư nhân thì cũng giống nhau. Nếu coi bảng trên ta thấy
tỷ lệ GDP trả cho người lao động trong công nghiệp (thu nhập lao động ở Việt
Nam) cũng rõ ràng là thấp hơn ở Mỹ. Lao động chỉ nhận được 52,7% từ GDP thay vì
60% như ở Mỹ. Chúng ta cũng có thể lý luận ngược lại có thể là: bây giờ thì thế
nhưng tương lai thì khác. Nhà nước không nhằm mục đích bóc lột lao động nhưng vì
các mục đích chung tốt đẹp và sự phát triển của kinh tế. Nhưng đợi đến ngày thấy
kết qủa của tương lai này tới thì có lẽ mọi người đã nằm trong nhà mồ rồi. Và
cũng chẳng có gì bảo đảm là nhà nước sử dụng thặng dư hiệu quả hơn.
Chúng ta có thể thấy khá rõ ràng tính
chất viễn mơ của hệ luận dựa trên quan điểm của Marx như sau:
Xoá bỏ bóc lột lao động
®
Xoá bỏ tư hữu ®
Nhà nước nắm thặng dư ®
Xã hội, con người toàn hảo.
®
có nghĩa là tất dẫn đến. Chỉ có sự liên hệ tất yếu như thế thì về mặt logic hoặc
hình thức hoặc thực tế, quan điểm của Marx mới có ý nghĩa. Marx không viết ra rõ
ràng về xã hội và con người trong xã hội không còn tư hữu, nhưng tôi nghĩ rằng
Marx cho rằng con người có thể đạt đến con người toàn hảo trong một
thể chế toàn hảo. Thể chế toàn hảo này là thể chế không có tư hữu tư liệu
sản xuất. Con người toàn hảo là con người:
-
Tôn trọng tự do của người khác,
-
Không màng tư hữu, danh lợi, quyền lực
-
Làm việc hết mình vì người khác
-
Không tiêu dùng quá sức mình
-
Nắm bắt được tri thức hiện đại, thông tin
cụ thể và nhìn xa thấy rộng
-
v.v.
Marx không bao giờ viết như vậy,
nhưng có lẽ ta cần nhìn như vậy thì mới thấy ý nghĩa của việc Marx tìm ra nguồn
gốc của bóc lột ở tư hữu, để từ đó Marx mơ đến một xã hội toàn hảo không còn tư
hữu và cổ võ cho cuộc cách mạng bạo lực xoá bỏ tư hữu. Từ đây chữ tư hữu được
dùng thay cho chữ tư hữu tư liệu sản xuất cho ngắn gọn chứ còn Marx phân biệt
rất rõ tư hữu những vật thể hữu hình và vô hình cá nhân và tư hữu tư liệu sản
xuất.
Xã hội toàn hảo mà Marx mơ tới đã không
xảy ra và việc xây dựng con người toàn hảo cũng không đạt được ở các nước xã hội
chủ nghĩa kiểu cũ.
Chế độ xã hội chủ nghĩa dựa trên công hữu nhà nước
đã phá sản. Sự phá sản này cho thấy rõ rằng thể chế xã hội không chỉ xây dựng
trên cơ sở kinh tế, mặc dù cơ sở kinh tế là quan trọng nhất. Thể chế xã hội còn
xây dựng trên quyền lực, đặc biệt là tham vọng quyền lực, trong đó việc sử dụng
quyền lực cá nhân hoặc tập thể một cách độc đoán đã đưa đến nhiều thảm hoạ cho
con người. Điều này Marx đã không nhận diện hết. Marx chỉ nhấn mạnh đến quyền
lực phát sinh từ quyền lực kinh tế. Nhưng rõ ràng là quyền lực có thể phát sinh
từ bạo lực cá nhân và tập thể, từ độc quyền chính trị, từ tri thức, từ tôn giáo
và từ sức mạnh kinh tế, bất kể hình thức tổ chức bộ máy nhà nước. Ở các nước xã
hội chủ nghĩa cũ, quyền lực cá nhân do tư hữu kinh tế mang lại đã bị tước bỏ,
nhưng quyền lực hoặc lạm dụng quyền lực cá nhân và bè nhóm đã không bị xoá bỏ mà
còn được nhân lên gấp vạn lần dưới thời Stalin và Mao.[14]
Con người từ lãnh tụ đến nhân dân đã không đi đến toàn hảo mà bị tha hoá trầm
trọng. Vấn đề quyền lực trong một nước xã hội chủ nghĩa chỉ mới được nhìn nhận
gần đây và việc nhìn nhận vẫn còn dè dặt, nửa vời. Chúng ta có thể lý luận là
lạm dụng quyền lực có thể bị xoá bỏ nếu như có thể chế phù hợp nhằm hạn chế và
cân bằng quyền lực trong xã hội. Điều đó có thể đạt được lắm chứ. Nhưng sự tước
bỏ tư hữu chắc chắn không đưa đến con người toàn hảo, mình vì mọi người và chính
đó là lý do làm động lực phát triển bị thui chột.
Sự phá sản của các nước xã hội chủ nghĩa
kiểu cũ không có nghĩa là lý thuyết thặng dư không đúng và cũng không có nghĩa
là hệ luận mà Marx rút ra từ lý thuyết thặng dư là không đúng. Cho đến nay cũng
chưa thấy ai đưa ra lý thuyết nào bác bỏ lý thuyết thặng dư mà có tính thuyết
phục cao. Nhưng vấn đề không phải là bác bỏ lý thuyết thặng dư mà là bác bỏ tính
tất yếu của hệ luận từ lý thuyết thặng dư sang xoá bỏ tư hữu, tức là xoá bỏ cơ
sở của bóc lột lao động. Việc bác bỏ này cũng chỉ có nghĩa là thể chế xã hội chủ
nghĩa kiểu cũ không thích hợp, vì nó không dựa trên một cái nhìn đúng đắn về con
người và quyền lực. Như đã nói, con người có thể xây dựng một thể chế mới thích
hợp hơn. Nhưng đến nay thì không ai dám thử nghiệm với một mô hình kiểu mới dựa
trên xoá bỏ tư hữu, và có lẽ cũng không có một dân tộc nào lại dại dột làm một
cuộc thử nghiệm mới bởi vì họ không thể tiên đoán được giá phải trả sẽ như thế
nào. Các nước xã hội chủ nghĩa cũ còn lại như Việt Nam và Trung Quốc đã trở lại
với kinh tế thị trường, chấp nhận tư hữu, tức là chủ nghĩa tư bản, chí ít là
trong giai đoạn quá độ hiện nay. Một hình thức khác mà các nhà chính trị Trung
Quốc và Việt Nam đang theo đuổi là chấp nhận kinh tế thị trường cạnh tranh, chấp
nhận tư hữu trong giai đoạn hiện tại, nhưng xây dựng công hữu qua doanh nghiệp
quốc doanh, coi chúng là chủ đạo, và hy vọng là công hữu quốc doanh sẽ vươn lên
chiếm ưu thế, đè bẹp tư hữu về dài hạn. Con đường này tất nhiên chẳng có gì là
sai về mặt lý luận, nhưng nó đã được xây dựng trên hai tiền đề rất không thực
tế: (a) công hữu tất dẫn đến năng suất lao động cao hơn tư hữu; (b) con người
hoạt động đại diện công hữu là con người toàn hảo hoặc chí ít là ngày càng toàn
hảo.
Vậy vấn đề đặt ra là liệu có một giải
pháp xoá bỏ bóc lột hoặc ít nhất là giảm thiểu bóc lột mà không cần xoá bỏ tư
hữu, hay không cần lấy công hữu làm chủ đạo không?
Kinh
tế thị trường và việc nhìn nhận lại lãi
Kinh tế thị trường dựa vào một nhận định
rất thực tế là con người không toàn hảo, mặc dù cần phải sống trong cộng đồng
nhưng là vị kỷ, đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu và chỉ chịu hạn chế tự do và
lợi ích cá nhân khi chúng là những đòi hỏi cần thiết mà cộng đồng cần áp đặt lên
cá nhân để bảo vệ sự tồn tại của cộng đồng, đồng thời cá nhân đó cũng chấp nhận
sự áp đặt vì chính sự tồn tại của cộng đồng bảo vệ lợi ích của nó. Áp đặt và
chấp nhận áp đặt này có tính đồng thuận xã hội.
Trong một nền kinh tế thị trường với
những con người tư lợi, tuyệt đại đa số lao động đòi hỏi được trả công theo công
sức mà họ bỏ ra. Người chăm chỉ, năng suất cao, tri thức cao đòi hỏi có lương
cao hơn người lười biếng, tri thức thấp, năng suất thấp. Điều này tất nhiên có
thể áp dụng trong cả nền kinh tế thị trường tự do hay nền kinh tế không có tư
hữu. Nhưng cái khác cơ bản là nếu như một lao động chịu khó làm việc, có lương
cao, chịu khó dành dụm, và khi họ lấy tiền để dành cho nhà nước và người khác
vay để tái sản xuất ở mức cao hơn, thì họ có thể hưởng lãi trên số tiền vốn cho
vay ấy không? Theo phân tích của Marx thì lãi này phát sinh từ lao động của
người khác, nên lãi này tất nhiên có nguồn gốc bóc lột lao động của người khác.
Đó chỉ là một cách nhìn. Nhưng chúng ta cũng có thể nhìn một cách khác, dưới
lăng kính của con người vị kỷ. Đã là con người vị kỷ thì dù là một cá nhân nào
đó, một tập thể nhỏ nào đó, hay là nhà nước muốn sử dụng vốn để dành do chính
sức lao động của một cá nhân nào đó tạo ra thì không lẽ cá nhân đó lại phải cho
mượn không có lãi để tránh mang tiếng bóc lột? Và nếu “không có lãi” là
phạm trù của thể chế xã hội, thì số người chịu dành dụm sẽ không đáng kể. Dưới
cách nhìn lãi là bóc lột, Marx đã không nghĩ ra giải pháp gì khác hơn là dùng
bàn tay nhà nước nắm thặng dư lao động để có tích lũy xã hội. Và đó là quan
điểm cần thiết đối với Marx vì có thể nói, Marx là nhà kinh tế đầu tiên trong
lịch sử nhìn ra tầm quan trọng của tích lũy, yếu tố chính trong phát triển kinh
tế. Quan điểm này rất logic.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường, nếu
coi lãi là giá cần thiết mà người cần vốn phải trả cho người có vốn và qua đó
hai bên cùng có lợi thì lãi vẫn là thặng dư lao động, nhưng không thể coi là bóc
lột. Quan điểm chống cho vay lãi đã là quan điểm của Thiên chúa giáo và Hồi giáo
kéo dài hàng ngàn năm, do đó không thể không ảnh hưởng đến quan điểm của Marx.
Mà quan điểm chống cho vay lãi thực chất là chống cho vay nặng lãi khi thị
trường vốn chưa hình thành, khi nền kinh tế không có cạnh tranh và do đó việc
cho vay hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh độc quyền của một vài người có vốn.
Nếu lãi không phải là thặng dư
có tính bóc lột, thì trả lãi cho vốn cổ phần huy động cũng thế. Người bỏ
vốn cổ phần hy vọng ít nhất là tỷ lệ thu nhập thu về bằng với lãi suất trả cho
người cho vay vốn. Nếu đầu tư có rủi ro hơn thì người bỏ vốn tất kỳ vọng phần
lãi thu về cao hơn lãi cho vay. Nếu nhìn như thế, chỉ có phần thu nhập cổ tức
(hay lợi nhuận) vượt mức lãi dựa trên lãi suất để dành[15]
mới có thể gọi là thặng dư có tính bóc lột. Trong Bảng 1, thặng dư có
tính bóc lột gọi là lợi nhuận là phần thặng dư vượt mức lãi cho vốn có tính
để dành. Phần thuế sản xuất thực chất theo Marx cũng là thặng dư do nhà nước thu
lấy.
Thị trường cạnh
tranh hoàn hảo,
thặng dư và vấn đề bóc lột lao động
Lý thuyết kinh tế tân cổ điển
(neoclassical theory) đã chứng minh rằng trong thị trường cạnh tranh toàn hảo,
lợi nhuận vượt mức lãi để dành theo định nghĩa ở trên (coi bảng 1) bằng không
(zero). Do đó một nền kinh tế thị trường có cạnh tranh toàn hảo không có bóc lột
lao động. Vậy thị trường cạnh tranh toàn hảo là gì?
Thị trường cạnh tranh toàn hảo
(perfect competition) là mô hình lý thuyết trừu tượng và toàn bích. Nó là
cơ chế trong đó các đơn vị tham gia, kể cả người bán và người mua, không ai kiểm
soát được giá cả trên thị trường và họ có đầy đủ thông tin về thị trường, về kỹ
thuật không những cho hiện tại mà còn cho cả tương lai để làm quyết định tối ưu,
nói tóm lại là không có vấn đề rủi ro. Giá sản phẩm là cái có sẵn trên thị
trường, do cung cầu định đoạt. Thị trường này tồn tại khi một sản phẩm có rất
nhiều người bán (hoặc người sản xuất) và rất nhiều người mua, do đó quyết định
của từng đơn vị nhỏ bé trong đó không ảnh hưởng gì đến giá cả của thị trường.
Trên thị trường, các đơn vị sản xuất
tính toán nhằm tối ưu hoá lợi nhuận bằng cách phối hợp vốn, kỹ thuật và phương
tiện sản xuất, vật tư và lao động, còn người lao động sẽ quyết định một cách hợp
lý nhất việc sử dụng lao động của mình để có lợi tức và lựa chọn hàng hoá tiêu
dùng đạt thoả mãn cao nhất. Có thể chứng minh là hệ thống thị trường tự do này
là cơ chế sử dụng hữu hiệu nhất nguồn tài nguyên thiên nhiên và con người nhằm
tạo ra của cải vì bất cứ một tác động điều tiết nào, dù không ảnh hưởng đến hiệu
qủa làm ra của cải, cũng chỉ là sự phân phối lại: lợi của đơn vị này bù trừ
thiệt của đơn vị khác. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận (profit)
– tức là phần thặng dư vượt lãi suất tối ưu - bằng zero. Lý luận bình thường
cũng cho thấy là nơi nào có lợi nhuận người sản xuất sẽ đổ xô vào, nếu như thị
trường không độc quyền, cung do đó tăng so với cầu, giá sẽ giảm để cung cầu quân
bình và lợi nhuận sẽ không còn.
Mô hình kinh tế thị trường trên và
hệ luận của nó bắt nguồn từ Adam Smith nhưng được Gerard Debreu và Kenneth Arrow
chứng minh nghiêm túc với các định đề toán học phản ánh các định đề (axioms) và
giả định kinh tế cần thiết.[16]
Lý thuyết kinh tế thị trường ngoài
việc chứng minh sự hiệu qủa của một thị trường cạnh tranh hoàn hảo khi không có
phát triển, cũng đã đạt được cùng một kết luận cho cả trường hợp nền kinh tế có
phát triển do tăng dân số và năng suất (kết qủa của tiến bộ trong phương pháp
quản lý thức sản xuất và khoa học kỹ thuật). Trong trường hợp tối ưu đơn giản
nhất khi có phát triển, được gọi là luật vàng (golden rule):[17]
Tốc độ phát triển = lãi suất[18]
= tốc độ tăng tích lũy
Lý thuyết thị trường cạnh tranh toàn hảo
không nhằm giải thích thặng dư hoặc lãi từ đâu mà ra mà chỉ nhằm giải thích giá
trị tăng thêm được phân phối trên thị trường như thế nào. Thuyết tân cổ điển
rút ra từ mô hình kinh tế được toán học hoá một kết luận là giá trị tăng thêm
(hoặc sản phẩm tạo thêm ra) sẽ được phân chia hết khi lao động (lương) và tư bản
(lãi) được trả theo năng suất biên. Lương trả cho lao động, lãi trả cho vốn là
do thị trường quyết định khi người sản xuất tối ưu lợi nhuận còn nguời lao động
tối ưu thoả mãn của họ.
Như vậy trên cơ sở của thị trường cạnh
tranh toàn hảo, không có thặng dư bóc lột, ta có thể thấy một hệ luận quan trọng
là để xoá bỏ bóc lột lao động, cần xây dựng một thị trường cạnh tranh toàn hảo.
Hay nói khác đi, để giảm thiểu bóc lột thì nhà nước cần có vai trò tích cực
trong việc xây dựng thị trường cạnh tranh toàn hảo. Hệ luận trên đưa đến phương
pháp xoá bỏ bóc lột lao động khác với Marx. Hệ luận này cũng ngược lại hoàn toàn
với cái nhìn là nhà nước không nên ảnh hưởng vào thị trường mà cứ để “bàn tay vô
hình điều động.” Và như Marx đã nhận định, nếu cứ để thị trường hoàn toàn tự do,
thì thị trường cạnh tranh tất dẫn đến độc quyền.
Thị trường thực
tế: cạnh tranh không toàn hảo
Lý thuyết về thị trường cạnh tranh toàn
hảo cũng đưa đến hệ luận là lãi suất trong các hoạt động kinh tế khác nhau sẽ
ngang bằng khi thị trường đạt điểm tối ưu, và lợi nhuận bằng không.
Nhưng thực tế là lãi suất thường không
ngang nhau và lợi nhuận không bằng không. Điều này
có bốn lý do:
-
Thị trường thực tế mang tính độc quyền;
-
Thị trường thực tế có rủi ro theo nghĩa thị
trường thực tế không hoàn hảo, và do đó các tác nhân trong thị trường không
nắm được toàn bộ thông tin;
-
Sáng kiến.
Điểm một đòi hỏi
việc cải tổ thể chế để bảo đảm không có độc quyền tức là tình trạng một hay một
vài người bán và người mua (hoặc công ty) có thể quyết định giá trên thị trường.
Điểm hai có cùng
nguồn gốc là thông tin không đầy đủ. Nhưng khác nhau ở chỗ có rủi ro có thể tính
trước được, nhưng có rủi ro không thể tính trước được. Rủi ro tính trước được
thường dựa trên xác xuất hiện tượng xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn trung bình
người mượn tiền ngân hàng thì xác xuất trả lại là bao nhiêu, mất cắp trong bán
hàng thì thường như thế nào. Lãi suất không cân bằng trên thị trường là do rủi
ro này. Lãi suất thực tế sẽ bằng lãi suất thị trường trừ đi mất mát do rủi ro.
Cũng có rủi ro không tính trước được,
chẳng hạn như việc đầu tư vào công nghệ tân tiến có khả năng thành công lớn mà
khả năng mất sạch cũng lớn, do đó lãi suất thường cao hơn lãi suất trung bình
rất nhiều (cho những người thành công). Rủi ro hiện diện vì thông tin không toàn
hảo. Do đó vai trò của thông tin rất quan trọng. Nắm hoặc khuynh đảo được thông
tin sẽ tạo ra lợi nhuận. Điều này cho thấy vai trò của nhà nước trong việc bảo
đảm thông tin từ nhà nước là thông tin đại chúng, mọi người đều được hưởng như
nhau, không thiên vị.
Điểm ba liên quan đến vai trò của sáng
kiến (tất nhiên cũng bao hàm nhiều tính rủi ro) bao gồm tinh thần lập nghiệp
(entrepreneurship), phát minh và tri thức nói chung. Người lập nghiệp có thể
nhìn thấy lỗ hổng nhu cầu sản phẩm mới chưa được quan tâm trên thị trường, hoặc
đơn vị sản xuất có sáng kiến và phát minh tăng năng suất có thể đạt được siêu
lợi nhuận vì là người sẵn sàng đi đầu, do đó vô hình chung tạo thế độc quyền
định giá nếu như thị trường chấp nhận sáng kiến, phát minh của họ. Họ có thể đạt
siêu lợi nhuận. Nhưng siêu lợi nhuận sẽ dần dần mất đi vì các đơn vị sản xuất
khác sẽ cạnh tranh cố gắng theo kịp do đó giá bị đẩy xuống. Để tìm hiểu xem siêu
lợi nhuận có thể coi là siêu bóc lột không ta hãy xem xét thí dụ sau. Chẳng hạn
một nhà sáng chế nghĩ ra một sản phẩm mới có thể làm hạ giá thành của rất nhiều
nhà sản xuất khác. Nhà sáng chế nhìn thấy mối lợi nên thuê người làm, giả dụ
không cần có tay nghề chuyên môn, để sản xuất công cụ đó và trả lương họ tương
đương với lương cao nhất mà những người làm thuê không cần chuyên môn này có thể
kiếm được trên thị trường. Do lợi ích mà sản phẩm này mang lại, người sử dụng
cũng sẵn sàng trả giá rất cao cho các công cụ này, do đó tạo ra siêu lợi nhuận
cho người sản xuất. Vậy siêu lợi nhuận này thuộc về ai? Về nhà sáng chế hay
người lao động không tay nghề? Phải chăng lợi nhuận này là bóc lột lao động? Thí
dụ này cho thấy sự gắn bó chặt chẽ của siêu lợi nhuận với tinh thần lập nghiệp,
sáng kiến, phát minh và đóng góp của tri thức.
Sự tồn tại của siêu lợi nhuận chính
là động lực thúc đẩy sáng kiến và phát minh làm tăng năng suất. Siêu lợi nhuận
công ty Microsoft tạo ra từ phần mềm Windows dùng để điều hành máy tính cá nhân
hiện nay có thể hiểu được khi sáng kiến của họ chưa có ai thay thế được. Nhưng
cũng chính vì sợ cạnh tranh mà họ phải đều đặn giảm giá đồng thời tăng khả năng
sử dụng để vừa mở rộng thị trường vừa bảo vệ thị phần. Nếu như nhà nước quốc hữu
hoá hoặc đánh thuế đặc biệt vì sự hiện diện của siêu lợi nhuận, chắc chắn phát
triển của công nghệ thông tin sẽ không nhanh chóng như vừa qua. Nếu nhà nước
đánh thuế cao vào thu nhập kếch sù của người nắm đa số cổ phần Microsoft thì đây
là hành động phân phối lại lợi tức, và không nhất thiết đưa đến giảm động lực
làm việc của họ nếu như mức thuế giữ ở mức độ mà việc làm việc vẫn đưa đến nhiều
thoả mãn hơn là ngồi không.
Lý thuyết thặng dư của Marx phân tích có
tính trừu tượng hoá, giản lược mọi trường hợp vào tình trạng trung bình, do đó
các trường hợp đặc biệt như trường hợp sáng kiến nói ở trên không có chỗ đứng.
Thuyết thặng dư của Marx đã hoàn toàn bỏ quên động lực sáng kiến vì tư lợi và
vai trò tích cực của nó trong phát triển kinh tế, nhất là động lực tạo ra sự
phát triển có tính nhảy vọt. Ở một nền kinh tế công hữu, nếu như con người toàn
hảo thì việc đưa sáng kiến có lợi cho mọi người cũng có thể không phải là ngoại
lệ. Nhưng chỉ là không tưởng nếu việc xây dựng xã hội tốt đẹp đòi phải có những
con người toàn hảo.
Một vấn đề nữa của lý thuyết thị trường toàn hảo
là phải dựa vào một người ra giá (auctioneer) và thay đổi nó để quân bình giữa
cung của người bán và cầu của người mua và một hệ thống thể chế điều hành nó.
Thị trường gần nhất với thị trường cạnh tranh toàn hảo là thị trường
chứng khoán, nhưng chính thị trường chứng khoán đòi hỏi một thể chế do con người
tự thiết chế một cách rất rõ ràng, không phải dựa vào bàn tay vô hình mà
có bàn tay quyền lực của tập thể xã hội thông qua hội đồng kiểm soát chứng khoán
và hệ thống luật pháp được thiết chế nhằm ngăn chặn và trừng phạt những người
muốn khuynh đảo thị trường bằng cách họp nhau định giá, dùng báo chí tung tin
thất thiệt, lấy thông tin thống kê nhà nước trước khi được công bố, v.v. và thị
trường này cần người hô giá (auctioneer). Ở trên tôi dùng chữ gần nhất
là vì lý thuyết thị trường cạnh tranh toàn hảo giả định là mọi đơn vị tham gia
thị trường đều có thông tin toàn hảo về thị trường, nhưng giả định này không có
thực. Thông tin không toàn hảo có khi đưa đến hành động đàn lũ, thị trường chứng
khoán trồi sụt lớn và bất ngờ đòi hỏi sự can thiệp nhất định của nhà nước như
quyết định tạm dừng buôn bán xảy ra năm 1987 ở Mỹ.
Kết
luận
Bài này trình bày
lại lý thuyết thặng dư của Marx với kết luận rằng thặng dư có tính bóc lột
lao động trong một nền kinh tế thị trường là điều vừa hiện thực, vừa có cơ
sở lý luận. Bài viết cũng định nghĩa lại thặng dư theo quan điểm kinh tế mới và
cho rằng lãi không phải là thặng dư lao động mà là giá ngang bằng (phải trả hoặc
được hưởng) nhằm cân bằng giữa cung và cầu vốn trên thị trường. Thặng dư có
tính bóc lột do đó chỉ là phần lợi nhuận. Nhưng trong một nền kinh tế cạnh
tranh toàn hảo (perfect competition) thì, về mặt lý thuyết, lợi nhuận sẽ bị đẩy
xuống bằng không (zero). Bài này cho rằng có hai cách xoá bỏ bóc lột:
- Xoá bỏ tư hữu và tập trung lợi nhuận và
lãi vào tay nhà nước (quan điểm của Marx). Để đạt được nền kinh tế công hữu
có hiệu quả tối ưu như nền kinh tế thị trường cạnh tranh toàn hảo thì phải
xây dựng được một nhà nước toàn hảo và những người công dân toàn hảo, chí
công vô tư. Điều này chỉ là ước vọng.
- Xây dựng một thể chế kinh tế thị trường
cạnh tranh toàn hảo hoặc gần mô hình kinh tế toàn hảo để giảm thiểu thặng
dư có tính bóc lột. Mô hình cạnh tranh toàn hảo hoàn toàn không đối
kháng với việc phân bố lại lợi tức lao động, đặc biệt là qua thuế lợi tức
trong xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội mà kinh tế thị trường không
giải quyết được. Kinh tế thị trường kiểu này hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi
của các chính sách xã hội khác như bảo vệ người lao động trên cơ sở có pháp
luật bảo vệ hợp đồng lao động mang tính tự nguyện, bảo đảm lương tối thiểu,
tôn trọng nhân phẩm, bảo đảm điều kiện thăng tiến cho người lao động, v.v.
Các quốc gia Bắc Âu đã có lúc đánh thuế lợi tức đến mức 70% mà vẫn đạt được
năng suất lao động và trình độ phát triển cao và không đi đến sụp đổ như đã
xảy ra ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu dựa trên cơ sở xoá bỏ tư
hữu tư liệu sản xuất.
Nền kinh tế thị
trường coi là tự nhiên điểm xuất phát của từng cá nhân trong xã hội. Đây là điểm
mà nhiều người quan tâm vì nó là nguyên nhân tạo ra sự mất bình đẳng về cơ hội.
Điểm xuất phát này có thể do việc thừa kế tài sản của cha mẹ, do điều kiện gia
đình hoặc do tự nhiên (có người thông minh có người không; có người khoẻ mạnh,
có người tật nguyền). Nhưng không thể cào bằng điểm xuất phát vì hậu quả của nó
sẽ là mất động lực làm việc và để dành cho con cái. Ngay cả ở một nước xã hội
chủ nghĩa hiện thực trước đây, ta cũng đã thấy hiện tượng không thể cào bằng
này, như việc con một đảng viên thường hoặc một ủy viên bộ chính trị có lợi thế
rất lớn so với một thường dân không đảng tịch. Tuy nhiên, ở một xã hội dựa trên
kinh tế thị trường, vì lợi ích chung của xã hội, ta vẫn có thể hạn chế điểm xuất
phát bằng cách áp dụng các chính sách đánh thuế tài sản thừa kế, cũng như các
biện pháp cung cấp dịch vụ công miễn phí hoặc bù lỗ dịch vụ tư như trong giáo
dục, y tế, văn hoá và nâng đỡ người không được tự nhiên ưu đãi. Đây là những
điều nhà nước có thể làm mà vẫn tôn trọng sở hữu cá nhân.
Quan điểm của Marx
về thặng dư là hoàn toàn logic nhưng để một xã hội “không tư hữu” vận hành có
năng suất và bảo đảm công lý, có sáng kiến nhằm tạo bước nhảy vọt, thì mọi người
trong xã hội đó phải toàn hảo. Nhưng, thực tế cho thấy ngay cả tôn giáo cũng
thất bại trong việc tạo ra những con người toàn hảo, và một ý thức hệ chính trị
như chủ nghĩa Marx hay bất cứ thứ chủ nghĩa nào khác cũng chưa chứng tỏ đã thành
công trong việc tạo ra con người toàn hảo. Kinh tế thị trường toàn hảo chỉ đòi
hỏi xây dựng một thể chế thị trường toàn hảo chứ không đòi hỏi con người toàn
hảo. Nó coi con người là những đơn vị kinh tế vị kỷ, nhưng buộc phải tuân thủ
một số qui định mang tính luật pháp của thị trường toàn hảo hay gần toàn hảo.
Ngoài ra, con người còn phải tự ràng buộc mình vào đạo đức cá nhân như sự trung
thực, tình nhân ái, nề nếp gia đình, yêu cầu tôn trọng người khác, tinh thần
cộng đồng,…. Chúng là những điều mà truyền thống và văn hoá xã hội tạo ra và đòi
hỏi. Cá nhân tự nguyện ràng buộc vì thấy chúng đúng, và cũng vì lợi ích bản
thân, gia đình và cộng đồng.
Việc Đảng Cộng Sản
Việt Nam dự kiến cho phép đảng viên làm chủ sở hữu doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường, như được trình bày trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng
lần thứ 10 (2006) có thể đưa đến một trong hai kết luận sau:
-
Nếu như Đảng
vẫn trung thành với lý thuyết thặng dư cổ điển của Marx thì việc cho phép
này là đi ngược với lý thuyết của Marx. Việc tiếp tục bảo vệ lý thuyết cổ
điển này và hệ luận của nó nhưng lại cho đảng viên tự do “bóc lột”, là một
hành động có tính nguỵ tín, tức là chủ trương một đàng, làm một nẻo. Không
thể cho rằng đảng viên là công dân thì cũng có quyền như tất cả các công dân
khác. Thí dụ cụ thể sau cho thấy lý luận này không đứng vững. Nếu giáo lý
đạo công giáo không cho phép linh mục lấy vợ thì các linh mục không thể lấy
lý do là các giáo dân khác có quyền có vợ để cho rằng mình cũng cũng có
quyền đó. Việc linh mục có vợ chỉ hợp giáo lý nếu như giáo lý hiện tại thay
đổi.
-
Nếu như Đảng
thay đổi chính sách đối với đảng viên như trên dựa trên tinh thần sẵn sàng
xét lại toàn bộ lý thuyết của Marx, và những hệ luận của nó trên tinh khoa
học thì đó là dấu mốc quan trọng của một Đảng cầm quyền thấy ra trách nhiệm
trước dân tộc và đất nước.
Chủ nghĩa Marx là
một chủ nghĩa phê phán, và có giá trị về khoa học. Chính tính phê phán này đã
đóng góp quan trọng vào sự thay đổi phương thức và hình thức hoạt động của chủ
nghĩa tư bản, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Chính vì tính phê phán
mà chủ nghĩa Marx đã được nhiều người coi là kinh thánh, và đã từng là tiếng gọi
của đấu tranh giai cấp để giải phóng con người. Nhưng nó dần dần mất tính khoa
học, không còn mang tính đổi mới và không được phát triển để giúp xem xét sự vận
động của xã hội trong hoàn cảnh mới và do đó khó có thể phù hợp với sự vận động
của thế giới hiện nay. Đảng Cộng Sản Việt Nam nếu muốn tiếp tục có vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển của xã hội và đất nước Việt Nam trong hoàn cảnh
mới thì cần chủ động xem xét lại chủ nghĩa Marx một cách khoa học, hoặc vận dụng
nó vào việc xem xét quá trình thay đổi xã hội hiện nay nhằm đổi mới cơ chế xã
hội không còn phù hợp, và để có những chính sách kinh tế và xã hội phù hợp. Đó
chính là tinh thần của phương pháp duy vật biện chứng. Chúng ta gần như không
thấy hoặc ít thấy các công trình nghiên cứu về tình hình phân chia giai cấp hiện
nay ở Việt Nam. Phân tầng giai cấp đã mang hình thức mới, đặc biệt là giai cấp
tư bản. Giai cấp này hiện nay bao gồm giai cấp tư bản nhà nước, tư bản tư nhân
và tư bản nước ngoài. Mỗi tiểu giai cấp này có quyền lợi riêng và đồng thời chia
sẻ quyền lợi chung. Tính giai cấp không độc lập mà giao thoa với việc phân tầng
nhóm lợi ích (coi bảng dưới). Những nhóm lợi ích này có vai trò đóng góp vào
việc bảo vệ công lý và quyền lợi chính đáng cho thiểu số (như quyền của phụ nữ,
dân tộc thiểu số, tôn giáo, địa phương, ngành nghề, công chức và cả đảng viên
vừa thuộc thành phần đảng lãnh đạo vừa không tránh khỏi biến thành nhóm lợi
ích,...). Họ đồng thời cũng nhằm tạo ưu thế riêng vượt trội các nhóm khác, có
thể tạo ra sự trì trệ trong phát triển cũng như có hại cho lợi ích chung. Đây là
những vấn đề cần nghiên cứu để có chính sách phù hợp nhằm bảo đảm tính công bằng
về cơ hội và lợi ích chung.
|
Giai
cấp tư bản |
Giai
cấp lao động |
|
Nhà
nước |
Tư
nhân trong nước |
Nước
ngoài |
Nông
dân |
Lao
động tay chân |
Lao
động trí óc |
Nhóm phụ nữ
|
|
|
|
|
|
|
Nhóm địa phương
|
|
|
|
|
|
|
Nhóm thiểu số
|
|
|
|
|
|
|
Nhóm đảng viên
|
|
|
|
|
|
|
Nhóm công chức |
|
|
|
|
|
|
Các nhóm ngành nghề
|
|
|
|
|
|
|
Điều nữa cần xem
xét lại để bổ sung chủ nghĩa Marx là vai trò của quyền lực và lạm dụng quyền
lực. Có thể nói một trong những hạn chế rõ nhất của chủ nghĩa Marx, lại không
phải là lý thuyết thặng dư, mà là việc không xem xét đến các yếu tố cơ chế phát
sinh ra tham vọng của người có quyền lực, từ đó dẫn đến sự triệt tiêu tính phê
phán của một chủ nghĩa dựa trên tính phê phán. Chính tham vọng quyền lực và lạm
dụng quyền lực, khi không có cơ chế giám sát và cân bằng quyền lực trong xã
hội cũng như cơ chế bảo đảm dân chủ tức là bảo đảm tính phê phán hay phản
biện của các thành viên trong xã hội trong đó có thành viên của Đảng, đã tạo ra
sự lấn áp cá nhân hay độc tài khi quyền tư hữu không được tôn trọng. Nhìn cụ thể
vào xã hội với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, ta thấy ở đó hầu hết các quyền
tư hữu đã được công nhận nhưng đại bộ phận của cải xã hội vẫn thuộc sở hữu công,
ở đó Đảng nắm chính quyền còn đảng viên được làm nhà tư sản. Với những con người
không toàn hảo, ta có thể thấy viễn tượng là các thiếu sót trong cơ chế giám sát
và cân bằng quyền lực như hiện nay sẽ tạo cơ hội cho tham nhũng không ngăn cản
được. Điều này tất đưa đến sự suy thoái quyền lực, và rồi cuối cùng đưa đến tình
trạng mất tính chính danh của quyền lực. Lúc đó chế độ sẽ tự sụp đổ. Do đó vấn
đề lớn cần xem xét lại có thể không phải là lý thuyết thặng dư, từ đó đưa đến hệ
luận là đảng viên có quyền làm nhà tư bản hay không. Vấn đề lớn cần xem xét lại
là hệ thống quyền lực, và cơ chế giám sát và cân bằng quyền lực trong xã hội một
xã hội có giai cấp và có phân tầng lợi ích phe nhóm. Cần đánh giá xem hệ thống
đó có khả năng vừa bảo đảm sự trong sạch, vô tư và tính chính danh của quyền
lực, vừa bảo đảm quyền tự do và dân chủ cho mọi công dân nhằm ngăn cản việc lạm
dụng quyền lực hay không.
Chú thích
[1] Bài này đã qua vài
lần sửa chữa, lần thứ nhất, sau buổi hội thảo tại Hà Nội; lần thứ hai
sau hội thảo hè 2002; và lần cuối là 22/2/2006. Tác giả xin cám ơn anh
Phan Huy Đường đã đọc rất kỹ bài và cho nhiều ý kiến có giá trị, đồng ý
và không đồng ý. Tác giả sửa một số điểm tự thấy mình sai. Những điểm
khác không cần sự điều chỉnh vì có sự khác ý kiến giữa tác giả và anh
Phan Huy Đường.
[2] Ở bản thảo đầu, tôi
viết đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản hoạt động hoàn toàn tự do mà không
bị các định chế nhà nước ràng buộc và kiểm soát. Phan Huy Đường cho là
làm gì có chuyện đó. Chủ nghĩa tư bản làm ra luật pháp hay dùng quyền
lực để bảo vệ nó. Điều nhận xét của anh Đường là đúng. Tuy nhiên ở đây
tôi chỉ muốn nói đến các định chế kinh tế hạn chế quyền lực của người
chủ. Chẳng hạn nhà nước thiết lập ra lương tối thiểu, đóng bảo hiểm thất
nghiệp, vai trò kiểm soát tiền tệ của ngân hàng trung ương, quyết định
giá của các công ty độc quyền, cấm các hoạt động bè lũ trong việc định
giá , đặt ra nguyên tắc kế toán và kiểm tra báo cáo tài chính đối với
công ty có bán cổ phần trên thị trường chứng khoán, v.v.
[3] Capital, Vol. I,
Encyclopaedia Britanica, Great Books of the Western World, Vol. 50,
Chicago and London, trang 37.
[4] Bản thảo trước tôi
dịch chữ “the first appropriator” là “người đánh cắp ban đầu”, nhưng anh
Phan Huy Đường cho thế là không đúng vì Marx đã phê phán Proudhom về
điểm này. Thặng dư không phải là do đánh cắp, lừa bịp, áp đặt mà là bản
chất của chế độ tư bản trên cơ sở trao đổi đúng giá trên thị trường.
[5] Capital, Vol 1,
sđd, giới thiệu chương 23, trang 279.
[6] Để phù hợp với quan
điểm của Marx thuế sản xuất là một phần của giá trị thặng dư.
[7] Trình bày này thực
chất có khác với quan điểm của Marx cho là dịch vụ phi sản xuất không
phải là chi phí sản xuất mà là thặng dư. Quan điểm này bắt nguồn từ Adam
Smith, cha đẻ của lý thuyết kinh tế tư bản và được tiếp tục chấp nhận
bởi các nhà kinh tế được gọi chung là trường phái kinh tế cổ điển, trong
đó có Marx. Quan điểm này đã bị bác bỏ từ lâu. Cho nên khi trình bày lý
thuyết thặng dư của Marx tôi đã trình bày theo quan điểm mới, tức là mọi
chi phí cho dịch vụ đều là chi phí sản xuất. Điều này không ảnh hưởng gì
đến lý thuyết thặng dư.
[8] GDP hay tổng sản
phẩm quốc nội bao gồm giá trị mới tạo ra trong nền kinh tế. Như vậy,
theo nguyên tắc GDP không bao gồm khấu hao tài sản cố định dùng trong
sản xuất. Thế nhưng, Tài khoản quốc gia lại cộng thêm khấu hao để tính
GDP vì việc tính khấu hao theo đúng lý thuyết kinh tế rất khó khăn, đòi
hỏi việc tính lại toàn bộ giá trị tài sản cố định theo giá thị trường.
Việc tính lại này là điều mà hầu hết các nước, kể cả các nước phát triển
cũng không thể tính ngay được mà phải đợi ít nhất một năm sau, khi đã
thu thập đầy đủ thống kê.
[9] Marx phân tích một
nền kinh tế thị trường, do đó lương bổng tất yếu phản ánh giá trị của
lao động và năng suất lao động. Để tìm đến giá trị thặng dư, Marx đưa
mọi lao động về lao động trung bình, và do đó lao động có giá trị cao,
có năng suất cao có thể đưa về bội số của lao động trung bình.
[10] Trên thế giới hiện
nay, tuyệt đại đa số người sở hữu tư bản không bỏ tiền tự xây dựng và
quản lý doanh nghiệp của mình. Hầu hết họ chỉ là những người sở hữu cổ
phần một cách thụ động.
[11] Đây là điểm ông
Việt Phương đưa ra để làm sáng tỏ thêm phân tích về thặng dư của Marx
trong một lần trao đổi riêng với tác giả.
[12] C. Mác và Ph.
Ăng-Ghen, Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản, các đoạn trong ngoặc kép
là trích theo bản dịch của Việt Nam, có trên Internet, http:
//www.vcp.org.vn. Có ý kiến cho rằng Marx xuất bản Tuyên Ngôn năm 1848,
do đó có thể thay đổi quan điểm sau cuộc nội chiến Pháp với công xã
Paris năm 1871 và sau khi viết tập I bộ Tư Bản (xuất bản năm
1867). Điều này có thể xảy ra vì với lần tái bản năm 1888, Engels có
viết trong lời tựa là mặc dù có những chỗ cần viết lại như đoạn phê phán
văn chương theo hướng xã hội chủ nghĩa cũng như nhận định về sự liên hệ
giữa những người cộng sản và các đảng phái đối lập khác nhưng vẫn quyết
định giữ nguyên vì tính chất lịch sử của văn kiện. Tuy vậy ý kiến này
không có cơ sở vì trong Phê phán Cương Lĩnh Gotha (1875) viết
trước khi qua đời, Marx cho rằng một nhà nước của giai cấp vô sản phải
là “kết hợp chuyên chính vô sản và tổ chức chính trị như công xã Paris.”
(Bản dịch trên địa chỉ Internet ở trên.) Tư tưởng cơ bản về vai trò của
chuyên chính vô sản trong nhà nước của giai cấp vô sản như vậy không có
gì thay đổi, có chăng là sau này Engels nói đến tính tự nguyện của tiểu
nông trong việc gia nhập hợp tác xã.
[13] Ở đây, thuế thu
nhập không được kể tới vì nó chỉ nhằm phân phối lại lợi tức và không ảnh
hưởng đến giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm hay giá trị thặng dư.
[14] Dĩ nhiên thực tế
này không nhất thiết đưa đến kết luận nếu cứ xoá bỏ tư hữu tất dẫn đến
sự độc đoán về quyền lực.
[15] Tức là lãi cần phải
có để người có tiền để dành sẵn sàng cho người khác mượn. Hay nói khác
đi, nó là phần thưởng cho người có tiến hoãn chi tiêu ngay, tức là giá
của tiền vốn.
[16] Gerard Debreu,
Theory and Value: An Axiomatic Analysis of Economic Equilibrium, New
Haven: Yale University Press, 1959; K. Arrow and G. Debreu,
“Existence of an Equilibrium for a Competitive Economy,” Econometrica,
22, 1954; K. Arrow and L Hurwicz, “On the stability of the
Competitive Equilibrium, I,” Econometrica, 26, 1958 và K.. Arrow,
H.D. Block and L. Hurwicz , “On the stability of the Competitive
Equilibrium, II,” Econometrica , 27, 1959.
[17] E.S. Phelps,
Golden Rules of Economic Growth, New York: Norton, 1966 hay E.S.
Phelps, “Accumulation and the Golden Rule,” American Economic Review,
Vol. 51, 1961.
[18] Lãi suất (interest
rate) = sản lượng biên của tích sản cố định (marginal product of
capital). Lãi theo nguyên tắc được áp dụng cho cả vốn bỏ ra hoặc vốn cho
vay.
© Thời Đại Mới
Posted in: Chính Trị,Kinh Tế,Vũ Quang Việt
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét